1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
TRẦN THỊ MAI HƢƠNG
HÀNH ĐỘNG “MỜI” TRONG GIAO TIẾP CỦA NGƢỜI VIỆT
VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ DẠY HÀNH ĐỘNG MỜI
CHO NGƢỜI NƢỚC NGOÀI
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Ngôn ngữ học
Hà Nội-2012
2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
TRẦN THỊ MAI HƢƠNG
HÀNH ĐỘNG “MỜI” TRONG GIAO TIẾP CỦA NGƢỜI VIỆT
VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ DẠY HÀNH ĐỘNG MỜI
CHO NGƢỜI NƢỚC NGOÀI
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Ngôn ngữ học
Mã số: 60 22 01
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS Đỗ Việt Hùng
Hà Nội-2012
5
Bảng viết tắt
Quy ước viết tắt
M = mời
TXH = từ xƣng hô
ĐT = động từ
Quy ước trích dẫn
01. NVH
1
: Nguyễn Việt Hƣơng – Cơ sở tiếng Việt, Q.I
02. NVH
2
: Nguyễn Việt Hƣơng – Cơ sở tiếng Việt, Q.II
03. NVH
3
: Nguyễn Việt Hƣơng – Tiếng Việt nâng cao, Q.I
04. NVH
4
: Nguyễn Việt Hƣơng – Tiếng Việt nâng cao, Q.II
05. NCH : Truyện ngắn Nguyễn Công Hoan
06. TH : Tô Hoài – Chuyện cũ Hà Nội, tập I
07. CL : Truyện ngắn Chu Lai
08. LHN : Lữ Huy Nguyên – Ca dao trữ tình chọn lọc
09. TNVN : Nhiều tác giả – Truyện ngắn Việt Nam 1930 – 1945
10. TNH : Nhiều tác giả – Truyện ngắn hay 1980 – 2000
11. TNT : Nhiều tác giả – Truyện ngắn trẻ 1997
12. TNHTGN: Nhiều tác giả – Truyện ngắn hay các tác giả nữ
13. TV : Nhiều tác giả – Tuyển văn tác giả nữ Việt Nam 1975 – 2007
14. TNĐS : Nhiều tác giả – Truyện ngắn đặc sắc 2009
15. VNP : Vũ Ngọc Phan – Tục ngữ ca dao, dân ca Việt Nam
16. VVT : Vũ Văn Thi – Tiếng Việt cơ sở
17. ĐTT
1
: Đoàn Thiện Thuật – Thực hành tiếng Việt C
18. ĐTT
2
: Đoàn Thiện Thuật – Thực hành tiếng Việt B
19. VNQĐ : Tổng cục Chính trị – Văn nghệ Quân đội
6
MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
BẢNG VIẾT TẮT VÀ QUY ƢỚC VIẾT TẮT
MỤC LỤC
Mở đầu………………………………… ……………………………… ………….03
1. Đặt vấn đề……… ………………………………………… ………….03
2. Lý do chọn đề tài….………………………… ……………… ………….04
3. Mục đích, ý nghĩa đề tài……… ……… ….………………… ……… 05
4. Phạm vi nghiên cứu…… ……………… ………………… ……………06
5. Phƣơng pháp nghiên cứu… ………………………………… ………….07
6. Bố cục luận văn……… ……… …………………………….……………08
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ THUYẾT LÀM CƠ SỞ LÝ LUẬN …………09
1.1 Lý thuyết về giao tiếp………………… ……………………… ………09
1.2 Lý thuyết về lịch sự……… …………………………………….……….15
1.3 Lý thuyết về hành động ngôn trung…………………………………… 18
Chƣơng 2: CÁC KIỂU MỜI TRONG GIAO TIẾP NGƢỜI VIỆT………….……….20
2.1 Những hoàn cảnh giao tiếp của lời mời…………………………………20
2.1.1 Ngữ cảnh rộng của lời mời………………………… ………….………21
2.1.2 Ngữ cảnh hẹp của lời mời…… ……………………………… ………24
2.1.3 Tiểu kết………………… …………………………………… ………27
2.2 Các kiểu mời trong văn hóa giao tiếp ngƣời Việt…………….…………28
2.2.1 Phát ngôn mời trực tiếp có từ xưng hô……….……………… ………30
2.2.2 Nhận xét………………………………………………………………….38
2.2.3 Phát ngôn mời trực tiếp không có từ xưng hô………….………………42
2.2.4 Nhận xét……………………………………………………….…………44
2.2.5 So sánh phát ngôn mời trực tiếp có từ xưng hô và không có từ xưng
hô………………………………………………………………………………………45
7
2.2.6 Phát ngôn mời gián tiếp có từ xưng hô………… ……………… ……46
2.2.6.1 Có ngữ cảnh hiển minh………………………………………………….……47
2.2.6.2 Có ngữ cảnh ngầm ẩn………………………………………………… ……54
2.2.6.3 Có ngữ cảnh ngữ nghĩa…………………………………………… ……….62
2.2.7 Nhận xét……………………………………………………… ……… 71
2.2.8 Phát ngôn mời gián tiếp không có từ xưng hô………………….….… 74
2.2.8.1 Có từ xưng…………………………………………………………… ………74
2.2.8.2 Không có từ xưng hô…………………………………… ……….………….76
2.2.9 Nhận xét……………………………………………………… ……… 80
Chƣơng 3: MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ DẠY HÀNH ĐỘNG MỜI CHO NGƢỜI NƢỚC
NGOÀI…… ……………………….…………………… …………………… … 81
3.1 Một vài vấn đề lý luận liên quan đến phƣơng pháp dạy tiếng… ….….81
3.2 Khảo sát tình hình dạy tiếng Việt trong một số sách dạy tiếng Việt cho
ngƣời nƣớc ngoài – trên cơ sở hành động ngôn từ mời … …………………… 84
3.2.1 Tình hình dạy tiếng Việt qua khảo sát “Hành động mời” trong một số sách
dạy tiếng Việt cho người nước ngoài……………… …………….…………… …… 84
3.2.2 Nhận xét……………………………………………………… ……….104
3.3 Một vài kiến nghị và đề xuất…….……………………………………… 107
3.4 Thử thiết kế bài giảng về dạy “Hành động mời” cho ngƣời nƣớc
ngoài……………………………………………………….……………………………110
Kết luận……………………………………………………………………… 116
TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………………………….119
TÀI LIỆU TRÍCH DẪN………………………….…………………… ………123
PHỤ LỤC
8
Mở đầu
1. Đặt vấn đề
Trong các nhu cầu của con ngƣời thì nhu cầu giao tiếp vừa là thiết yếu, vừa
là bắt buộc. Bởi con ngƣời không thể sống mà không giao tiếp với nhau.
Trong hoạt động giao tiếp của mình, con ngƣời phải và cần thực hiện rất
nhiều các hành động giao tiếp khác nhau. Một trong những hành động đó chính là
hành động mời. “Mời” là một nghi thức – nghi thức lời nói nhƣng đồng thời nó
cũng là một hành động giao tiếp của con ngƣời trong cuộc sống. Và có thể nói
rằng, cuộc sống của con ngƣời không thể thiếu vắng những lời mời. Xã hội ngày
càng phát triển thì văn hóa mời càng đƣợc ngƣời ta coi trọng.
