Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

Khảo sát từ ngữ địa phương huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.01 MB, 96 trang )








ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN




TRẦN THU THỦY




Khảo sát từ ngữ địa phương huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa

Chuyên ngành: Ngôn ngữ học
Mã số: 60.22.01
Luận văn ThS. Ngôn ngữ học









Người hướng dẫn: GS. TS. Nguyễn Thiện Giáp















Luận văn cao học -Khảo sát từ ngữ địa phương huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hoá


Trần Thu Thủy
3
MỤC LỤC


Mở đầu
Trang


I. Lý do chọn đề tài
6

II. Mục đích nghiên cứu
7
III. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu
9
1. Đối tượng nghiên cứu
9
2. Phương pháp nghiên cứu
11
Nội dung
13
Chương I. Địa phương Hậu Lộc và lịch sử nghiên cứu
tiếng địa phương Thanh Hoá

13
I. Vài nét về địa phương huyện Hậu Lộc
13
II. Lịch sử nghiên cứu phương ngữ, đặc biệt là phương ngữ Thanh Hoá
18
Chương II. Miêu tả từ ngữ địa phương Hậu Lộc trong sự
so sánh với từ ngữ toàn dân

22
I. Từ trong hệ thống từ vựng tiếng Việt
23
II. Từ địa phương Hậu Lộc
24
1. Những đơn vị từ vựng khác âm so với từ toàn dân
25
2. Những đơn vị từ vựng khác nghĩa so với từ toàn dân
27

2.1. Ngữ định danh
30
2.2. Ngữ láy âm
34
3. Những đơn vị từ vựng khác biệt về ngữ pháp so với từ
toàn dân

35
Chương III. Đặc trưng ngữ âm của từ ngữ địa phương Hậu
Lộc
43
I. Những đặc trưng khác biệt về mặt ngữ âm giữa ba vùng Bắc,
Trung, Nam

44
1. Những đặc điểm ngữ âm của phương ngữ Bắc
44
2. Những đặc điểm ngữ âm của phương ngữ Trung
45
3. Những đặc điểm ngữ âm của phương ngữ Nam
46
II. Đặc trưng ngữ âm của từ ngữ địa phương Hậu Lộc
48
1. Hệ thống phụ âm đầu
48
1.1. Đặc điểm chung của phụ âm đầu
48
1.2. Hệ thống phụ âm đầu trong phương ngữ Hậu Lộc
49
2. Hệ thống vần

58
2.1. Đặc điểm chung của vần
58
Luận văn cao học -Khảo sát từ ngữ địa phương huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hoá


Trần Thu Thủy
4
2.2. Vần trong phương ngữ Hậu Lộc
61
3. Hệ thống thanh điệu
66
3.1. Đặc điểm chung của thanh điệu
66
3.2. Hệ thống thanh điệu trong phương ngữ Hậu Lộc
70
Kết luận
89
Luận văn cao học -Khảo sát từ ngữ địa phương huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hoá


Trần Thu Thủy
6
MỞ ĐẦU

I. Lý do chọn đề tài
Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của con
người. Mỗi cộng đồng cư dân đều có một ngôn ngữ nhất định để giao
tiếp. Tiếng Việt là ngôn ngữ đặc biệt quan trọng đối với người Việt. Nó
không chỉ là ngôn ngữ mẹ đẻ mà còn là một công cụ tư duy hữu ích để

người Việt phát triển cộng đồng xã hội.
Từ trước đến nay các nhà ngôn ngữ thường giới thiệu tiếng Việt
như một thực thể thống nhất trong đa dạng. Mỗi vùng miền là một sự
thể hiện tương đối riêng của tiếng Việt. Bất kể người Việt nào trên lãnh
thổ Việt Nam, nghe người miền Bắc, người miền Trung hay người
miền Nam nói họ đều có thể hiểu được và giao tiếp được. Đó là do tính
thống nhất rõ rệt của tiếng Việt trên dải đất hình chữ S. Tuy nhiên khi
trò chuyện với một người, có những yếu tố làm chúng ta cảm thấy ở
người đối thoại có nét nào đó khác biệt, hình như họ không cùng một
địa phương với mình hay hình như họ từ tận miền cực Nam của tổ
quốc Rất nhiều lý do để chúng ta có thể nhận ra rằng tiếng Việt trên
mỗi miền đất nước có những thay đổi và khác biệt. Đó là nét đa dạng
mà nhiều nhà nghiên cứu đã dày công khảo sát và nghiên cứu.
Tiếng địa phương là nơi lưu giữ những dấu ấn văn hoá đặc trưng
của từng vùng miền. Trên thực tế, tiếng địa phương là một biểu hiện
rất sinh động của ngôn ngữ toàn dân. Khi người nghiên cứu nắm được
diện mạo, đặc điểm, ý nghĩa của từng địa phương cũng có nghĩa là đã
có một cái nhìn thấu đáo về ngôn ngữ dân tộc.
Luận văn cao học -Khảo sát từ ngữ địa phương huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hoá


