Tải bản đầy đủ (.pdf) (109 trang)

Câu phức định ngữ trong tiếng Việt và những hiện tượng tương ứng trong tiếng Trung Quốc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.9 MB, 109 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN





TRẦN THỊ NGỌC BÍCH



CÂU PHỨC ĐỊNH NGỮ TRONG TIẾNG VIỆT VÀ NHỮNG
HIỆN TƯỢNG TƯƠNG ỨNG TRONG TIẾNG TRUNG QUỐC



CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN NGÔN NGỮ
MÃ SỐ : 602201


LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC

Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS. Nguyễn Chí Hoà




HÀ NỘI – 2010

3


CÁC CHỮ VIẾT TẮT



C-V: Chủ - vị
CPĐN: Câu phức định ngữ
CPTPĐN: Câu phức thành phần định ngữ

ĐN: Định Ngữ
ĐTS: Đƣờng Trƣờng Sơn
H.C.M: Hồ Chí Minh
HT1: hình thức ngôn ngữ của văn bản gốc
HT2 : hình thức ngôn ngữ của văn bản dịch
ND : nội dung
KCCV: Kết cấu chủ vị
KCCVĐN: Kết cấu chủ vị định ngữ
KTNN1: kiến thức ngôn ngữ của văn bản gốc
KTNN2: kiến thức ngôn ngữ của văn bản dịch
QHT: Quan hệ từ
SĐD: Sách đã dẫn
TGCG : Thƣ gửi con gái
CSTS: Chiến sỹ trƣờng sơn
TTN: Trung tâm ngữ
VB : văn bản











4
MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 0
1. Lý do chọn đề tài: 7
2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn: 7
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài 7
4, Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của đề tài 8
5. Phƣơng pháp nghiên cứu và tƣ liệu nghiên cứu 10
6. Bố cục của luận văn 11
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN 12
1.1. Cơ sở lý luận 12
1.1.1. Khuynh hướng tiếp cận ngữ nghĩa - chức năng - cấu trúc 12
1.1.2 Quan hệ định ngữ 14
1.1.3 Khái niệm chung về “câu phức” 16
1.1.3.1 Những điểm khác biệt giữa “câu phức” và “câu ghép” với “câu đơn” 16
1.1.3.2 Khảo sát “câu phức” theo khuynh hướng mới 18
1.2. Tình hình nghiên cứu ―câu phức‖ và ―câu phức định ngữ‖ trong tiếng Việt 21
1.2.1 Thành phần câu phức được lấp đầy bằng các cụm từ. 21
1.2.2 Các quan điểm về “câu phức” trong tiếng Việt 22
1.2.3 Các quan điểm khác nhau về phân loại “câu phức” định ngữ 25
1.3 Tiểu kết chƣơng 1 32
CHƢƠNG 2: ĐẶC ĐIỂM CÂU PHỨC THÀNH PHẦN ĐỊNH NGỮ 33
TRONG TIẾNGVIỆT 33
2.1 Dẫn nhập 33
2. 2 Đặc điểm cấu trúc câu phức thành phần định ngữ trong tiếng Việt 33

2.2.1 Sự hình thành kết cấu chủ vị định ngữ trong CPTPĐN 33
2.2.2. Đặc điển của đơn vị trung tâm 35
2.2.3 Các quan hệ cú pháp và đặc điểm cú pháp 39
2.2.4 Chức năng của cụm danh từ trung tâm 44
2.2.5. Đặc trưng các phương tiện nối kết 46
2.2.6 Cụm động từ như là dạng rút ngắn của kết cấu chủ vị định ngữ 48

5
2.2.7. Các phương thức biểu thị ý nghĩa thời gian, địa điềm, lí do, phương thức
hành động. 49
2.2.8 Các kết cấu chủ vị định ngữ tự do 52
2.2.9 Đặc trưng ngữ điệu và cú pháp của những kết cấu chủ vị định ngữ bất định
(không hạn định) 53
2.3. Đặc trƣng ngữ nghĩa 56
2.3.1. Đặc trưng ngữ nghĩa của danh từ trung tâm 56
2.3.2. Kết cấu chủ vị ĐN được sử dụng để truyền đạt khung sở chỉ cơ bản cho
trung tâm 62
2.4 Tiểu kết chƣơng 2 62
CHƢƠNG 3: ĐỐI CHIẾU “CÂU PHỨC ” ĐỊNH NGỮ TRONG TIẾNG
VIỆT VÀ ĐƠN VỊ TƢƠNG ỨNG TRONG TIẾNG HÁN 64
3.1 Đăc điểm của thành phần định ngữ và câu phức thành phần định ngữ trong
tiếng Hán 64
3.1.1 Định ngữ trong tiếng Hán 64
3.1.2 Các kiểu định ngữ trong tiếng Hán 64
3.1.2.1 Định ngữ hạn định 64
3.1.2.2 §Þnh ng÷ miªu t¶ 66
3.1.3 Định ngữ nhiều tầng 67
3.1.3.1 Định ngữ nhiều tầng quan hệ bình đẳng 68
3.1.3.2 §Þnh ng÷ nhiÒu tÇng quan hÖ t¨ng tiÕn. 70
3.1.4 Định ngữ và trợ từ kết cấu


. 75
3.1.4.1Trợ từ “

” trong các kết cấu câu. 75
3.1.4.2 Các thành phần làm định ngữ trong tiếng Hán. 78
3.1.5 Câu phức “định ngữ” trong tiếng Hán 82
3.2 Đối chiếu câu phức định ngữ trong tiếng Việt và đơn vị tƣơng ứng
trong tiếng Hán 86
3.2.1. Sự giống nhau giữa câu phức định ngữ trong tiếng Việt và đơn vị tương
đương trong tiếng Hán 86
3.2.1.1 Mệnh đề định ngữ giống nhau 88
3.2.1.2 Danh từ trung tâm 91

6
3.2.2 Sự khác nhau giữa câu phức định ngữ và đơn vị tƣơng đƣơng
trong tiếng Hán 92
3.2.2.1 Sự khác nhau về cấu trúc mệnh đề định ngữ. 92
3.2.2 So sánh cách dùng “ mà” và “

”. 96
3.3 Áp dụng những kết quả nghiên cứu vào thực tế giảng dạy và dịch thuật 98
3.3.1. Một số kiến nghị về việc dạy CPĐN 98
3.3.2 Một số kiến nghị về việc dịch CPĐN 100
3.4 Tiểu kết chƣơng 3 101
KẾT LUẬN 103
TÀI LIỆU THAM KHẢO 107




