Tải bản đầy đủ (.pdf) (112 trang)

Khảo sát từ mượn tiếng Anh trong tiếng Hàn (có đối chiếu với tiếng Việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.97 MB, 112 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN


JOU YOUN HEE




KHẢO SÁT TỪ MƯỢN TIẾNG ANH
TRONG TIẾNG HÀN
(CÓ ĐỐI CHIẾU VỚI TIẾNG VIỆT)


CHUYÊN NGÀNH : NGÔN NGỮ HỌC
MÃ SỐ : 60.22.01


LUẬN ÁN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC






Người hướng dẫn khoa học :
GS.TS. NGUYỄN VĂN KHANG





Hà Nội - 2008


3
MỤC LỤC




MỞ ĐẦU

5

Chƣơng 1. Tình hình sử dụng từ tiếng Anh trong tiếng Hàn
(có đối chiếu với tiếng Việt) …………………………………


9
1.1
Khái niệm từ vay mượn
9
1.2
Hiện trạng về sử dụng từ ngữ tiếng Anh hiện nay trong tiếng
Hàn
13
1.2.1.
Tiếng Anh ở Hàn Quốc: Phổ biến hóa tiếng Anh
13

1.2.2.
Từ tiếng Anh tràn lan trên phương tiện phát sóng và sách báo
Hàn Quốc
14
1.2.3.
Từ ngữ tiếng Anh trong công nghệ thông tin Hàn Quốc
21
1.2.4.
Từ ngữ tiếng Anh trong đời sống giao tiếp bằng tiếng Hàn…
22
1.3
Đối chiếu với tiếng Việt
23
1.3.1.
Nhận định chung
23
1.3.2.
Sự vay mượn từ ngữ tiếng Anh có nguyên nhân từ việc học
tiếng Anh với tư cách là ngoại ngữ
24
1.3.3.
Từ tiếng Anh được sử dụng khi giao tiếp bằng tiếng Việt …
27
1.4.
Những nhận xét rút ra
34






Chƣơng 2. Diễn tiến từ tiếng Anh du nhập vào tiếng Hàn
(có đối chiếu với tiếng Việt) …………………………………




36
2.1.
Quá trình từ Anh du nhập vào tiếng Hàn………………… …
36
2.1.1.
Khái quát quá trình du nhập
36
2.1.2.
Con đường du nhập qua tiếng Nhật
39
2.2.
Đối chiếu với tiếng Việt
41
2.3.
Phong trào “se ma ul un dong” (phong trào “làng mới”) và
phong trào “Làm trong sáng chữ Quốc ngữ” của Hàn
Quốc……………………………………………………………
43
2.4.
Đối chiếu với tiếng Việt về phong trào “Giữ gìn sự trong sáng
của tiếng Việt” và từ sau chính sách “Đổi mới” của Việt
Nam………………………………………………………. …


52


4

Chƣơng 3. Khảo sát sự đồng hoá từ tiếng Anh trong tiếng
Hàn (có đối chiếu với tiếng Việt) ……………………………

54
3.1.
Đôi nét về tiếng Hàn
54
3.1.1.
Giới thiệu chung
54
3.1.2.
Nhận xét
55
3.2.
Khảo sát hiện tượng đồng hoá ngữ âm đối với từ mượn tiếng
Anh
57
3.3.
Khảo sát hiện tượng đồng hoá về hình thái học đối với từ mượn
tiếng Anh
59
3.4.
Khảo sát hiện tượng rút gọn các từ mượn Anh trong tiếng
Hàn
60

3.5.
Khảo sát hiện tượng từ viết tắt tiếng Anh trong tiếng Hàn
62
3.6.
Tiểu kết
63




KẾT LUẬN
64

TÀI LIỆU THAM KHẢO
67

PHỤ LỤC
70
















5

MỞ ĐẦU

1. Lí do lựa chọn đề tài
Thế giới mà chúng ta đang sống luôn có sự vận động và biến đổi qua
từng ngày, và có một thực tế là sự giao lưu tương hỗ giữa các quốc gia trên
thế giới đang dần được thúc đẩy tăng cường, đồng thời ngôn ngữ của chính
các quốc gia đó cũng đang trực tiếp ảnh hưởng lẫn nhau. Với tư cách là
công cụ giao tiếp, trong quá trình du nhập, các yếu tố của ngôn ngữ cho vay
sẽ bị biến đổi về mặt hình thái và nội dung. Theo đó, những yếu tố mang
tính văn hóa, kinh tế, chính trị của khu vực sử dụng ngôn ngữ này cũng ảnh
hưởng tới khu vực sử dụng ngôn ngữ đi vay.
Mỗi quốc gia đều sở hữu một ngôn ngữ có tính chất kế thừa. Nói như
vậy tức là ngôn ngữ của mỗi một quốc gia chính là gốc rễ cơ bản nhất của
quốc gia đó. Vì vậy thật chẳng quá lời khi ta nói rằng, mỗi lời văn viết ra đã
làm nên và thể hiện dòng chảy văn hóa.
Hướng tới sự phát triển của quốc gia mình, ngày nay các nước trên
thế giới đang sống trong môi trường học tập song ngữ do nhận thức được
yêu cầu cần phải làm quen với một thứ ngôn ngữ được gọi là ngôn ngữ
quốc tế. Thứ ngôn ngữ quốc tế tiêu biểu cho thời đại này đã đi vào nhận
thức chúng ta một cách vô ý thức chính là tiếng Anh. Chúng ta đang không
chỉ coi nỗ lực tiếp nhận cũng như chấp nhận thực tế này trong phạm vi một
nước như là một mắt xích cần thiết cho sự phát triển đất nước mà giờ đây,
khi tiếng Anh đã tạo lập được cho mình vị trí thống trị trong hàng ngũ các
ngôn ngữ khiến cho cả những quốc gia không sử dụng Anh ngữ là ngôn ngữ
mẹ đẻ hay ngôn ngữ quốc gia cũng bị cuốn vào dòng chảy đó. Hàn Quốc

với tiếng Hàn là ngôn ngữ quốc gia cũng không ngoại lệ. Vì thế, luận văn
này khảo sát từ vay mượn tiếng Anh trong tiếng Hàn (có đối chiếu với
tiếng Việt) - hai quốc gia không sử dụng Anh ngữ như là ngôn ngữ mẹ đẻ,

6
và không sử dụng tiếng Anh là ngôn ngữ quốc gia, nhưng vẫn có sử dụng
tiếng Anh. Bằng việc đối chiếu, so sánh chúng tôi hi vọng có thể đạt được
một cuộc điều tra mang tính thời đại về từ vay mượn của tiếng Anh trong
tiếng Việt. Về mặt ngôn ngữ xã hội học, chúng ta có thể so sánh cục bộ sự
biến đổi các từ vựng đã được vay mượn. Đó chính là nội dung của luận văn
này.