Sự ra đời của chuyên ngành Ngữ dụng học đánh dấu một bƣớc phát triển mới
trong ngành Ngôn ngữ học, đã chuyển hƣớng nghiên cứu từ chính bản thân ngôn
ngữ sang sự hành chức của ngôn ngữ trong giao tiếp thì rất nhiều các hành động
giao tiếp bằng ngôn ngữ của con ngƣời đã trở thành đối tƣợng nghiên cứu của các
nhà Ngôn ngữ học, trong đó có hành động mời. Nghiên cứu ngôn ngữ theo hƣớng
Dụng học đã kéo theo một loạt các nghiên cứu liên ngành, tạo tiền đề cho khoa học
xã hội phát triển.
Hiện nay, trong xu thế hội nhập và phát triển, học ngoại ngữ trở thành một
nhu cầu thiết yếu và thiết thực. Tiếng Việt trở thành ngoại ngữ đối với những ngƣời
nƣớc ngoài sang du lịch, nghiên cứu hay làm việc… tại Việt Nam. Do đó, dạy tiếng
Việt cho ngƣời nƣớc ngoài đã và đang là một yêu cầu đƣợc đặt ra. Đổi mới phƣơng
pháp trong việc dạy tiếng Việt nhƣ một ngoại ngữ là vấn đề luôn luôn đƣợc quan
tâm nhằm nâng cao chất lƣợng giảng dạy và hiệu quả học tập cho sinh viên.
Do điều kiện thời gian và trong khuôn khổ một luận văn thạc sĩ, chúng tôi
chỉ xin đi tìm hiểu một trong số rất nhiều những hành động mà con ngƣời thực hiện
trong quá trình giao tiếp, đó là hành động mời. Bên cạnh đó, chúng tôi cũng bƣớc
9
đầu đề cập đến vấn đề ứng dụng lý thuyết hành động ngôn từ để dạy tiếng Việt nhƣ
một ngoại ngữ.
2. Lý do chọn đề tài
Chúng tôi chọn đề tài “Mời trong giao tiếp người Việt và một số vấn đề về
dạy hành động mời cho người nước ngoài” vì những lý do sau:
Trong thực tiễn cuộc sống, hoạt động giao tiếp của một con ngƣời từ lúc sinh
ra cho đến lúc mất đi không thể không một lần thực hiện hành động mời. “Mời”
một hành động ngôn ngữ và cũng là một hành động giao tiếp của con ngƣời. Cho
đến nay, nó cũng chƣa đƣợc nghiên cứu và tìm hiểu nhiều. Vì vậy, thiết nghĩ sẽ còn
nhiều khoảng trống cần lấp đầy.
Cùng với những hành động khác, hành động mời góp phần làm cho bức
tranh giao tiếp xã hội của ngƣời Việt thêm đa dạng và phong phú. Đó là một bức
tranh giao tiếp xã hội khác với các dân tộc khác. Điều đó có đƣợc vì ngƣời Việt
thực hiện những hành động mời mang đặc trƣng văn hóa của dân tộc Việt với
những cấu trúc ngữ pháp riêng có của ngôn ngữ Việt.
Sự ra đời của Ngữ dụng học đã làm cho nghiên cứu ngôn ngữ mang một diện
mạo mới, một màu sắc mới – nghiên cứu ngôn ngữ trong hoạt động giao tiếp –
trong sự hành chức của mình. Tìm hiểu về lời mời của ngƣời Việt cũng nhƣ hành
động mời trong tiếng Việt dƣới góc độ Dụng học, biết đâu sẽ tìm thêm đƣợc những
điều mới mẻ cho một đề tài không còn mới.
Trong xu thế hội nhập và phát triển, hợp tác và giao lƣu kinh tế – văn hoá
giữa các quốc gia ngày càng tăng, nhu cầu học tiếng Việt của ngƣời nƣớc ngoài
cũng ngày càng nhiều. Thiết nghĩ, trong quá trình dạy và học tiếng Việt cho ngƣời
nƣớc ngoài thì thông qua việc dạy học này có thể giới thiệu văn hóa Việt ra nƣớc
bạn nói chung; giúp ngƣời nƣớc ngoài thấy và hiểu đƣợc văn hoá mời của ngƣời
Việt nói riêng cũng nhƣ biết cách mời đúng và hay là một điều cần thiết và không
hề đơn giản.
10
Nhằm nâng cao chất lƣợng dạy và học trong vấn đề dạy tiếng Việt nhƣ một
ngoại ngữ thì việc không ngừng tìm tòi, đổi mới và sáng tạo để tìm ra các phƣơng
pháp dạy và học là một điều tất yếu. Xu hƣớng dạy và học tiếng Việt nhƣ một
ngoại ngữ theo hƣớng giao tiếp đang là xu hƣớng mới, đƣợc triển khai và áp dụng
sâu rộng. Trong đó, dạy tiếng Việt nhƣ một ngoại ngữ lấy hành động ngôn từ làm
cơ sở cũng nằm trong xu hƣớng mới trên và là một trong những phƣơng pháp đƣợc
chúng tôi quan tâm trong luận văn này.
Vì những lý do trên, chúng tôi đã chọn đề tài về “Mời trong văn hoá giao
tiếp người Việt và một số vấn đề dạy hành động mời cho người nước ngoài”.
3. Mục đích, ý nghĩa đề tài
Mục đích
Tìm hiểu về đề tài này, chúng tôi có ba mục đích chính:
- Thứ nhất tìm hiểu về lời mời trong văn hoá giao tiếp ngƣời Việt – những
vấn đề về môi trƣờng văn hoá giao tiếp ảnh hƣởng và quy định đến cách mời mọc
của ngƣời Việt.
- Từ đó, chúng tôi tìm và phát hiện ra những đặc điểm riêng có trong cách
mời (cấu trúc mời) của ngƣời Việt.
- Trên cơ sở ứng dụng lý thuyết hành động ngôn từ để nghiên cứu hành động
mời, cũng có thể ứng dụng lý thuyết này vào việc dạy và học tiếng Việt nhƣ một
ngoại ngữ (lấy hành động ngôn từ làm cơ sở) cho ngƣời nƣớc ngoài nhằm nâng cao
chất lƣợng dạy và học.
Ý nghĩa
Đề tài có hai ý nghĩa về mặt lý luận và thực tiễn:
- Về mặt lý luận: Bổ sung thêm những quan điểm, ý kiến về hành động ngôn
từ nói riêng và những ý kiến về vấn đề lý thuyết cho ngành Ngữ dụng nói chung.
- Về mặt thực tiễn:
+ Giúp ngƣời Việt Nam hiểu sâu hơn về văn hoá giao tiếp mời của dân tộc.
11
+ Giúp ngƣời Việt biết cách mời phù hợp với mỗi hoàn cảnh giao tiếp bằng
cách tạo đƣợc những lời mời đúng và hay, đạt hiệu quả giao tiếp.