7
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Việt Nam và Trung Quốc là hai nƣớc láng giềng có quan hệ truyền thống
về kinh tế và văn hóa từ lâu đời. Trong xu thế hội nhập, toàn cầu hóa nhƣ hiện
nay, sự hợp tác toàn diện đó đƣợc nâng lên một tầm cao mới. Chính vì vậy, việc
học tập tiếng Việt đối với ngƣời Trung Quốc và việc học tiếng Hán đối với ngƣời
Việt là một nhu cầu cấp thiết trong quá trình trao đổi và hiểu biết lẫn nhau.
Nhƣ chúng ta đã biết, tiếng Việt và tiếng Hán là hai ngôn ngữ điển hình về
loại hình đơn lập. Cả hai ngôn ngữ đều dùng trật tự từ làm phƣơng thức cơ bản
để biểu hiện quan hệ ngữ pháp giữa các từ hoặc cụm từ. Tiếng Hán là thứ tiếng
có nhiều ngƣời nói nhất thế giới. Tiếng Hán có ảnh hƣởng lâu đời, sâu sắc trong
văn hóa Việt Nam nói chung, trong tiếng Việt nói riêng. Hiện nay, càng ngày
càng có nhiều ngƣời Việt Nam học tiếng Hán và ngƣời Trung Quốc học tiếng
Việt. Một trong những khó khăn của ngƣời Trung Quốc khi học tiếng Việt và
ngƣời Việt khi học tiếng Hán là việc sử dụng ―câu phức‖ có thành phần định
ngữ là có một kết cấu chủ vị (C-V). Việc nghiên cứu đối sánh loại câu này là một
đòi hỏi cấp thiết cả về phƣơng diện thực tiễn lẫn lý luận.
2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn:
Đối tượng nghiên cứu:
Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn là loại ―câu phức‖ có thành phần định
ngữ là một kết cấu chủ vị (C-V), loại câu mà tác giả Hoàng Trọng Phiến (1980)
xếp vào ―câu trung gian‖ hay ―câu đơn phức tạp hoá‖; còn Diệp Quang Ban xếp
vào loại ―câu phức thành phần‖ định ngữ hay là ―câu phức có yếu tố phụ của
danh từ là câu bị bao‖
Giới hạn nghiên cứu:
Chúng tôi nghiên cứu tất cả các loại câu có kết cấu chủ vị làm định ngữ
cho một danh từ trung tâm nhƣng tập trung chủ yếu vào việc nghiên cứu loại đơn
vị mà danh từ trung tâm làm chủ ngữ và bổ ngữ trong câu chính.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài

Mục đích
Thông qua nghiên cứu ― Câu phức định ngữ trong tiếng Việt và những
hiện tƣơng tƣơng ứng trong tiếng Trung Quốc‖ luận văn góp phần soi sáng lý

8
thuyết về câu trong ngôn ngữ học đại cƣơng nói chung, trong tiếng Hán và tiếng
Việt nói riêng.
Hơn nữa, chúng tôi chọn đề tài này cho luận văn cao học với hi vọng khảo
sát nghiên cứu, đối chiếu một cách khái quát và có hệ thống, lí giải mô hình hoá
các kiểu cấu trúc cú pháp CPĐN với cách tiếp cận mới để giúp cho việc dạy và
học dịch có hiệu quả hơn.
Khảo sát tổ chức ngữ nghĩa- cú pháp ―câu phức‖ định ngữ tiếng Việt và
các dấu hiệu khu biệt về chức năng tải nghĩa và hình thức của chúng, mô hình
hoá CPĐN thành các kiểu cụ thể.
Làm sáng tỏ sự giống và khác nhau trong việc sử dụng các phƣơng tiện
ngôn ngữ ở hai thứ tiếng Việt- Hán, các phƣơng thức thể hiện cùng một ý nghĩa
định ngữ và sự khác biệt về chức năng của yếu tố cùng loại thuộc cấu trúc ngôn
ngữ.
Khắc phục những vấn đề có liên quan đến dịch thuật, khắc phục đƣợc các
lỗi không mong muốn, giúp mang lại một cơ sơ ngôn ngữ học đáng tin cậy, đƣa
ra một hệ thống mô hình đối chiếu CPĐN Việt – Hán.
Góp một phần ngữ liệu trong nghiên cứu loại hình, làm sáng tỏ các đặc
điểm phổ quát, đồng thời giúp xác định rõ hơn những đặc điểm riêng của mỗi thứ
tiếng.
Nhiệm vụ
Luận văn góp phần hệ thống hóa lí luận về câu có định ngữ trong tiếng
Việt và sự tƣơng ứng của nó trong tiếng Hán. Chỉ ra những đặc điểm của câu
phức định ngữ trong tiếng Việt và câu phức định ngữ trong tiếng Hán. Chỉ ra sự
khác nhau của loại câu này trong tiếng Việt và tiếng Hán
Ngoài ra, luận văn còn khắc phục những vấn đề có liên quan đến dịch

thuật, khắc lục các lỗi không mong muốn, đƣa ra một hệ thống mô hình đối chiếu
CPĐN Viêt- Hán

4, Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của đề tài
Ý nghĩa lí luận
Nhƣ chúng ta biết, việc nghiên cứu cú pháp và các kiều cấu trúc câu có ý
nghĩa cả về mặt lý luận và thực tiễn.
Về lý luận, đề tài nhằm:

9
1. Góp phần làm rõ hơn một số vấn đề về việc phân loại ―câu phức‖, về thành
phần câu, về các chức năng của những yếu tố đƣợc gọi là phƣơng thức ngữ pháp
của tiếng Việt nhƣ trật tự từ, hƣ từ và ngữ điệu.
2. Trên cơ sở phân tích ngữ liệu tiếng Việt và tiếng Hán luận văn đóng góp
vào việc lý giải những nét vị đồng trong tổ chức ngữ pháp câu phức định ngữ
tiếng Việt và tiếng Hán. Đây là kiểu câu đƣợc dùng phổ biến nhƣng chƣa đƣợc
khảo sát.
- Đề tài này cũng nhằm xây dựng một mô hình chuyển dịch tƣơng đƣơng
CPĐN Việt – Hán theo quan điểm ngữ nghĩa, cấu trúc và chức năng giao tiếp
nhằm giúp nâng cao hiệu quả việc dạy tiếng và dịch thuật.
Một trong những yêu cầu của bộ môn dịch thực hành là phải nắm vững hệ
thống câu của cả hai ngôn ngữ liên quan, đặc biệt là, hệ thống CPĐN vốn luôn
gây không ít khó khăn cho ngƣời dạy và ngƣời học về mặt lí giải cũng nhƣ ứng
dụng.
Ý nghĩa thực tiễn
Đặc biệt là trong thực tiễn giảng dạy cho ngƣời bản ngữ và phi bản ngữ. Nó
giúp ngƣời học nhận diện đƣợc cấu trúc cú pháp, và gắn với cấu trúc cú pháp là
nội dung diễn đạt trong câu cụ thể, xác định đƣợc một cách có ý thức về:
+ Nguyên nhân đúng, sai trong câu và cách thức sửa câu sai thành đúng.
+ Cách chuyển đổi từ kiểu câu này sang kiểu câu khác sao cho phù hợp với

