Tải bản đầy đủ (.pdf) (166 trang)

Tăng cường thương lượng trong quan hệ lao động ở doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (Nghiên cứu trường hợp hai doanh nghiệp Công ty TNHH Quốc tế D&S và Công

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.73 MB, 166 trang )



2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN



ĐỒNG THỊ THƢƠNG HIỀN



TĂNG CƢỜNG THƢƠNG LƢỢNG
TRONG QUAN HỆ LAO ĐỘNG Ở DOANH NGHIỆP
CÓ VỐN ĐẦU TƢ NƢỚC NGOÀI
(Nghiên cứu trƣờng hợp hai doanh nghiệp: Công ty TNHH Quốc tế
D&S và Công ty TNHH Brother Việt Nam)


Chuyên ngành: Xã hội học
Mã số: 60 31 30


LUẬN VĂN THẠC SỸ XÃ HỘI HỌC


Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Trƣơng An Quốc


HÀ NỘI - 2011



4
MỤC LỤC

Trang
Danh mục các từ viết tắt
4
Danh mục các bảng
4
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
5
2. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của đề tài
6
2.1. Ý nghĩa khoa học
6
2.2. Ý nghĩa thực tiễn
7
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
7
3.1. Mục đích nghiên cứu
7
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
7
4. Đối tƣợng, khách thể và phạm vi nghiên cứu, mẫu nghiên cứu
7
4.1. Đối tượng nghiên cứu
7
4.2. Khách thể nghiên cứu

8
4.3. Phạm vi nghiên cứu
8
4.4. Mẫu nghiên cứu
8
5. Các phƣơng pháp nghiên cứu của đề tài
8
5.1. Phương pháp luận chung
8
5.2. Phương pháp nghiên cứu
10
6. Giả thuyết nghiên cứu
11
7. Khung lý thuyết
12
NỘI DUNG CHÍNH

CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI

1.1. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
13
1.1.1. Các nghiên cứu ở ngoài nước
13
1.1.2. Các nghiên cứu ở trong nước
15
1.2. Các lý thuyết sử dụng trong nghiên cứu đề tài
20
1.2.1. Lý thuyết hành động xã hội
20
1.2.2. Lý thuyết tương tác biểu trưng

22


5
1.2.3. Lý thuyết cấu trúc – chức năng
25
1.3. Hệ khái niệm có liên quan đến đề tài nghiên cứu
29
1.3.1. Khái niệm quy tắc xã hội
29
1.3.2. Khái niệm điều hòa xã hội
30
1.3.3. Khái niệm gắn kết xã hội
31
1.3.4. Khái niệm thương lượng tập thể
32
1.3.5. Khái niệm quan hệ lao động
35
1.4. Tổng quan về địa bàn nghiên cứu
40
1.4.1. Về địa bàn tỉnh Hải Dương
40
1.4.2. Về địa bàn thị xã Chí Linh
43
1.4.3. Về địa bàn huyện Cẩm Giàng và khu công nghiệp Phúc Điền
43
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG THƢƠNG LƢỢNG TRONG QUAN HỆ LAO
ĐỘNG Ở CÁC DOANH NGHIỆP CÓ VỐN ĐẦU TƢ NƢỚC NGOÀI

2.1. Tìm hiểu về 2 trƣờng hợp doanh nghiệp có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài đƣợc

nghiên cứu
45
2.1.1. Công ty DS
45
2.1.2. Công ty Brother
47
2.2. Thực trạng thƣơng lƣợng trong quan hệ lao động ở các doanh nghiệp có
vốn đầu tƣ nƣớc ngoài
48
2.2.1. Một số đặc điểm cơ bản của hai doanh nghiệp và QHLĐ trong hai
doanh nghiệp
48
2.2.2. Tình hình lao động, việc làm trong hai doanh nghiệp
51
2.2.3. Nội dung thương lượng trong quan hệ lao động ở hai doanh nghiệp
54
2.3. Đánh giá chung về thƣơng lƣợng tập thể
71
2.3.1. Nhận thức của các chủ thể về thương lượng tập thể được cải thiện
71
2.3.2. Các bên đã chủ động hơn trong việc tìm kiếm cách thức thương lượng
trong hòa bình
75
2.3.3. Vấn đề thương lượng vẫn còn nhiều tồn tại do nhiều nguyên nhân khác
nhau
77





6
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ

1. Kết luận
81
2. Khuyến nghị
82
2.1. Đối với Nhà nước
82
2.2. Đối với đại diện người sử dụng lao động
85
2.3. Đối với đại diện người lao động và người lao động
88
2.4. Hướng nghiên cứu tiếp theo
92
Danh mục tài liệu tham khảo
94
Phụ lục
98


7
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BHXH
Bảo hiểm xã hội
BHYT
Bảo hiểm y tế
CĐCS
Công đoàn cơ sở
CNLĐ

Công nhân lao động
Công ty Brother
Công ty trách nhiệm hữu hạn Brother Việt Nam
Công ty DS
Công ty trách nhiệm hữu hạn Quốc tế D&S
Doanh nghiệp FDI
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
ĐTNN
Đầu tư nước ngoài
HĐLĐ
Hợp đồng lao động
KCN
Khu công nghiệp
LĐLĐ
Liên đoàn Lao động
NLĐ
Người lao động
NSDLĐ
Người sử dụng lao động
PLLĐ
Pháp luật lao động
QHLĐ
Quan hệ lao động
TNHH
Trách nhiệm hữu hạn
TƢLĐTT
Thỏa ước lao động tập thể





DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 2.1: Trình độ học vấn và đào tạo nghề của CNLĐ tại công ty DS
và công ty Brother.
52
Bảng 2.2: Tình hình ký kết Hợp đồng lao động
54


8

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thực hiện đường lối đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và
lãnh đạo về phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, các loại hình
doanh nghiệp khu vực ngoài nhà nước ở Việt Nam tăng nhanh, có nhiều đóng góp
quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, tạo nhiều việc làm, thu
nhập cho NLĐ, đồng thời QHLĐ trong doanh nghiệp FDI đã từng bước được hoàn
thiện. Theo thống kê, tính đến hết năm 2009, cả nước có 6.047 doanh nghiệp FDI
đang hoạt động và sử dụng 1,952 triệu lao động, trong đó khu vực các doanh nghiệp
100% vốn nước ngoài sử dụng 1,53 triệu lao động, chiếm 76%. Lao động trong các
doanh nghiệp FDI bằng 3,4% tổng lực lượng lao động xã hội và bằng 22,43% lao
động khu vực doanh nghiệp của cả nước.
Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động, bên cạnh những mặt tích cực, QHLĐ ở
các doanh nghiệp FDI ở Việt Nam hiện nay cũng có nhiều vấn đề cần quan tâm.
Ngày càng phát sinh nhiều vướng mắc giữa NSDLĐ là người nước ngoài và NLĐ
Việt Nam, dẫn đến tranh chấp lao động, ngừng việc tập thể và đình công. Nguyên
nhân của tình trạng trên là do những tranh chấp về quyền, hoặc tranh chấp về lợi
ích, hoặc tranh chấp cả về quyền và lợi ích giữa NLĐ và NSDLĐ. Và QHLĐ tại các