+ Góp phần giới thiệu văn hoá giao tiếp mời của ngƣời Việt đến những
ngƣời nƣớc ngoài cũng nhƣ giúp họ biết cách tạo và sử dụng hành động mời khi
học tiếng Việt.
+ Góp phần đƣa thêm nội dung giảng dạy (dạy các hành động ngôn ngữ) vào
các sách dạy tiếng Việt cho ngƣời nƣớc ngoài.
4. Phạm vi đề tài
Nhận thấy đây là một đề tài rất rộng vì vậy trong khuôn khổ một luận văn
Thạc sĩ, tƣ liệu chủ yếu của chúng tôi là: tư liệu văn học – chủ yếu là các truyện
ngắn tiêu biểu của các tác giả đƣợc nhiều ngƣời biết đến trên sách, báo. Cụ thể,
chúng tôi tiến hành khảo sát ca dao, truyện ngắn ở một số tuyển tập, Tạp chí Văn
nghệ quân đội và một số sách dạy tiếng Việt cho ngƣời nƣớc ngoài, nhƣ sau:
Văn học dân gian: Tục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam (Vũ Ngọc Phan), Ca
dao trữ tình chọn lọc (Lữ Huy Nguyên – chủ biên);
Tuyển tập truyện ngắn: Truyện ngắn Nguyễn Công Hoan; Truyện ngắn Việt
Nam 1930 – 1945; Truyện ngắn hay 1980 – 2000; Truyện ngắn trẻ 1997; Truyện
ngắn hay các tác giả nữ; Tuyển văn các tác giả nữ Việt Nam 1975 – 2007; Truyện
ngắn đặc sắc 2009; Tô Hoài – Chuyện cũ Hà Nội, tập I; Truyện ngắn Chu Lai;
Tạp chí Văn nghệ Quân đội các năm 2004, 2005, 2006, 2007, 2008;
Sách dạy tiếng Việt cho ngƣời nƣớc ngoài: Tiếng Việt cơ sở (Vũ Văn Thi);
Tiếng Việt cơ sở Quyển I và II, Tiếng Việt nâng cao Quyển I và II (Nguyễn Việt
Hương), Thực hành tiếng Việt B, C (Đoàn Thiện Thuật chủ biên);
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong luận văn này, chúng tôi sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu sau:
Phương pháp thống kê, phân loại
Từ việc thu thập các nguồn tƣ liệu khác nhau, chúng tôi tiến hành thống kê
và phân loại các tƣ liệu để tiện sử dụng cho việc trích dẫn khi nghiên cứu đề tài.
12
Phương pháp mô tả
Từ việc thống kê, phân loại tƣ liệu, chúng tôi sẽ tiến hành mô tả lại một cách
cụ thể và chi tiết hơn tƣ liệu mà chúng tôi có.
Phương pháp phân tích tổng hợp
Trên cơ sở thống kê và phân loại tƣ liệu chúng tôi tiếp tục tiến hành phân
tích kỹ tƣ liệu trên lý thuyết mà chúng tôi đã lấy làm cơ sở.
Từ việc phân tích nhƣ trên, chúng tôi sẽ đƣa ra bảng thống kê và nhận xét
đánh giá của mình.
6. Bố cục luận văn
Ngoài phần MỞ ĐẦU và KẾT LUẬN, luận văn gồm 3 chƣơng:
Chƣơng 1: Những vấn đề lý thuyết làm cơ sở lý luận
Chƣơng 2: Các kiểu mời trong giao tiếp ngƣời Việt
Chƣơng 3: Một số vấn đề về dạy hành động mời cho ngƣời nƣớc ngoài
Mỗi chƣơng đƣợc chia thành các mục và các tiểu mục khác nhau.
13
Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ THUYẾT LÀM CƠ SỞ LÝ LUẬN
Bất cứ một đề tài nghiên cứu nào cũng phải có lý luận. Chọn đề tài nghiên
cứu này, chúng tôi lấy những vấn đề lý thuyết sau làm cơ sở lý luận:
1. 1 Lý thuyết giao tiếp
Lý thuyết về giao tiếp là cơ sở đầu tiên giúp chúng tôi tìm hiểu đề tài này.
Bởi “mời” cũng là một cách giao tiếp của con ngƣời – hay nói một cách khái quát
thì “mời” là một trong rất nhiều nghi thức giao tiếp của con ngƣời. Nghi thức này
tồn tại và không thể thiếu trong đời sống sinh hoạt của con ngƣời nói chung. Vì vậy
tìm hiểu về “lời mời” không thể tách rời nó với lý thuyết về giao tiếp. Lời mời sẽ
đƣợc nghiên cứu nhƣ một hành vi ngôn ngữ giao tiếp của con ngƣời dùng để giao
tiếp giữa ngƣời với ngƣời trong xã hội.
Chúng ta nhận thấy ngƣời Mỹ có cách mời khác với ngƣời Trung Quốc,
ngƣời Hàn Quốc có cách mời khác với ngƣời Úc, ngƣời Việt có cách mời khác với
ngƣời Anh… Sự khác nhau giữa các cách mời ấy là ở chỗ mỗi con ngƣời sống ở
mỗi dân tộc khác nhau mang những đặc điểm văn hóa xã hội khác nhau; mỗi một
dân tộc lại là một môi trƣờng giao tiếp văn hóa xã hội rộng lớn nên khi giao tiếp
với nhau, các thành viên giao tiếp chịu ảnh hƣởng bởi môi trƣờng giao tiếp mà
mình sinh sống. Vì lẽ đó, trong môi trƣờng giao tiếp là môi trƣờng văn hóa xã hội
Việt, lời mời của ngƣời Việt sẽ mang những đặc trƣng riêng có đƣợc quy định bởi
những đặc điểm của môi trƣờng văn hoá xã hội con ngƣời Việt.
Có rất nhiều cách hiểu về giao tiếp. Giao tiếp, trên bình diện khái quát, đó là
“sự thông báo hay truyền đạt thông báo nhờ một hệ thống mã nào đó”. Theo cách
hiểu này, giao tiếp ngôn ngữ là “sự thông báo hay truyền đạt một số nội dung trong
tư duy bằng ngôn ngữ”. Chi tiết hơn, “giao tiếp là quá trình trao đổi thông tin giữa
hai chủ thể giao tiếp diễn ra trong một ngữ cảnh và tình huống nhất định, bằng một
hệ thống tín hiệu nhất định”. Và cũng theo cách hiểu này, giao tiếp bằng lời là quá
14
trình tƣơng tác giữa hai hay một số ngƣời bằng ngôn ngữ. Ở nghiên cứu này, chúng
tôi chỉ đi tìm hiểu về một hành động ngôn ngữ – hành động mời, vậy nên chúng tôi
chỉ quan tâm đến vấn đề giao tiếp ngôn ngữ – giao tiếp bằng lời (trong sự phân biệt
với giao tiếp phi ngôn ngữ – phi lời).
Theo những cách hiểu về giao tiếp nhƣ trên thì một cuộc giao tiếp bao gồm
các nhân tố: nhân vật giao tiếp, thực tế được nói đến, hoàn cảnh giao tiếp, hệ thống
tín hiệu được sử dụng làm công cụ.