mục đích giao tiếp.
+ Hệ thống các câu đồng dạng về mặt cấu trúc để diễn tả một nội dung ngữ
nghĩa nào đó.
+ Mối quan hệ có tính quy luật giữa những ý nghĩa cần diễn đạt với những
hình thức câu có khả năng diễn đạt nó.
Nhƣ vậy, việc dạy cú pháp là không thể thiếu trong quá trình dạy tiếng
nƣớc ngoài. Đây là một quá trình có ý thức nhằm nâng cao năng lực ngôn ngữ
cho ngƣời học và hoàn thiện kỹ năng thể hiện năng lực ấy của mỗi ngƣời. Ngƣời
học cần phải biết tại sao lại mắc phải lỗi này hay lỗi khác và cách khắc phục
chúng. Làm sáng tỏ đƣợc nguyên nhân của các lỗi mắc phải, đồng thời phòng
ngừa chúng nhờ việc so sánh có hệ thống các ngôn ngữ không phải là cái gì khác
ngoài việc thực hiện nguyên tắc có ý thức trong việc dạy - học. Việc đối sánh các
ngôn ngữ cũng là một phƣơng thức để nắm vững ngôn ngữ, là sự đảm bảo có
đƣợc những tri thức sâu rộng và vững chắc khi học ngoại ngữ và bản ngữ.

10
Khi xem xét các phƣơng diện đối chiếu không thể không nói tới các vấn đề
dịch thuật. Dịch thuật ở đây đƣợc hiểu không chỉ nhƣ là một bộ môn chuyên
ngành độc lập, mà còn nhƣ là một trong những phƣơng thức dạy tiếng nƣớc
ngoài. Dịch thuật còn đƣợc sử dụng để chứng minh tính đa dạng về chức năng và
ngữ nghĩa của các yếu tố trong các ngôn ngữ khác nhau, phát hiện sự trùng lặp,
đồng nhất, tƣơng đƣơng và khác biệt giữa các thứ tiếng với nhau. Khảo sát,
nghiên cứu hệ thống ―câu phức‖ định ngữ (CPĐN) theo cấu trúc ngữ nghĩa – cú
pháp, nghĩa là, gắn câu với chức năng thông báo (giao tiếp) của nó, từ đó phát
hiện ra những mối quan hệ hữu cơ giữa hình thức (cái biểu đạt) và nội dung (cái
đƣợc biểu đạt) trong CPĐN với quan hệ định ngữ trong tiếng Việt cũng nhƣ các
cấu trúc thể hiện tƣơng ứng trong tiếng Hán, đồng thời xác định đƣợc những
điểm giống và khác nhau của các hình thức này giữa hai thứ tiếng là mục đích
của luận này.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu và tƣ liệu nghiên cứu

Phương pháp nghiên cứu
Luận văn này đi theo hƣớng miêu tả, nghĩa là tiến hành điều tra, thống kê
và phân loại các kiểu ―câu phức‖ định ngữ trong tiếng Việt rồi tìm ra đặc trƣng
cấu trúc và ngữ nghĩa của từng tiểu loại.
Trong nghiên cứu ngôn ngữ học hiện đại, các nhà ngôn ngữ đã cho rằng
con đƣờng tiếp cận bản chất của cú pháp hay là con đƣờng dõi theo cú pháp từ
gốc đến ngọn tức là con đƣờng hiện thực – tƣ duy - ngữ nghĩa. Con đƣờng này
chính là con đƣờng ngữ nghĩa – cú pháp có quy chiếu vào hiện thực, lấy ngữ
nghĩa làm điểm xuất phát, vừa làm điểm quy chiếu để lý giải quá trình cú pháp
cũng nhƣ phân tích các hiện tƣợng cú pháp. Khảo sát mặt cấu tạo và mặt chức
năng của câu phức định ngữ là cách tiếp cận của luận văn này .
Tuân thủ theo phƣơng pháp nêu trên, luận văn này sẽ vận dụng lý thuyết
thành phần câu sử dụng các đơn vị chức năng kết hợp với cách tiếp cận ngữ
nghĩa- cấu trúc để phân tích, khảo sát hệ thống CPĐN tiếng Việt. Với mục đích
nghiên cứu đã đề ra, chúng tôi chọn con đƣờng đối chiếu bằng cách lập một hệ
thống các thủ pháp, lấy tiếng Việt làm ngôn ngữ đối chiếu, tiếng Hán làm ngôn
ngữ đƣợc đối chiếu.
―Các ngôn ngữ khác nhau không phải ở chỗ ngôn ngữ nào có thể diễn đạt
đƣợc những ý nghĩa gì. Vì bất kì ngôn ngữ nào cũng có thể diễn đạt bất kì ý
nghĩa gì đƣợc các ngôn ngữ khác diễn đạt. Các ngôn ngữ khác nhau ở chỗ có

11
những ngôn ngữ bị bắt buộc phải diễn đạt những ý nghĩa mà các ngôn ngữ khác
có thể không diễn đạt khi khi không cần thiết‖ (Trích theo [23,380])
Ngữ nghĩa còn có quan hệ chặt chẽ với các yếu tố khác nhƣ:
- Đặc điểm loại hình
- Chuẩn ngôn ngữ
- Chuẩn về văn hoá lời nói
Vì vậy, chúng tôi sẽ dùng các thao tác cải biến cấu trúc, có nghĩa là tác
động vào một cấu trúc này để biến đổi thành một cấu trúc khác và lí giải chúng