2. Mục đích và nội dung nghiên cứu
Mục đích của luận văn này là thông qua khảo sát từ vay mượn tiếng
Anh trong tiếng Hàn và có đối chiếu với sự vay mượn của từ tiếng Anh
trong tiếng Việt, nhằm chỉ rõ mức độ đồng hóa của từ tiếng Anh cũng như
mức độ vay mượn từ ngữ Anh ở các ngôn ngữ khác nhau và trong bối cảnh
xã hội khác nhau.
Từ mục đích này, luận văn đặt ra một số nhiệm vụ như sau:
1/ Chỉ ra quan niệm về từ vay mượn của giới Hàn ngữ học.
2/ Tình hình sử dụng từ vay mượn tiếng Anh trong tiếng Hàn và có
đối chiếu với tiếng Việt.
3/ Khảo sát từ ngữ tiếng Anh trong tiếng Hàn, từ góc độ ngữ âm hình
thái học và có đối chiếu với tiếng Việt.

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng khảo sát chủ yếu là các từ ngữ tiếng Anh trong tiếng Hàn
hiện nay.

4. Phƣơng pháp và tƣ liệu nghiên cứu

Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp nghiên cứu của ngôn ngữ học xã hội về từ vay mượn.
- Phương pháp nghiên cứu của ngôn ngữ học đối chiếu.
- Phương pháp quy nạp diễn dịch.


7
5. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn
Ý nghĩa lí luận: Khảo sát từ ngữ vay mượn tiếng Anh trong tiếng
Hàn có đối chiếu với tiếng Việt, góp phần vào việc nghiên cứu hiện tượng
vay mượn ở hai ngôn ngữ thuộc hai loại hình khác nhau: tiếng Hàn thuộc
ngôn ngữ chắp dính (agglutinative language) và tiếng Việt thuộc ngôn ngữ
đơn lập (isolating language) ngôn ngữ trong thời đại quốc tế hóa hiện nay.
Ý nghĩa thực tiễn: Góp phần giúp người Việt Nam học tiếng Hàn và
người Hàn học tiếng Việt, cũng giúp cho người dân hai nước hiểu thêm về
tình hình ngôn ngữ văn hóa của nhau trong quan hệ hợp tác hữu nghị.

CẤU TRÚC CỦA LUẬN VĂN

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, nội
dung luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Tình hình sử dụng từ tiếng Anh trong tiếng Hàn (có đối
chiếu với tiếng Việt)
Chương 2: Diễn tiến của từ tiếng Anh du nhập vào tiếng Hàn (có đối
chiếu với tiếng Việt)
Chương 3: Khảo sát sự đồng hoá từ tiếng Anh trong tiếng Hàn (có
đối chiếu với tiếng Việt)











8
CHƢƠNG 1.
TÌNH HÌNH SỬ DỤNG TỪ TIÊNG ANH TRONG TIẾNG HÀN
( CÓ ĐỐI CHIẾU VỚI TIẾNG VIỆT)

1.1. Khái niệm từ vay mƣợn
Ngôn ngữ phản ánh văn hóa, xã hội và đồng thời thống trị cả tư
tưởng, tình cảm, phương thức sinh hoạt của một dân tộc. Vì vậy sự biến
chất của ngôn ngữ cũng có thể gây nên sự hỗn loạn về tư tưởng của một dân
tộc. Vì thế, đối với các yếu tố ngôn ngữ của một dân tộc, quốc gia khác
thâm nhập vào trong hệ thống ngôn ngữ của một dân tộc, quốc gia này thì
cần phải được nghiên cứu đầy đủ. Trước hết chúng ta cần phải tìm hiểu định
nghĩa về từ vay mượn, đối tượng trọng tâm của nghiên cứu định hướng ở
trên.
Theo từ điển, định nghĩa cơ bản nhất về từ vay mượn là từ được
mượn từ một hệ thống từ vựng của ngôn ngữ khác mà trong nhiều trường
hợp, hệ thống ngôn ngữ khác đó chính là ngoại ngữ. Theo nghĩa rộng, từ
vay mượn là từ ám chỉ toàn thể từ vựng mượn từ ngoại ngữ để sử dụng, cho
nên nó là từ ngoại lai. Tuy nhiên với ý nghĩa rộng hơn, những từ cổ được du
nhập trở lại để cùng sử dụng với ngôn từ hiện đại, hay trường hợp tuyển
chọn từ vựng từ hệ thống ngôn ngữ địa phương nào đó cũng chính là từ vay
mượn. (Trích từ điển tra cứu điện tử Naver). Từ vay mượn là một trong ba
loại từ: từ du nhập, từ vay mượn, từ ngoại lai. Có nhiều từ ngữ, tuy được

vay mượn rồi sử dụng lâu dài, đã được phổ biến, nhưng vì vẫn chưa quen sử
dụng nên nhiều người vẫn coi đó như là một thứ tiếng nước ngoài. Ví dụ:
잉크 Ing-khư (tiếng Anh: Ink)
택시 Théc-si (tiếng Anh: Taxi)
크레용 Khư-rê-giông (tiếng Pháp: Crayon)