Chúng tôi xin trích dẫn lƣợc đồ tổng hợp các yếu tố và các chức năng trong
giao tiếp của Jakobson mà chúng tôi cho là đầy đủ nhất:
Ngữ cảnh
Chức năng quy chiếu
Ngƣời phát Thông điệp Ngƣời nhận
Chức năng biểu cảm Chức năng thi học Chức năng tác động
Tiếp xúc
Chức năng đƣa đẩy
Mã
Chức năng siêu ngôn ngữ
Nhìn vào lƣợc đồ trên chúng ta nhận thấy, để đảm bảo một cuộc giao tiếp
hiệu quả, cần tính đến rất nhiều yếu tố. Hay nói cách khác, lý thuyết về giao tiếp
quan tâm đến những vấn đề sau:
1.1.1 Nhân vật giao tiếp
Nhân vật giao tiếp hay còn gọi là vai giao tiếp bao gồm ngƣời phát và ngƣời
nhận. Ngƣời phát đƣợc gọi là vai ngƣời nói, ngƣời nhận đƣợc gọi là vai ngƣời
nghe; trong quá trình giao tiếp sẽ có sự luân phiên thay đổi vai trò ngƣời nói và
ngƣời nghe giữa các nhân vật giao tiếp.
Trong một cuộc giao tiếp, các nhân vật giao tiếp sẽ có những đặc điểm về
văn hóa, kinh nghiệm sống, hoàn cảnh giao tiếp, thói quen… đặc biệt là có chung
15
với nhau những tri thức về đề tài sẽ đƣợc nói tới trong cuộc giao tiếp. Và cuộc giao
tiếp sẽ đạt hiệu quả khi các nhân vật giao tiếp đều có ý định (mục đích), có niềm tin
giao tiếp – tin rằng cuộc giao tiếp sẽ đạt hiệu quả nhƣ mình mong muốn.
Nhƣng trong cuộc giao tiếp ấy, không phải nhân vật giao tiếp muốn nói gì thì
nói. Để cuộc giao tiếp diễn ra có hiệu quả thì nhân vật giao tiếp phải tiến hành lựa
chọn theo cách trả lời cho đƣợc những câu hỏi nhƣ: nói cái gì, nói như thế nào – sử
dụng loại câu gì, từ ngữ gì, âm thanh gì, ngữ điệu thế nào… trong đó nói gì và nói
nhƣ thế nào là quan trọng nhƣ nhau (trong thực tế cuộc sống, nhiều khi nói nhƣ thế
nào còn khó khăn và quan trọng hơn cả nói gì).
Và cũng để cuộc giao tiếp diễn ra, duy trì và phát triển theo chiều hƣớng dự
định, nhân vật giao tiếp (ngƣời nói) phải nhận thức đƣợc chính bản thân mình trong
quan hệ với ngƣời nghe (là quan hệ vị thế hay thân hữu), đồng thời phải đoán nhận
đƣợc hình ảnh của ngƣời đối thoại – ngƣời nghe với tất cả thuộc tính về động cơ,
mục đích, nhân cách, địa vị xã hội, học vấn và hoàn cảnh trong đó giao tiếp diễn ra.
Bởi trong giao tiếp luôn luôn là ngƣời nói và ngƣời nghe cụ thể gắn với một tình
huống, thời gian, không gian cụ thể. Vì vậy để có một phát ngôn thỏa đáng, nhân
vật giao tiếp không những phải xác định đƣợc vị thế của mình mà còn phải xác
định đƣợc vị thế của ngƣời tham gia giao tiếp với mình. Khi đã xác định đƣợc vị
thế của mỗi bên tham gia giao tiếp, nhân vật giao tiếp sẽ có cách xƣng hô phù hợp
với nhau – sự có mặt của các từ xƣng hô là một trong những yếu tố hình thức quan
trọng làm cho lời nói nói riêng và cuộc giao tiếp nói chung có tính lịch sự (trong sự
đối lập với cách nói “trống không” – trong đa số trƣờng hợp thƣờng đƣợc coi là bất
lịch sự).
Cũng nhƣ vậy, khi ai đó muốn mời một ai đó, thì mời nhƣ thế nào chính là
điều mà ngƣời mời phải quan tâm đầu tiên. Đó là việc nhân vật giao tiếp (ngƣời
mời) phải tính đến vị thế của mình và của ngƣời đƣợc mời để từ đó có sự lựa chọn
từ xƣng hô cho phù hợp, đảm bảo tính lịch sự cho lời mời và hành động mời của
mình để đạt kết quả giao tiếp cuối cùng là đƣợc ngƣời đƣợc mời đón nhận lời mời
16
của mình với thái độ vui vẻ, niềm nở và thoải mái, chân thành. Việc mời ở đâu và
vào thời gian nào cũng góp phần tăng hiệu quả mời mọc.
1.1.2 Hiện thực được nói tới
Hiện thực đƣợc nói tới chính là nội dung của các thông điệp trong lƣợc đồ
mà Jakobson đã đƣa ra.
Ở cái nhìn khái quát, hiện thực chính là cuộc sống, mà cuộc sống thì muôn
hình muôn vẻ. Vậy có phải tất cả cái muôn hình muôn vẻ ấy đều có thể trở thành
nội dung của các thông điệp hay nói cách khác, có phải tất cả cái muôn hình muôn
vẻ đều trở thành nội dung của các cuộc giao tiếp? Thực tế thì, bất cứ cái gì, chuyện
gì cũng có thể là cái đƣợc nói tới. Điều quan trọng là cái gì ấy, chuyện gì ấy đƣợc
nói nhƣ thế nào – nói với ai, lúc nào và ở đâu.
Vì theo lý thuyết lịch sự thì có những nội dung, đề tài chỉ có thể đƣa ra nói
với ngƣời ngang hàng hoặc ngƣời dƣới mà không thể nói với ngƣời trên. Mặt khác,
lại có những hiện thực liên quan đến ngƣời trên, dù không muốn nhƣng ngƣời ở vị
thế dƣới vẫn phải nói tới trong cuộc thoại. Trong trƣờng hợp đó, hiện thực đƣợc nói
tới rất dễ vi phạm tính lễ phép, lịch sự. Lúc này, ngƣời ở vị thế dƣới lại phải tính
toán, cân nhắc lời ăn tiếng nói của mình sao cho lời nói vẫn biểu thị đƣợc sự lễ
phép, lịch sự hoặc nó bị vi phạm ở mức độ thấp nhất. Chẳng hạn nhƣ việc phê bình,
nhắc nhở một đồng nghiệp lớn tuổi hơn, có vị trí xã hội cao hơn so với mình thì
việc “uốn lưỡi bảy lần trước khi nói” là cần thiết.
Còn ở đề tài mà chúng tôi nghiên cứu, hiện thực đƣợc nói tới chính là những
nội dung liên quan đến việc mời mọc.
Khi ngƣời ta mời nhau nghĩa là ngƣời ta giao tiếp với nhau, và mời nhau về
chuyện gì, mời nhau làm gì chính là nội dung của những lời mời. Đó có thể là mời
ăn, mời uống, mời chơi, mời xem, mời mua hàng, mời tham gia chương trình, mời
tham dự hội thảo…; đơn giản hơn, có thể đó là những lời mời nhƣ: “mời anh vào
nhà”, “mời anh ngồi xuống”, “mời anh uống nước”, “mời ở lại ăn cơm”, “mời ngày
quay lại”… của chủ nhà khi có khách đến chơi.