trong quá trình so sánh - đối chiếu.
Vấn đề ngữ liệu dẫn chứng để tiến hành so sánh đối chiếu, chúng tôi sử
dụng các ngữ liệu đƣợc trích dẫn từ các văn bản gốc và văn bản dịch tiếng Việt
cũng nhƣ tiếng Hán đã đƣợc xuất bản. Điều này giúp đảm bảo đƣợc tính khoa
học và khách quan về đối tƣợng đang đƣợc nghiên cứu nó đƣợc thừa nhận và đƣa
vào sử dụng. Tuy nhiên, vì các dịch giả trong nhiều trƣờng hợp không dịch trên
cơ sở ngôn ngữ học mà trên cơ sở cảm thụ văn học, nên văn bản dịch, tất nhiên,
đôi lúc cũng không tránh khỏi những khuyết điểm và thiếu chính xác. Với đối
tƣợng so sánh đối chiếu của luận văn này là quan hệ định ngữ trong CPĐN tiếng
Việt và các phƣơng thức biểu hiện tƣơng ứng trong tiếng Hán, chúng tôi cố gắng
sử dụng có lựa chọn các ví dụ dẫn chứng CPĐN, quan hệ định ngữ giữa hai thành
phần của chúng vẫn đƣợc đảm bảo. Còn những yếu tố khác liên quan đến từ
vựng, ngữ nghĩa, ngữ pháp không đƣợc chuyển dịch tƣơng ứng từ văn bản gốc
sang văn bản dịch thì không thuộc về phạm vi khảo sát của luận văn.
Tư liệu và xử lí tư liệu
Luận văn tiến hành so sánh đối chiếu CPĐN Việt- Hán đƣợc trích dẫn
ngẫu nhiên từ các đoạn trích trong tác phẩm: Tuyển tập truyện ngắn Lỗ Tấn
(Trƣơng Chính dịch- Nhà XB văn học).
Ngoài ra, chúng tôi còn dùng những tƣ liệu tiếng Việt trích ra từ những tác
phẩm văn học, khoa học và báo chí .
6. Bố cục của luận văn
Luận văn ngoài mở đầu, kết luận, mục lục và tài liệu tham khảo gồm ba chƣơng:
Chƣơng thứ nhất : Cơ sở lý luận và tình hình nghiên cứu đề tài
Chƣơng thứ hai : Đặc trƣng ―câu phức‖ thành phần định ngữ trong tiếng Việt
Chƣơng thứ ba : Đối chiếu ―câu phức‖ định ngữ trong tiếng Việt và đơn vị
tƣơng ứng trong tiếng Hán.

12
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN

1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Khuynh hướng tiếp cận ngữ nghĩa - chức năng - cấu trúc
E. Benveniste cho rằng ngữ nghĩa là điều kiện cơ bản mà bất kỳ một đơn vị
ngôn ngữ nào cũng đều phải thoả mãn để có đƣợc địa vị ngôn ngữ học. Đây là
một thuật ngữ ngôn ngữ học (và có thể nói không chỉ của ngôn ngữ học) thƣờng
đƣợc dùng nhƣ một khái niệm khởi nguyên, đƣợc mọi ngƣời thừa nhận mà không
cần phải định nghĩa. Ngƣời ta có thể dùng một từ khác để thay thế cho từ ―ngữ
nghĩa‖ đã đƣợc biết nhƣ kiểu: nói một cách khác ―ngữ nghĩa‖ là nội dung, cái
đƣợc biểu đạt để đối lập với hình thức, cái biểu đạt. Ngữ nghĩa của câu đƣợc giải
thích không chỉ dựa vào cấu trúc chìm, mà nó còn dựa vào cấu trúc nổi nữa. Điều
này buộc các nhà ngôn ngữ học phải quan tâm nghiêm túc đến các quan hệ giữa
ngữ nghĩa và cú pháp.
Cấu trúc ngữ nghĩa có tính chất quyết định trong việc lựa chọn, xác định
cấu trúc cú pháp, và cấu trúc cú pháp, đến lƣợt mình, giúp nhận diện đƣợc cấu
trúc ngữ nghĩa của câu (góp phần về mặt giáo học pháp trong dạy tiếng nƣớc
ngoài).
Sự tồn tại của hiện tƣợng đồng ngữ nghĩa và dị cấu trúc, với quan điểm
ngữ nghĩa là thành tố quan trọng của ngôn ngữ, L.chafe cho rằng: ―Nếu quan sát
ngôn ngữ theo quan điểm ngữ nghĩa thì tính chất quy định lẫn nhau của các câu
có thể có một vai trò quan trọng hơn ở những bình diện khác của ngôn ngữ, vì
hàng loạt những giới hạn trong phạm vi câu đều mang đặc tính ngữ nghĩa rõ
ràng‖ [38,123]. Ngữ nghĩa của một câu là một cấu trúc có nhiều tầng, đƣợc xác
định bởi nhiều yếu tố, phụ thuộc vào kết quả cú pháp của câu. Hay nói một cách
khác, nghĩa của câu đƣợc xác định còn nhờ vào sự phân tích vị trí chức năng của
các đơn vị tạo thành sơ đồ cấu trúc câu.
Theo Chomsky, việc thể hiện ngữ nghĩa thuộc vể các tín hiệu qua trung
gian của các quy tắc cú pháp, mà chức năng của các quy tắc đó là xác định một
hệ thống quan hệ ngữ pháp quy định sự thể hiện ngữ nghĩa. Nhƣ vậy, phạm vi
của cú pháp là những mối quan hệ cú đoạn giữa các từ và nhóm từ đƣợc biểu
hiện bằng những phƣơng tiện cú pháp, hình thái và ngữ âm khác nhau, hay nói

một cách khác, vấn đề cấu trúc cú pháp của câu là vấn đề trung tâm của cú pháp,
đƣợc hiểu là một tập hợp có trật tự các mối liên hệ cú pháp theo một cách thức

13
nhất định. Điểm khác biệt chủ yếu của các lý thuyết vể cấu trúc cú pháp của câu
là các đơn vị cú pháp mà chúng đƣợc sử dụng và những mối liên hệ giữa các đơn
vị đó.
Theo cách tiếp cận của lý thuyết thành phần câu thì trong tổ chức của câu,
bất kỳ ngôn ngữ nào- một hệ thống biểu đạt thông báo ngữ nghĩa- từ sẽ đảm nhận
một chức năng nhất định và có một ý nghĩa nhất định, nhƣ V.S.Solsev đánh giá:
― Nếu nhƣ thuật ngữ thành phần câu đƣợc hiểu nhƣ một chức năng nào đó do từ
thực hiện trong câu, nhờ đó mà từ có đƣợc nghĩa chức năng hoặc nghĩa thông báo
nhất định, thuật ngữ đó cũng có thể là thƣớc đo thông ƣớc các ngôn ngữ khác hệ
thống‖ [37,56 ]
Chức năng có thể đƣợc hiểu theo hai cách:
- Vai trò mà mỗi đơn vị phải đảm nhận để ngôn ngữ có thể thực hiện đƣợc
sứ mệnh ― phƣơng tiện tƣ duy‖ ― phƣơng tiện giao tiếp‖ của mình. Đó có thể là
các chức năng ― khu biệt ý nghĩa‖ chức năng ― mang ý nghĩa từ vựng, mang ý
nghĩa ngữ pháp‖, chức năng ― mang thông báo‖…
- Vai trò mà mỗi loại đơn vị phải đảm nhận trong việc tổ chức thành những
đơn vị bậc cao hơn. Đó có thể là các chức năng ― có thể vận dụng độc lập‖, chức
năng ― có thể làm thành phần câu‖…
Cách tiếp cận chức năng đối với việc nhìn nhận các hiện tƣợng ngữ pháp
cho phép làm sáng tỏ các phạm trù chức năng- ngữ nghĩa, dung lƣợng của chúng,
hình dạng, các nhân tố hạt nhân và ngoại biên trong nội bộ của mỗi phạm trù, vai
trò và gánh nặng ngữ nghĩa của mỗi nhân tố trong cấu trúc của phát ngôn,
phƣơng tiện thể hiện của chúng trong những điều kiện nhất định trong quá trình
giao tiếp. Cách tiếp cận chức năng trong việc nghiên cứu các hiện tƣợng ngữ
pháp của ngôn ngữ có ý nghĩa quan trọng trên phƣơng diện lý thuyết khi nghiên
cứu và xây dựng ngữ pháp chức năng.

