Tải bản đầy đủ (.pdf) (98 trang)

Vai trò của người cao tuổi đối với hoạt động trợ giúp con trong gia đình ở thành phố Thanh Hóa (qua nghiên cứu tại phường Tân Sơn, xã Đông Lĩnh, thành phố Thanh Hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.38 MB, 98 trang )

1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN



PHẠM THỊ DUYÊN



VAI TRÒ CỦA NGƯỜI CAO TUỔI ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG TRỢ
GIÚP CON TRONG GIA ĐÌNH Ở
THÀNH PHỐ THANH HÓA
( QUA NGHIÊN CỨU TẠI PHƯỜNG TÂN SƠN, XÃ ĐÔNG LĨNH,
THÀNH PHỐ THANH HÓA)



LUẬN VĂN THẠC SĨ XÃ HỘI HỌC








Hà Nội – 2013
2


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN



PHẠM THỊ DUYÊN


VAI TRÒ CỦA NGƯỜI CAO TUỔI ĐỐI VỚI HOẠT ĐÔNG TRỢ
GIÚP CON NGƯỜI TRONG GIA ĐÌNH Ở
THÀNH PHỐ THANH HÓA
( QUA NGHIÊN CỨU TẠI PHƯỜNG TÂN SƠN, XÃ ĐÔNG LĨNH,
THÀNH PHỐ THANH HÓA)


LUẬN VĂN THẠC SĨ XÃ HỘI HỌC

Chuyên ngành: Xã hội học
Mã số: 60.31.30



Giáo viên hướng dẫn: TS. Mai Thị Kim Thanh



HÀ NỘI – 2013
4

MỤC LỤC


MỞ ĐẦU 9
1. Lý do chọn đề tài 9
2.Tổng quan về vấn đề nghiên cứu 10
3. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn 13
4. Câu hỏi nghiên cứu 13
5. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 13
6. Đối tƣợng, khách thể, phạm vi nghiên cứu 14
7. Giả thuyết nghiên cứu 14
8.Phƣơng pháp nghiên cứu 15
9.Khung lý thuyết 18
19
NỘI DUNG CHÍNH 20
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI 20
1.1. Những khái niệm công cụ 20
1.1.1. Khái niệm vai trò xã hội 20
1.1.2. Khái niệm ngƣời cao tuổi 21
1.1.3. Khái niệm gia đình 22
1.2 Các lý thuyết vận dụng trong nghiên cứu 24
1.2.1 Lý thuyết cấu trúc- chức năng 24
1.2.2 Lý thuyết xã hội hoá 26
1.2.3 Lý thuyết về vai trò 27
1.2.4 Lý thuyết sự chọn lựa hợp lý của Coleman, Friedman và Hechter 29
1.3 Vài nét về địa bàn nghiên cứu 32
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG TRỢ GIÚP CON TRONG GIA ĐÌNH Ở
THÀNH PHỐ THANH HÓA CỦA NGƢỜI CAO TUỔI 38
5

2.1. Nhận thức của NCT về hoạt động trợ giúp con trong gia đình 38
2.2.Hoạt động trợ giúp con của ngƣời cao tuổi 41

2.2.1 Hoạt động trợ giúp trực tiếp 41
2.2.2 Hoạt động trợ giúp gián tiếp 45
2.2.3 Mức độ tham gia hoạt động trợ giúp 48
CHƢƠNG 3: CÁC NHÂN TỐ CƠ BẢN ẢNH HƢỞNG TỚI HOẠT ĐỘNG
TRỢ GIÚP CON CỦA NGƢỜI CAO TUỔI 56
3. 1Các nhân tố tác động 56
3.1.1 Cấu trúc gia đình 56
3.1. 2 Những đặc điểm tâm sinh lý của NCT 60
3.1.3 Những đặc điểm nhân khẩu xã hội của NCT 62
3.1. 4 Hoạt động của Hội NCT và các cơ quan đoàn thể 66
3.1.5 Chính sách của Đảng và Nhà nƣớc về NCT 69
3.2 Hệ quả từ sự trợ giúp của Ngƣời cao tuổi 70
3.2.1 Đối với con cháu 72
3.2.2 Đối với NCT 76
3.2.3 Đối với xã hội 83
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 86
1. Kết luận 86
2. Khuyến nghị 87
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 89
PHIẾU TRƢNG CẦU Ý KIẾN 92

6

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 1.1 Cơ cấu mẫu khảo sát 16
Bảng 2.1 : Sự tham gia trợ giúp công việc của người cao tuổi 40
Bảng2.2 : Hình thức tham gia trợ giúp con cái của người cao tuổi 42
Bảng 3.1: Hiện trạng sống của người cao tuổi ở Thành phố Thanh Hóa 57
Bảng 3.2: Những vấn đề người cao tuổi gặp phải khi tham gia trợ giúp con

trong gia đình 60
Bảng 3.3: Lý do vì sao người cao tuổi không thường xuyên thăm hỏi, động
viên con cháu trong gia đình 61
Bảng 3.4: Sự tham gia giúp đỡ con cháu về mặt tinh thần của người cao tuổi
72
Bảng 3.5 : Tình cảm của con cháu dành cho người cao tuổi 75
Bảng 3.6: Quyết định việc quan trọng các thành viên trong gia đình có hỏi ý
kiến người cao tuổi 76
Bảng 3.7: Sự hài lòng về công việc mà người cao tuổi tham gia trợ giúp cho
con cháu 81
7