17
Khi xã hội ngày càng phát triển, khi mà nhu cầu giao tiếp của con ngƣời trở
thành một điều thiết yếu thì những lời mời cũng sẽ trở thành cầu nối làm tăng thêm
mối quan hệ giữa ngƣời với ngƣời, và nội dung mời mọc cũng sẽ đƣợc mở rộng
thêm.
1.1.3 Hoàn cảnh giao tiếp
Bất cứ một cuộc giao tiếp bằng lời nào cũng phải diễn ra trong một hoàn
cảnh giao tiếp nhất định. Và tất cả những hiện thực nằm ngoài diễn ngôn tạo nên
môi trƣờng cho một cuộc giao tiếp đƣợc gọi là hoàn cảnh giao tiếp.
Nếu hiểu theo nghĩa rộng thì hoàn cảnh giao tiếp còn đƣợc gọi là ngữ cảnh
văn hóa, bao gồm điều kiện xã hội, lịch sử, văn hóa, phong tục tập quán, tín
ngƣỡng… ở thời điểm diễn ra cuộc giao tiếp.
Còn hiểu theo nghĩa hẹp, hoàn cảnh giao tiếp còn đƣợc gọi là ngữ cảnh tình
huống – tình huống giao tiếp hay thoại trƣờng.
Tình huống giao tiếp có thể hiểu là môi trƣờng xã hội và tâm lí mà ở một
thời điểm nhất định, một không gian nhất định ngƣời ta tiến hành hoạt động giao
tiếp. Nếu diễn xuôi thì một cuộc giao tiếp sẽ có sự tham gia của các thành tố:
ai – cho ai – về cái gì – ở đâu – khi nào (– để làm gì) *
(tương ứng với: người phát/ người nói – người nhận/ người nghe – chủ đề
giao tiếp/ nội dung giao tiếp – địa điểm – thời gian (– động cơ, mục đích))
Áp dụng vào nghiên cứu hành động mời thì (*) sẽ tƣơng ứng với:
ngƣời mời – ngƣời đƣợc mời – nội dung mời – ở đây – bây giờ
Chúng ta biết rằng, phát ngôn mời đƣợc hình thành trong giao tiếp đối thoại
trực tiếp giữa ngƣời nói và ngƣời nghe, nội dung giao tiếp – chủ đề giao tiếp đƣợc
đƣa ra vào thời điểm và tại thời điểm đang diễn ra giao tiếp – đối thoại. Hai thành
tố “ở đây” và “bây giờ” có giá trị hạn định tình huống giao tiếp trong một bối cảnh
cụ thể. Và đây cũng là một đặc điểm riêng có của các phát ngôn ngôn hành nói
chung (trong sự phân biệt với các phát ngôn thông thƣờng khác).
18
Tính hạn định của tình huống giao tiếp đã rất có ích trong việc lý giải một số
vấn đề Ngữ dụng nói chung và trong nghiên cứu hành động mời nói riêng. Bởi có
những phát ngôn chỉ đƣợc coi là phát ngôn mời nếu đƣợc xuất hiện tại thời điểm
nói đó – trong tình huống giao tiếp đó; còn xuất hiện tại thời điểm nói khác trong
tình huống giao tiếp khác thì sẽ thuộc vào những loại phát ngôn khác.
Một số tác giả có sự phân tích tỉ mỉ hơn về tình huống giao tiếp và họ cho
rằng trong tình huống giao tiếp còn có các thoại trƣờng. Đó là một bộ phận nhỏ,
hiện hữu của hoàn cảnh giao tiếp, ảnh hƣởng trực tiếp đến cuộc giao tiếp. Đó là
không gian, thời gian cụ thể với những con ngƣời, sự vật… tạo thành không gian,
thời gian đó – đây cũng là một cách nhấn mạnh đến tính thời điểm của các phát
ngôn ngôn hành nói chung và phát ngôn mời nói riêng.
Trong một cuộc giao tiếp, cái động chính là ngôn ngữ – ngôn ngữ liên tục
đƣợc thay đổi do các vai giao tiếp luân phiên giao tiếp với nhau; còn cái ở trạng
thái tĩnh hơn chính là hoàn cảnh giao tiếp. Nếu chúng ta càng “chia nhỏ” hoàn cảnh
ra thì chúng ta càng nhìn thấy rõ hơn sự thay đổi của hoàn cảnh giao tiếp. Bởi nếu ở
góc độ khái quát thì rất khó nhận ra sự biến động của hoàn cảnh giao tiếp vì mỗi
cuộc giao tiếp chỉ diễn ra trong một khoảng thời gian ngắn, thậm chí là rất ngắn nếu
đặt nó vào hoàn cảnh giao tiếp theo nghĩa rộng là điều kiện xã hội, lịch sử, văn hóa,
phong tục tập quán, tín ngƣỡng… – những nhân tố mà sự thay đổi của nó phải tính
bằng năm, thậm chí hàng chục năm…
Tuy nhiên, nhiều khi để giải thích cho một hiện tƣợng ngôn ngữ, ngƣời ta
cần mƣợn đến rất nhiều cách hiểu của một khái niệm. Vận dụng lý thuyết này khi
nghiên cứu lời mời – hành động mời, chúng tôi cũng làm theo cách đó.
1.2 Lý thuyết lịch sự
Vấn đề lịch sự chỉ thực sự bƣớc vào lĩnh vực của Ngôn ngữ học một cách
chính thức khi ngành Ngữ dụng học ra đời. Giờ đây, nó trở thành cái không thể
thiếu để góp phần giải thích, phân tích một cách thấu đáo các hành động ngôn ngữ.
Lịch sự nhƣ một cái thang để đánh giá các hành vi ứng xử của con ngƣời. Soi chiếu
19
điều này vào lĩnh vực ngôn ngữ học, các hành động ngôn từ sẽ đƣợc phóng chiếu
trên thang độ lịch sự. Vì vậy, nghiên cứu về lời mời trong giao tiếp ngƣời Việt cũng
nhƣ hành động mời trong tiếng Việt, chúng tôi không thể không cần đến vấn đề lý
thuyết này.
Lịch sự đƣợc coi là một phạm trù ứng xử của con ngƣời trong giao tiếp. Và
đồng thời nó cũng là một nhân tố quan trọng trong giao tiếp xã hội. Lịch sự không
những chi phối đến quá trình phát triển của cuộc thoại mà còn có ảnh hƣởng rất lớn
đến hiệu quả giao tiếp.