Có thể khẳng định chính ngữ nghĩa tạo ra quan hệ mô hình cú pháp. Và
chức năng của quan hệ cú pháp không có gì khác hơn là biểu đạt ngữ nghĩa. Hay
nói một cách khác thì mọi quan hệ trong hệ thống cú pháp đều có nguồn gốc
hoặc trực tiếp, hoặc gián tiếp từ ngữ nghĩa. Bởi vì, để xây dựng câu, điều đầu tiên
ngƣời ta phải quan tâm không phải là tìm những từ có nghĩa cụ thể nhƣ ―nhân
dân‖ ― học sinh‖….cái chính là ngƣời nói muốn nói gì? chức năng của mỗi từ
trong câu là gi? Rồi mới đến kết luận, câu sẽ đƣợc xây dựng theo mô hình nào.

14
Nhƣ vậy, chức năng của từ quy định vị trí của nó trong cấu trúc. Ví dụ, hai
câu : ―Lƣu học sinh gặp phóng viên‖ và ―phóng viên gặp lƣu học sinh‖ với cùng
một thành phần từ vựng nhƣ nhau, chức năng chủ ngữ câu (1) làm cho từ ―lƣu
học sinh‖ mang giá trị cụ thể, chức năng bổ ngữ trong câu (2) đem lại cho nó giá
trị khác. Cũng vậy, đối với từ ―phóng viên‖ ta thấy giá trị ngƣợc lại, vậy ngữ
nghĩa đây là ngữ nghĩa chức năng.
Cách tiếp cận ngữ nghĩa- chức năng- cấu trúc giúp chúng ta có cái nhìn
toàn cảnh về hệ thống các đơn vị ngôn ngữ nói chung, và hệ thống ―câu phức‖
nói riêng.
Dĩ nhiên cách tiếp cận nhƣ vậy, không những không cản trở mà còn tạo
tiền đề cho việc nhìn nhận các đơn vị cú pháp từ một quan điểm khác quan điểm
ngữ dụng-giao tiếp.Quan điểm ngữ dụng-giao tiếp đối với cú pháp đòi hỏi đƣợc
nghiên cứu chuyên biệt, nó không thuộc phạm vi của công trình này.
1.1.2 Quan hệ định ngữ
Ngôn ngữ học đại cƣơng đã định vị quan hệ định ngữ nhƣ một trong các
kiểu quan hệ cú pháp. Đó là:
- Tổng thể các phạm trù nội dung đƣợc thể hiện bằng phƣơng tiện này hay
phƣơng tiện khác nhau trong ngôn ngữ. Ví dụ, trong tất cả các ngôn ngữ đều có
sự thể hiện các quan hệ giữa chủ thể và vị thể, các phạm trù sở hữu, đánh giá, xác
định/ không xác định, tất cả các ngôn ngữ đều có sự phân chia đề và thuyết.
- Các thuộc tính chung của bản chất cấu trúc ngôn ngữ có liên quan đến

mọi cấp độ ngôn ngữ. Ví dụ, trong bất kỳ ngôn ngữ nào cũng có thể tồn tại ít hơn
10 và nhiều hơn 80 âm vị.
Vì vậy, các đặc điểm ngữ nghĩa vốn hiện hữu ở mọi ngôn ngữ khác nhau,
các phạm trù ngữ pháp không khi nào gây sự khác biệt cơ bản giữa các ngôn ngữ
về nội dung của các tƣ tƣởng phản ánh thực tế khách quan, và quan hệ định ngữ
cũng không thể nằm ngoài quy luật chung này: chúng tồn tại ở mọi ngôn ngữ,
dƣới hình thức này hay hình thức khác. Việc khẳng định đƣợc sự hiện diện của
chúng trong cả hai ngôn ngữ Hán và Việt chính là tiền đề để chúng tôi có thể so
sánh đối chiếu những hình thức biểu đạt chúng.
* Quan hệ định ngữ trong tiếng Việt
Trong tiếng Việt, quan hệ định ngữ là một trong những quan hệ bên trong
sự khu biệt với các quan hệ bên ngoài. Định ngữ mở rộng cho danh từ đƣợc các
nhà nghiên cứu tiếng Việt xem xét nhƣ là một yếu tố trong quan hệ nội bộ của

15
cụm danh từ, có chức năng hạn định phạm vi khái quát danh từ, nêu dấu hiệu đặc
trƣng của ngƣời, vật, hiện tƣợng… mà danh từ thể hiện. Đặc điểm nổi bật của
định ngữ là không thể thay đổi vị trí với danh từ chính.Theo phƣơng thức thể
hiện có thể chia định ngữ thành hai loại:
- Loại không có quan hệ từ (QHT) nghĩa là không có QHT đi kèm, Ví dụ :
canh cá, nƣớc cháo….
- Loại có QHT, Ví dụ: tình yêu của cha, sự thất vọng vì bệnh tật,…
- Loại có/không có QHT( nghĩa là có hoặc không có QHT) Ví dụ: giày
(bằng) da, tình yêu (của) mẹ…
Sự hiện diện hoặc vắng mặt của QHT trong cụm từ phụ thuộc vào cấu trúc
của nó (số lƣợng và vị trí của định ngữ, độ dài ngắn của các thành phần mở rộng
và đƣợc mở rộng).
Trong tiếng Việt, định ngữ cũng có những phƣơng tiện thể hiện phong phú
nhƣ trong tiếng Hán, tất cả các loại thực từ (cụm thực từ) đều có khả năng làm
định ngữ cho các danh từ, xác định rõ đặc điểm, tính chất của ngƣời, sự vật, sự

kiện,… và trả lời cho câu hỏi nào? (hoặc gì?). Ngoài ra, cũng nhƣ trong tiếng
Hán, quan hệ định ngữ trong tiếng Việt cũng có thể đƣợc biểu hiện bằng cụm từ
C-V. Chính cụm mày làm thành đối tƣợng khảo sát của luận văn này.
Với quan hệ định ngữ đƣợc biểu hiện bằng cụm C – V trong tiếng Việt, có
các quan điểm khác nhau:
- Các tác giả của giáo trình ―Ngữ pháp tiếng Việt‖ [6] và một số nhà Việt
ngữ khác phân tích quan hệ định ngữ ở cấp độ cụm danh từ với thành tố phụ C –
V trong câu đơn. Quan điểm này hiện nay vẫn đƣợc coi là chiếm ƣu thế trong lý
luận cũng nhƣ trong thực hành của ngành Việt ngữ học.
- Tác giả Hoàng Trọng Phiến phân tích quan hệ định ngữ thuộc từ theo
cách mở rộng thành phần bằng kết cấu C – V; và gọi loại câu này là câu trung
gian.
- Trong tiếng Việt, định ngữ là cụm C –V và có thể hoặc ghép liền với
danh từ. Điều này phụ thuộc vào một loạt các quy tắc có liên quan đến vấn đề
ngữ nghĩa - ngữ pháp và cả thói quen sử dụng.
Qua những điều trình bày ở trên, có thể thấy:.
Đa số các tác giả xem xét thành phần định ngữ (C- V) trong khuôn khổ cụm
danh ngữ, thuộc trong cấu trúc thành phần câu. Chúng tham gia mở rộng cấu trúc
câu với các chức năng và quan hệ khác nhau.