doanh nghiệp FDI đang trở thành một trong những vấn đề nóng của các địa phương.
Từ con số các cuộc đình công tự phát tăng lên một cách nhanh chóng, có thể thấy
các chủ thể chính thức của QHLĐ vẫn chưa thành công trong việc tạo dựng và củng
cố được một quá trình và hệ thống của QHLĐ mới để có thể xử lý được những
quyền lợi có tính chất xung đột giữa NLĐ và NSDLĐ một cách trật tự, quy củ,
thông qua thương lượng tập thể và đối thoại xã hội ở các cấp khác nhau. Việc cải
cách QHLĐ thông qua thương lượng đã, đang và sẽ được lưu ý hơn và xúc tiến
mạnh mẽ hơn trong thời gian tới bởi các chủ thể QHLĐ đã ý thức sâu sắc hơn tầm
quan trọng của việc xây dựng hệ thống QHLĐ lành mạnh, hài hòa, ổn định, tiến bộ


9
và đã bắt đầu hoặc đang có kế hoạch thực hiện những động thái tích cực nhằm cải
thiện QHLĐ thông qua thương lượng.
Muốn phát triển sản xuất, nâng cao năng suất lao động, đem lại lợi ích cho cả
hai bên cũng như tạo sự ổn định xã hội nói chung, cần đặt sự chú ý đúng mực hơn
nữa đến vấn đề tăng cường thương lượng QHLĐ tại khu vực có vốn ĐTNN, bắt đầu
từ mỗi nhận thức đến hành động, bắt đầu từ mỗi doanh nghiệp.
Hải Dương hiện là một trong 10 địa phương dẫn đầu cả nước về thu hút vốn
ĐTNN, với 162 dự án, đến từ 21 quốc gia và vùng lãnh thổ, với tổng vốn đăng ký
1,891 tỷ USD và tổng vốn thực hiện đạt 802 triệu USD. Với 92 dự án đã đi vào hoạt
động sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp FDI hiện đang hoạt động trên địa bàn
tỉnh Hải Dương đã thu hút được một lực lượng lao động trực tiếp lên đến 42.000
người và hàng ngàn lao động gián tiếp. Sự phát triển mạnh của các doanh nghiệp
FDI trên địa bàn tỉnh cũng làm nóng lên nhiều vấn đề về QHLĐ nơi đây đòi hỏi cần
có sự nghiên cứu và tìm ra giải pháp phù hợp.
Tuy vậy, hiện nay chưa có nghiên cứu nào về vấn đề tăng cường thương
lượng trong QHLĐ ở các doanh nghiệp FDI, đặc biệt là các nghiên cứu trường hợp
về vấn đề này. Đó chính là lý do tôi chọn “Tăng cường thương lượng trong
QHLĐ ở doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài” (nghiên cứu trường hợp hai

doanh nghiệp: Công ty TNHH Quốc tế D&S và Công ty TNHH Công nghiệp
Brother Việt Nam) làm đề tài nghiên cứu cho Luận văn cao học của mình.
2. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của đề tài
2.1. Ý nghĩa khoa học
Đề tài nhằm góp phần vào việc nghiên cứu lý luận xã hội học nói chung và
xã hội học kinh tế - lao động nói riêng. Nghiên cứu cũng kỳ vọng giúp những người
quan tâm có những nhận thức sâu hơn, đầy đủ hơn về việc vận dụng các lý thuyết
xã hội học (trong đó có lý thuyết xã hội học về hành động xã hội, lý thuyết tương
tác biểu trưng, lý thuyết cấu trúc - chức năng) trong nghiên cứu, giải quyết một số


10
vấn đề của thực tiễn, cụ thể ở đây là vấn đề tăng cường thương lượng nhằm hướng
tới sự hài hòa, ổn định, tiến bộ QHLĐ trong các doanh nghiệp FDI.
2.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ phân tích được thực trạng việc làm, tiền
lương, BHXH và các điều kiện làm việc khác của CNLĐ nói riêng, những mong
muốn, nguyện vọng của các chủ thể QHLĐ nói chung; mối quan hệ tương tác giữa
các chủ thể; cách thức thương lượng giữa các bên QHLĐ để đạt tới sự hài hòa, ổn
định, tiến bộ trong QHLĐ ở các doanh nghiệp FDI. Trên cơ sở đó, đề tài đưa ra một
số khuyến nghị trong việc xây dựng QHLĐ hài hòa, ổn định trong doanh nghiệp
FDI và Hải Dương nói riêng, trên địa bàn cả nước nói chung.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mô tả tình hình thương lượng trong QHLĐ trong các doanh nghiệp, nắm được
mong muốn, nguyện vọng của các chủ thể QHLĐ từ phía đối tác của chính họ. Trên cơ
sở đó tìm ra những mặt mạnh cũng như những hạn chế của thương lượng trong QHLĐ
và đề xuất một số khuyến nghị nhằm tăng cường thương lượng để đạt tới sự hài hòa, ổn
định, tiến bộ QHLĐ ở các doanh nghiệp FDI.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

1. Tìm hiểu rõ thực trạng thương lượng về các vấn đề việc làm, tiền lương,
BHXH và các điều kiện làm việc khác của công nhân lao động, những mong muốn,
nguyện vọng của các chủ thể QHLĐ.
2. Đánh giá chất lượng thương lượng: những mặt mạnh, những hạn chế của
các bên trong QHLĐ để đạt tới sự hài hòa, ổn định, tiến bộ trong QHLĐ.
3. Đề xuất các giải pháp, khuyến nghị, nhằm tăng cường thương lượng trong
QHLĐ để xây dựng QHLĐ hài hòa, ổn định trong doanh nghiệp FDI.
4. Đối tƣợng, khách thể và phạm vi nghiên cứu, mẫu nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu


11
Thương lượng trong QHLĐ ở doanh nghiệp FDI (nghiên cứu trường hợp hai
doanh nghiệp: công ty DS và công ty Brother).
4.2. Khách thể nghiên cứu
Các chủ thể của QHLĐ ở hai doanh nghiệp (NLĐ và đại diện của họ,
NSDLĐ).
4.3. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi địa bàn nghiên cứu: 02 doanh nghiệp FDI trên địa bàn tỉnh Hải
Dương: Công ty TNHH Quốc tế D&S (thuộc địa bàn xã Tân Dân, Thị xã Chí Linh)
và Công ty TNHH công nghiệp Brother Việt Nam (KCN Phúc Điền, huyện Cẩm
Giàng).
- Phạm vi thời gian nghiên cứu: Tháng 09/2009 - 3/2011.
4.4. Mẫu nghiên cứu
- Chủ thể NSDLĐ trong doanh nghiệp FDI (từ quản đốc phân xưởng trở lên,
bao gồm: giám đốc/tổng giám đốc; phó giám đốc (Phó tổng giám đốc), trưởng phó
các phòng ban, quản đốc phân xưởng).
- Chủ thể NLĐ, đại diện NLĐ trong doanh nghiệp FDI (công nhân lao động,
nhóm công nhân, Ban Chấp hành công đoàn).
5. Các phƣơng pháp nghiên cứu của đề tài

Để thực hiện được các mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài, luận văn
áp dụng các phương pháp nghiên cứu sau đây:
5.1. Phương pháp luận chung
5.1.1. Phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin
Đề tài lấy chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử làm cơ
sở phương pháp luận. Thừa nhận tính khách quan, tính phổ biến của các quy luật.
Thừa nhận quan điểm toàn diện, quan điểm lịch sử cụ thể, luôn xem xét các sự vật,
hiện tượng của đời sống xã hội trong những mối liên hệ, ràng buộc lẫn nhau và
đồng thời xem xét chúng trong những khoảng không gian, thời gian nhất định.