DANH MỤC CÁC BIỂU

Biểu 1.2: Tỷ lệ phân chia theo giới tính 16
Biểu 1.3: Tỷ lệ phân chia theo trình độ học vấn 17
Biểu 1.4: Tỷ lệ phân chia theo độ tuổi 17
Biểu 2.1: Sự trợ giúp trực tiếp của người cao tuổi trong gia đình 43
Biểu 2.2: Sự tham gia trợ giúp gián tiếp của người cao tuổi 45
Biểu 2.3: Mức độ tham gia giáo dục đạo đức của người cao tuổi trong gia
đình 49
Biểu 2.4: Mức độ tham gia giáo dục tri thức của NCT 50
Biểu 2.5: Mức độ tham gia hoạt động trợ giúp trông nom, chăm sóc con
cháu của NCT 52
Biểu 2.6: Sự tham gia định hướng làm kinh tế của người cao tuổi 53
Biểu 2.7: Sự định hướng chọn bạn đời của người cao tuổi cho con cháu
trong gia đình 54
Biểu 3.1: Tương quan giữa giới tính và hoạt động trợ giúp trực tiếp cho
con của NCT 62
Biểu 3.2.: Tương quan giữa giới tính và hoạt động trợ giúp trực tiếp cho

con của NCT 63
Biểu 3.3: Sự tôn trọng của người trẻ trong gia đình của người cao tuổi . 78
Biểu 3.4: Sự hài lòng trong mối quan hệ của người cao tuổi với gia đình79
Biểu 3.5: Mức độ hài lòng của người cao tuổi với cuộc sống 80


8

BẢNG CÁC TỪ VIẾT TẮT

NCT Người cao tuổi
TP Thành phố
















9


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tính đến năm 2011, tỷ lệ NCT Việt Nam chiếm 9,9% dân số(Tổng cục
thống kê (2012), Điều tra biến động dân số - kế hoach hóa gia đình
01/4/2012) Điều này cho thấy Việt Nam đã bước vào giai đoạn “ già hóa dân
số”- giai đoạn mà nhiều người cho rằng có ảnh hưởng không nhỏ tới sự phát
triển kinh tế- xã hội của một Quốc gia. Tuy nhiên, với nét đặc thù riêng của
Văn hóa Việt, NCT vẫn chiếm một vị trí và đóng một vai trò vô cùng quan
trọng trong cả gia đình và ngoài xã hội. Trong gia đình, họ là điểm tựa vững
trãi, là “kho” kinh nghiệm sống quý báu và với bên ngoài xã hội, họ không
chỉ là một lực lượng chính trị, xã hội ngày càng đông đảo tham gia vào việc
thực hiện các nhiệm vụ chính trị trong địa phương, mà còn là nguồn lực quý
giá trong sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân dân tộc, góp phần
thúc đẩy sự nghiệp đổi mới đất nước và giữ vững ổn định chính trị - xã hội, an
ninh quốc gia.
Cũng như nhiều nơi khác trong cả nước, NCT Thành phố Thanh Hoá
những năm qua là một trong những nhóm đi đầu của Đất nước trong việc huy
động sự đoàn kết của nhân dân, tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính
quyền vững mạnh, hưởng ứng theo phong trào “Nêu gương sáng” xây dựng
đời sống văn hóa khu dân cư, xây dựng “Đô thị văn minh - Công dân thân
thiện” và đặc biệt phong trào xây dựng “gia đình ông bà, cha mẹ mẫu mực,
con cháu hiếu thảo” giai đoạn 2007-2012. Nhiều người cao tuổi bên cạnh
việc sẵn sàng nhận các nhiệm vụ của xã hội với lòng nhiệt tình và tinh thần
trách nhiệm cao khi bắt đầu được nghỉ hưu, làm việc liên tục không ngơi nghỉ,
lăn lộn với phong trào, say mê với công việc bằng cả tấm lòng cho quê
hương, đất nước thì họ cũng vẫn dành không ít thời gian để giúp đỡ cho con
cái trong gia đình của chính mình.
10

Vậy với sự hạn chế của sức khỏe và độ tuổi, trong khi lại tham gia nhiều

vào những hoạt động của xã hội, NCT đã có những trợ giúp gì cho con cái
trong gia đình? Hoạt động trợ giúp nào được họ lựa chọn thường xuyên? Thời
gian dành cho những hoạt động này ở họ là bao nhiêu?
Việc nghiên cứu về vai trò của người cao tuổi trong hoạt động trợ giúp con
cái là một vấn đề hết sức cấp thiết. Nó không chỉ cho chúng ta một cái nhìn về
hoạt động trợ giúp của một nhóm xã hội – nhóm mà trong xã hội không ít
người còn nghi ngờ về sự đóng góp của họ, thậm chí có người còn cho rằng
đó chỉ là những người ăn theo, những người hay gây ra những khó chịu cho
con cái do sự khác biệt về hệ giá trị sống, mà còn hình thành nên một cái
nhìn tổng quan, toàn diện về họ. Điều này đòi hỏi phải được nhìn nhận một
cách khoa học và hợp lí dười góc độ xã hội học. Đây cũng chính là ý tưởng
gợi nên trong tôi hướng nghiên cứu đề tài: “Vai trò của người cao tuổi đối
với hoạt động trợ giúp con trong gia đình ở Thành phố Thanh Hóa (Qua
nghiên cứu tại phường Tân Sơn, xã Đông Lĩnh, Thành phố Thanh Hóa).
2.Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
Ở Việt Nam, những nghiên cứu xã hội học về NCT mới chỉ được bắt đầu
vào những năm 1990 khi Việt Nam chuyển từ nền kinh tế tập trung, quan liêu,
bao cấp sang nền kinh tế thị trường và khi tỷ lệ NCT trong dân số có xu
hướng tăng nhanh. Các cuộc điều tra nghiên cứu tập trung chủ yếu vào những
nội dung như: quy mô dân số NCT; cơ cấu dân số NCT; về tình trạng sức
khoẻ, bệnh tật, việc làm, thu nhập, điều kiện sinh hoạt, mức sống của NCT;
chăm sóc sức khoẻ NCT; phát huy vai trò của NCT. Nhìn chung, các công
trình nghiên cứu đã góp phần cung cấp những cơ sở khoa học và thực tiễn cho
việc xây dựng chính sách xã hội đối với NCT. Đáng chú ý là các công trình
sau đây: Nghiên cứu cơ sở thực tiễn và lý luận xây dựng chính sách xã hội với
11