Trần Thu Thủy
7
Dưới sự tác động, phát triển của xã hội, quá trình giao lưu tiếp
xúc ngày càng mở rộng, vai trò của ngôn ngữ văn hoá đối với phương
ngữ ngày càng lớn, quá trình thống nhất ngôn ngữ đang diễn ra nhanh
chóng. Có một vấn đề đặt ra, liệu phương ngữ có rơi vào quá trình giải
thể để tạo nên một ngôn ngữ thống nhất hay không? Bộ mặt phương
ngữ sẽ ra sao? Vốn từ và vai trò của bộ phận từ trong phương ngữ sẽ
thế nào? Việc dùng từ địa phương trong ngôn ngữ văn học có cần thiết

không? Phương ngữ có phát huy được vai trò giữ gìn bản sắc văn hoá
dân tộc? Nhiều câu hỏi được đặt ra đối với sự tồn tại và phát triển của
phương ngữ. Chúng tôi khảo sát từ ngữ địa phương Hậu Lộc cũng trên
tinh thần cố gắng tìm ra sự ảnh hưởng qua lại giữa ngôn ngữ toàn dân
đối với một phuơng ngữ cụ thể thông qua việc tìm hiểu những đặc
điểm về ngữ âm và từ vựng ngữ nghĩa của từ ngữ địa phương Hậu Lộc.
Phương ngữ Hậu Lộc là một phương ngữ nhỏ của phương ngữ
Thanh Hoá, nơi có nhiều dấu ấn địa phương rõ rệt. Có thể nghiên cứu
phương ngữ trên nhiều bình diện. Ở đây chúng tôi lần lượt khảo sát hệ
thống từ ngữ địa phương trong phương ngữ Hậu Lộc để tìm ra sự khác
biệt về ngữ âm và từ vựng ngữ nghĩa. Từ ngữ địa phương ở đây là
những từ được sử dụng trong giao tiếp hàng ngày của cư dân Hậu Lộc,
nó bao gồm một bộ phận từ trong ngôn ngữ toàn dân và một bộ phận từ
chỉ có trong phương ngữ Hậu Lộc. Qua quá trình khảo sát chúng tôi sẽ
có được một cái nhìn khái quát về ngữ âm, từ vựng ngữ nghĩa trong
phương ngữ Hậu Lộc. Trên tinh thần đó chúng tôi đã chọn đề tài
“Khảo sát từ ngữ địa phương huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hoá” để
làm mục tiêu khảo sát.

Luận văn cao học -Khảo sát từ ngữ địa phương huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hoá


Trần Thu Thủy
8
II. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu phương ngữ nhằm phát hiện ra những điểm mạnh
của từng phương ngữ góp phần giúp cho phương ngữ nhích dần lại
ngôn ngữ toàn dân theo con đường ngắn nhất, hợp lý nhất đối với cấu
trúc nội bộ của từng phương ngữ.
Đã có nhiều công trình nghiên cứu về các vùng phương ngữ trên

khắp các miền đất nước. Từ Bắc vào Nam, hầu hết những vùng phương
ngữ lớn và nổi bật đã được các học giả quan tâm bằng nhiều công trình
nghiên cứu cụ thể. Phương ngữ Bắc và phương ngữ Trung là hai vùng
phương ngữ lớn còn lưu giữ nhiều yếu tố cổ hơn cả. Vì thế cho nên
người ta thường tìm về cội nguồn của tiếng Việt bằng cách dựa vào
những bằng chứng về ngôn ngữ còn được lưu giữ lại trong vốn từ địa
phương. Địa bàn Thanh Hoá thuộc vùng phương ngữ Trung, hầu hết
các nhà phương ngữ nghiên cứu về địa bàn này đều có cái nhìn thống
nhất về tổng quan phương ngữ Thanh Hoá. Những đặc điểm về thanh
điệu, sự nhầm lẫn giữa thanh ngã và thanh hỏi đã được nhiều người
biết đến. Tuy nhiên khảo sát cụ thể từng vùng thổ ngữ, phương ngữ
nhỏ hơn trên địa bàn lại chưa được nghiên cứu nhiều, kỹ lưỡng. Nếu so
với tiếng địa phương Nghệ Tĩnh thì tiếng địa phương Thanh Hoá ít
được nghiên cứu khảo sát hơn. Có lẽ cũng vì một phần là do đặc điểm
lưu giữ yếu tố cổ, yếu tố khác biệt ở đây chưa rõ rệt và nổi trội như
những thổ ngữ, vùng phương ngữ nhỏ trên địa bàn Nghệ Tĩnh. Tuy
nhiên nếu có nhiều hơn nữa những công trình đầu tư nghiên cứu về
tiếng địa phương Thanh Hoá, chắc chắn các nhà phương ngữ cũng sẽ
tìm thấy nhiều tư liệu thú vị và quý giá, góp phần làm phong phú hơn
diện mạo của các vùng phương ngữ trên đất nước Việt Nam.
Luận văn cao học -Khảo sát từ ngữ địa phương huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hoá


Trần Thu Thủy
9
Tiến hành nghiên cứu được ngữ âm, từ vựng ngữ nghĩa của từ
ngữ địa phương Hậu Lộc chúng tôi đã chọn một số xã có giọng nói tiêu
biểu đại diện cho mỗi vùng để tiện cho việc điều tra và miêu tả.
Với đề tài này chúng tôi cố gắng tìm ra những nét tương đồng và
khác biệt giữa tiếng địa phương Hậu Lộc với ngôn ngữ toàn dân, góp

phần miêu tả bức tranh toàn cảnh về phương ngữ Thanh Hoá. Đồng
thời đây cũng là một trong những nguồn tư liệu để các tác giả khác có
thể nghiên cứu sâu hơn hoặc nghiên cứu những vấn đề có liên quan.
Qua quá trình khảo sát những nét dị biệt về ngữ âm, từ vựng ngữ
nghĩa, cụ thể là sự biểu hiện trong từng thổ ngữ cũng thêm một lần nữa
khẳng định rằng yếu tố bất biến là cái mã của tiếng Việt và cuối cùng
các biến thể cũng trở về cái bất biến trong ngôn ngữ. Phương ngữ là
một bộ phận thống nhất của ngôn ngữ toàn dân nhưng không đồng nhất
bởi nó luôn có quá trình tự vận động và phát triển. Quá trình phát triển
liên tục đó đã tạo nên sự đa dạng, phong phú của tiếng Việt trên các
vùng miền khác nhau.