12
Chủ nghĩa Mác – Lênin quan niệm vật chất có trước ý thức, vật chất quyết
định ý thức, cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng. Áp dụng lý luận này vào
công trình nghiên cứu của mình, tác giả muốn tìm hiểu sự tác động của các điều kiện
kinh tế xã hội tới các quy tắc xã hội, pháp luật lao động, sự gắn kết xã hội như thế
nào, và biểu hiện cụ thể sự tác động đó đến các chủ thể QHLĐ ra sao, đặc biệt hơn là
sự thương lượng của họ để đạt được những mục đích cao hơn về việc làm, điều kiện
làm việc và những ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng quan hệ giữa các chủ thể của
QHLĐ. Trên cơ sở vận dụng quan điểm Mác xít về mối quan hệ biện chứng, trong
nghiên cứu của mình, tác giả nhìn nhận mọi vấn đề nghiên cứu trong mối quan hệ
phụ thuộc và tác động qua lại lẫn nhau. Mọi vấn đề không chỉ được nhìn nhận từ bên
ngoài mà còn được xem xét cả từ những tác động và biến đổi từ bên trong.
- Quan điểm khách quan: Các khách thể nghiên cứu như: các chủ thể QHLĐ;
mối quan hệ giữa các chủ thể; các phương thức thương lượng, diễn biến quá trình
thương lượng để đạt tới sự hài hòa, ổn định QHLĐ của các chủ thể QHLĐ được
xem xét như thực tế tồn tại của nó, là một thực tiễn xã hội, không tô hồng, không
bôi đen, không phản ánh theo ý muốn chủ quan mà được phản ánh chân thực, khách
quan, chính xác.
- Quan điểm toàn diện: Đối tượng nghiên cứu là quan hệ xã hội chứ không

phải là hiện tượng ngẫu nhiên, bất thường, không bản chất và phiến diện. Luận văn
hướng đến việc chỉ ra vai trò tích cực của các chủ thể QHLĐ trong việc thương
lượng để đạt tới QHLĐ hài hòa, ổn định và tiến bộ.
- Quan điểm phát triển: Khách thể nghiên cứu được xem xét trong sự vận
động của nó, trong các mối quan hệ có tính quy luật, trong sự phụ thuộc, quyết định
lẫn nhau, trong sự phát triển cả về mặt số lượng và chất lượng.
- Quan điểm lịch sử cụ thể: Đối tượng nghiên cứu được xuất phát từ thực tế
xã hội hiện nay, trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế
của đất nước. Thực tế lịch sử này được xem xét như cơ sở, mục tiêu, tiêu chuẩn của
thông tin thực nghiệm của nghiên cứu.


13
5.1.2. Phương pháp luận của hệ thống lý thuyết xã hội học
Bên cạnh phương pháp luận triết học Mác-Lênin, đề tài còn sử dụng phương
pháp nghiên cứu xã hội học, cụ thể là thông qua việc vận dụng các lý thuyết xã hội
học như lý thuyết hành động xã hội, lý thuyết tương tác biểu trưng, lý thuyết cấu
trúc - chức năng trong việc giải quyết vấn đề nghiên cứu.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
5.2.1. Phương pháp phân tích tài liệu
Phương pháp phân tích tài liệu cho phép tác giả tiếp cận tình hình nghiên cứu
một cách nhanh nhất. Dựa trên những nghiên cứu đi trước, tác giả sử dụng nguồn
thông tin đã được nghiên cứu để làm sáng tỏ cho vấn đề mình nghiên cứu. Mặt
khác, những thông tin thu được không chỉ cung cấp một bức tranh chung về thực
trạng QHLĐ trong các doanh nghiệp FDI ở Việt Nam mà còn giúp tác giả tìm ra
những nét mới, những khía cạnh cần khai thác sâu cho đề tài về thương lượng trong
QHLĐ hiện nay. Đề tài nghiên cứu về QHLĐ nói chung đã được nhiều nhà khoa
học, sinh viên và các phương tiện truyền thông quan tâm. Đây là điều kiện thuận lợi
cho tác giả trong việc tìm nguồn tài liệu cung cấp cho việc nghiên cứu của mình.
Tác giả đã sử dụng một số dạng tài liệu sau: tài liệu nghiên cứu và xuất bản của các

nhà khoa học trong và ngoài nước; những công trình nghiên cứu khoa học, luận án
tốt nghiệp; tài liệu dịch từ tiếng nước ngoài; các tạp chí: Xã hội học, Nghiên cứu
kinh tế v.v ; các báo cáo của địa phương, của doanh nghiệp, của Ban Chấp hành
Công đoàn công ty
5.2.2. Phương pháp phỏng vấn sâu
Trên cơ sở các mục tiêu nghiên cứu đặt ra, đề tài tiến hành phỏng vấn các
chủ thể/đại diện NSDLĐ và NLĐ để tìm hiểu nhu cầu, mong muốn nguyện vọng
của hai bên từ phía đối tác QHLĐ của mình nhằm làm rõ những nhân tố tác động,
những thuận lợi và khó khăn trong QHLĐ; làm rõ những hành động hai bên tiến
hành để xây dựng QHLĐ hài hòa, ổn định, tiến bộ để có thông tin đầy đủ và
khách quan, xác thực cho nghiên cứu.