9
컵 Khóp (tiếng Hà Lan: kop)
Thực chất, việc phân biệt từ vay mượn và từ ngoại lai dựa theo mức
độ mà người sử dụng ngôn ngữ đang nhận thức, có đặc điểm mập mờ
nhưng có thể kiểm soát được tùy theo trình độ tri thức hoặc nghề nghiệp của
người nói.
Vay mượn (borrowing) là việc một hệ thống ngôn ngữ tiếp nhận các
yếu tố ngôn ngữ từ một hệ thống ngôn ngữ khác để sử dụng một phần có
tính hệ thống của hệ thống ngôn ngữ đó. Đặc biệt, một từ có trong một ngôn
ngữ được du nhập vào một ngôn ngữ khác và được viết y nguyên như vậy
thì từ đó gọi là “từ vay mượn” (loanword). Lúc này ngôn ngữ cho vay
mượn được gọi là ngôn ngữ gốc (source language) và ngôn ngữ tiếp nhận
được gọi là ngôn ngữ đích (target language). Ví dụ, cà-phê, gêm, gôn, sport,
sport car là những từ vay mượn từ tiếng Anh. Và tiếng Anh lúc này chính là
ngôn ngữ gốc, từ vay mượn từ tiếng Anh được viết sang tiếng Hàn Quốc và
tiếng Việt chính là ngôn ngữ đích.
Đối tượng trọng tâm của luận văn này là từ việc vay mượn giữa các
ngôn ngữ sẽ tiến hành xem xét và so sánh từ vay mượn tiếng Anh được du
nhập vào tiếng Hàn Quốc và tiếng Việt. Tuy nhiên có mấy điểm cần phải
cân nhắc đối với việc vay mượn giữa các ngôn ngữ .
Trước hết, khi tiếng Anh được du nhập vào tiếng Hàn thì phải làm rõ
tiếng tiếng Anh đó là thứ tiếng Anh nào. Trong luận văn này sẽ không chia
riêng rẽ “tiếng Anh Mỹ” và “tiếng Anh Anh” mà sẽ ghi hết tất cả từ vay
mượn tiếng Anh được phổ biến hóa tại Hàn Quốc (và Việt Nam) đang được

sử dụng trong hiện tại lẫn đã được sử dụng trước đây. Tất nhiên khi nghiên
cứu về từ vay mượn tiếng Anh, việc diễn đạt kí hiệu phát âm của mỗi từ chủ
yếu đều được sử dụng theo cách phát âm của người Mỹ. Ví dụ , phát âm của
một từ tiếng Anh được vay mượn vào tiếng Hàn, từ “pop” có hai cách phát
âm, một là cách phát âm của người Anh thì là [pops ], hai là cách phát âm

10
của người Mỹ thì là [paps]. Trong hai cách phát âm như vậy ngôn ngữ gốc
sẽ được phát âm theo tiếng Anh Mỹ.
Thứ hai, vẫn còn một vấn đề khác không thể giải quyết được dù
chúng ta có xây dựng hình thức ngữ âm của ngôn ngữ gốc một cách chính
xác. Điều đó có nghĩa là khi một ngôn ngữ gốc cho vay, chúng ta phải biết
được đó là “vay mượn trực tiếp” (direct borrowing) hay “vay mượn gián
tiếp” (indirect borrowing). Cụ thể:
- “Vay mượn trực tiếp” là sự chuyển tiếp từ ngôn ngữ gốc sang ngôn
ngữ đích mà trạng thái ngôn từ không chịu ảnh hưởng của ngôn ngữ trung
gian. Lúc này khoảng cách tiếp xúc giữa ngôn ngữ gốc và ngôn ngữ đích là
trực tiếp. Ví dụ, các từ tiếng Anh là ngôn ngữ gốc như “spray”, “spring”,
“strike” khi được vay mượn vào trong tiếng Hàn thì vẫn được phát âm như
vậy, tức là “spray” phát âm là [s-p-rei ], “spring” phát âm là [s-p-ri ], và
“strike” phát âm là [s-t-raik]. Cũng cần nhấn mạnh là, người ta nói tiếng
Hàn có nhận thức về tiếng Anh rất chuẩn xác nên khi phát âm cũng phát âm
được khá giống với phát âm gốc của tiếng Anh.
- “Vay mượn gián tiếp” nhiều khi được hiểu, là ngay trước khi ngôn
ngữ gốc được du nhập sang ngôn ngữ đích thì nó phải trải qua ngôn ngữ
trung gian. Ngay khi qua trung gian thì ngữ âm và hình thái của từ đó cũng
đã bị thay đổi. Điều đó có nghĩa rằng, hình thái cuối cùng tại ngôn ngữ
trung gian ngay trước khi du nhập sang ngôn ngữ đích chính là cơ sở mang
tính ngữ âm cho từ vay mượn. Ví dụ, theo Park Gap Su (1995:286), :
Từ “cup” (tiếng Anh) đã du nhập vào tiếng Hàn trước đây thông qua

tiếng Nhật đã được phát âm thành [kopp‟u] giống như tiếng Bồ Đào Nha.
[kopp‟u] trong tiếng Nhật không phải là là “cup” trong tiếng Anh mà đầu
tiên được vay mượn từ từ „copo [kopp‟u] trong tiếng Bồ Đào Nha, rồi tiếp
đó lại được vay mượn lại thành từ [kopp‟u] trong tiếng Hàn. Như vậy có

11
nghĩa là từ “cup” trong tiếng Anh và từ [kopp‟u] được sử dụng trong tiếng
Hàn trước đây không có cùng gốc rễ ngôn ngữ.
Các từ sê-mên-tô (cerment), pêng-ki (pek) là những trường hợp tiếng
Hà Lan du nhập vào tiếng Nhật rồi lại tiếp tục du nhập vào tiếng Hàn.
Cũng có những trường hợp từ tiếng Anh là từ gốc thông qua tiếng
Nhật mà du nhập vào tiếng Hàn. Ví dụ, theo Seo Jae Won (1992:352), từ
“ham-pak sư-thê-i-kư” được vay mượn trong tiếng Hàn chính là từ
“hamburg steak” [hmb :rgsteik] trong tiếng Anh, nhưng khi du nhập vào
tiếng Nhật thì từ này lại được phát âm theo phong cách tiếng Nhật thành
“ham-pa-ku-sư-tê-ki” và khi được vay mượn trong tiếng Hàn thì cách phát
âm đó vẫn được giữ nguyên. Những trường hợp vay mượn gián tiếp khác, ta
có thể tìm được những ví dụ là từ tiếng Hàn vay mượn thông qua tiếng Nhật
như “ma-hu-ra” (muffler), “a-pa-tô” (apartment), “ếch-ki-sư” (extract).
Luận văn này chú trọng tới các từ vay mượn tiếng Anh được chính tả
hóa bằng tiếng Hàn. Ví dụ , “gas” [gæs ] và “bus” [bs ] khi sang tiếng Hàn
sẽ được chính tả hóa thành “ga-sư” và “ bo-sư”. Thực tế những từ này có
thể phát âm là “po-sư” và “ka-sư” nhưng người ta vẫn chọn hình thức vay
mượn thành “ga-sư” và “bo-sư”. Những ví dụ về từ vay mượn trong luận
văn này được tập hợp từ các ví dụ trong báo viết, tạp chí, biển hiệu, theo
tuyển tập các ví dụ về từ ngoại lai của Viện nghiên cứu chữ quốc ngữ (xuất
bản năm 1988) và quy tắc cách biểu hiện từ ngoại lai trong Phương pháp
Hangul hóa, ngoài ra còn bao gồm cả các lời nói mang tính cố định đã trở
thành quán dụng ngữ hoặc trở nên thông dụng trong xã hội. (Tham khảo:
Trung tâm thông tin Ka Uh Ri, tìm kiếm Naver).