người già ở Việt Nam (Vụ các vấn đề xã hội của Quốc hội, 2000); Nghiên
cứu điều tra thực trạng thu nhập và mức sống của NCT Việt Nam (Hội NCT
Việt Nam, 2005); Trong miền an sinh xã hội; Nghiên cứu về tuổi già Việt

Nam (Bùi Thế Cường, 2005) Nghiên cứu một số đặc trưng kinh tế - xã hội và
đánh giá thử nghiệm mô hình chăm sóc sức khoẻ nâng cao đời sống của NCT
(Uỷ ban Dân số, Gia đình và Trẻ em, 2005); Thực trạng và các giải pháp nâng
cao chất lượng cuộc sống của phụ nữ cao tuổi (Hội LHPN Việt Nam, 2005);
Chăm sóc và phát huy vai trò NCT trong sự nghiệp đổi mới (Bộ Lao động-
Thương binh và Xã hội, 1999), NCT và những vấn đề đặt ra đối với chính
sách xã hội (Bộ Lao động-TB và Xã hội, 1999) . Một số vấn đề cơ bản trong
chính sách xã hội đối với NCT (Viện Khoa học xã hội Việt Nam, 2008-2009);
Thực trạng đời sống của NCT các dân tộc bản địa Tây Nguyên (Viện nghiên
cứu NCT Việt Nam, 2006); Thực trạng đời sống của NCT từ 80 trở lên (Viện
nghiên cứu NCT Việt Nam, 2007); Thực trạng sức khỏe và bệnh tật của NCT
Việt Nam (Viện nghiên cứu NCT Việt Nam, 2008); Thực trạng NCT tham gia
khôi phục và truyền nghề cho thế hệ trẻ Việt Nam (Viện nghiên cứu NCT Việt
Nam, 2010); Thực trạng NCT tham gia xóa đói, giảm nghèo (Viện nghiên cứu
NCT Việt Nam, 2011)…
Cần phải khẳng định rằng, người cao tuổi là lớp người có nhiều công lao
với xã hội, đất nước, gia đình và lớp con cháu. Người cao tuổi đã đóng góp
phần lớp sức lực, trí tuệ của bản thân mình thông qua các hoạt động kinh tế,
xã hội khi còn ở độ tuổi trẻ, khỏe. Đến khi bước vào độ tuổi được gọi là già,
họ xứng đáng được xã hội tôn vinh, quan tâm, chăm sóc. Tuy nhiên, việc phát
huy vai trò tài năng, trí tuệ của người cao tuổi cần phải được xem xét và phân
tích dưới nhiều góc độ khác nhau, kinh tế, xã hội và nhân văn. Một số nghiên
cứu về người cao tuổi như:
12

Nghiên cứu “ Thực trạng đời sống người cao tuổi từ 80 trở lên” của TS
Nguyễn Thế Huệ (NXB văn hóa thông tin, 2010). Nghiên cứu là kết quả dự
án nghiên cứu của Viện nghiên cứu người cao tuổi Việt Nam phối hợp với hội
người cao tuổi Việt Nam tiến hành. Nội dung chính đề cập đến thực trạng đời
sống người cao tuổi từ 80 trở lên như mức thu nhập, mức độ tham gia bảo

hiểm, chế độ được hưởng,tiếp cận các dịch vụ xã hội, tài sản, hiểu biết về
chính sách, chế độ của NCT, trợ giúp khi ốm đau… Qua nghiên cứu, có thể
có một cách nhìn tổng thể về thực trạng đời sống của NCT từ 80 tuổi trở lên.
Nghiên cứu“ Gia đình với người cao tuổi” do nhóm tác giả thuộc vụ
gia đình – Bộ văn hóa , thể thao và du lịch xây dựng tài liệu giáo dục đời sống
gia đình phần IV (NXB văn hóa thông tin,2010). Trong nghiên cứu có nhấn
mạnh đến vai trò của người cao tuổi trong gia đình, trách nhiệm của người
cao tuổi đối với con cháu. “Người cao tuổi có những ưu điểm mà người trẻ
không thể có được đó là kinh nghiệm, trách nhiệm, tình thương vô bờ , luôn
dành cho con cháu những phần tốt nhất, vì với họ con hay thì được nhờ, con
dở thì đành chịu. Mặc dù, tuổi cao sức yếu nhưng nhiều cụ vẫn tham công tiếc
việc, muốn đỡ đần con cháu những việc thường ngày. Nhiều cặp vợ chồng trẻ
vẫn phải nhờ cậu vào sức lực, thậm chí kinh tế của cha mẹ cao tuổi. Thêm vào
đó người cao tuổi có vai trò quan trọng trong điều hòa cuộc sống”
Mỗi một nghiên cứu đều hướng đến người cao tuổi, đi sâu vào đời sống
của họ, phân tích nhiều vấn đề. Tuy nhiên, về khía cạnh vai trò trợ giúp con
cái của người cao tuổi thì cho đến nay, chưa ghi nhận thấy có một công trình
nghiên cứu riêng biệt nào về vai trò của người cao tuổi đối với hoạt động trợ
giúp con trong gia đình. Chính ở điều này đề tài đã thể hiện những đóng góp
mới qua nỗ lực tìm hiểu về vai trò của người cao tuổi đối với hoạt động trợ
giúp trong gia đình dưới góc độ xã hội học, vận dụng lý thuyết xã hội học vào
13