14
5.2.3. Phương pháp thảo luận nhóm tập trung
Đề tài tiến hành thảo luận nhóm tập tập trung tại cả hai doanh nghiệp, mỗi
nhóm có thành viên mang đặc điểm khác nhau về giới tính, độ tuổi, trình độ học
vấn, đào tạo nhằm thu thập những thông tin đa dạng, khách quan và xác thực.
1/ Thảo luận nhóm 7 người: gồm 1 đại diện chủ thể NSDLĐ và 5 đại diện
người NLĐ (công nhân và cán bộ công đoàn).
2/ Thảo luận nhóm 5-7 người: gồm các đại diện NLĐ.
3/ Thảo luận nhóm 4 người: gồm đại diện NSDLĐ hai doanh nghiệp.
5.2.4. Phương pháp phỏng vấn chuyên gia
1/ Phỏng vấn Cán bộ LĐLĐ tỉnh (chuyên trách giải quyết các tranh chấp lao
động và đình công)
2/ Phỏng vấn cán bộ có kinh nghiệm nghiên cứu về QHLĐ của Viện Nghiên
Công nhân - Công đoàn (Tổng LĐLĐ Việt Nam).
3/ Phỏng vấn chuyên gia về QHLĐ của Bộ Lao động - Thương binh và Xã
hội.
6. Giả thuyết nghiên cứu

Giả thuyết một: Năng lực thương lượng của các chủ thể trong QHLĐ còn
nhiều hạn chế, nên chất lượng thương lượng chưa cao, cần được nắm bắt, thay đổi
cho phù hợp và hiệu quả hơn.
Giả thuyết hai: Thương lượng có vai trò quan trọng trong xây dựng QHLĐ
và ngày càng chứng tỏ tính hiệu quả để đạt được QHLĐ hài hòa, ổn định, tiến bộ.


15
7. Khung lý thuyết


Điều kiện kinh tế - xã hội
Chuẩn mực và
quy tắc xã hội
Pháp luật lao động
Các chủ thể
quan hệ lao động
Thƣơng lƣợng
Chất lƣợng quan
hệ lao động
(Hài hoà, ổn
định, tiến bộ)
Gắn kết xã hội


16
NỘI DUNG
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
Nghiên cứu về QHLĐ nói chung, tăng cường thương lượng QHLĐ nói riêng

là mảng đề tài lớn và nhạy cảm, luôn mang tính thời sự, nóng bỏng đã được quan
tâm nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau. Các tác phẩm này là những tài liệu
quan trọng vừa giúp tác giả hiểu sâu sắc hơn các vấn đề về QHLĐ để làm phong
phú cho luận văn, vừa giúp tác giả đi sâu vào hướng nghiên cứu mới của mình mà
các tác giả trước chưa đề cập đến:
1.1.1. Các nghiên cứu ở ngoài nước:
Trên thế giới, QHLĐ được quan tâm và có nhiều tác phẩm viết về vấn đề
này, đặc biệt là các nghiên cứu của tổ chức Lao động thế giới, của các tác giả Trung
Quốc. Cụ thể:
Tác phẩm: “Le champ de la relation de travail” là Báo cáo của Hội nghị lao
động Quốc tế năm 2003, bàn về vấn đề bảo vệ NLĐ ở những khía cạnh rất cụ thể:
QHLĐ công khai, lao động ngầm, QHLĐ "ba bên", việc áp dụng luật điều chỉnh các
hình thức QHLĐ này như thế nào và bảo vệ quyền lợi NLĐ.
Tác phẩm: “Quan hệ việc làm" (The employment relationship) do Tổ chức
Lao động Quốc tế (ILO) xuất bản tại Geneva năm 2006 đã tổng kết những ý kiến
phản hồi của 78 quốc gia thành viên Liên hiệp quốc tại Hội nghị quốc tế năm 2006
về QHLĐ. Các ý kiến trên đã được văn phòng ban thư ký tập hợp và trả lời để nêu
thành kiến nghị chung.
Tác phẩm: “Lý luận công đoàn trong thời kỳ chuyển sang kinh tế thị trường xã
hội chủ nghĩa”, do ba tác giả Tôn Trung Phạm, An Miêu, Phùng Đồng Khánh chủ
biên, Nhà xuất bản Lao động, Hà Nội năm 2004 đã khẳng định: QHLĐ là điểm xuất
phát, của lý luận công đoàn; là chỗ dựa cơ bản khách quan nảy sinh và tồn tại công
đoàn, mỗi khi có sự thay đổi của QHLĐ sẽ ảnh hưởng đến hoạt động công đoàn, đồng
thời cuốn sách đã đưa ra đường lối chung của công đoàn khi có sự thay đổi đó.


17
Tác phẩm “Vị trí và vai trò của giai cấp công nhân đương đại” của Liễu
Khả Bạch, Vương Mai, Diễm Xuân Chi (Nhà xuất bản Lao động, Hà Nội, 2008) đã
dành một số chương đề cập đến khái lược lý luận hệ thống QHLĐ (những nhân tố

và mối quan hệ qua lại trong hệ thống QHLĐ, quá trình phát triển của QHLĐ); sự
phân hoá vị trí của giai cấp công nhân trong thời kỳ chuyển đổi QHLĐ; xây dựng
mối QHLĐ hài hòa hiệu quả thông qua chế độ HĐLĐ trong thực tiễn; chế độ
thương lượng tập thể và hợp đồng tập thể; xây dựng kiện toàn chế độ công nhân
tham gia dân chủ; cơ chế thương lượng ba bên của QHLĐ; sự đồng nhất văn hóa đa
nguyên và sự hài hòa QHLĐ
Tác phẩm “Quan hệ lao động”, Thường Khải chủ biên, Nhà xuất bản Lao
động và bảo đảm xã hội Trung Quốc, dịch giả Hoàng Văn Tuấn dịch sang Tiếng
Việt và được Nhà xuất bản Lao động phát hành. Đây là giáo trình chuyên ngành
QHLĐ được viết cho sinh viên chính quy và nghiên cứu sinh của Trung Quốc gồm
bốn phần và 21 chương. Phần I giới thiệu và trình bày một cách hệ thống về lý luận
chung của QHLĐ. Phần II nghiên cứu riêng về đương sự của QHLĐ, cụ thể bao gồm
NLĐ, công đoàn, giới chủ và tổ chức giới chủ, chính phủ QHLĐ. Phần III là nghiên
cứu về vận hành và điều hoà QHLĐ. Phần IV là nghiên cứu về xử lý mâu thuẫn
QHLĐ, nội dung của nó bao gồm xung đột chủ thợ và an sinh xã hội, tranh chấp lao
động và xử lý, tranh chấp tập thể và hoạt động ngành nghề, cứu trợ hành vi lao động
không quy phạm. Trên cơ sở giới thiệu và đánh giá một cách hệ thống lý luận và
chính sách QHLĐ trong và ngoài nước, trọng điểm là tập trung vào hiện trạng, đặc
điểm và xu hướng phát triển của QHLĐ của Trung Quốc, cuốn sách đã đưa ra phân
tích lý luận của riêng mình, đồng thời đưa ra kiến nghị chính sách của mình đối với
việc cải tiến và hoàn thiện chính sách lao công của Trung Quốc.
Bài viết “Toàn cầu hoá QHLĐ và Công đoàn" của Giáo sư, Tiến sỹ Rene E.
Ofrenneo, Uỷ viên quản trị Trung tâm giám sát nguồn lực châu Á, cố vấn mạng lưới
Công đoàn Quốc tế khu vực châu Á đã phân tích 3 động lực chính của toàn càu hoá
(công nghệ, sự thắng thế của triết học thương mại tự do, sự bành trướng của các công
ty đa quốc gia trên toàn cầu). Tác giả chỉ rõ tác động của 3 động lực này đến QHLĐ và