Ngoài ra, luận văn này tập trung vào tất cả những lời nói với khởi
nguồn là tiếng Anh được dùng làm ngôn ngữ vay mượn, và tập trung vào tất
cả các từ ngoại lai và từ tiếng nước ngoài hiện đang được sử dụng làm ngôn
ngữ vay mượn. Giống như việc các địa danh và tên người Hàn Quốc là một

12
phần của tiếng Hàn Quốc, địa danh và tên người các nước khác trên thế giới
do vẫn được sử dụng trong đời sống sinh hoạt ngôn ngữ nên cũng trở thành
một phần của tiếng quốc ngữ. Tất nhiên không phải tất cả từ ngữ được in ấn
trong quyển từ điển tiếng Anh đều được nhận định là từ vay mượn nhưng
những từ tiếng Anh vẫn được thấy trên ngôn ngữ viết giống như báo chí đều
được coi là từ vay mượn.

1.2. Hiện trạng về sử dụng từ ngữ tiếng Anh hiện nay trong tiếng Hàn
1.2.1. Tiếng Anh ở Hàn Quốc: Phổ biến hóa tiếng Anh
Bước vào năm 2000, xã hội Hàn Quốc từng dấy lên cơn sốt tranh
luận với hai thái cực khác nhau là, đồng tình và phản đối việc phổ biến sử
dụng tiếng Anh như là ngôn ngữ chính.
Năm 1998, ý tưởng về việc “phổ biến hóa” tiếng Anh như là ngôn
ngữ chính do tiểu thuyết gia Pok Keo Il đề xuất, ngay khi đó đã mang tính
đột phá rất lớn và làm nổi lên cuộc tranh luận gay gắt, nóng hổi. Và nó cũng
đã trở thành đề tài xuất hiện trên các phương tiện thông tin địa chúng, các
cơ quan ngôn luận, báo chí.
Pok Keo Il đã đưa ra chủ trương rằng, tiếng Anh ngữ đang có vị trí
tuyệt đối, là một thứ ngôn ngữ quốc tế. Khi mạng thông tin càng phát triển
thì tiếng Anh càng trở thành công cụ quan trọng trong cuộc sống sinh hoạt
của chúng ta. Trước tình hình đó, Hàn Quốc nên bắt đầu bằng việc phổ biến
sử dụng rộng rãi tiếng Anh rồi dần thay thế ngôn ngữ thông dụng bằng tiếng
Anh. Chủ trương đã tạo ra ảnh hưởng to lớn của tiếng Anh trong xã hội Hàn
Quốc. Đây cũng là vấn đề luôn được quan tâm. Từ đó, hiện tượng vay

mượn các từ tiếng Anh trong tiếng Hàn đã liên tục xảy ra.

13
Nhiều nhà ngôn ngữ học đã bắt đầu lên tiếng rằng, việc lạm dụng từ
vay mượn tiếng Anh đã trở thành vấn đề rất nghiêm trọng, và đề nghị chấn
chỉnh.

1.2.2. Từ tiếng Anh tràn lan trên phương tiện phát sóng và sách
báo Hàn Quốc
Người hưởng ứng đầu tiên là ủy ban phát sóng. Ủy ban này đã đứng
ra yêu cầu sửa chữa các tiêu đề chương trình phát sóng bằng tiếng nước
ngoài và những từ ngữ mới chẳng rõ gốc gác từ bất kỳ quốc tịch nào như
“ Star Survival Meeting”, “Cult Nara”. Thống kê cho thấy, trong bốn đài
truyền hình phổ biến nhất thì chỉ ngoại trừ đài KBS 1TV và EBS, còn hơn
1/3 số các chương trình là có sử dụng tiêu đề tiếng nước ngoài. Trước tình
hình này, Ủy ban phát sóng yêu cầu các đài truyền hình phải hạn chế sử
dụng các tiêu đề bằng tiếng nước ngoài và từ ngữ mới không rõ gốc gác
quốc tịch vào các chương trình phát sóng mùa thu.
Ủy ban phát sóng cho biết:
“Trong tổng số 69 chương trình của đài KBS 2TV, 28 chương trình
(chiếm 40,6%) là có sử dụng tiêu đề và phụ đề tiếng nước ngoài, đài MBC
là 28/74 chương trình (chiếm 37,8%), và đài SBS là 22/66 chương trình
(chiếm 33,3%)” (Nhật báo Choson ngày 5 tháng 9 năm 2000).
„Tiếng nước ngoài chiếm lĩnh 60% tên chương trình phát sóng‟
Diễn đàn thảo luận của liên đoàn văn hóa Hangeul. “Cần phải kiểm
soát tình trạng lạm dụng ngay từ những người làm nghề ngôn luận”
“ɎewsȠline”," “Star Golden Jѥll”, “Rainâow Romance㰝, “ࡂravo
Well-being Lifm”, “Science Magazine N”, “Hello$Music Shake”ࡂ là