việc phân tích những hoạt động trợ giúp của người cao tuổi trong gia đình
hiện nay.
3. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
3.1 Ý nghĩa lí luận.
Đề tài nghiên cứu vận dụng một số lý thuyết, các khái niệm xã hội
học nói chung và xã hội học gia đình nói riêng vào tìm hiểu, mô tả và phân
tích vai trò của NCT đối với hoạt động trợ giúp con trong gia đình và qua đó

đóng góp thêm những phát hiện có tính quy luật các khái niệm, quan điểm
trong lý luận về vai trò…
3.2 Ý nghĩa thực tiễn.
Đề tài nghiên cứu này có các ý nghĩa thực tiễn như sau:
Giúp Hội người cao tuổi, tổ chức đoàn thể, nhà quản lý, hoạch định chính
sách có một cách nhìn đầy đủ và toàn diện về những đóng góp của người cao
tuổi cho dù hiện tại họ có những hạn chế về sức khỏe.
Kết quả nghiên cứu của đề tài có giá trị tham khảo đối với nghiên cứu
sinh, học viên, sinh viên quan tâm đến NCT, đến hoạt động của các thành
viên trong gia đình.
4. Câu hỏi nghiên cứu
- Nhận thức của NCT về hoạt động trợ giúp con trong gia đình như thế
nào?
- NCT chủ yếu trợ giúp con cái trong gia đình những công việc gì?
- Nhân tố nào là cơ bản quyết định đến việc có trợ giúp cho con cái của
mình hay không ở người cao tuổi?
5. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
5.1 Mục đích và nhiệm vụ:
Thông quan thực trạng trợ giúp cho con của người cao tuổi trong gia đình
để tìm hiểu nhận thức của NCT về hoạt động trợ giúp con, vai trò của họ
14

trong những hoạt động này, các nhân tố cơ bản tác động đến sự tham gia hay
không tham gia trợ giúp con. Từ đó đưa ra giải pháp có tính khả thi.
5.2 Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Mô tả về nhận thức của NCT về hoạt động trợ giúp con trong gia đình.
- Làm rõ những công việc trợ giúp chính của NCT trong gia đình.
- Phân tích các nhân tố cơ bản quyết định đến sự tham gia của người cao
tuổi vào các hoạt động trợ giúp con trong gia đình.
6. Đối tƣợng, khách thể, phạm vi nghiên cứu

6.1 Đối tƣợng nghiên cứu:
Vai trò của người cao tuổi đối với hoạt động trợ giúp con trong gia đình.
6.2 Khách thể nghiên cứu:
Người cao tuổi trên địa bàn TP Thanh Hóa.
Khách thể khảo sát: Người cao tuổi phường Tân Sơn, xã Đông Lĩnh, TP
Thanh Hóa.
6.3 Phạm vi nghiên cứu
+ Phạm vi không gian: Tiến hành khảo sát tại TP Thanh Hóa. Chúng tôi
lựa chọn 2 phường là phường Tân Sơn và xã Đông Lĩnh trực thuộc TP
Thanh Hóa.
+ Phạm vi Thời gian: Tháng 10/2012 đến tháng 12/2012
Phạm vi nội dung nghiên cứu: Người cao tuổi khi tham gia trợ giúp cho
con cái trong gia đình thường được thể hiện dưới nhiều hình thức trực tiếp,
gián tiếp cũng như với những hoạt động khác nhau, vì thế, trong khuôn khổ
của luận văn thạc sĩ, chúng tôi chỉ giới hạn nghiên cứu một số hoạt động trợ
giúp thường xuyên và dành nhiều thời gian cho những hoạt động này ở họ
như: trông nom chăm sóc con cháu, nội trợ, giáo dục giá trị đạo đức lối
sống….
7. Giả thuyết nghiên cứu
15

Đại đa số NCT đều có nhận thức đúng về vai trò của mình và xuất phát từ
mong muốn giúp đỡ con cháu mà NCT tham gia trợ giúp con trong gia đình.
NCT trợ giúp con trong nhiều công việc chủ yếu là trông nom, chăm sóc
con cháu, nội trợ, giáo dục giá trị đạo đức lối sống.
Có nhiều nhân tố tác động đến sự trợ giúp con trong gia đình của người
cao tuổi. Nhưng nhân tố cơ bản quan trọng nhất ảnh hưởng quyết định đến sự
trợ giúp con của NCT là gia đình
8.Phƣơng pháp nghiên cứu
8.1 Phƣơng pháp luận