18
quản lý nguồn nhân lực, đó là những thay đổi sâu rộng trong hệ thống sản xuất; nhiều

ngành công nghiệp đang tìm kiếm việc làm linh hoạt; những thay đổi trong việc bố trí
sản xuất và thuê nhân công; chất lượng và an toàn việc làm đang ngày càng trở nên
mong manh; quá trình linh hoạt thấp đang diễn ra không chỉ trong các ngành công
nghiệp và nông nghiệp mà còn trong cả ngành dịch vụ đang bị toàn cầu hoá; đồng thời
cũng chỉ rõ những tác động của toàn cầu hoá đến cơ chế 3 bên QHLĐ.
1.1.2. Các nghiên cứu ở trong nước:
Ở Việt Nam, vấn đề QHLĐ được rất nhiều người quan tâm, đặc biệt là các
nhà hoạt động trong lĩnh vực lao động và công đoàn, các nhà nghiên cứu thuộc Bộ
Lao động – Thương binh và Xã hội, Tổng LĐLĐ Việt Nam.
Tác phẩm: “Một số vấn đề cần biết về tổ chức công đoàn và QHLĐ” của
Ban Tuyên giáo, Tổng Liên đoàn phát hành năm 2005 đã cung cấp một số vấn đề
liên quan đến QHLĐ, nghĩa vụ của NLĐ, những tranh chấp lao động và cách giải
quyết các tranh chấp lao động.
Luận án Tiến sỹ kinh tế “Một số vấn đề về QHLĐ tại các doanh nghiệp ngoài
quốc doanh và doanh nghiệp FDI ở Việt Nam trong thời kỳ chuyển đổi kinh tế” (khảo
sát ở TP. Hồ Chí Minh) năm 2004, của Vũ Việt Hằng, đã nêu lên cơ sở lý thuyết về
QHLĐ trong nền kinh tế thị trường; phân tích thực trạng QHLĐ ở các doanh nghiệp
ngoài quốc doanh và doanh nghiệp FDI ở Việt Nam và đề xuất một số giải pháp thích
hợp góp phần hoàn thiện QHLĐ tại hai loại hình doanh nghiệp kể trên.
Luận án Tiến sỹ kinh tế “Đổi mới QHLĐ trong quá trình hình thành nền
kinh tế thị trường ở Việt Nam” năm 1993, của Lê Văn Minh, đã xác định các khái
niệm, nội dung, tính chất, các chủ thể cấu thành QHLĐ, mối quan hệ giữa quan hệ
sản xuất và QHLĐ. Luận án cũng đã phân tích, đánh giá quá trình hình thành và
hiện trạng các mô hình, chính sách QHLĐ ở nước ta hiện nay.
Luận án Tiến sỹ kinh tế của Nguyễn Ngọc Quân với đề tài: “Hoàn thiện
QHLĐ trong các doanh nghiệp FDI ở Việt Nam”, năm 1997 đã nêu lên một số cơ
sở khoa học về QHLĐ trong nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần; thực trạng


19

QHLĐ trong doanh nghiệp FDI; quan điểm và biện pháp nhằm hoàn thiện QHLĐ
trong các doanh nghiệp FDI.
Một số đề tài nghiên cứu về đình công cũng đã phân tích thực trạng QHLĐ
trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, như “Đình công của CNLĐ trong các
doanh nghiệp ngoài quốc doanh trên địa bàn Hà Nội” của LĐLĐ thành phố Hà Nội,
năm 2002 ; “Khảo sát về tình hình tranh chấp lao động và đình công ở một số khu
vực trọng điểm trên cả nước” của Ban Pháp luật Tổng Liên đoàn LĐVN, năm 2005
Đề tài “Công đoàn với việc xây dựng QHLĐ hài hòa trong các doanh nghiệp
FDI ở Việt Nam hiện nay” do Viện Công nhân và Công đoàn tiến hành năm 2007
đã đánh giá thực trạng QHLĐ giữa NLĐ và NSDLĐ và thực trạng hoạt động công
đoàn trong doanh nghiệp FDI ở Việt Nam, tìm nguyên nhân cơ bản trong mâu thuẫn
QHLĐ, hạn chế của tổ chức công đoàn trong nội dung này và đề xuất các giải pháp
của công đoàn nhằm xây dựng QHLĐ giữa NSDLĐ và NLĐ trong doanh nghiệp
FDI ngày càng tốt đẹp hơn; đưa ra nhiều kiến nghị với Đảng, Nhà nước để có biện
pháp xây dựng QHLĐ hài hòa, tiến bộ trong doanh nghiệp FDI, nhằm thu hút
ĐTNN ở Việt Nam, hạn chế tranh chấp lao động và đình công.
Cuốn sách “QHLĐ, trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp và vai trò của
Công đoàn ở Việt Nam” do Tổng LĐLĐ Việt Nam phối hợp với Công đoàn Đức
phát hành tháng 7/2010 đã phân tích một số vấn đề về QHLĐ, đối thoại xã hội, tiêu
chuẩn xã hội trong lĩnh vực lao động và trách nhiệm xã hội doanh nghiệp; khẳng
định vai trò của công đoàn Việt Nam trong xây dựng QHLĐ, thực hiện trách nhiệm
xã hội doanh nghiệp và chỉ rõ nhiệm vụ của các cấp công đoàn trong xây dựng
QHLĐ, thực hiện trách nhiệm xã hội doanh nghiệp. Trong cuốn sách này, tác giả
luận văn cũng tham gia viết phần QHLĐ.
Đề tài “Một số giải pháp tăng cường sự hài hòa, ổn định QHLĐ và nâng cao
hiệu quả quản lý Nhà nước về lao động ở các doanh nghiệp FDI trên địa bàn Hải
Phòng” do Ban Quản lý các khu chế xuất và công nghiệp Hải Phòng chủ trì năm
2004 đã làm rõ những vấn đề chung về QHLĐ và quản lý Nhà nước về QHLĐ; thực