III. Đối tƣợng và phƣơng pháp nghiên cứu
1. Đối tượng nghiên cứu
Để thực hiện yêu cầu của đề tài chúng tôi đã tiến hành điều tra
vốn từ được sử dụng trong sinh hoạt hàng ngày của cư dân vùng Hậu
Lộc. Do giới hạn của đề tài nên chúng tôi chỉ tập trung khảo sát từ ngữ
địa phương Hậu Lộc trên bình diện ngữ âm, từ vựng kỹ lưỡng hơn, còn
một bộ phận từ mang nghĩa ngữ pháp thì tương đối khái quát.
Địa bàn Hậu Lộc là một địa bàn tương đối rộng bao gồm nhiều
làng xã. Địa bàn cũng là nơi cộng cư của nhiều thành phần cư dân khác
Luận văn cao học -Khảo sát từ ngữ địa phương huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hoá


Trần Thu Thủy
10
nhau. Trên địa bàn có nhiều làng cổ nhưng cũng có nhiều làng đã có sự
pha trộn, cư dân mới đến sinh sống cùng với cư dân gốc ở đây. Ngôn
ngữ là bộ phận gắn liền với dân cư nên cũng chịu một số ảnh hưởng từ
quá trình pha trộn này. Tuy nhiên sự pha trộn về dân cư là không đáng

kể, không gây ảnh hưởng đến việc sử dụng ngôn ngữ trên địa bàn vốn
lâu nay là nơi cội nguồn của cư dân Hậu Lộc. Trong quá trình điều tra
cũng vì giới hạn của thời gian và mức độ thực sự cần thiết cho quá
trình điều tra trên diện rộng nên chúng tôi đã quyết định phân vùng
điều tra và chọn những nơi có nhiều đặc trưng điển hình làm vùng đại
diện. Việc chọn các xã đại diện cho giọng nói của mỗi vùng dựa trên
hai căn cứ sau:
1) Dựa vào sự thẩm nhận của người địa phương đó là những xã
có giọng nói đặc biệt hơn cả.
2) Dựa vào những đặc diểm về địa lý, lịch sử, dân cư chúng tôi
chọn những xã trung tâm chính trị – văn hoá, xa đường quốc lộ, tỉnh lộ.
Theo tiêu chí này, chúng tôi đã chọn được một số xã đại diện cho mỗi
vùng khảo sát sau:
- Xã Ngư Lộc (vùng 1)
- Xã Hoa Lộc (vùng 2)
- Xã Văn Lộc (đại diện cho các xã còn lại của vùng 3)
Ba xã này là những điểm điền dã chính cho những đợt điều tra
của chúng tôi. Sau khi thu thập tư liệu, một vấn đề đặt ra là chọn điểm
điều tra nào là tiêu điểm cho việc miêu tả. Nếu lấy giọng được coi là
phổ biến cho giọng Hậu Lộc thì phải lấy giọng của người Văn Lộc,
khảo sát từ ngữ địa phương mà người Văn Lộc sử dụng trong giao tiếp.
Nếu lấy giọng tiêu biểu điển hình cho sự khác biệt, thậm chí là khác
Luận văn cao học -Khảo sát từ ngữ địa phương huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hoá


Trần Thu Thủy
11
biệt đến mức khó nghe của giọng Hậu Lộc thì phải chọn giọng Hoa
Lộc (đặc biệt là giọng của người trong thôn Hoa Trung hay còn gọi là
thôn Hoa Trường), giọng Ngư Lộc. Nếu khảo sát vốn từ địa phương về

mặt từ vựng có sự khác biệt về nghĩa thì phải điều tra toàn diện, thu
thập được càng nhiều tư liệu càng tốt, lúc đó mới có cơ sở để thống kê
số lượng từ vựng của riêng địa phương Hậu Lộc. Như vậy tuỳ vào mục
đích nghiên cứu trong từng phần mà chúng tôi sẽ chọn đại diện để khảo
sát miêu tả.
Các nhân chứng mà chúng tôi đã điều tra và ghi âm:
Cụ Phạm Thị Thanh, 68 tuổi, xã Hoa Lộc
Cụ Nguyễn Văn Tất, 62 tuổi, xã Ngư Lộc
Chú Nguyễn Hải Nam, 45 tuổi, xã Ngư Lộc
Cô Lê Thị Hạt, 41 tuổi, xã Văn Lộc
Anh Hà Văn Hải, 35 tuổi, xã Hoa Lộc
Chị Phạm Thị Huyền, 30 tuổi, xã Minh Lộc
2. Phương pháp nghiên cứu
Để có được nguồn từ liệu cho quá trình nghiên cứu chúng tôi đã
tiến hành điều tra trên nhiều đối tượng dân cư, điều tra qua bảng từ,
điều tra trên tư liệu được ghi lại bằng băng ghi âm ngôn ngữ giao tiếp
sinh hoạt hàng ngày. Sau khi thu thập được tư liệu chúng tôi đã tiến
hành khảo sát, so sánh, đối chiếu từ trong hai hệ thống, giữa ngôn ngữ
toàn dân và phương ngữ, từ đó tìm ra những đặc điểm cơ bản về ngữ
âm, từ vựng ngữ nghĩa.
Với mục đích có được sự hình dung tương đối cụ thể và đầy đủ
các nét ngữ âm địa phương, đặc biệt là trong phần miêu tả thanh điệu
chúng tôi sử dụng phương pháp phân tích miêu tả ngữ âm học và âm vị
Luận văn cao học -Khảo sát từ ngữ địa phương huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hoá