14

những chương trình TVࡂmà chúng ta có thể thường xuyên dễ dàng bắt gặp.
Tất cả đều được viết theo từ ngoại lai và tiếng nước ngoài.
60% chương trình hiện nay đang phát sóng đều xuất hiện với tiêu đề
là tiếng nước ngoài bao gồm cả từ ngoại lai. Để hưởng ứng lễ kỷ niệm
“Ngày chữ Hangeul” tròn 560 tuổi, tại diễn đàn thảo luận “đối sách trước
hiện tượng lạm dụng tiếng nước ngoài của ngôn luận” do liên đoàn văn hóa
Hangeul tổ chức tại hội quán giáo dục Seoul Cheong Dong Francisco, ủy
viên học thuật Kim Hyeong Bae đã chia sẻ kết quả khảo sát tình hình lạm
dụng tiếng nước ngoài khi phát sóng trên TV thông qua những bản khảo sát
đã phân phát trước đó.
Như vậy, trong 412 chương trình được phát sóng thông qua 6 kênh
truyền hình thì có 246 chương trình (chiếm 59.7%) có tên là tiếng nước
ngoài trong có cả tiếng ngoại lai; 123 chương trình (chiếm 29.9%) có tên
hoàn toàn là tiếng nước ngoài là tiếng nước ngoài thuần túy ngoại trừ danh
từ riêng tiếng nước ngoài hoặc từ ngoại lai. (Tiêu chuẩn ngày 25/9, đối
tượng là KBS-1TV, KBS-2TV, MBC, SBS, EBS, YTN)
Ủy viên học thuật Kim chỉ trích rằng, “trong 20 chương trình phát
sóng của YTN, ngoại trừ một chương trình ra thì tất cả số còn lại đều là tên
tiếng nước ngoài và tên từ ngoại lai”, và “KBS2 cũng vậy, trong 59 chương
trình phát sóng thì tận 72.9% với 43 chương trình là có tên bằng tiếng nước
ngoài bao gồm cả từ ngoại lai, như thế so với các đài truyền hình khác, chỉ
số sử dụng tiếng nước ngoài này là rất cao”.
Theo nội dung phát sóng, từ cuối tháng 6/2006 đến cuối tháng 7/2006,
kết quả điều tra chỉ ra rằng trong hơn 150 chương trình có loại trừ chương
trình nước ngoài hoặc kịch dã sử của 6 đài truyền hình, đài YTN sử dụng
tiếng nước ngoài thường xuyên nhất (cứ 1,73 phút lại có 1 chương trình),
trái lại đài KBS-1TV có mức độ sử dụng tiếng nước ngoài thấp nhất.
Dưới đây là những con số cụ thể:

15

Bảng 1. Tần số thường xuyên sử dụng tiếng Anh trên các kênh của
các đài phát sóng:
Kênh phát
sóng
Thời lượng phát
sóng theo điều
tra
Số lượng từ
ngoại ngữ được
sử dụng
Tần số thường xuyên
(bao nhiêu phút/1
chương trình)
YTN
585
339
1,73
SBS
11.083
2.687
4,11
EBS
1.130
200
5,65
KBS2
8.247
1.195
6,90
MBC

9.952
1.413
7,04
KBS1
3.967
369
10,75
Tổng cộng
34.967
6.203
5,64
Nguồn: 역사가새겨진 우리말 정주리외
(2006)
Nói về lý do lạm dụng tiếng Anh khi phát sóng, phó đại biểu liên
đoàn văn hóa Hangeul, ông Jeong Jae Hwan đã phân tích như sau:
“Đó là vì khi ngôn từ tiếng nước ngoài được du nhập vào, nhưng
đúng lúc đó lại không có sự chuẩn bị ngôn từ thay thế, và lại do chúng ta
bàng quan khoanh tay đứng nhìn mà không có bất kỳ đối sách nào thích hợp
nên những “dụng ngữ chuyên môn” được giữ lại y nguyên hình thái vốn có”.
“Trước việc ngôn từ tiếng Anh được sử dụng đối với cả tên các chính
sách, thì để giải thích cho điều này khi phát sóng truyền hình, chúng ta chỉ
có thể nói, đó là điều không tránh khỏi”.

16
Ông Jeong Jae Hwan cũng nói thêm rằng, tình trạng lạm dụng tiếng
Anh trong xã hội công chức, khi đến cả chính phủ còn sử dụng ngôn từ
tiếng Anh một cách lộn xộn vào tên các chính sách của mình thì đương
nhiên cũng đã và đang gây cho người dân sự hỗn loạn.
Phó đại diện Jeong bày tỏ nỗi lo lắng nghiêm trọng trước tình hình
lạm dụng tiếng Anh vào các chương trình giải trí – hài kịch:

“ Một bộ phận người xem cảm thấy thích thú trước cách biểu đạt
bằng tiếng Anh của những người xuất hiện trên truyền hình nên đã bắt
chước mô phỏng theo lối nói đó, bằng cách đó cuộc sống sinh hoạt ngôn
ngữ đang thực sự “lâm bệnh”, và “Chúng ta nên sửa đổi “quy định cân nhắc
khi phát sóng” mới chỉ đang dừng lại ở tiêu chuẩn quy định và khuyên bảo,
trở thành quy định buộc hạn chế có tính chất thực tế, hoặc nên xem xét về
việc lập ra một quy định liên quan mới”.
Giám đốc sản xuất đài SBS Min In Sik thì chỉ ra rằng, tiếng Hàn phải
được sử dụng nhiều hơn nữa đối với trường hợp là tin tức hoặc chương trình
thời sự so với chương trình giải trí hoặc phim truyền hình, và người xuất
hiện trên các chương trình giải trí phải nhận thức được rằng mục đích gây
cười và có vẻ đẳng cấp hơn khi sử dụng tiếng Anh, ngoài ra những lối diễn
đạt theo phong cách Anh ngữ một cách sai lệch để trông có vẻ ngờ nghệch
hơn đang trở thành trào lưu sẽ làm thoái hóa, làm hỏng phong cách ngôn
ngữ của những người trẻ tuổi ở lứa tuổi đôi mươi. Sau đó ông còn nói thêm:
“Điều quan trọng hơn cả là tôi muốn tạo một không khí cảm thấy yêu thích
tiếng Hàn và mọi nỗ lực được đặt ra là để nhằm mục đích đó”.
Tính chất nghiêm trọng của việc lạm dụng tiếng Anh trong báo chí
cũng giống như vậy. Đại diện liên đoàn văn hóa Hangeul Kim Yeong
Myeong chỉ trích rằng, báo chí đang lạm dụng từ vựng tiếng Anh một cách
không cần thiết và đang kết hợp, sử dụng lộn xộn các ký tự chữ viết Anh
ngữ một cách không cần thiết, ngoài ra còn lạm dụng quá mức ngôn từ

17
Konglish ( là loại từ ngoại lai và từ phức hợp không rõ quốc tịch xuất xứ
được kết hợp với tiếng Hàn), các từ viết tắt của tiếng Anh, có khi người ta
còn không thèm kết hợp Hangeul với tiếng Anh mà chỉ sử dụng mỗi tiếng
Anh mà thôi. Nói về lý do tại sao ngôn luận lại lạm dụng tiếng Anh, đại
diện Kim cho rằng, đó là vì các nhà báo và những người trong ngành đã bị
thấm nhuần ý thức Elite. Đại diện Kim nhận xét:

“ Trong khi sẽ phải đối mặt với sự phát triển của tiếng Hàn, các
phương tiện thông tin báo chí ngôn luận lại đang đối mặt với hành động
quay ngược lại, giết chết sự phát triển đó.” và ông yêu cầu, “ Mong rằng
những người làm nghề báo chí sẽ nhận thức được tính chất nghiêm trọng
của vấn đề để hạn chế tình hình lạm dụng ngoại ngữ thiếu phân biệt và hãy
tìm ra phương án thúc đẩy tiếng Hàn của chúng ta được tiếp tục phát triển
hơn.”
<Thông tin trong ngày, ngày 10/12/2006>
Tiếng Anh đang xâm phạm ranh giới lĩnh vực của tiếng Hàn và bị
lạm dụng theo cách mà chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy qua các tên
chương trình được phát sóng trên TV vốn được coi là đại diện của phương
tiện thông tin đại chúng.
Tất nhiên, những từ vay mượn giống như “News Programme” khi du
nhập cũng làm phong phú thêm tiếng Hàn, nhưng những ngôn từ, cách biểu
hiện với ý nghĩa không rõ ràng và thực ra là có thể thay thế được bằng tiếng
Hàn lại đang không chỉ giết chết ngôn từ thuần Hàn mà những từ ngữ bị sử
dụng sai lệch còn làm cho chúng ta khó có thể hiểu được nội dung chương
trình.
Nêu ra một vài dẫn chứng trên đây để thấy rằng, tư tưởng trọng tiếng
Anh trong xã hội Hàn Quốc đang tràn lan khắp nơi không chỉ qua các kênh
truyền hình mà là khắp cả xã hội, điều này gây ảnh hưởng không ít tới công
tác giáo dục.

18
Tờ The Washington Post của Mỹ có nói, các ngành giáo dục bổ túc,
đào tạo bổ túc đối với công nhân viên chức, du học thời kỳ đầu, nghiên cứu
ngôn ngữ học, v.v… chiếm phần lớn trong xã hội Hàn Quốc, đặc biệt là đối
với hoạt động kinh tế, và cơn sốt giáo dục đào tạo Anh ngữ đang vượt quá
cả trí tưởng tượng. Thực tế là từ năm 2004 ~ 2005, khoảng 20% số người
tham gia thi Toefl dành cho người nước ngoài nói tiếng Anh là người Hàn

Quốc; và năm ngoái số người Hàn Quốc tham gia ứng thi chứng chỉ Toefl là
130.000 người với tổng kinh phí là 23 triệu đôla Mỹ (tương đương 21 tỷ
Won) Theo khảo sát điều tra của Viện nghiên cứu SamSung, năm ngoái
người Hàn Quốc đã dành khoảng 15.000 tỷ Won để đi học thêm tiếng Anh.
Thậm chí gần đây còn xuất hiện tổ chức chuyên môn giáo dục tiếng Anh
tiền sinh cho các bà mẹ để tạo sự thích thú học tiếng Anh cho các em bé
ngay từ trong bụng mẹ qua những bài hát đồng dao và câu chuyện thần tiên
bằng tiếng Anh. Không chỉ có vậy, thành phố Pusan đang xúc tiến dự án
đến năm 2020 sẽ “xây dựng cơ sở hạ tầng tiếng Anh”, nhằm “làng hóa Anh
ngữ” toàn vùng.
Dự đính sẽ đầu tư với chi phí dự án là 2.775 tỷ Won vào 100 dự án
nhỏ lẻ được chia ra làm 4 lĩnh vực như dẫn đầu lĩnh vực công cộng và xây
dựng môi trường sử dụng Anh ngữ có liên quan tới dự án giáo dục như cải
thiện công tác giáo dục tại các trường tiểu học và trung học cơ sở. Đến năm
2009 sẽ xây dựng xong làng Anh ngữ tại khu Pu Jeon Dong cùng với các
ngân hàng, bệnh viện chuyên dùng tiếng Anh và cả khu mua sắm chuyên
dùng tiếng Anh như hiệu sách tại khu vực lân cận, ngoài ra còn có kế hoạch
chỉ định chọn “Ngày cả nước sử dụng Anh ngữ”. Anh ngữ vẫn chưa được
chỉ định là ngôn ngữ phổ biến như một thứ quốc ngữ để cùng đồng hành với
tiếng Hàn trên toàn quốc nhưng những “làng Anh ngữ” cũng đang ngày
càng mọc lên như nấm tại nhiều vùng trong cả nước.
Tại “Làng Anh ngữ”, người ta phải sử dụng duy nhất tiếng Anh trong
cuộc sống thường nhật; kiểu làng này đã bắt đầu xuất hiện lần đầu tiên vào

19
mùa hè năm 2004 tại vùng ven biển khu Dae Bu Do - thành phố An San –
tỉnh Kyeong Ki Do rồi sau đó đã kéo theo một loạt các địa phương khác
như Pa Ju, Seoul, Kang Bok, Song Pa, Jeon Ju, Kyeong Ju, Dae Gu, Su
Won, Cheju, Jang Hueng, Yeong Gwang, và tính ra đã có đến hơn 40 nơi
khác đang có dự định sẽ thành lập.

< Sport Seoul, ngày 20/7/2007 >.
Khi đọc các bài phóng sự trên báo chí hay căn cứ vào kết quả điều tra
như trên, có thể thấy Hàn Quốc đã vượt qua ranh giới đồng hoá từ vay
mượn và đang từng bước nguy hiểm hóa hiện tượng vay mượn tiếng Anh
nguyên dạng tiếp thu từ phạm vi văn hoá tiếng Anh. Đồng thời, theo các
nhà ngôn ngữ, tính nghiêm trọng của việc lạm dụng từ vay mượn đã ăn sâu
vào gốc rễ của tiếng mẹ đẻ và đang bành trướng đến mức nguy hiểm.
Dưới đây là thống kê (1989) do Hwang Hee Yong khảo sát 2.130
danh từ và thuật ngữ mới xuất hiện từ sau giải phóng:
- Từ ngoại lai gốc gồm 91 từ, chiếm 43%.
Ví dụ: Nylon, Nitron, DDVP.
- Từ kết hợp từ ngoại lai và từ Hán gồm 28 từ, chiếm 13%.
Ví dụ: rocket+포, carving+총, fascio+주의.
- Từ kết hợp từ ngoại lai và từ cổ gồm 2 từ.
- Ví dụ: 레이져+빛, 게-지+마당
Qua tài liệu điều tra của năm 1989 trên đây, có thể xác định được
rằng khoảng 60% (43%+13%) từ mới được cấu tạo bởi từ ngoại lai. Hai tài
liệu đưa ra ở trên nhằm điều tra thực trạng sử dụng từ ngoại lai mà trung
tâm là ngôn ngữ văn tự.