16
* Các phương tiện nối – các từ quan hệ
Phƣơng thức cú pháp chủ yếu liên kết các bộ phận vị tính của CPĐN và
thể hiện mối quan hệ cú pháp giữa chúng là các yếu tố liên kết chuyên biệt. Đó là
các kết từ, từ quan hệ, ngữ điệu. Chỉnh thể cấu trúc - ngữ nghĩa của CPĐN còn
đƣợc xác định bởi hàng loạt các yếu tố khác nhƣ: phƣơng tiện từ vựng, sự có mặt
đầy đủ các thành phần, sự trùng hợp về tổ chức các bộ phận, trật tự phân bố
chúng
1.1.3 Khái niệm chung về “câu phức”
Câu nói chung và ―câu phức‖ nói riêng là đối tƣợng trọng tâm của cú pháp

học, là một phạm trù phức tạp và đòi hỏi phải đƣợc nghiên cứu trên nhiều bình
diện. Hiện nay tồn tại những quan điểm, khuynh hƣớng, phƣơng pháp nghiên cứu
khác nhau. Luận văn này tham khảo có chọn lọc những thành quả nghiên cứu về
―câu phức‖ của nhiều tác giả mà không phụ thuộc triệt để vào một quan điểm cụ
thể nào.
―Câu phức‖ trong tiếng Việt trải qua một chặng đƣờng dài phát triển.
Trong lịch sử nghiên cứu cú pháp tiếng Việt, thuật ngữ ―câu phức‖ đã đƣợc hiểu
theo những cách khác nhau hoặc đƣợc thay thế bằng thuật ngữ khác. Việc nghiên
cứu ―câu phức‖ trong ngành ngôn ngữ học ở Việt Nam cũng nhƣ ở các nƣớc
khác theo khuynh hƣớng của ngữ pháp phổ quát gắn với các phạm trù, các phán
đoán logic.
1.1.3.1 Những điểm khác biệt giữa “câu phức” và “câu ghép” với “câu đơn”
―Câu phức‖ – đó là một cấu trúc cú pháp có liên hệ chặt chẽ với câu đơn,
nhƣng khác biệt với câu đơn cả về cấu tạo cũng nhƣ về tính chất thông báo. Vì
vậy, khi định nghĩa ―câu phức‖, cần phải làm sáng tỏ đƣợc các đặc điểm khiến nó
khác biệt với câu đơn.
(+) Điểm khác biệt về ngữ nghĩa
Trên phƣơng diện ngữ nghĩa, ―câu phức‖ khác biệt với câu đơn ở chỗ nó
truyền đạt những kiểu quan hệ khác nhau giữa các bộ phận vị tính. Ý nghĩa ngữ
pháp của ―câu phức‖ thƣờng đƣợc hiểu là các quan hệ ngữ nghĩa giữa các bộ
phận của nó: tƣờng giải, định ngữ, trạng ngữ, liệt kê, phân tách…
Câu đơn và ―câu phức‖ khác nhau cả ở ý nghĩa ngữ pháp cơ bản của mình:
trong câu đơn – đó là tính vị ngữ, trong ―câu phức‖ - mối quan hệ ngữ nghĩa –
cú pháp giữa các bộ phận của nó dựa vào tác động tƣơng hỗ các phƣơng diện
hình thái - thời gian của các bộ phận riêng biệt này.

17
Ý nghĩa ngữ pháp này hay ý nghĩa ngữ pháp khác vốn có không chỉ ở một
câu cụ thể nào đó, mà ở tất cả các câu thuộc cùng một loại, có cùng một cấu trúc.
Nhƣ vậy cần thiết phải:

- Phân biệt nội dung cụ thể của câu phức và ý nghĩa ngữ pháp của nó;
- Nhìn thấy đƣợc sự chế định lẫn nhau của ý nghĩa ngữ pháp và tổ chức của
―câu phức‖.
(+) Điểm khác biệt về cấu trúc
Theo nội dung và cấu trúc thì ―câu phức‖ là một đơn vị ―đa vị tính‖, nghĩa
là nó bao gồm hai hoặc một số các bộ phận vị tính. Mỗi bộ phận này tƣơng tự
nhƣ một câu đơn, nhƣng các bộ phận trong thành phần của ―câu phức‖ và các câu
đơn khác nhau cơ bản, mặc dù trong một số trƣờng hợp chúng có thể trùng nhau
trên phƣơng diện hình thức. Các bộ phận của ―câu phức‖ không có sự kết thúc về
ngữ điệu nhƣ câu đơn riêng biệt; ngoài ra trong phần lớn các trƣờng hợp, chúng
có các yếu tố cấu trúc chuyên biệt không thể có trong cấu trúc câu đơn. Việc thừa
nhận ―câu phức‖ nhƣ ― sự thể hiện cú pháp trọn vẹn về một tƣ tƣởng phức hợp
duy nhất‖ dẫn đến việc làm sáng tỏ đặc trƣng ngữ pháp của nó – không có sự kết
hợp ngẫu nhiên các câu đơn. Đối với việc xây dựng ―câu phức‖ chỉ sử dụng mô
hình chung này hoặc sử dụng mô hình chung khác của câu đơn, nhƣng những mô
hình này đều thích ứng với mô hình chung xây dựng ―câu phức‖ và giữ nguyên
vị tính riêng biệt của mình. Nhƣ vậy, về mặt cấu trúc, ―câu phức‖ khác với câu
đơn trƣớc hết là ở chỗ:
- Trong câu đơn có một trung tâm vị tính cấu thành, hoặc từ hai thành phần
chính.
- Trong ―câu phức‖ có hai trung tâm vị tính trở lên.
- Trong câu hơn hai thành phần C-V có thể làm thành tố mở rộng câu phức,
trong đó có câu phức định ngữ.
(+) Điểm khác biệt về khối lƣợng thông báo
Trong ―câu phức‖, các bộ phận của nó có đặc trƣng ở mối liên kết tƣơng
hỗ về ngữ pháp và ngữ điệu, cũng nhƣ sự chế định qua lại về nội dung. Trên bình
diện giao tiếp, sự khác biệt giữa câu đơn và ―câu phức‖ dẫn đến sự khác biệt về
khối lƣợng các thông báo đƣợc truyền tải. Câu đơn không mở rộng chỉ thông báo
về một tình huống riêng lẻ.