Trần Thu Thủy
12
học kết hợp với so sánh đối chiếu. Do không có điều kiện sử dụng máy
móc thực nghiệm nên trong quá trình xử lý đề tài, bằng quan sát trực

tiếp, chúng tôi dựa trên phân tích phương ngữ của người bản ngữ (sử
dụng thính giác của người phân tích).
Đối với phần khảo sát các đơn vị từ vựng (đơn vị từ và những
đơn vị tương đương với từ) chúng tôi sử dụng chủ yếu là phương pháp
so sánh đối chiếu nhằm đưa ra được hệ thống bảng từ địa phương có sự
khác biệt với từ trong ngôn ngữ toàn dân.
Đối với phần khảo sát những hiện tượng từ vựng mang ý nghĩa
ngữ pháp chúng tôi dựa trên tinh thần sử dụng phương pháp thống kê
là chủ yếu. Những trường hợp có tần số xuất hiện cao sẽ được quy vào
những hiện tượng điển hình. Vì thế trong quá trình thống kê các đơn vị
ngữ pháp như ngữ khí từ, đại từ xưng hô, đại từ chỉ định và nghi vấn
chúng tôi đưa ra những trường hợp điển hình nhất được sử dụng nhiều
nhất. Tiếp đó là quá trình đối chiếu với hệ thống tương đương trong
phương ngữ Bắc. Kết quả của quá trình đối chiếu chính là kết luận
chúng tôi rút ra được trong quá trình làm việc. Mục đích cuối cùng của
luận văn là tìm ra được một cách miêu tả về diện mạo của một phương
ngữ ít được quan tâm và chú ý.







Luận văn cao học -Khảo sát từ ngữ địa phương huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hoá


Trần Thu Thủy
13
NỘI DUNG


Chƣơng I
ĐỊA PHƢƠNG HẬU LỘC VÀ LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU
TIẾNG ĐỊA PHƢƠNG THANH HOÁ

I. Vài nét về địa phƣơng huyện Hậu Lộc
Theo các sách địa chí và địa danh được viết trong thời Lê và thời
Nguyễn thì từ thời Trần về trước, huyện Hậu Lộc có tên là huyện
Thống Bình, thời thuộc Minh (thế kỷ XIV) đổi là Thống Ninh (thuộc
Ái Châu, phủ Thanh Hoá) sang thời Lê đã được gọi là huyện Thuần
Hữu thuộc phủ Hà Trung. Đến thời Lê Trung Hưng do tránh tên huý
của vua Lê Chân Tông mà huyện Thuần Hữu được đổi thành Thuần
Lộc. Về sau lại đổi chữ Thuần thành chữ Phong và gọi là huyện Phong
Lộc. Đến năm Minh Mệnh thứ hai (1821) mới thay chữ Phong bằng
chữ Hậu và gọi là huyện Hậu Lộc. Như vậy có tên Hậu Lộc chỉ mới
gần 200 năm nay. Trong tên này, Hậu có nghĩa là “đầy đặn” trái nghĩa
với “bạc” là mỏng, cùng nghĩa với chữ Hậu trong các từ “hậu tạ”,
“hậu đãi”, “phúc hậu”…
Bờ biển Hậu Lộc vừa lở vừa bồi rất nhanh. Trong khi bờ biển
vùng Đa Lộc ngày càng tiến ra biển thì bờ biển vùng Hải Lộc, Ngư
Lộc lại càng ngày càng sụt lở sâu vào đất liền, khiến cho các làng xóm
nơi đây phải di dân nhiều lần. Hiện tại, để chống lại sự xâm thực của
biển, Nhà nước đã cùng với nhân dân Hậu Lộc xây dựng Kè Vích chạy
dọc bờ biển từ làng Vích (thuộc xã Hải Lộc) đến làng Diêm Phố (thuộc
xã Ngư Lộc) dài đến 4 km. Biển đông không phải lúc nào cũng chung
Luận văn cao học -Khảo sát từ ngữ địa phương huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hoá