Nghiên cứu dựa trên nền tảng lý luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Áp dụng lý luận này vào đề tài nghiên cứu,
chúng tôi muốn tìm hiểu, giải thích sự tác động của xã hội tới nhận thức và
hành động trợ giúp con trong gia đình của người cao tuổi.
Chủ nghĩa Mac- Lênin nêu rõ, mọi sự vật hiện tượng đều có tác động
qua lại với nhau, chúng luôn biến đổi, vận động theo quy luật nhất định. ,
không có sự vật - hiện tượng nào tồn tại độc lập mà chúng có một sự liên kết
và ràng buộc lẫn nhau, cái này tác động hoặc chịu tác động của cái kia, ngoài
ra chúng còn chuyển hoá lẫn nhau. Do vậy, việc nghiên cứu các vấn đề xã hội
yêu cầu mỗi chúng ta phải xem xét các hiện tượng xã hội trong mối liên hệ
với các hiện tượng xã hội khác, phải xem xét các mặt, các yếu tố của nó một
cách toàn diện. Tuy nhiên, chúng ta không thể xem xét tất cả mọi mặt của sự
vật, hiện tượng mà chỉ xem xét những mối liên hệ quan trọng nói lên bản chất
sự vật, hiện tượng cần nghiên cứu.
Vận dùng nguyên lí này vào đề tài tác giả muốn tìm hiểu những hoạt
động trợ giúp đặc biệt là trợ giúp trực tiếp và gián tiếp, những nhân tố cơ bản
ảnh hưởng tới nhận thức và hành động trợ giúp con trong gia đình của người
16

cao tuổi. Chủ nghĩa Mac – Lê Nin là cơ sở lý luận chính trong đề tài nghiên
cứu này.
8.2 Phƣơng pháp thu thập thông tin.
8.2.1 Phƣơng pháp trƣng cầu ý kiến
Nghiên cứu được tiến hành trên cơ sở phiếu trưng cầu ý kiến đã được
xây dựng từ trước với số lượng là 200 người cao tuổi của hai phường, xã của
TP Thanh Hóa : Phường Tân Sơn và xã Đông Lĩnh. Trong đó, đã tính tới sự
cân bằng giới tính và cân bằng giữa phường và xã trực thuộc Thành phố
Thanh Hóa.
Nội dung của khảo sát bao gồm thông tin về vai trò trợ giúp con của
NCT, trợ giúp trực tiếp, trợ giúp gián tiếp, và một số thông tin cá nhân. Số

phiếu thu về được xử lý trên phần mềm SPSS 16.0.
Bảng 1.1 Cơ cấu mẫu khảo sát (Đơn vị:%)
STT
Tiêu chí
Số lƣợng
Tỷ lệ(%)
1
Giới tính
200
100
1.1
Nam
100
50
1.2
Nữ
100
50
(Nguồn: Kết quả xử lý phiếu điều tra)
Biểu 1.2: Tỷ lệ phân chia theo giới tính (Đơn vị:%)







(Nguồn: Kết quả xử lý từ phiếu điều tra)
50%
50%

nam
nữ
17

Biểu 1.3: Tỷ lệ phân chia theo trình độ học vấn (Đơn vị:%)
3,5
18
26,5
17
42
14
0
5
10
15
20
25
30
35
40
45
không biết
chữ
tiểu học trung học trung học
phổ thông
trung cấp
đào tạo
nghề
đại học -
cao đẳng

không biết chữ
tiểu học
trung học
trung học phổ thông
trung cấp đào tạo nghề
đại học - cao đẳng

(Nguồn: Kết quả xử lý từ phiếu điều tra)
Biểu 1.4: Tỷ lệ phân chia theo độ tuổi (Đơn vị:%)

51
40,5
8,5
0
10
20
30
40
50
60
từ 60 -70 từ 70 - 79 trên 80
từ 60 -70
từ 70 - 79
trên 80

(Nguồn: Kết quả xử lý từ phiếu điều tra)
8.2.2 Phƣơng pháp phỏng vấn sâu
Mục đích phỏng vấn sâu:Các mẫu phỏng vấn sâu được thiết kế để thu thập
thông tinh định tính thực hiện mục tiêu của đề tài: Vai trò của người cao tuổi
18


đối với hoạt động trợ giúp con và các nhân tổ tác động tới hoạt động trợ giúp
mà bảng hỏi chưa trả lời được.
Đối tượng phỏng vấn: Người cao tuổi và thành viên gia đình có người cao
tuổi.
Nội dung phỏng vấn: Liên quan đến vai trò của người cao tuổi và các nhân tố
tác động đến hoạt động trợ giúp con trong gia đình.
Số lượng phỏng vấn: 10 phỏng vấn sâu
8.2.3 Phƣơng pháp quan sát
Phương pháp quan sát được áp dụng trong suốt quá trình nghiên cứu, với
phương pháp này tác giả có thể nắm bắt được một số thông tin sơ bộ tại địa
bàn nghiên cứu.
Thông qua quá trình tri giác trực tiếp để thu thập thông tin cần thiết liên quan
đến đề tài, những hành động, biểu hiện bên ngoài của người cao tuổi, những
biểu hiện trong nhận thức cũng như thái độ của người cao tuổi đối với hoạt
động trợ giúp con trong gia đình.
8.2.4 Phƣơng pháp phân tích tài liệu
Phương pháp phân tích tài liệu được sử dụng nhằm bổ sung thông tin luận
văn. Các tài liệu liên quan đến nội dung nghiên cứu đã được thu thập và phân
tích bao gồm: tài liệu, sách báo, công trình nghiên cứu, các văn bản pháp luật,
chính sách của nhà nước… có nội dung liên quan tới đề tài nghiên cứu.
9.Khung lý thuyết
19


Nhận thức của người cao tuổi
đối với hoạt động trợ giúp
con trong gia đình
Các cơ quan,đoàn
thể, cộng đồng, hội

người cao tuổi
Chính sách,
pháp luật người
cao tuổi
Điều kiện KT – VH - XH
Trông
nom,
chăm sóc
con cháu
Giáo dục
Đặc điểm hộ gia đình
(Văn hóa, cơ cấu,
quy mô gia đình….)
Định
hướng lựa
chọn bạn
đời
Trợ giúp các
hoạt động trong
gia đình
Không trợ giúp
Định
hướng việc
làm
20