18
―Câu phức‖ thông báo về một số các tình huống và các mối quan hệ giữa
chúng với nhau hoặc về một tình huống và mối quan hệ của ngƣời tham gia hoặc
ngƣời nói với tình huống đó.
Nhƣ vậy, ―câu phức‖ trƣớc hết phải là một đơn vị cú pháp hoàn chỉnh.
Đơn vị cú pháp hoàn chỉnh này là sự kết hợp có tính ngữ pháp của các câu và có
chức năng thông báo từ hai tình huống trở lên và các mối quan hệ giữa các tình
huống đó. Nghĩa thông tin của câu phức phản ánh quan hệ phạm trù logic- ngữ
nghĩa. Chẳng hạn, phạm trù điều kiện, phạm trù nhân quả,phạm trù phán đoán,
phạm trù lý giải
1.1.3.2 Khảo sát “câu phức” theo khuynh hướng mới
Sự tranh luận về thành phần của ―câu phức‖ phải có các câu đơn hay
không?
(+) Khảo sát ―câu phức‖ theo tổ chức ngữ nghĩa
Đặc thù của tổ chức ngữ nghĩa của ―câu phức‖ là ở chỗ, về nguyên tắc, nó
hƣớng vào việc thể hiện một tổ hợp các câu chỉ ra mối quan hệ giữa các tình
huống, đồng thời, nhƣ câu đơn ở dạng tối thiểu của mình dành cho việc thể hiện
một câu. Các nhà ngôn ngữ học còn gọi câu đơn là câu mệnh đề còn ―câu phức‖
là câu đa mệnh đề và tính ―đơn mệnh đề‖ – ―đa mệnh đề‖ không phải là dấu hiệu
khác biệt tuyệt đối của câu đơn và ―câu phức‖.
Mặt khác, ―câu phức‖ ở những điều kiện nhất định có liên quan đến tổ
chức hình thức và sự đầy đủ về thành phần từ vựng của nó, có thể phản ánh nội
dung chỉ của một câu; Ví dụ, trong số các CPĐN có những câu mà thành phần
phụ của chúng, cùng với thành tố danh từ của phần chính, đƣợc sử dụng không
phải để nêu tình huống, mà để xác định đặc điểm của danh từ bằng cách chỉ ra sự
tham gia của nó vào trong tình huống và ngƣời nói và ngƣời nghe đều biết rõ.
Trong ―câu phức‖, thông báo đƣợc coi nhƣ là sự giải thích cho tình huống
đang đƣợc tranh luận hoặc đang xảy ra trong nhận thức trực tiếp của ngƣời nói và
ngƣời đối thoại. Cuối cùng, nghĩa của ―câu phức‖ có thể đƣợc hình thành cả bằng
cách thông qua các câu có thành phần liên hệ với cùng một tình huống.

Còn các thành phần ―câu phức‖ ở phƣơng diện ngữ nghĩa thì tƣơng tự với
câu đơn: ở dạng tối thiểu của mình ( không có thành phần mở rộng) chúng tập
trung thể hiện một mệnh đề, còn nếu có các thành phần mở rộng chúng có thể
hiện một nội dung nhiều mệnh đề.
(+) Khảo sát ―câu phức‖ về tổ chức hình thức

19
Điểm đặc biệt của ―câu phức‖ nhƣ một đơn vị cú pháp thể hiện ở tổ chức hình
thức của nó. ―Câu phức‖ khác biệt với câu đơn bởi tính chất của các thành tố cấu
tạo nó. Thành tố của câu đơn là các hình thái nhất định của từ. Dấu hiệu bắt buộc
của thành tố câu phức là việc chúng tƣơng tự nhƣ câu đơn, mang phạm trù vị
tính. Vị tính tạo ra dấu hiệu quy định cơ bản của chúng, phù hợp với điều kiện
này, các thành tố ―câu phức‖ đƣợc gọi là các đơn vị vị tính. Nhƣ vậy, sự kết hợp
có tổ chức về mặt ngữ pháp một số đơn vị vị tính, câu phức đồng thời đối lập với
câu đơn nhƣ một cấu trúc đa vị tính với một số câu đơn vị tính. Khác với câu đơn
chỉ mang theo một tổ hợp cú pháp tình thái với thời gian, câu phức mang lại một
số các tổ hợp ấy. Các thành tố ―câu phức‖ (các đơn vị vị tính) đƣợc hợp nhất vào
thành phần của nó theo những mô hình nào đó, mà những mô hình này, tƣơng tự
nhƣ những mô hình câu đơn, có thể đƣợc gọi là sơ đồ cấu trúc. Sơ đồ gồm có các
thành tố:
+ Số lƣợng các đơn vị vị tính đƣợc hợp nhất;
+ Thuộc tính cơ bản các đơn vị vị tính;
+ Kiểu liên kết cú pháp và phƣơng tiện thể hiện nó;
+ Trật tự phân bố các thành tố theo mối quan hệ ngữ nghĩa
(+) Khảo sát ―câu phức‖ về chức năng giao tiếp
―Câu phức‖ cũng nhƣ câu đơn là một hiện tƣợng đa phƣơng diện. Các
mục trƣớc đã xét các phƣơng diện cấu trúc và phƣơng diện ngữ nghĩa ngữ pháp
của chúng. Tuy vậy ở ―câu phức‖, cũng nhƣ câu đơn, còn một phƣơng diện nữa –
đó là phƣơng diện chức năng giao tiếp. Cách phân tích chức năng, việc xác định
vai trò cấu trúc của phần phụ trong toàn bộ câu và xác định tính chất liên hệ của

nó với các thành tố khác, làm ta chú ý đến cả phƣơng diện còn chƣa đƣợc nghiên
cứu đầy đủ của ―câu phức‖. Phƣơng diện chức năng giao tiếp của câu phức đƣợc
thể hiện với hai nhiệm vụ:
+ Phản ánh mục đích của cả câu
So sánh với câu đơn thì ở quan hệ này, câu phức có những khả năng lớn
hơn: trong các câu phức không chỉ bắt gặp những câu cùng chức năng, mà còn cả
những câu khác nhau về chức năng, nghĩa là, những câu mà trong đó các bộ
phận vị tính thực hiện những chức năng khác nhau.
Các phƣơng tiện hình thái thể hiện mục đích của ―câu phức‖ cũng giống
nhƣ trong câu đơn: ngữ điệu, các hình thái từ đặc biệt của động từ, trợ từ, trật tự
từ.