20
trạng QHLĐ và quản lý Nhà nước về lao động trong các doanh nghiệp FDI trên địa
bàn Hải Phòng và đưa ra một số giải pháp tăng cường sự hài hòa, ổn định QHLĐ
trong các doanh nghiệp FDI trên địa bàn Hải Phòng.
Chuyên đề nghiên cứu “Tạo dựng QHLĐ lành mạnh để ngăn ngừa tranh chấp
lao động và đình công” của Nguyễn Mạnh Cường, Giám đốc Trung tâm Hỗ trợ QHLĐ
và cơ chế ba bên, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã nhấn mạnh để thực hiện
hiệu quả việc tạo dựng QHLĐ lành mạnh nhằm ngăn ngừa tranh chấp lao động và đình
công cần có sự chuyển đổi trong tư duy về các tiếp cận QHLĐ; phân định lại các chức
năng điều hòa QHLĐ vốn từ trước đến nay do Nhà nước thực hiện sang cho hai bên
QHLĐ là NLĐ, mà đại diện là công đoàn và NSDLĐ thực hiện [37].
Bài viết “Dự báo về phát triển QHLĐ ở Việt Nam và vai trò của tổ chức
công đoàn" của TS. Nguyễn Hữu Dũng, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội in
trong cuốn kỷ yếu “Công đoàn Việt Nam - Truyền thống, hiện tại và phát triển”,
Nhà xuất bản Lao động, Hà Nội 2009 đã có những phân tích sâu sắc về các vấn đề:
nhận thức cơ bản về QHLĐ trong kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam; đánh giá khái quát thực trạng QHLĐ trong các loại hình doanh nghiệp và
đưa ra những dự báo phát triển QHLĐ giai đoạn 2011-2020.
Cũng trong tác phẩm nói trên, bài viết “Dự báo về tổ chức và hoạt động
Công đoàn Việt Nam đến năm 2020” của tác giả Nguyễn Văn Dũng, Viện trưởng
Viện Công nhân và Công đoàn, Tổng LĐLĐ Việt Nam đã có những dự báo về
những nhân tố và mối quan hệ các chủ thể trong hệ thống QHLĐ tác động đến tổ
chức và hoạt động công đoàn đến năm 2020, trong đó nhấn mạnh việc xây dựng
QHLĐ hài hòa, ổn định, tiến bộ sẽ là chủ trương lớn và kỳ vọng vào sự hợp tác giữa
các chủ thể là chủ đạo QHLĐ vào năm 2020.
Một tài liệu được những người quan tâm đến QHLĐ ở Việt Nam đánh giá
cao bởi cách tiếp cận vấn đề QHLĐ và cách phân tích, đánh giá QHLĐ, đó là
nghiên cứu của TS. Chang – Hee Lee, chuyên gia cao cấp của ILO về QHLĐ và đối
thoại xã hội “Từ QHLĐ mang đậm nét đình công tự phát đến QHLĐ hài hòa dựa



21
trên thương lượng tập thể tại Việt Nam”, Hà Nội, tháng 6/2008. Tác giả đã có nhiều
nỗ lực trong việc “xác định vấn đề và thử tìm kiếm những giải pháp khả thi”. Trong
đó, tác giả đã phân tích về QHLĐ hiện nay tại Việt Nam, phân tích về một quá trình
QHLĐ đặc trưng ở cấp doanh nghiệp sau khi xảy ra đình công tự phát, từ đó đưa ra
một kịch bản của thương lượng theo ngành và đặt ra vấn đề về củng cố tổ chức CĐ,
thúc đẩy thương lượng tập thể và đối thoại xã hội tại Việt Nam. Tác giả cũng nhấn
mạnh những kinh nghiệm của Trung Quốc trong việc thúc đẩy thương lượng tập thể
cho một xã hội hài hòa.
Tác phẩm: “QHLĐ và môi trường kinh doanh ở Việt Nam” do TS. Nguyễn
Bá Ngọc chủ biên, NXB Lao động – Xã hội phát hành năm 2008 đã nghiên cứu
những thay đổi và nhiều vấn đề mới về QHLĐ cũng như vai trò của các đối tác xã
hội ở Việt Nam trong điều kiện Việt Nam hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới.
Đặc biệt, tác phẩm phân tích tình hình tranh chấp lao động trong những năm gần
đây với tâm điểm là các cuộc đình công, nguyên nhân dẫn đến tranh chấp lao động
và khuyến nghị những giải pháp thúc đẩy QHLĐ lành mạnh.
“Giáo trình QHLĐ”, PGS. TS. Nguyễn Tiệp, NXB Lao động – Xã hội phát
hành năm 2008 thực sự là một cuốn cẩm nang cung cấp cho những người nghiên
cứu sâu về QHLĐ những kiến thức và kỹ năng cơ bản trong lĩnh vực QHLĐ phù
hợp với các tri thức hiện đại của thế giới và thực tiễn của Việt Nam. Cuốn sách gồm
hai phần chính: phần thứ nhất khái quát các vấn đề cơ bản về QHLĐ và phần thứ
hai phân tích sâu hơn vê QHLĐ ở Việt Nam như: khung pháp luật điều chỉnh
QHLĐ ở Việt Nam, một số đặc điểm và thực trạng QHLĐ trong doanh nghiệp ở
Việt Nam, quản lý nhà nước về QHLĐ.
Hai cuốn tài liệu tham khảo do Nhà xuất bản Lao động Hà Nội ấn hành “Xây
dựng quan hệ lao động hài hòa tại doanh nghiệp” (năm 2008), và cuốn “Kỹ năng
thương lượng và ký kết TƯLĐTT” (năm 2010) đã đề cập đến một số khái niệm cơ
bản của TƯLĐTT và các kỹ năng để NSDLĐ và NLĐ cần nắm được để thương
lượng đi tới ký kết được TƯLĐTT tại doanh nghiệp.



22
Tác phẩm “Công đoàn và QHLĐ trong bối cảnh kinh tế thị trường tại Việt
Nam”, Nhà xuất bản Lao động Hà Nội vừa phát hành đầu năm 2011 đã nêu lên
nhiều vấn đề về công đoàn và QHLĐ trong bối cảnh kinh tế thị trường tại Việt Nam
hiện nay. Riêng về vấn đề thương lượng tập thể, các tác giả khẳng định rằng sự kém
phát triển của thương lượng tập thể là một trong những căn nguyên của đình công tự
phát. Các tác giả cũng chỉ ra năm vấn đề tồn tại trong hiện trạng thương lượng tập
thể tại Việt Nam; các biện pháp hạn chế để thúc đẩy thương lượng tập thể; các cơ
chế thúc đẩy và hỗ trợ thương lượng tập thể thông qua hòa giải và trung gian bên
thứ ba; vai trò của các tổ chức công đoàn cấp trên trong thương lượng tập thể cấp
doanh nghiệp và cao hơn và khẳng định TƯLĐTT không chỉ là sự sao chép y
nguyên các tiêu chuẩn pháp luật tối thiểu.
Tóm lại, nghiên cứu về QHLĐ là mảng đề tài không còn quá mới đồng thời luôn
luôn là vấn đề thời sự trên tất cả các phương tiện thông tin đại chúng trong vài năm trở
lại đây. Tuy nhiên, cả ở trong và ngoài nước, các nghiên cứu về QHLĐ hoặc là nhấn
mạnh tính chất lý luận về QHLĐ, hoặc là đề cập đến khía cạnh pháp lý, trách nhiệm,
nghĩa vụ của các chủ thể QHLĐ, vai trò công đoàn QHLĐ, thực trạng tình hình tranh
chấp lao động và đình công ở thời điểm nghiên cứu ra sao; khai thác những vấn đề mang
tính vĩ mô của QHLĐ và nghiên cứu mang tính định lượng nhiều hơn là định tính. Chưa
có một nghiên cứu nào mang tính định tính về vấn đề thương lượng của các chủ thể
QHLĐ tại doanh nghiệp FDI, những yếu tố tác động đến vấn đề này và kết quả của nó ra
sao, ảnh hưởng như thế nào đến chất lượng QHLĐ Đặc biệt là các nghiên cứu xã hội
học ở góc độ tương tác xã hội, nghiên cứu về thương lượng QHLĐ trong doanh nghiệp
FDI nói riêng vẫn còn là nội dung chưa có nhiều tác giả quan tâm tìm hiểu. Vì thế, việc
nghiên cứu vấn đề thương lượng QHLĐ ở các doanh nghiệp FDI có một ý nghĩa quan
trọng, trước hết là đối với bản thân tác giả trong việc thực hành, thục luyện một nghiên
cứu xã hội học độc lập, đồng thời qua đó giúp chúng ta có cái nhìn đầy đủ, sâu sắc hơn
về thực trạng việc làm, tiền lương, BHXH và các điều kiện làm việc khác của công nhân