20

1.2.3. Từ ngữ tiếng Anh trong công nghệ thông tin Hàn Quốc
Dưới đây là các nghiên cứu về mức độ sử dụng từ ngoại lai dễ thấy
trong lĩnh vực công nghệ thông tin, lĩnh vực sử dụng rất nhiều lời lẽ của
giao tiếp thường ngày.
Bảng 2. Tỷ lệ sử dụng từ ngoại lai của những người điều hành công
nghệ thông tin.
Phân loại
Từ cổ

(Bao gồm cả
Hán tự)
Từ ngoại lai
(tiếng nước ngoài)
Tổng cộng
Phiên âm
tiếng Hàn
Phiên âm tiếng Anh
Số ngữ tiết
1,371
237
179
1,787
Tỷ lệ
767
133
100
100%

(Nguồn: Lee Jung Boc 1998)
Nếu quan sát bảng 2 ở trên có thể thấy được trong số toàn bộ 1.787
ngữ tiết thì từ ngoại lai (tiếng nước ngoài) được phiên âm bằng Hangul có
237 từ, chiếm 13.3% và từ được phiên âm bằng tiếng Anh gồm 179 từ,
chiếm 10.0%. Hơn nữa, toàn bộ các từ sử dụng được sử dụng trong tài liệu
lên tới 416 từ, chiếm 23.3%.
Sự thật là cứ 100 ngữ tiết thì có khoảng 23 từ là từ ngoại lai, riêng
điều này cũng đã chỉ ra tính nghiêm trọng của việc lạm dụng từ tiếng Anh
vay mượn trong ngành công nghệ thông tin. Tuy nhiên, ngoại trừ các tiểu từ
thì đa số các cuộc hội thoại trong cuộc sống hàng ngày cũng đã chỉ ra một


21
số lượng đáng kể những từ ngoại lai được vay mượn và để dùng trong văn
nói.
1.2.4. Từ ngữ tiếng Anh trong đời sống giao tiếp bằng tiếng Hàn
Một câu hỏi đặt ra là, sử dụng một cách thông thường các từ vay
mượn diễn ra như thế nào?
Xem xét một phần các đoạn hội thoại trong cuộc sống, để có thể thấy
được việc sử dụng từ vay mượn đứng ở vị trí nào trong đời sống hàng ngày,
người viết xin được trích dẫn một ví dụ như sau:

미스김
!
어제오후에

브리핑



놓은

자료들

팀장님께

제출했나
?”


아침에


팀장님

책상에

올려

놨습니다
.”


~
그래
?
땡큐
~,
미스김

오늘

스타일

죽이는데

오늘

데이트

있나봐
?”
오늘


친구가

소개팅

시켜

준데서

옷에

신경



썼어요
.
근데

컬러가

촌스러워

보여서요
…”


,

,


,

~
아주

굳이야


~
베리

나이스
!”
“Ms Kim! Chiều hôm qua cô đã nộp mấy tài liệu briefing cho trưởng
team chưa?”
“Vâng, sáng nay tôi đã đặt lên bàn làm việc của trưởng team rồi ạ”.
“À, thế à? Thank you, Ms Kim! Hôm nay trông style của cô được
lắm… Chắc hôm nay cô có buổi date à?”
“Hôm nay bạn tôi có tổ chức buổi meeting (làm quen) cho tôi nên tôi
cũng để ý đến áo xống một chút. Nhưng color trông có vẻ hơi quê…”
“No, no, no, no… Rất good đấy chứ! Good~ Very nice!”.
Chúng ta hãy cùng quan sát các từ vay mượn trong từng câu ở đoạn
hội thoại trên.
Ms + Kim, Briefing, Trưởng + team
Thank you, style, date
Meeting, color
Good
Very nice


22
Chỉ trong một câu ngắn, chúng ta cũng có thể tìm ra 1,2 từ vay mượn.
Những từ này đóng vai trò chủ đạo trong câu và nhờ việc sử dụng cách biểu
hiện các từ vay mượn này, người nói vừa muốn tăng thêm phần giá trị của
cuộc hội thoại. Đồng thời những từ vay mượn đó giúp tạo thêm sự thân mật
với đối phương và đóng vai trò là công cụ để nâng cao vị trí của người nói
bằng cách thể hiện năng lực vận dụng trí óc của bản thân.

1.3. Đối chiếu với tiếng Việt
1.3.1. Nhận định chung
Một sự khác biệt dễ thấy nhất so với Hàn Quốc là ở Việt Nam việc sử
dụng từ tiếng Anh vay mượn vẫn được hoạt tính hoá, tuy nhiên thực trạng
này cũng chưa đến mức bị coi là lạm dụng từ vay mượn. Những từ vay
mượn này chủ yếu du nhập từ nước ngoài vào hoặc là các từ vay mượn
được sử dụng một cách sinh động từ các thương phẩm (Mango, Espirit,
Nike, Adidas…) nhằm tạo mục đích tìm kiếm sự thừa nhận của khách hàng,
hay các từ chuyên ngành, thuật ngữ (kg, cm, aseton, 3D…) là đơn vị được
sử dụng trong học thuật và chuyên môn.
1.3.2. Sự vay mượn từ ngữ tiếng Anh có nguyên nhân từ việc học
tiếng Anh với tư cách là ngoại ngữ
Chúng ta hãy cùng tham khảo một số tài liệu điều tra dưới đây để
thấy được tầm quan trọng của việc học tiếng Anh thông qua một số nguyên
nhân ảnh hưởng đến việc sử dụng tiếng Anh vay mượn như trên cũng như
từ vay mượn trong xã hội Việt Nam.
Bảng 3. Số sinh viên học ngoại ngữ tại các trường Đại học Việt Nam
Tình trạng
học ngoại
Số
người
Tiếng