Để phục vụ cho nghiên cứu đề tài, chúng tôi tìm hiểu những khía cạnh sau
của lý thuyết lịch sự:
1.2.1 Thể diện
Thƣờng đƣợc hiểu đó là hình ảnh của bản thân ở nơi công cộng (hay là hình
ảnh cái tôi trƣớc công chúng của một con ngƣời), nó liên quan đến tình cảm và ý
thức xã hội của bản thân mà ai cũng có mong muốn mọi ngƣời nhận ra. Đây là một
khái niệm mang ý nghĩa xã hội vì nó liên quan đến sự tồn tại về phƣơng diện xã hội
– tâm lý của cá nhân trong giao tiếp. Khái niệm này gồm hai bình diện có quan hệ
với nhau:
Thể diện dương tính (thể diện tích cực) là hình ảnh cái tôi nhất quán và tích
cực mà các thành viên tƣơng tác muốn có cho mình, đó là sự mong muốn đƣợc
ngƣời khác chấp nhận, quan tâm nhƣ: mong muốn đƣợc nhận lời khen, lời chúc
mừng, lời mời…
Thể diện âm tính (thể diện tiêu cực) đòi hỏi cơ bản về sự riêng tƣ cá nhân,
quyền không bị quấy phá – quyền tự do hành động và tự do từ chối sự áp đặt. Điều
đó có nghĩa là con ngƣời không muốn bị ngƣời khác “động chạm” hay “xía vào”
chuyện của mình, bị ngăn cản hay bị bắt buộc… Phần lớn mọi ngƣời trong xã hội
đều nghĩ đến thể diện tiêu cực trong trƣờng hợp giao tiếp chính thức nơi công cộng.
Cách dùng các biểu thức rào đón bằng các từ nhƣ “làm ơn”, “xin lỗi”… khi muốn
20
ai đó làm gì đó cho mình… chính là cách để không làm mất thể diện tiêu cực trong
giao tiếp.
Tất cả những con ngƣời khi đã tham gia vào giao tiếp đều có thể diện âm
tính và thể diện dƣơng tính. Một sự vi phạm nào đó làm mất thể diện âm tính thì
đồng thời cũng làm ảnh hƣởng hay mất thể diện dƣơng tính. Nhƣ vậy, giữ thể diện
là một yêu cầu có tính nguyên tắc trong giao tiếp đối với cả ngƣời nói và ngƣời
nghe.
Hành động giao tiếp mời hƣớng đến thể diện tích cực của ngƣời đƣợc mời
nhƣng đồng thời lại tiềm ẩn nguy cơ đe dọa thể diện âm tính của ngƣời mời.
1.2.2 Chiến lược lịch sự
“Chiến lược lịch sự” trong giao tiếp, hiểu một cách đơn giản là “không làm
mất lòng” nhau, là việc “lựa lời mà nói” để “cho vừa lòng nhau”. Sử dụng thuật
ngữ ngôn ngữ học, đó là phải biết cách “giữ thể diện” và tránh “đe dọa thể diện”
của ngƣời tham gia giao tiếp. Biết cách để “giữ thể diện” và tránh “đe dọa thể diện”
chính là biết về các “chiến lược lịch sự” trong giao tiếp.
Chiến lược lịch sự dương tính (phép lịch sự tích cực): Chiến lƣợc này hƣớng
đến thể diện tích cực của ngƣời nghe. Đó là chiến lƣợc giao tiếp làm cho ngƣời
nghe vui lòng, thể hiện lòng ngƣỡng mộ, tình tƣơng thân tƣơng ái, sự chia sẻ, sự
quan tâm và sự đền đáp của ngƣời nói đối với ngƣời nghe. Chiến lƣợc này hƣớng
ngƣời nói và ngƣời nghe đến mục đích chung.
Chiến lược lịch sự âm tính (phép lịch sự tiêu cực): Chiến lƣợc này hƣớng
đến thể diện tiêu cực của ngƣời nghe. Đó là chiến lƣợc giao tiếp làm cho ngƣời
nghe không cảm thấy bị ngăn cản hay ép buộc. Nó đƣợc coi là “trái tim” của hành
động tôn trọng” [21, tr.78].
Chiến lược lịch sự gián tiếp (chiến lƣợc lịch sự tàng ẩn) là chiến lƣợc giao
tiếp mà ngƣời nói “cố tình” không nói thẳng ra mà để cho ngƣời nghe “tự hiểu” để
rồi “tự hành động”. Cách nói này làm cho ngƣời nói không phải chịu trách nhiệm
21
về lời nói của mình để làm giảm đi khả năng động chạm đến thể diện của ngƣời
nghe.
Về bản chất, “mời” là một nghi thức xã hội – một hành vi lịch sự của con
ngƣời trong giao tiếp xã hội, nên tính lịch sự đã tiềm ẩn sẵn trong nó. Tuy nhiên,
nếu biết và nắm đƣợc các chiến lƣợc lịch sự thì sẽ phát huy đƣợc hơn nữa tính lịch
sự trong giao tiếp nói chung và trong hành vi mời nói riêng, tô đẹp hơn nét văn hóa
vốn có trong giao tiếp xã hội của dân tộc Việt.
1.3 Lý thuyết về hành động ngôn trung
Trong lý thuyết về hành vi ngôn ngữ, có thể hiểu một cách nôm na, đơn giản
rằng, hành động ngôn trung là một hành vi ngôn ngữ, là một hành vi nói năng với
động từ nói năng; cụ thể hơn đó là một phát ngôn ngữ vi với biểu thức ngữ vi và
động từ ngữ vi.
Một phát ngôn ngữ vi, thực chất đó là một biểu thức ngữ vi có hiệu lực ở lời
trực tiếp, có thể có hoặc không có động từ ngữ vi. Và Austin đã gọi các biểu thức
ngữ vi có động từ ngữ vi là biểu thức ngữ vi tƣờng minh và những biểu thức không
có động từ ngữ vi là những biểu thức ngữ vi nguyên cấp hay hàm ẩn.
“Mời” cũng là một hành động ngôn ngữ – hành động nói năng hay hành
động ngôn trung. Vì nó cũng có và đảm bảo đầy đủ các điều kiện để trở thành một
hành động ngôn trung chính thức bởi khi thực hiện hành động này:
- ngƣời nói (ngƣời mời) bao giờ cũng ở ngôi thứ nhất;
- ngƣời nghe (ngƣời đƣợc mời) ở ngôi thứ hai;
- khi ngƣời mời thực hiện hành động mời, ngƣời mời có thể sử dụng hoặc
không sử dụng từ “mời” – có nghĩa là từ “mời” có thể xuất hiện hay
không xuất hiện trong phát ngôn mời tùy vào từng tình huống giao tiếp
cũng nhƣ mục đích mời của ngƣời mời.
Do đó, dựa theo cách phân chia của Austin về biểu thức ngữ vi và dựa vào
đặc điểm hoạt động riêng có của từ “mời” khi hành chức, chúng tôi cũng chia các
phát ngôn mời ra thành hai loại lớn: phát ngôn có từ mời và không có từ mời.
22
Những phát ngôn mời có từ “mời” là những phát ngôn mời tường minh và những
phát ngôn mời không có từ “mời” là những phát ngôn mời nguyên cấp hay mời
hàm ẩn.
Sự xuất hiện hay thiếu vắng của từ “mời” trong các phát ngôn mời, cũng nhƣ
sự có mặt hay vắng mặt của từ xƣng hô trong các phát ngôn mời cùng những nhân
tố khác ảnh hƣởng đến nó sẽ đem lại những sắc thái ý nghĩa mời mọc khác nhau,
góp phần làm nên nét văn hóa mời riêng có của ngƣời Việt cũng nhƣ góp phần vào
sự đa dạng của bức tranh giao tiếp của ngƣời Việt.