NỘI DUNG CHÍNH
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Những khái niệm công cụ
1.1.1. Khái niệm vai trò xã hội

Theo Robertsons vai trò là một tập hợp các chuẩn mực, hành vi, quyền
lợi và nghĩa vụ được gắn liền với một vị thế xã hội nhất định. Khái niệm vai
trò xã hội bắt nguồn từ khái niệm vai diễn trên sân khấu.Vai diễn trên sân
khấu đòi hỏi diễn viên phải nhập tâm, bắt chước và học tập đóng vai của
những nhân vật được đạo diễn phân đóng.Còn vai trò xã hội không có tính
chất tưởng tượng, bắt chước cứng nhắc và nhất thời. Những hành vi thực tế
của một người nhờ học hỏi được những kinh nghiệm, lối sống, tác phong từ
trước đó trong cuộc sống. Vai trò xã hội của một người có nghĩa là người đó
phải đảm nhận hay thể hiện đầy đủ các hành vi, nghĩa vụ, hệ thống chuẩn mực
trên cơ sở vị thế của người đó. Đồng thời họ cũng nhận được những quyền lợi
xã hội tương ứng với việc thực hiện vai trò của họ.Mỗi cá nhân có vô vàn vai
trò, có bao nhiêu mối quan hệ xã hội thì có bấy nhiêu vai trò xã hội.Vị thế và
vai trò của cá nhân trong xã hội bắt nguồn từ vị trí kinh tế, chính trị, xã hội
của họ, từ địa vị của các cá nhân thuộc các giai cấp và các nhóm xã hội khác
mà quy định nên. Mỗi cá nhân có nhiều vị thế và vai trò khác nhau ở gia đình,
ngoài xã hội…và tuỳ theo vai trò của mình mà cá nhân sẽ có cách ứng xử,
hành vi, tác phong, hành động tương ứng với vai trò mà cá nhân đảm trách. Vị
thế và vai trò luôn gắn bó mật thiết với nhau.Không thể nói tới vị thế mà
không nói tới vai trò và ngược lại.Vai trò và vị thế là hai mặt của một vấn đề.
Vị thế của cá nhân được xác định bằng việc trả lời cho câu hỏi: người đó là
ai? Và vai trò của các nhân được xác định bằng cách trả lời câu hỏi: người đó
phải làm gì? Vai trò phụ thuộc vào vị thế (vị thế nào vai trò ấy).Một vị thế có
thể có nhiều vai trò.Trong mối quan hệ giữa vị thế và vai trò thì vị thế thường
21

ổn định hơn, ít biến đổi hơn, còn vai trò thì biến động hơn.Thông thường thì
sự biến đổi của vai trò phụ thuộc vào sự biến đổi của vị thế.Vị thế biến đổi thì
vai trò cũng biến đổi. Bản chất của thuyết này thể hiện ở chỗ: Khi thực hiện
chức năng, hoạt động của mình, các cá nhân, nhóm xã hội đều phải tuân thủ,
đáp ứng những đòi hỏi mà xã hội đặt ra.

Trong nghiên cứu này, chúng tôi sử dụng khái niệm “vai trò” theo quan
niệm xã hội học nhằm tìm hiểu vai trò của người cao tuổi với tư cách là chuẩn
mực, hành vi có kinh nghiệm từ nhờ học hỏi được những kinh nghiệm, lối
sống, tác phong từ trước đó trong cuộc sống.
1.1.2. Khái niệm ngƣời cao tuổi
Pháp lệnh Người cao tuổi năm 2000, hiện đã được thay thế bằng Luật
Người cao tuổi (năm 2009) định nghĩa “người cao tuổi” là công dân nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam từ 60 tuổi trở lên. Còn theo luật hiện
hành, “người cao tuổi” là công dân Việt Nam từ đủ 60 tuổi trở lên.
Khi bàn đến khái niệm người cao tuổi, chúng ta vẫn thường nghĩ là
những người có độ tuổi cao, có thể gọi cách khác là người già, song không thể
đồng nhất khái niệm “người cao tuổi” với “người già”. Người cao tuổi chưa
chắc đã già, đã yếu bởi có những người hơn 60 tuổi nhưng “vẫn khỏe như
thanh niên”. Luật Người cao tuổi lấy mốc 60 tuổi nhằm giải quyết những vấn
đề an sinh xã hội, bảo vệ quyền lợi cho những người đã qua tuổi lao động mà
thôi. Xét ở khía cạnh sinh học thì người già là những người đang ở giai đoạn
lão hóa mạnh, khi cơ bắp, trí tuệ đã ở vào thời kỳ thấp nhất.Vì vậy, pháp luật
hình sự quy định người già là người từ 70 tuổi trở lên nhằm tăng mức bảo vệ
hoặc giảm nhẹ trách nhiệm nếu họ là chủ thể của tội phạm.
Trước cách mạng tháng 8 năm 1945, những người có độ tuổi này không
nhiều.Hiện nay, thế giới quy định người cao tuổi (NCT) là những người từ 60
22

tuổi trở lên.Trong ''Di chúc'' của Bác Hồ, cũng đã nhấn mạnh người cao tuổi
thọ 70 xưa nay hiếm (Nhân sinh thất thập cổ lai hy).
NCT không chỉ là những người có độ tuổi cao, mà cái quan trọng hơn
chính là sự từng trải, là kinh nghiệm sống của họ.Đây mới là mấu chốt của
vấn đề, của đối tượng. Vì vậy, bên cạnh vấn đề tuổi tác, khái niệm ''người cao
tuổi'' cần được bổ sung thêm, đó là sự từng trải, là kinh nghiệm…Nói một
cách khái quát hơn NCT là những người có tuổi cao và dồi dào kinh