Trần Thu Thủy
14

sống hoà bình với bờ biển Hậu Lộc. Những năm có bão to lụt lớn,
ngoài biển cả có nước dâng, thường gọi là “hồi đông”. Chính vì những
hiện tượng phá huỷ của tự nhiên nên trong vốn từ của cư dân Hậu Lộc
khá nhiều những đơn vị từ chỉ những hiện tượng thiên tai của biển cả.
Ví dụ như từ “hồi đông” chỉ hiện tượng dâng nước trong bão hoặc
trong những trận động đất mạnh mà trong ngôn ngữ toàn dân chúng ta
gọi là sóng thần. Sóng biển phá lở ruộng đồng làng mạc, làm cho đoạn
bờ biển phía Nam cứ lui dần, lùi mãi vào bên trong.
Xét trong phạm vi Thanh Hoá thì Hậu Lộc là một huyện đồng
bằng ven biển ở phía đông bắc tỉnh lỵ. Tính theo đường chim bay thì từ
thành phố Thanh Hoá đến huyện Hậu Lộc, điểm gần nhất (cầu Sài xã
Thuần Lộc) chỉ hơn 10 km, điểm xa nhất (mõm Gãnh thuộc đầm cói
Đa Tân, xã Đa Lộc) cũng chỉ ngoài 30 km. Đến huyện lỵ hiện tại (thị
trấn Hậu Lộc, chợ Dầu, xã Thịnh Lộc) khoảng 16 km. Hậu Lộc nằm ở
vùng trung tâm của phủ Hà Trung cũ.
Xét trong phạm vi Việt Nam thì Hậu Lộc là một trong những
huyện ven biển nằm ở cực Bắc Trung Bộ, trên tuyến đường sắt xuyên
Việt và trục đường quốc lộ 1A, cách thủ đô Hà Nội khoảng 100 km về
phía đông nam.
Nhìn chung địa giới Hậu Lộc được phân định phù hợp với diên
cách tự nhiên của sông núi. Về phía Bắc, con sông Lèn, một nhánh của
sông Mã chảy từ ngã ba Bông đến cửa Lạch Sùng là đường biên giới tự
nhiên giữa Hậu Lộc với hai huyện Hà Trung và Nga Sơn.
Phía Tây và Nam Hậu Lộc giáp với huyện Hoàng Hoá bởi núi
Sơn Trang, Đồi Gai, sông Ấu và sông Lạch Trường. Phía đông giáp
biển, từ bờ biển Hậu Lộc đến đường hải giới Việt Nam – Trung Quốc
Luận văn cao học -Khảo sát từ ngữ địa phương huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hoá


Trần Thu Thủy

15
dài 200 km. Xét theo kinh độ và vĩ độ trên mặt địa cầu thì phần đất liền
Hậu Lộc nằm sát vĩ tuyến 20 độ Bắc, điểm cực Bắc của Hậu Lộc ở vị
trí 19o59‟ 20‟‟. Đó là mũi nhọn Làn thuộc xứ Đồng Bản, một bãi bồi
của sông Lèn ở địa phận làng Thiều Xá, xã Cầu Lộc (giáp với xã Hà
Lâm, Hà Trung). Điểm cực Nam của Hậu Lộc ở vĩ tuyến 19o52‟ 50‟‟.
Đó là mũi Xương Cá thuộc đồng muối Nam Tiến xã Hoà Lộc (giáp
thôn Đôn Nghĩa ở chân núi Trường) xã Hoằng Yên, Hoằng Hoá. Như
vậy từ Bắc tới Nam đất đai Hậu Lộc chỉ rộng 6‟30 giây vĩ độ khoảng
12 km.
Điểm cực Tây Hậu Lộc là Eo Hàn, thôn Phong Mục xã Châu
Lộc gần làng Chè, xã Hoằng Khánh, Hoằng Hoá. Nằm trên đường kinh
tuyến 105o59‟ 50‟‟. Điểm cực đông của Hậu Lộc là Mõm Gánh, nhô ra
biển của đồng cói Đa Tân, xã Đa Lộc nằm trên kinh tuyến 105o59‟
50‟‟.
Như vậy chiều ngang từ tây sang đông của Hậu Lộc kéo dài
13‟30‟‟ kinh độ (gần 24 km) gấp đôi chiều dọc từ bắc xuống nam.
Quan sát địa hình của Hậu Lộc, một thầy giáo địa lý lâu năm của
huyện này đưa ra một số so sánh như sau: phần đất liền của Hậu Lộc
giống như một con chim đang bay ra Vịnh Bắc Bộ. Đầu và mỏ chim là
vùng bãi bồi đồng cói Đa Tân (Đa Lộc), cổ chim vươn dài về phía
đông là các xã Minh Lộc, Hưng Lộc, Đa Lộc. Ức chim nở rộng là các
xã Hải Lộc, Hoà Lộc, Xuân Lộc. Chân chim quặp lại về phía tây nam
là các xã Văn Lộc, Thuần Lộc. Cánh chim sải dài về phía tây (từ
Quang Lộc đến Châu Lộc)
Hậu Lộc là địa bàn của cư dân sống từ lâu đời. Tên làng xã trong
huyện trải qua thời gian lịch sử lâu dài cũng có nhiều thay đổi. Từ thời
Luận văn cao học -Khảo sát từ ngữ địa phương huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hoá



Trần Thu Thủy
16
Gia Long (1802 - 1820) về trước đơn vị Hậu Lộc cũng như nhiều
huyện khác trong nước, các đơn vị cư dân cơ sở gồm nhiều loại lớn
nhỏ khác nhau và nhìn chung đều hình thành một cách tự phát. Những
đơn vị cư dân mới hình thành còn nhỏ và chưa có quy củ thường được
gọi là trang, ấp, sở, trại, chòm, xóm hoặc van (nếu là dân đánh cá ở
ven sông ven biển). Cũng có khi được gọi là xá nghĩa là nhà. Ví dụ: Vũ
Xá (nhà họ Vũ), Trương Xá (nhà họ Trương)
Những đơn vị cư dân tương đối đông (gồm nhiều chòm, xóm,
trang, trại …) có tổ chức tương đối quy củ mới được gọi là xã. Ví dụ:
xã Lục Trúc thường được gọi tắt là xã Lục, bao gồm 6 chòm (Chòm
Trước, Chòm Giữa, Chòm Hậu, Chòm Ngu, Chòm Nhất, Chòm Da).
Đơn vị kẻ cũng được dùng từ lâu đời ở Hậu Lộc nhưng không tồn tại
lâu dài. Vì thế, về sau chỉ những làng tương đối cổ mới gọi là kẻ. Ví
dụ, Kẻ Sơn, Kẻ Ngọ (nay thuộc xã Tiến Lộc), Kẻ Lãi (nay thuộc xã Lộc
Sơn). Ngày nay danh từ kẻ thường ít dùng và chỉ có thể tìm thấy trong
những sáng tác dân gian cổ truyền. Ví dụ:
Rượu ngon Kẻ Năn
No ăn, Kẻ Lãi
Nhất gái Kẻ Nhì
Nhì gái Kẻ Sơn
Giầu trơn Kẻ Ngô
Phì phò Kẻ Ngọ
Đánh ngô Kẻ Bồ
Ra tro Kẻ Lục
Khi đơn vị thôn được áp dụng phổ biến và chính thức, ở Hậu
Lộc cũng như nhiều nơi khác đều có hiện tượng đáng chú ý là một số
Luận văn cao học -Khảo sát từ ngữ địa phương huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hoá