lao động, những mong muốn, nguyện vọng của các chủ thể QHLĐ; thực trạng mối quan
hệ giữa các chủ thể QHLĐ; các cách thức thương lượng/cơ chế thỏa thuận giữa các bên


23
QHLĐ để đạt tới sự hài hòa, ổn định QHLĐ để từ đó tìm ra các giải pháp, khuyến nghị,
nhằm xây dựng QHLĐ hài hòa, ổn định trong doanh nghiệp FDI. Đây cũng chính là
điểm khác biệt của công trình nghiên cứu này so với nhiều công trình đi trước.
1.2. Các lý thuyết sử dụng trong nghiên cứu đề tài
1.2.1. Lý thuyết hành động xã hội
Trong công trình "The Structure of Social Action" (Cấu trúc của hành động xã
hội, 1937), Parsons cố gắng tổng hợp di sản của Weber, Durkheim và Vilfredo
Pareto, đưa ra lý thuyết hành động xã hội tự giác. Trong lý thuyết hành động tổng
quát, Parsons mượn quan điểm của Weber: cốt lõi của mọi hành động xã hội là ý
nghĩa, do đó để hiểu được hành động phải hiểu được ý nghĩa gắn với hành động đó.
Mặt khác, Parsons cũng chấp nhận quan điểm của Durkheim rằng có một trật tự đạo
đức điều khiển xã hội. Từ đó, Parsons xây dựng khái niệm "khung tham chiếu hành
động", cụ thể hóa hơn lập luận của Weber. Để hiểu hành động cần hiểu được bản chất
chủ quan của hành động, tức là hiểu ý nghĩa của nó. Nhưng tiếp đó phải tiến đến phân
tích các mục tiêu và phương tiện hành động, những điều này nảy sinh trong bối cảnh
các giá trị và chuẩn mực hình thành một cách tập thể. Đây chính là khung tham chiếu
hành động, trong đó là sự định hướng mang tính chuẩn mực của con người định
hướng vào các niềm tin, giá trị, chuẩn mực.
Khái niệm "khung tham chiếu hành động" giúp Parsons giải thích về trật tự
xã hội: xã hội vận hành thông qua hành động xã hội, hành động xã hội được cấu
trúc hóa, mang tính chuẩn mực, bởi những giá trì hình thành một cách tập thể trong
xã hội. Con người là chủ thể, tìm kiếm việc tối đa hóa phần thưởng thông qua hành
động. Hành động nhằm đạt được mục đích đó được thiết chế hóa vào một cơ cấu
các vị thế và vai trò.



24
Khung tham chiếu của Parsons về hành động xã hội:

Tiến trình tư tưởng của Parsons minh họa cho sự chuyển dịch và tổng hợp
của một xã hội học đi từ tiếp cận hành động đến hệ thống. Thoạt tiên, Parsons xuất
phát từ tiếp cận hành động. Ông cho rằng nhiệm vụ phân tích đầu tiên của lý luận xã
hội học là phải cách ly được trên khái niệm một đơn vị cơ bản nhất mà từ đó các
quá trình và cấu trúc phức tạp đã được xây dựng nên. Trong trường hợp này, đó là
hành động xã hội. Logic tư duy của Parsons tương tự cách mà Mác đã làm trong bộ
"Tư bản": đi từ việc phân tích "hàng hóa" như là xuất phát điểm để phân tích toàn
bộ xã hội tư bản chủ nghĩa.
Parsons đưa ra quan niệm "voluntarism", theo nghĩa như là những quá trình
ra quyết định mang tính chủ quan của chủ thể, nhưng những quyết định này lại là
kết quả của những câu thúc mang tính chuẩn mực cũng như của tình huống. Như
vậy, hành động chủ động bao gồm các yếu tố cơ bản sau đây: Thứ nhất, chủ thể
hành động là những cá nhân. Thứ hai, các chủ thể theo đuổi các mục đích. Thứ ba,
chủ thể phát triển các phương tiện khác nhau để đạt mục đích. Thứ tư, chủ thể đối
mặt với những hoàn cảnh khác nhau, những hoàn cảnh gây tác động đến việc lựa
chọn mục đích và phương tiện. Thứ năm, chủ thể bị điều khiển bởi các giá trị và
chuẩn mực tác động đến việc lựa chọn mục đích và phương tiện.
Từ lý luận hành động xã hội Parsons đi đến lý luận về hệ thống xã hội. Chủ
thể được định hướng vào các tình huống bởi động cơ và giá trị, gọi là các phương
thức định hướng. Có ba kiểu động cơ: nhận thức (nhu cầu thông tin), cảm xúc
(cathectic, nhu cầu gắn kết mang tính cảm xúc), và lượng định (nhu cầu về sự đánh
Chuẩn mực
Chủ thể
Mục tiêu
Kiềm chế
Phƣơng tiện để đạt mục