20
+ Định hƣớng nội dung của câu theo mối quan hệ với ngữ cảnh hoặc tình huống.
Trên khía cạnh giao tiếp, ―câu phức‖ hoàn toàn giống với câu đơn: nó đƣợc
hình thành nhƣ một chỉnh thể giao tiếp thống nhất.Các thành phần ―câu phức‖ ở
phƣơng diện giao tiếp đối lập với câu đơn ở chổ chúng không có tính trọn vẹn về
giao tiếp.
Tất nhiên, các đơn vị giao tiếp là ―câu phức‖ khác biệt về chất so với các
phát ngôn là câu đơn. Và bản thân ―câu phức‖ trong phƣơng diện này cũng
không giống nhau. Nhƣng, tính trọn vẹn về giao tiếp là đặc tính của mọi ―câu
phức‖. Các đơn vị giao tiếp đƣợc cấu tạo bởi ―câu phức‖ và câu đơn có nhiều
điểm chung trong bố cục của mình. Chúng giống nhau ở ngữ điệu. Trong câu đơn
và ―câu phức‖ đều tồn tại những quy luật chung của trật tự từ: chúng phụ thuộc
vào nhiệm vụ giao tiếp, nhƣng trật tự từ trong thành phần ―câu phức‖ nhiều khi
khác với trật tự từ trong câu đơn tƣơng tự về tổ chức cú pháp và ngữ nghĩa. Điều
này là do trật tự từ tạo ra ―câu phức‖ nhƣ một chỉnh thể giao tiếp thống nhất mà
kết quả của nó là sự phân bố các từ trong thành phần này đòi hỏi cũng phải có sự
phân bố các từ tƣơng ứng trong thành phần kia.
Ngoài ra, trong ―câu phức‖ xuất hiện một vấn đề đặc thù thuộc về trật tự

các thành phần. Trật tự các thành phần trong ―câu phức‖ (tƣơng ứng nhƣ trật tự
các từ trong câu đơn) là một hiện tƣợng phức tạp. Nhƣng chức năng chủ yếu của
nó trong ―câu phức‖ với trật tự các thành phần không cố định, có liên quan đến
sự thiết lập ―câu phức‖ nhƣ một đơn vị giao tiếp: việc các thành phần đƣợc phân
bố theo cách này hay cách khác đƣợc xác định bởi tình huống của lời nói, bởi
các nhiệm vụ giao tiếp và phản ánh phân đoạn thực tại câu. Có hai vấn đề thuộc
về cơ chế phân đoạn thực tại trong ―câu phức‖, đó là:
- Đề và thuyết: về nguyên tắc, nguyên lý này cũng giống nhƣ trong câu
đơn, mặc dù bị phức tạp hoá, ngoài trật tự từ và ngữ điệu, phƣơng tiện phân loại
ở đây còn là trật tự của các bộ phận vị tính, nếu trật tự này cố định. Với ngữ điệu
trung hoà đề là bộ phận đứng trƣớc, còn thuyết đứng sau.
- Sự ngắt đoạn tạo nên bản chất của sự phân chia các vế nhƣ một hiện
tƣợng đặc biệt thuộc về phƣơng diện giao tiếp. Và, hiện tƣợng này có liên quan
tới sự phân đoạn thực tại câu, rộng hơn, tới khía cạnh giao tiếp lời nói. Đối với sự
phân chia các vế, giống nhƣ một sự bác bỏ đáng kể về chức năng, mối quan hệ
tƣơng hỗ điển hình giữa tổ chức hình thức và giao tiếp của ―câu phức‖ là có thể
thực hiện đƣợc chỉ vì giữa các vế tồn tại sự tƣơng hợp.

21
Nhƣ vậy, “câu phức” có thể đƣợc định nghĩa nhƣ sự hợp nhất các đơn
vị vị tính trên cơ sở của liên kết giao tiếp, đƣợc xây dựng theo mô hình cấu
trúc này hay cấu trúc khác và đƣợc sử dụng với tƣ cách là một chỉnh thể
giao tiếp thống nhất.
Các thành phần ―câu phức‖ phải đƣợc coi nhƣ các cấu trúc cú pháp với tổ
chức hình thức và ngữ nghĩa vốn có ở câu đơn, nhƣng khi đi vào tổ chức câu
phức nó không mang tính trọn vẹn về giao tiếp và đƣợc sử dụng với tƣ cách là
các thành phần ―câu phức‖.
Ngoài những điều đã đề cập trên, cần bổ sung thêm là, về phƣơng diện tu
từ học mà nói, việc sử dụng câu đơn hay ―câu phức‖ có thể bị chi phối bởi tính
chất văn bản, chuẩn mực ngữ pháp trong từng giai đoạn phát triển thể loại và

chiến lƣợc giao tiếp của mỗi nhà văn.
1.2. Tình hình nghiên cứu “câu phức” và “câu phức định ngữ” trong tiếng
Việt
1.2.1 Thành phần câu phức được lấp đầy bằng các cụm từ.
Trong các sách ngữ pháp tiếng Việt, các tác giả có đề cập đến chức năng
của cụm từ, nhất là cụm danh từ( còn gọi danh ngữ).
Cụm từ đƣợc hiểu là một tổ hợp gồm các từ có quan hệ cú pháp nhất định.
Ngôn ngữ học đã xác định các loại quan hệ cú pháp cơ bản: quan hệ chính phụ,
quan hệ chủ- vị, quan hệ đẳng lập. Quan hệ chủ vị là mối quan hệ giữa hai thành
tố phụ thuộc qua lại lẫn nhau, trong đó chức năng cú pháp của cả tổ hợp nƣơng
tựa vào nhau. Quan hệ chính phụ là quan hệ phụ thuộc một chiều gồm thành tố
chính và thành tố phụ, trong đó chức năng cú pháp của thành tố chính chỉ đƣợc
định vị khi đặt trong tổ hợp vào trong một kết cấu lớn hơn( chẳng hạn dùng mở
rộng câu phức). Quan hệ đẳng lập là quan hệ giữa các thành tố có quan hệ nhƣ
nhau trong một kết cấu cú pháp nào đó.
Theo cách hiểu đó, cụm danh từ thuộc vào cụm từ chính phụ. Nếu xét
theo quan hệ cú pháp chính phụ, cấu trúc cú pháp chung của cụm từ gồm có
hai phần: phần chính và phần phụ, phần phụ lại có thể phân biệt phần phụ
đứng trƣớc phần chính hay phần phụ đứng sau phần chính. Sự phân tích cấu
trúc nghĩa của cụm từ đòi hỏi phân biệt chi tiết hơn chức năng nghĩa của mỗi
loại yếu tố trong các phần chung ấy và việc này đƣợc thực hiện tuỳ thuộc vào
từng loại cụm từ.

×