Trần Thu Thủy
17
danh từ chung chỉ đơn vị như trang, trại, bái, xá … trước gắn với tên
riêng, nay biến thành tên địa danh. Ví dụ thôn Do Trang, thôn Bái
Trung, thôn Vũ Xá, thôn Trương Xá … Các từ trang , bái, xá trong các
địa danh trên đây đều vốn là danh từ chung chỉ đơn vị được chuyển
thành danh từ riêng.
Tuy Hậu Lộc không phải là một huyện lớn (xét về diện tích và
dân số) nhưng Hậu Lộc có một bề dày lịch sử, một thiên nhiên phong
phú đa dạng, một cộng đồng xã hội có tổ chức truyền thống từ lâu đời.
Xét trên nhiều phương diện, Hậu Lộc vừa có những nét riêng mang
tính địa phương độc đáo vừa có những đặc điểm chung mang tính phổ
biến, tiêu biểu cho nhiều huyện đồng bằng ven biển ở Thanh Hoá và
nhất là các huyện ven biển miền Bắc và miền Trung.
Hậu Lộc có đồi núi và đồng bằng, có sông biển và hải đảo cho
nên con người và giọng nói ở đây cũng có nhiều nét phong phú. Trên
cơ sở của những điều kiện tự nhiên người Hậu Lộc đã sớm tạo ra
những hoạt động kinh tế phong phú, đa dạng với rất nhiều ngành nghề
cổ truyền khác nhau (chăn nuôi, trồng trọt, đánh cá, làm muối, nấu
mắm, nghề rèn, nghề kim hoàn, nghề mộc, nghề gốm, nghề đóng
thuyền, khai thác lâm sản, đi bè, làm đồ tre mây, đay cói ).
Trước cách mạng tháng Tám, Hậu Lộc rất nghèo và không biết
từ bao giờ đã sinh ra câu phương ngôn coi Hậu Lộc là huyện nghèo
“thứ ba” ở Thanh Hoá: “Nhất Xương, nhì Gia, thứ ba Hậu Lộc”. Ngày
nay đời sống cư dân đã khá hơn, đều hơn nhưng nhìn chung vẫn chưa
giầu. Người Hậu Lộc vừa phải tiếp thu những cái mới, xây dựng và
phát triển kinh tế địa phương, vừa phải đấu tranh với những tư tưởng,
nhận thức hạn chế như: “Đèn nhà ai rạng nhà nấy”, “Mõ làng nào,
Luận văn cao học -Khảo sát từ ngữ địa phương huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hoá



Trần Thu Thủy
18
làng ấy đánh – Thánh làng nào làng ấy thờ – Cờ làng nào làng ấy
kéo”, “Khôn ngoan ở đất nhà bay – Dù xe ngựa cỡi đến đây cũng
hèn” …
Sự phát triển của nghề nghiệp đã gắn liền với điều kiện tự nhiên
và khả năng khai thác, sử dụng cải tạo để thoả mãn những nhu cầu
khác nhau của con người. Từ lâu Hậu Lộc đã nổi tiếng với nhiều loại
sản vật, đặc biệt là những sản phẩm từ ngư nghiệp. Thiên nhiên đã đem
đến cho con người Hậu Lộc khá nhiều ưu đãi và thuận lợi đồng thời
cũng gây cho họ không ít khó khăn trở ngại và tai hoạ, nhiều khi rất dữ
dội và khủng khiếp. Tuy vậy người Hậu Lộc vẫn lạc quan với cuộc
sống, gìn giữ truyền thống, phát triển kinh tế địa phương và bảo lưu
những nét riêng trong đó phương ngữ là một dấu ấn quan trọng trong
quá trình tồn tại và phát triển của cư dân Hậu Lộc.

II. Lịch sử nghiên cứu phƣơng ngữ, đặc biệt là phƣơng ngữ Thanh
Hoá
Ngay từ đầu thế kỷ XX một vài công trình nghiên cứu về
phương ngữ tiếng Việt của một số học giả như L. Cadière (1902,
1911*), H. Maspéro (1912*) đã xuất hiện với những vấn đề được nêu
ra là việc phân vùng phương ngữ tiếng Việt và những đặc điểm cụ thể
của một phương ngữ / vùng phương ngữ nào đó.
Nửa sau thế kỷ XX, vị thế của tiếng Việt được nâng lên, vấn đề
phương ngữ được các học giả trong và ngoài nước quan tâm nhiều hơn.
Nhiều công trình nghiên cứu xuất hiện, khảo cứu nhiều vùng phương
ngữ từ Bắc tới Nam. Đối tượng và thủ pháp nghiên cứu ngày càng
được mở rộng và đa dạng, tập trung vào hai vấn đề lớn sau:

Luận văn cao học -Khảo sát từ ngữ địa phương huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hoá


Trần Thu Thủy
19
1/ Vấn đề phân vùng phương ngữ
2/ Vấn đề mô tả các thổ ngữ hay một vùng phương ngữ nào đó
Khi bàn về việc phân vùng phương ngữ tiếng Việt đã có nhiều ý
kiến khác nhau. Có ý kiến chia tiếng Việt làm 2 vùng phương ngữ tuy
ranh giới của họ không như nhau (M. Gordina và các đồng sự, 1970;
Hoàng Phê, ), có ý kiến chia tiếng Việt thành 3 vùng phương ngữ
(Hoàng Thị Châu, 1989; Võ Xuân Trang, 1997 và nhiều người khác),
có ý kiến chia tiếng Việt thành 4 vùng phương ngữ (Nguyễn Kim
Thản, 1982), lại có ý kiến chia tiếng Việt làm 5 vùng phương ngữ
(Nguyễn Bạt Tuỵ, 1950; Huỳnh Công Tín, 1999) và thậm chí lại có
nhà nghiên cứu cho rằng không nên phân chia tiếng Việt thành các
vùng phương ngữ bởi vì sự khác biệt giữ chúng là không rõ ràng.
` Như vậy khi bàn về vấn đề phân vùng phương ngữ đã có nhiều ý
kiến khác nhau, mỗi ý kiến lại căn cứ trên những tiêu chí riêng và nhấn
mạnh vào từng tiêu chí riêng. Trong luận văn này chúng tôi theo quan
điểm chia tiếng Việt làm ba vùng phương ngữ (Hoàng Thị Châu, 1989;
Võ Xuân Trang, 1997 và nhiều người khác), cụ thể như sau:
Vùng Phương ngữ Bắc: toàn bộ các tỉnh phía Bắc
Vùng Phương ngữ Trung: từ Thanh Hoá đến đèo Hải Vân
Vùng Phương ngữ Nam: từ đèo Hải Vân đến hết miền cực Nam
của Tổ quốc
Theo sự phân chia này thì phương ngữ Thanh Hoá thuộc vùng
phương ngữ Trung. Tuy nhiên do vị trí địa lý, Thanh Hoá là tỉnh tiếp
giáp với phần đất cuối cùng của miền Bắc đồng thời là điểm mở đầu
của miền Trung nên phương ngữ Thanh Hoá ít nhiều sẽ mang tính chất

chuyển giao giữa hai vùng phương ngữ. Điều này đã được một số công
Luận văn cao học -Khảo sát từ ngữ địa phương huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hoá


Trần Thu Thủy
20
trình khảo cứu và công bố. Luận văn này chúng tôi bước đầu khảo sát
từ ngữ địa phương huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hoá cũng một phần là
trên tinh thần đó.
Giống như các vùng khác của địa bàn Bắc bộ, địa bàn Trung bộ,
phương ngữ Thanh Hoá cũng tồn tại khá nhiều thổ ngữ, thậm chí là
tương đối dày đặc. Tuy nhiên các công trình nghiên cứu một cách đầy
đủ và cụ thể về từng thổ ngữ trên địa bàn không nhiều, có thể nói là rất
ít. Nguồn tư liệu chúng tôi thu thập được và được biết như sau:
1) Phạm Văn Hảo, Về một số đặc trưng của tiếng Thanh Hoá,
thổ ngữ chuyển tiếp giữa phương ngữ Bắc bộ và Trung bộ. Những vấn
đề ngôn ngữ học về các ngôn ngữ phương Đông, Hà Nội, 1986.
2) Phạm Văn Hảo, Về đặc trưng một số đường đồng ngữ trong
các phương ngữ tiếng Việt. tiếng Việt và các ngôn ngữ Đông Nam Á,
Hà Nội, 1988.
3) Trương Văn Sinh, Nguyễn Thanh Thân, Về vị trí của tiếng địa
phương Thanh Hoá. Ngôn ngữ, số 4, 1985.
4) Hoàng Thị Châu, Tiếng Việt trên các miền đất nước, 2004,
Nxb ĐHQG
5) Tác giả Phạm Văn Hảo cũng có một công trình nghiên cứu
tổng thể về tiếng địa phương Thanh Hóa. Đó là luận án tiến sĩ được
viết bằng tiếng Nga và đã bảo vệ tại Liên Xô cũ.
Ngoài ra trong hoạt động nghiên cứu một số nhà ngôn ngữ cũng
có một số công trình tìm hiểu về tiếng địa phương Thanh Hoá hoặc có
tìm hiểu về một vài đặc trưng nổi bật của tiếng Thanh Hoá như Trần

Trí Dõi, Đoàn Thiện Thuật Các tác giả này đã góp phần nhiều trong
Luận văn cao học -Khảo sát từ ngữ địa phương huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hoá