nghiệm…
Người cao tuổi là một lực lượng chính trị, xã hội ngày càng đông đảo ở
nước ta, đã và đang có những đóng góp quan trọng vào việc thực hiện các
nhiệm vụ chính trị ở địa phương, là nguồn lực quý giá trong sức mạnh tổng
hợp của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, góp phần thúc đẩy sự nghiệp đổi mới
đất nước và giữ vững ổn định chính trị - xã hội, an ninh quốc gia.
1.1.3. Khái niệm gia đình
Gia đình là một tổ chức xã hội được hình thành từ lâu trong lịch sử. Gia
đình là cái mà ai cũng cảm nhận, nhìn thấy được
Một trong những nguyên nhân gây nên khó khăn trong việc định nghĩa gia
đình là do gia đình có vô số hình thái khác nhau. Dựa trên kết quả nghiên cứu
so sánh của mình, nhiêu nhà xã hội học cho rằng các hình thái của đời sống
gia đình ngay trong một xã hội hết sức đa dạng, muôn hình muôn vẻ đến mức
có lẽ không thể nói rằng có một khái niệm chung gọi là gia đình. Sự đa dạng
ấy khiến việc định nghĩa gia đình không khác gì “ trói voi bỏ rọ”, có rất nhiều
những quan điểm định nghĩa khác nhau về gia đình:
Gia đình bao gồm nhiều các thành viên thuộc các thế hệ khác nhau (ông
bà, bố mẹ, con cháu, ), họ sống trong cùng một nếp nhà, căn nhà và chia sẻ
với nhau những vấn đề sản xuất, kinh tế, sinh hoạt hàng ngày, lối sống văn
23

hóa, tín ngưỡng, tôn giáo, bị điều tiết bởi những chuẩn mực chung (giá trị,
điều cấm kỵ, tự do )
Gia đình có quan hệ với nhau theo những tôn ty và với những vai trò nhất
định: vợ chồng, cha mẹ và con cái, anh chị em, ông bà và cháu, …Trong đó,
có thể có những mối quan hệ: quan hệ huyết thống (cha con, mẹ con), quan hệ
về mặt pháp lý (cha mẹ và con nuôi), quan hệ tình cảm (các thành viên trong
gia đình) và quan hệ tình dục (vợ chồng), quan hệ hôn nhân (vợ chồng).
Theo G.P. Murdock: Gia đình là một nhóm xã hội được xác định bởi một
nơi trú ngụ chung, bởi sự hợp tác và tái sản xuất về kinh tế, gồm những người

trưởng thành, trong đó, có ít nhất hai người duy trì mối quan hệ tình dục được
xã hội công nhận, với một hoặc nhiều đứa trẻ là con đẻ hoặc con nuôi của
những người trưởng thành có quan hệ với nhau.
Theo E.W. Burgess Và H.J. Locker: Gia đình là một nhóm người liên
kết với nhau bởi những mối liên hệ hôn nhân, huyết thống và những mối quan
hệ con nuôi, tạo thành một hộ đơn giản, tác động lẫn nhau và giao tiếp với
nhau trong vai trò người chồng và người vợ, người mẹ và người cha, anh em
và chị em, tạo nên một nếp văn hóa chung.
Điều 8 luật hôn nhân gia đình 2000: Gia đình là tập hợp những người
gắn bó với nhau do quan hệ hôn nhân, huyết thống hoặc do quan hệ nuôi
dưỡng làm phát sinh các nghĩa vụ và quyền giữa họ với nhau theo quy định
của luật này.
Định nghĩa cụ thể về gia đình ở Việt Nam được sử dụng trong nghiên cứu
xã hội học gia đình: Gia đình là khái niệm được sử dụng để chỉ một nhóm xã
hội hình thành trên cơ sở các quan hệ hôn nhân và quan hệ huyết thống nảy
sinh từ quan hệ hôn nhân đó. Gia đình có thể hiểu như một đơn vị xã hội vi
mô, nó chịu sự chi phối của xã hội song có tính ổn định, độc lập tương đối.
Nó có quy luật phát triển riêng với tư cách là một thiết chế xã hội đặc thù.
24

Những thành viên gia đình được gắn bó với nhau về trách nhiệm và quyền lợi
kinh tế, văn hoá, tình cảm một cách hợp pháp, được nhà nước thừa nhận và
bảo vệ.
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, tác giả chọn gia đình là khách thể
nghiên cứu. Trong các gia đình này có người cao tuổi , đó chính là đối tượng
nghiên cứu của đề tài.
.1.4 Khái niệm trợ giúp
Khái niệm "trợ giúp" tồn tại từ khi xuất hiện xã hội loài người vả hoạt
động trợ giúp này có trước khi các ngành khoa học trợ giúp ra đời. Những
hiện tượng liên kết giữa con người với nhau. Trợ giúp có thê hiệu một cách