23
Chƣơng 2
CÁC KIỂU MỜI TRONG GIAO TIẾP NGƢỜI VIỆT
“Mời” trong giao tiếp ngƣời Việt là mời trong bối cảnh giao tiếp văn hoá xã
hội Việt – trong hiện thực cuộc sống đa dạng và muôn màu muôn sắc.
Lẽ thƣờng, khi con ngƣời thực hiện bất kỳ một hành động nào cũng đều có lý
do và mục đích. “Mời” cũng vậy, đây là một hành động có chủ đích của con ngƣời,
nghĩa là không tự nhiên mà ngƣời ta đi mời nhau. Vì vậy, ngƣời ta sẽ thực hiện
hành động mời này trong những hoàn cảnh giao tiếp xã hội nhất định.
2.1 Những hoàn cảnh giao tiếp của lời mời
Hoàn cảnh giao tiếp là một trong những nhân tố của quá trình giao tiếp. Đây
là một nhân tố ngoài ngôn ngữ nhƣng lại quy định đến sự lựa chọn và sử dụng các
phƣơng tiện ngôn ngữ để biểu đạt.
Ở góc độ khái quát, chúng tôi dùng thuật ngữ “hoàn cảnh giao tiếp” còn ở
góc độ cụ thể, chúng tôi dùng thuật ngữ “tình huống giao tiếp”.
Với thuật ngữ “hoàn cảnh giao tiếp”, chúng tôi quan niệm đó là ngữ cảnh
rộng, là bối cảnh văn hóa xã hội của đất nƣớc, là những hiểu biết về điều kiện chính
trị, kinh tế, văn hóa, sinh lý, tâm lý, khoa học… mà những ngƣời giao tiếp có đƣợc
khi giao tiếp. Chúng hợp thành tiền giả định bách khoa của các nhân vật giao tiếp
trong quá trình giao tiếp. Đó chính là tri thức nền của bất cứ một ngƣời nào đã sinh
ra, lớn lên và trải qua môi trƣờng học tập ở trƣờng lớp hay xã hội.
Do đó, khi nghiên cứu về hoàn cảnh giao tiếp của lời mời, chúng tôi nhận
thấy, ngữ cảnh rộng chính là bối cảnh văn hóa xã hội với những phong tục tập quán
nhƣ cưới xin, ma chay, giỗ chạp…, với những sự kiện văn hóa, lịch sử mang dấu ấn
thời đại… mà trong đó làm xuất hiện vô số những kiểu lời mời.
Với thuật ngữ “tình huống giao tiếp”, chúng tôi quan niệm đó là ngữ cảnh
hẹp, là cái môi trƣờng xã hội và tâm lý mà trong đó, ở một thời điểm nhất định, một
không gian nhất định ngƣời ta tiến hành hoạt động giao tiếp.
24
Nhƣ vậy, ngữ cảnh giao tiếp hẹp của lời mời chính là hiện thực có thể cảm
nhận đƣợc bằng các giác quan hƣớng ngoại của nhân vật tham gia trong quá trình
giao tiếp. Đó là hiện thực của một không gian và thời gian cụ thể với những con
ngƣời, sự vật cụ thể… tạo thành không gian, thời gian đó (nhiều ngƣời gọi đó bằng
thuật ngữ “thoại trường”). Chẳng hạn, anh đến gõ cửa nhà tôi vào một buổi chiều,
và tôi nói: “Mời anh vào nhà” thì tình huống giao tiếp ở đây đƣợc xác định rất cụ
thể với không gian giao tiếp là “nhà tôi”; với thời gian giao tiếp là vào “buổi
chiều”; với nhân vật giao tiếp là “tôi và anh”; với nội dung giao tiếp là “mời anh
vào nhà”; với mục đích giao tiếp là “anh vào nhà”.
Vì tình huống giao tiếp nằm trong hoàn cảnh giao tiếp rộng hơn, nên trong
quá trình giao tiếp, ngƣời ta vẫn sử dụng cái tiền giả định của ngữ cảnh rộng nhƣ
một lẽ đƣơng nhiên.
2.1.1 Ngữ cảnh rộng của lời mời
Ngữ cảnh rộng của lời mời, nhƣ trên đã nói là bối cảnh văn hóa xã hội mang
tính cộng đồng. Vì mang tính cộng đồng nên bất kỳ ngƣời nào sống trong cộng
đồng văn hóa xã hội ấy cũng phải tuân theo nhƣ một lẽ tất nhiên.
Dấu ấn văn hóa xã hội của một giai đoạn lịch sử nào đó đƣợc phản ánh rõ rệt
ở ngôn ngữ. Những lời mời xuất hiện trong giai đoạn 1930 – 1945 có những từ ngữ
mà đến ngày nay không còn dùng nữa nhƣ “rước”, “xin rước” (tƣơng đƣơng với từ
“mời”): “Xin rước các quan xơi rượu.” (NCH:78), “Xin rước quan về nhà nghỉ cho
đỡ nắng.” (NCH: 292), “Rước bà vào.” (TNVN: 471)… hoặc ít dùng nhƣ “xơi”,
“xơi tạm”… (tƣơng đƣơng với từ “ăn”); những từ xƣng hô nhƣ: cậu (ngƣời đàn ông
còn trẻ) “Mời cậu Tú vào xơi cháo cho nóng” (TNVN: 463); bà phó “Mời bà phó”
(TNVN: 643)… cũng không còn phù hợp với thời nay.
Những ứng xử tƣơng ứng với hoàn cảnh văn hóa xã hội đƣợc cả cộng đồng
xã hội chấp nhận trong một thời gian dài tạo thành những phong tục tập quán của
ngƣời Việt. Những phong tục ấy có thể bền vững với thời gian hoặc tồn tại trong
một thời gian dài sẽ quy định lại những ứng xử của con ngƣời với con ngƣời. Sẽ bị
25
coi là lệch chuẩn khi những ứng xử của con ngƣời với nhau vi phạm vào những
khuôn mẫu, phép tắc xã hội.
“Mời” là một nghi thức xã hội, đồng thời cũng là một kiểu ứng xử của con
ngƣời sống với nhau trong cuộc đời này. Vì mang bản chất của một nghi thức nên
lối ứng xử này – hành động này luôn đƣợc thực hiện ở cấp ứng xử trang trọng và
lịch sự và đƣợc cả cộng đồng xã hội thừa nhận và thực hiện.
Trong văn hóa Việt Nam, khi gia đình có công việc nhƣ đám cưới, đám hỏi,
ma chay, giỗ chạp…, ngƣời ta không thể không mời nhau. Dù thân hay sơ thì
ngƣời ta vẫn phải có lời với nhau. Nhỡ khi vì quá bận rộn mà quên mất không mời
ai thì họ sẽ áy náy cho đến mãi sau này.