Tiếng
Tiếng
Tiếng
Tiếng
Tiếng

23
ngữ
trả lời
Anh
Đức
Trung
Nga
Nhật
Pháp
Học 1 ngoại
ngữ
393
374
0
0
9
0
10
Học 2 ngoại
ngữ
218
217
0
57

4
13
145
Học 3 ngoại
ngữ
29
29
1
18
10
9
20
Học 4 ngoại
ngữ
1
1
0
1
1
0
1
Tổng số
641
621
1
76
24
22
176


(Nguồn: Đỗ Huy Thịnh, 1999, Chính sách giáo dục ngoại ngữ tại Việt Nam:
Sự nổi lên của tiếng Anh và ảnh hưởng của nó đối với một nền giáo dục cao
hơn)
Bảng số liệu trên dựa vào một nghiên cứu của Đỗ Huy Thịnh được
tiến hành bằng phương pháp phỏng vấn, quan sát tham gia và phát phiếu
điều tra với đối tượng là 641 sinh viên đang học tập tại các trường đại học
chuyên nghiệp ở 6 thành phố lớn của Việt Nam (Hà Nội, Huế, Đà Nẵng, Đà
Lạt, TP Hồ Chí Minh, Cần Thơ). Nghiên cứu này tập trung chủ yếu vào
những sinh viên học từ 1 đến 4 ngoại ngữ và kết quả điều tra các ngoại ngữ
của những sinh viên này cho thấy, trong các thứ tiếng Anh, Đức, Trung,
Nga, Nhật, Pháp thì tiếng Anh vẫn có một sự khác biệt nổi bật so với các
ngoại ngữ khác với số sinh viên học tiếng Anh là 621 sinh viên trong tổng
số 641.

24
Như vậy, điều này cho thấy ngay cả ở Việt Nam, tiếng Anh cũng trở
thành ngôn ngữ đầu tiên mở ra một thời đại ngôn ngữ quốc tế và ngay cả
những sinh viên có ý định học tiếng Anh cũng thấy rõ được sự khác biệt nổi
bật giữa tiếng Anh với các ngoại ngữ khác.
Ngoài ra chúng ta cũng có thể hiểu thêm một điều nữa là xét ở góc độ
lịch sử, tuỳ từng hoàn cảnh lịch sử của Việt Nam mà số lượng học sinh lựa
chọn học một ngoại ngữ nào đó là do chịu ảnh hưởng nền văn hoá của đất
nước đó vào thời điểm bấy giờ.
Dựa vào bảng trên có thể thấy, sau tiếng Anh là lần lượt đến các thứ
tiếng Pháp, Trung, Nga, Nhật, Đức. Điều đó chỉ ra rằng việc tiến hành học
ngoại ngữ cũng rất phù hợp với hoàn cảnh lịch sử của Việt Nam.
Quan sát bảng 4 dưới đây được trích từ nghiên cứu của Lee Jee Seon
dựa trên cơ sở nghiên cứu của Đỗ Huy Thịnh, chúng ta có thể đoán được
mục đích học tiếng Anh của các sinh viên đã điều tra ở bảng 3.
Dưới đây là bảng điều tra về lý do học tiếng Anh của các sinh viên.

Bảng 4. Lý do học tiếng Anh của người Việt

Rất quan
trọng
Quan
trọng
Không quan
trọng lắm
Hoàn toàn
không quan
trọng
Tổng số
A
Môn học
bắt buộc,
Môn thi
196
246
120
59
621
B
Tìm việc
làm tốt
337
233
37
14
621


25
C
Tạo sự thân
mật với
khách du
lịch
89
260
222
50
621
D
Giải trí
32
158
283
149
621
E
Du học
182
174
139
126
621
F
Giờ học vui
vẻ
44
196

265
116
621
G
Thoả mãn
cá nhân
66
214
238
76
621
<Nguồn: Đỗ Huy Thịnh, 1999,
lbid>

Theo như bảng điều tra trên, trong số 621 người tham gia trả lời câu
hỏi thì có khoảng 570 người học tiếng Anh với mục đích tìm một công việc
tốt, với các câu trả lời là “Rất quan trọng” và “Quan trọng”. Con số này
chiếm 91.8% và có thể coi là một số liệu rất cao. Nó chỉ ra cho thấy năng
lực tiếng Anh ảnh hưởng rất nhiều đến việc lựa chọn nghề nghiệp của sinh
viên trong xã hội Việt Nam. Đây cũng có thể được coi là một chứng cứ về
sự thay đổi của xã hội Việt Nam nói chung và phương diện xã hội ngôn ngữ
của Việt Nam nói riêng từ sau giải phóng. (tr. 103, Lee Jee Seon,
2001).

1.3.3. Từ tiếng Anh được sử dụng khi giao tiếp bằng tiếng Việt

26
Như vậy, việc sử dụng từ vay mượn ở Việt Nam có diện mạo như
thế nào?
Dưới đây là một ví dụ có chứa các câu sử dụng từ vay mượn tại Việt

Nam.
Ví dụ:
1-1) Có money không?
1-2) Phone cho em đi!
1-3) Cần tuyển nhân viên marketing.
<Nguyễn Xuân Tú,
1999:143>
1-4) Chuẩn bị tham dự festival.
<lbid, 143>
1-5) Ngày mai thầy A bận nên giờ học grammar chuyển sang
học phonetic.
<Nguyễn Văn Khang,
1999:229>
1-6) Cuốn sách này thuộc loại best-seller.
<Lee Jee Seon, 2001:109>
1-7) Thank you vina milk.
1-8) Tôi đã đi part time(job) về.

Quan sát những ví dụ trên đây, là những câu nói có chứa từ vay
mượn Anh thường xuyên được sử dụng và dễ dàng nghe thấy ở Việt Nam
thì có thể tìm ra được những điểm tương đồng với các cách biểu hiện ở Hàn
Quốc. Chỉ trong một câu nhưng cách biểu hiện trung tâm và hơn nữa là tự
bản thân từ đó cũng đã tạo cho người nghe một cảm giác cao cấp. Như ở ví
dụ 1-1), sử dụng từ “money” để nhấn mạnh thay cho từ “tiền”, ở ví dụ 1-2),
sử dụng từ “phone” để nhấn mạnh thay cho từ “gọi điện” không chỉ đóng
vai trò nâng cao tư thế của câu lên một tầng nữa mà còn đóng vai trò giúp

×