tiêu: Thƣơng lƣợng


25
giá). Tương tự là ba kiểu giá trị: nhận thức (lượng định theo chuẩn khách quan), tán
thưởng (lượng định theo chuẩn thẩm mỹ), và đạo đức (lượng định theo sự đúng sai).
Những phương thức định hướng khác nhau ở chủ thể tạo ra những kiểu hành
động khác nhau. Theo Parsons, có ba kiểu hành động: công cụ (hành động định
hướng rõ ràng vào việc thực hiện mục tiêu một cách hiệu quả), biểu cảm (hành động
nhằm thoả mãn cảm xúc), và đạo đức (hành động liên quan đến việc thực hiện
chuẩn mực về sự đúng sai).
Khi các chủ thể với những định hướng hành động nhất định tương tác với
nhau, họ sẽ tạo ra những thỏa thuận và khuôn mẫu tương tác, dẫn đến sự thiết chế
hóa. Các khuôn mẫu được thiết chế hóa, theo Parsons, chính là hệ thống xã hội.
Người ta có thể mô tả lý thuyết hành động thuyết bắt đầu bằng một chủ thể, người
đóng vai trò (cá nhân hay một tập thể). Chủ thể có động cơ hành động để đạt được
một mục đích mà hệ thống văn hóa đã xác định. Hành động tiến hành trong một tình
huống gồm các phương tiện (công cụ, nguồn lực) và điều kiện (trở ngại, câu thúc),
chúng làm cho tình huống mang tính không ổn định, không chắc chắn. Mọi yếu tố
trên chịu sự điều chỉnh của các tiêu chuẩn mang tính chuẩn mực của hệ thống xã
hội. Chủ thể không thể bỏ qua các quy tắc, chúng quy định các mục đích và cách
mà chủ thể phải ứng xử, những kỳ vọng mang tính chuẩn mực phải được chủ thể
đáp ứng, người đã được gắn cho động cơ theo đuổi các mục đích. Các chuẩn mực
được nội tâm hóa, nên chủ thể được tạo nên động cơ hành động một cách tương
thích. Các chuẩn mực được hệ thống văn hóa hợp pháp hóa.
Với đề tài nghiên cứu của mình tác giả nhìn nhận các chủ thể theo đuổi các
tiêu của QHLĐ là sự hài hòa, ổn định, tiến bộ trong QHLĐ. Các chủ thể phát triển
thương lượng và đối thoại xã hội như là các phương tiện khác nhau để đạt mục tiêu
đó. Trong quá trình này, các chủ thể đối mặt với những hoàn cảnh khác nhau, những
hoàn cảnh gây tác động đến việc lựa chọn mục đích và phương tiện. Các chủ thể bị

điều khiển bởi các giá trị và chuẩn mực tác động đến việc lựa chọn mục đích và
phương tiện.


26
1.2.2. Lý thuyết tương tác biểu trưng
Trong cuốn Thuyết tương tác biểu trưng (1969), một tác phẩm sớm được
thừa nhận như là phát ngôn chính, đề xuất chủ chốt cho viễn tượng thuyết tương tác
biểu trưng, Blumer đưa ra ba tiền đề: “Tiền đề thứ nhất là con người hành động
hướng về những sự vật trên cơ sở của những nghĩa mà các sự vật ấy có đối với họ …
Tiền đề thứ hai là nghĩa của những sự vật ấy được phái sinh từ, hay nảy sinh từ, sự
tương tác xã hội của con người ta với những người đồng hội của mình. Tiền đề thứ ba
là những nghĩa này được xử lý, và được thay đổi, trong một tiến trình lý giải của ai đó
khi xử lý những sự vật mà mình gặp phải.”
Con người trở nên người hơn qua việc họ tương tác với nhau. Các nhà tương
tác luận biểu trưng cho rằng con người sở đắc những phẩm tính người rất riêng, và
có thể có hành vi mang tính người rất riêng, chỉ qua việc họ liên đới với những
người khác. Theo các nhà tương tác luận, những phẩm tính và những hành vi người
có một không hai này bao gồm năng lực sử dụng những biểu trưng, tư duy và vạch
ra những kế hoạch, đảm nhiệm vai trò của những người khác, phát triển một ý thức
về bản ngã, và năng lực tham dự vào những hình thái phức tạp hơn của sự giao tiếp
và sự tổ chức xã hội.
Con người là những hữu thể có ý thức, biết tự - phản tư, và luôn chủ động định
hướng hành vi của mình. Những năng lực quan trọng nhất mà con người phát triển
qua việc họ dính líu với xã hội, hay sự tương tác xã hội, là “tâm thức” và “bản ngã”.
Như Mead quan sát thấy, khi phát triển năng lực xem mình như là những đối tượng
và phản ứng lại với mình cũng như là những đối tượng, các cá nhân đang học cách
tương tác với bản thân mình, hay học cách tư duy. Trong lúc tư duy, con người nhào
nặn ra nghĩa của những đối tượng, bằng cách chấp nhận, bác bỏ, hay thay đổi chúng
cho phù hợp với những định nghĩa ấy và những hành vi theo sau. Rồi sau đó, hành vi

là một sự tác động qua lại giữa các kích thích xã hội và những phản ứng lại các kích
thích ấy. Các hành động của con người chịu ảnh hưởng chứ không phải là bị quy định
bởi những sự kiện trước đó hay bởi những lực xã hội hay những lực sinh học.


27
Con người là những sinh vật hành động trong những hoàn cảnh và theo
những hoàn cảnh có chủ đích. Theo các nhà tương tác luận, con người không thể
nào thoát khỏi hành vi của mình, như độ căng trong một thanh lò xo, trong sự phản
ứng lại những xung năng sinh học, những nhu cầu tâm lý hay những mong đợi xã
hội. Nói đúng hơn, con người hành động theo những hoàn cảnh, kiến tạo hành vi
dựa trên nghĩa mà họ gán cho cái hoàn cảnh đặc thù trong đó họ nhận ra chính
mình. Nghĩa, hay sự định nghĩa về hoàn cảnh, này nảy sinh từ những sự tương tác
đương diễn ra với người khác. Tức là, con người xác định nghĩa nào được gán cho
một hoàn cảnh và cách thức hành động theo hoàn cảnh qua việc họ xét tới những ý
đồ, những hành động và những thể hiện của người khác đang bộc lộ ra. Các tác
nhân nhận lấy, thương lượng và xác lập những định nghĩa về một hoàn cảnh thông
qua các tiến trình của sự tương tác biểu trưng.
Xã hội người là ở chỗ con người ta tham gia vào sự tương tác biểu trưng.
Các nhà tương tác luận khác với các nhà xã hội học khác trong quan niệm của mình
về xã hội và mối quan hệ giữa xã hội với cá nhân. Theo Blumer, các nhà tương tác
luận quan niệm xã hội như là một quá trình hay thay đổi nhưng được cấu trúc hóa,
đó chính là quá trình các cá nhân đang tương tác với nhau.
Mỗi khi con người hướng mình đến với những người khác và những hành
động của họ, không nghĩ đến việc có phải họ đang cố gắng làm tổn thương người
khác, giúp đỡ người khác, làm biến đổi hay hủy diệt người khác hay không, là họ tiến
hành một hành vi xã hội. Các cá nhân cố gắng làm cho những cách xử sự của mình
tương xứng và phù hợp với người khác. Khi làm như vậy, họ có thể hành động như là
những cá nhân hay như là những đại diện của một nhóm hay một tổ chức. Được
Blumer khơi nguồn cảm hứng, các nhà tương tác luận xem lĩnh vực xã hội học – và

tổng quát hơn là khoa học xã hội – như là “được cấu tạo một cách chính xác bởi việc
nghiên cứu về hành động chung và các tập thể tham gia vào hành động chung”.
Để hiểu những hành vi xã hội của con người, các nhà xã hội học cần phải sử
dụng những phương pháp cho phép nhận biết tường tận các nghĩa mà con người gán
cho những hành động này. Như đã lưu ý, các nhà tương tác luận nhấn mạnh ý nghĩa

×