đơn giản, là một hoạt động (một công việc) giúp đỡ cho người đang có khó
khăn hoặc có nhu cầu giúp đỡ để họ thực hiện được điều họ mong muốn trong
cuộc sống. Trong xã hội hiện nay, có người trợ giúp chuyên nghiệp và trợ
giúp bán chuyên nghiệp. Người cao tuổi ở đây được hiểu là trợ giúp bán
chuyên nghiệp. Sự giúp đỡ của họ xuất phát từ mong muốn của bản thân, sự
chân thành, kinh nghiệm sống và họ có nhu cầu giúp đỡ con cháu trong gia
đình.
Có rất nhiều hoạt động trợ giúp khác nhau nhưng trong phạm vi nghiên
cứu của đề tài tác giả đề cập đến hoạt động trợ giúp con cái của người cao
tuổi như chăm sóc cháu giúp con, hoạt động giáo dục con, định hướng kinh tế,
nghề nghiệp và dựng vợ gả chồng cho các thành viên trong gia đình.
1.2 Các lý thuyết vận dụng trong nghiên cứu
1.2.1 Lý thuyết cấu trúc- chức năng
Về mặt thuật ngữ, chủ thuyết chức năng còn được gọi là thuyết chức
năng – cấu trúc hay thuyết cấu trúc – chức năng. Nguồn gốc lý luận của
thuyết cấu trúc – chức năng là: thứ nhất: truyền thống khoa học xã hội Pháp
coi trọng sự ổn định, trật tự của hệ thống với các bộ phận có quan hệ chức
25

năng – hữu cơ với chỉnh thể hệ thống. Thứ hai: truyền thống khoa học Anh
với thuyết tiến hóa, thuyết kinh tế, thuyết vị lợi, thuyết hữu cơ phát triển
mạnh. Từ hai truyền thống này đã nảy sinh những ý tưởng khoa học về xã hội
như là một thể hữu cơ đặc biệt với hệ thống gồm các thành phần có những
chức năng nhất định tạo thành cấu trúc ổn định.
Về phương pháp luận, thuyết chức năng hướng vào giải quyết vấn đề
bản chất của cấu trúc xã hội và hệ quả của cấu trúc xã hội. Đối với bất kỳ sự
kiện, hiện tượng xã hội nào, những người theo thuyết chức năng đều hướng
vào việc phân tích các thành phần cấu tạo nên cấu trúc, xem các thành phần
đó có mối liên hệ với nhau như thế nào và đặc biệt xem xét quan hệ của
chúng đối với nhu cầu chung của sự tồn tại và phát triển sự kiện, hiện tượng

đó. Đồng thời, đòi hỏi về phương pháp luận phải tìm hiểu cơ chế hoạt động
của từng thành phần để biết chúng có chức năng, tác dụng gì đối với sự tồn tại
một cách cân bằng ổn định của cấu trúc xã hội. Với tất cả những đặc điểm cơ
bản nêu trên, chủ thuyết này có thể gọi là thuyết cấu trúc – chức năng hay
thuyết chức năng – cấu trúc.
Lý thuyết chức năng cho rằng mỗi thành viên trong xã hội giữ một
chức năng nhất định do chính xã hội phân công dựa vào năng lực, trình độ của
người ấy.
Lý thuyết này lý giải về gia đình hoạt động như thế nào, gia đình liên
quan với xã hội bên ngoài và với các thành viên ra sao. Thuyết cấu trúc –
chức năng phân tích cơ cấu của một xã hội, những mối quan hệ giữa các hệ
thống khác nhau của nó. Họ coi xã hội tương tự như một cơ thể, bao gồm
nhiều cơ quan, nhiều bộ phận. Các cơ quan này cùng hoạt động với nhau để
cơ thể sống được. Các bộ phận khác phải thực hiện các chức năng đối với
nhau và với toàn cơ thể.
26

Gia đình được coi là đơn vị quan trọng và thực hiện những chức năng
cơ bản và then chốt với xã hội. Cơ cấu xã hội lại tạo ra bối cảnh chung về văn
hóa và tổ chức, bối cảnh này ảnh hưởng đến đời sống gia đình.
Có hai tác giả đại biểu cho thuyết này là G. Murdock và T. Parsons:
_ G. Murdock: ông cho rằng ở tất cả các xã hội, gia đình thực hiện 4
chức năng cơ bản đó là: tính dục, tái sinh sản, kinh tế và giáo dục.
_ T. Parsons: ông cho rằng sự chuyển biến của xã hội, xã hội bước sang
thời kỳ công nghiệp hiện đại thì gia đình cũng biến đổi theo. Gia đình không
còn thực hiện nhiều chức năng như trước nữa mà chuyển giao bớt cho các thể
chế khác (trường học, bệnh viện, nhà thờ…)
1.2.2 Lý thuyết xã hội hoá
Xã hội hóa là quá trình tiếp thu những tri thức, những tri thức, những
khuôn mẫu, những giá trị, những biểu trưng, tóm lại đó là “những cách suy

nghĩ, cảm giác và hành động riêng của các nhóm, của xã hội, của nền văn
minh mà một cá nhân phải sống trong đó.
Thứ hai: các yếu tố xã hội và văn hóa trở thành một bộ phận hợp thành của cơ
cấu nhân cách tâm lý.
Thứ ba là kết quả chủ yếu của nó xét về mặt xã hội học: đó là sự thích nghi
của cá nhân với môi trường xã hội. Một cá nhân được xã hội hóa là môt phần
của môi trường , thuộc vào gia đình , nhóm , xí nghiệp, tôn giáo, dân tộc mà
nó đứng trong đó.
Quá trình xã hội hóa thông qua các tác nhân chính thức và không chính thức.
Trong đó, các tác nhân chính thức bao gồm tác động qua lại của gia đình, bạn
hữu, các phương tiện truyền thông…Môi trường xã hội hóa chính là nơi tạo ra
nhân cách đồng thời nó cũng là con đường mở rộng các kinh nghiệm xã hội
của một cá nhân.

×