Bình thƣờng, ứng xử giữa những ngƣời cùng làng cùng xóm đƣợc thể hiện
trong sinh hoạt thƣờng ngày, và đƣợc thể hiện ở mức độ cao hơn trong những dịp
gia đình có công việc. Dù là thân thiết, gần gũi với nhau nhƣ anh em hay ở mức độ
bạn bè xã giao thì ngƣời Việt Nam cũng không bao giờ coi thƣờng hoặc hạ thấp
những ứng xử với nhau. Ngƣợc lại những ứng xử đó càng đƣợc chau chuốt hơn
trong những dịp nhƣ thế. (Ngay cả việc giỗ chạp hàng năm, ngƣời Việt cũng luôn
luôn luôn có những lời mời dù đối tƣợng mời chủ yếu là anh am họ hàng, láng
giềng thân thiết). Chính điều đó càng làm tăng thêm mối quan hệ làng xóm vốn đã
gắn bó khăng khít với nhau từ trƣớc. Một nét đẹp trong văn hóa ứng xử ấy thể hiện
ở hành vi ứng xử mời. Chẳng thế mà ngƣời Việt có câu: “Lời chào cao hơn mâm
cỗ”.
Đối với gia đình có con cái đến tuổi dựng vợ gả chồng, ngoài đăng ký kết
hôn có xác nhận của chính quyền địa phƣơng thì việc tổ chức đám cƣới theo truyền
thống là một phong tục bắt buộc. Bên cạnh việc lo toan cỗ bàn thì việc lên danh
sách khách mời là một việc không kém phần quan trọng. Mời ai, và mời nhƣ thế
nào để thể hiện đƣợc nhã ý của ngƣời đi mời và để ngƣời đƣợc mời cảm thấy sự
trân trọng và chân thành của lời mời đó là những điều mà ngƣời mời phải suy nghĩ
khi thực hiện hành vi mời. Một đám cƣới càng có sự hiện diện của nhiều ngƣời thì
26
càng thể hiện sự quan tâm, gắn bó của hàng xóm đối với gia đình có công việc và
đồng thời cũng thể hiện lối ăn ở của gia đình đó với láng giềng.
Trƣớc đây, khi hình thức thiếp mời chƣa xuất hiện, khi phƣơng tiện đi lại
chƣa thuận tiện nhƣ bây giờ, ngƣời ta vẫn đi bộ hàng chục cây số để đến từng nhà
để mời miệng. Nếu là hàng bố mẹ đi mời, chúng ta thƣờng thấy những lời mời nhƣ:
“Đến ngày…, gia đình tôi cho cháu đi ở riêng (nếu là con gái)/ xây dựng gia đình
cho cháu (nếu là con trai), gia đình có lời mời ông/ bà/ bác… hôm này đúng … giờ,
ngày…, tháng… đến uống rượu mừng hạnh phúc cho cháu”…
Ngày nay, khi xã hội ngày càng phát triển, hình thức thiếp mời ngày càng
phổ biến, việc đi lại cũng thuận tiện hơn và suy nghĩ của con ngƣời cũng thoáng
hơn, nhƣng một số ngƣời vẫn giữ thói quen đi hàng trăm cây số để đến tận nhà
nhau để mời, đặc biệt là những ngƣời lập nghiệp ở nơi đất khách thì khi con cái đến
tuổi lấy vợ lấy chồng, họ vẫn về tận quê để mời. Còn bạn bè thân thiết, ở khoảng
cách không xa lắm, ngƣời ta cũng có thể bỏ qua lệ đến tận nhà đƣa thiếp mời để
mời mà có thể mời qua điện thoại.
Nhƣng dù là chỉ mời miệng hay có thiếp mời, dù là đến tận nhà mời hay mời
qua điện thoại thì cũng không bao giờ bỏ qua đƣợc những lời mời kiểu: “Hôm này
bố mẹ tớ cho tớ đi ở riêng (nếu là con gái)/ xây dựng gia đình cho tớ (nếu là con
trai), mong bạn bớt chút thời gian để đến chung vui với gia đình tớ/ đến mừng hạnh
phúc cho tớ…”; hay “Hôm này tôi cho cháu đi ở riêng/ xây dựng gia đình cho
cháu, mời hai bác thu xếp thời gian đến dự bữa cơm thân mật với gia đình chúng
tôi”…
Những phong tục tập quán nhƣ ăn hỏi, cưới xin, giỗ chạp, mừng tân gia, lễ
đầy tháng, lễ thôi nôi… là những sinh hoạt cộng đồng trong đó không thể vắng mặt
những lời mời. Những lời mời chính là những ứng xử văn hóa của con ngƣời với
con ngƣời nói riêng và của con ngƣời đối với truyền thống dân tộc nói chung. Lời
mời càng chân thành, lịch sự càng thể hiện đƣợc tình cảm của ngƣời đi mời thì
càng dễ đƣợc chấp nhận.
27
Rõ ràng, lời mời là một nghi thức xã hội của Việt Nam, đồng thời cũng là
một hành vi giao tiếp xã hội của ngƣời Việt nên nó thuộc về văn hóa ứng xử. Đó
chính là nét đẹp trong văn hóa giao tiếp của ngƣời Việt. Nhƣ vậy, những gì thuộc
về phong tục tập quán, ứng xử văn hóa của ngƣời Việt liên quan đến nghi thức này
chính là ngữ cảnh rộng bao trùm lên những phát ngôn mời.
2.1.2 Ngữ cảnh hẹp của lời mời
Ở đây, chúng tôi đề cập đến ngữ cảnh ít mang tính chất nghi thức hơn. Đó là
những lời mời xuất hiện trong những ngữ cảnh có không gian và thời gian hạn
định, nghĩa là chúng ta có thể xác định đƣợc không gian và thời gian giao tiếp với
những nhân vật giao tiếp và nội dung giao tiếp cụ thể, do đó chúng tôi dùng thuật
ngữ “tình huống giao tiếp” để gọi nó.
Trong truyện ngắn “Hai anh học trò có vợ” (Bùi Hiển) có đoạn:
“Quả vậy, đôi bạn vừa tới cổng, Vịnh chưa kịp lên tiếng mắng con Vàng
đương sủa ầm ĩ, vợ anh đã chạy ra đuổi chó, đon đả chào chồng và chào khách,
đoạn mời:
- Hai anh vào trong nhà”.
(TNVN: 764)
Hay trong truyện ngắn “Ngôi nhà trên cát” (Dƣơng Thu Hƣơng) có đoạn:
“Tôi đứng dậy cáo từ.
Quý hốt hoảng giằng chiếc túi du lịch:
- Sao lại thế? Em ở lại ăn cơm đã… Vợ anh sắp về bây giờ.”
(TNH: 44)
Nhìn vào những đoạn văn trên, chúng ta dễ dàng xác định đƣợc tình huống
giao tiếp của hai lời mời “Hai anh vào trong nhà.” và “Em ở lại ăn cơm đã…” có
không gian là “cổng nhà Vịnh và trong nhà Quý”, có thời gian là “vừa tới cổng và
vợ anh sắp về”, với nhân vật là “Vịnh, bạn Vịnh và vợ Vịnh cùng Quý và bạn Quý”
và cùng với nội dung giao tiếp là mời “vào nhà” và mời “ở lại ăn cơm”.