Trần Thu Thủy
21
việc nhận diện tiếng địa phương Thanh Hoá như một phương ngữ có
đặc điểm riêng và khác biệt so với các tiếng địa phương khác.
Nguồn công trình nghiên cứu trước đây không nhiều cũng gây
một số khó khăn cho chúng tôi trong quá trình nghiên cứu như vấn đề
kế thừa, vấn đề so sánh đối chiếu. Tuy nhiên nếu vùng phương ngữ này
chưa được cày xới nhiều thì điều đó cũng có nghĩa đây là vùng đất màu
mỡ để chúng tôi có thể khảo sát với nhiều nguồn tư liệu phong phú.
Cũng xuất phát từ quan điểm lấy tư liệu làm phương tiện chính để
nghiên cứu nên chúng tôi đã tiến hành điều tra thực địa trên toàn địa
bàn Hậu Lộc, khảo sát tư liệu phương ngữ trên nhiều đối tượng khác
nhau. Kết quả của quá trình khảo sát, chúng tôi đã phân vùng từ ngữ
địa phương huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hoá thành 3 vùng thổ ngữ
tương đối khác nhau. Trên cơ sở đó chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu
Thổ ngữ Ngư Lộc, thổ ngữ Hoa Trường và các vùng còn lại (Sở dĩ
chúng tôi tách riêng hai thổ ngữ Ngư Lộc và Hoa Trường ra thành đối
tượng nghiên cứu độc lập bởi vì trong quá trình khảo sát chúng tôi
nhận thấy hai thổ ngữ này có nhiều đặc điểm riêng biệt khác với các
vùng còn lại. Chỉ cần nghe cách phát âm là người Hậu Lộc có thể biết
được rõ ràng đó là người Hoa Trường, người Ngư Lộc hay không).
Tuy nhiên kết cấu luận văn cũng đi theo mạch chính là miêu tả hệ
thống từ vựng, tiếp đến là miêu tả hệ thống ngữ âm. Với những kết
luận được rút ra từ những vấn đề được nghiên cứu như trên, chúng tôi
tiến hành so sánh với một số vùng thổ ngữ lân cận như thổ ngữ Hoằng
Hoá, thổ ngữ Quảng Xương, góp phần vào công việc mô tả đặc trưng

phương ngữ Thanh Hoá nói chung.

Luận văn cao học -Khảo sát từ ngữ địa phương huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hoá


Trần Thu Thủy
22
Chƣơng II
MIÊU TẢ TỪ NGỮ ĐỊA PHƢƠNG HẬU LỘC TRONG SỰ SO SÁNH
VỚI TỪ NGỮ TOÀN DÂN

Từ vựng là một trong những bộ phận quan trọng của một ngôn
ngữ. Nếu như ngữ âm là thành phần dễ nhận diện ra một phương ngữ,
thổ ngữ thì từ vựng, đặc biệt là ngữ pháp là bộ phận khó nhận diện
hơn. Tuy nhiên, bằng kinh nghiệm sống, tri thức nhất định về phương
ngữ, thổ ngữ người ta cũng có thể nhận diện ra người nói thuộc vùng
nào trên đất nước Việt Nam.
Mỗi ngôn ngữ có một vốn từ nhất định. Vốn từ cũng là nơi phản
ánh được những đặc điểm ngữ âm, ngữ pháp của ngôn ngữ, đồng thời
cũng là nơi lưu giữ bản sắc văn hoá của từng vùng dân cư. Qua vốn từ
trong từng phương ngữ, người ta có thể khu biệt tiếng nói của vùng này
với các vùng khác, với ngôn ngữ toàn dân. Vốn từ địa phương cũng là
phương tiện đặc biệt giúp lựa chọn từ ngữ, hiệp vần, bắt nhịp tạo nên
âm hưởng, giọng điệu riêng của mỗi vùng. Tính cách của người dân
địa phương Hậu Lộc đã được thể hiện phần nào qua vốn từ địa phương
của nó. Tuy nhiên, dù có những khác biệt với vốn từ toàn dân nhưng từ
địa phương vẫn nằm trong một thể thống nhất, có mối quan hệ chặt chẽ
với từ toàn dân. Tìm hiểu vốn từ địa phương của phương ngữ Hậu Lộc
là góp phần tìm hiểu thêm về từ địa phương Thanh Hoá, một bộ phận
quan trọng của phương ngữ Trung.

Phương ngữ Hậu Lộc có vốn từ tương đối đa dạng. Hệ thống từ
vựng trong phương ngữ Hậu Lộc có thể chia làm hai loại, từ và những
đơn vị tương đương với từ. Sự khác biệt giữa từ trong phương ngữ Hậu
Luận văn cao học -Khảo sát từ ngữ địa phương huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hoá


Trần Thu Thủy
23
Lộc với từ toàn dân cũng được xem xét trên hai mặt âm và nghĩa.
Chính vì vậy có thể phân chia từng bộ phận từ vựng thành các loại
khác nhau như sau:
- Từ khác với toàn dân về ngữ âm: tời (trời), lả (lã), …Những
biến đổi ngữ âm đã tạo nên những từ khác âm bộ phận. Các từ này chỉ
khác nhau ở một hoặc hai bộ phận, có thể ở phụ âm đầu, nguyên âm, ở
phụ âm cuối hay ở thanh điệu. Một từ biến đổi về ngữ âm không phải
biến đổi tất cả các bộ phận cùng một lúc mà phần lớn chỉ biến đổi một
trong những bộ phận này, trong khi các bộ phận kia vẫn còn nguyên.
Vì thế đây là cơ sở để khẳng định rằng các bộ phận đó là âm vị, rằng
âm tiết có thể phân đoạn được. Một người thuộc phương ngữ khác có
thể hiểu được những từ này không khó lắm, chỉ bằng cách đối chiếu
với cái vỏ ngữ âm na ná trong óc mình để chỉ hiện tượng đó. Còn đối
với nhà ngữ âm lịch sử thì không những nhận diện được, mà còn qua
chúng phát hiện được những quy luật ngữ âm của tiếng Việt.
Tuỳ theo bộ phận khác âm ta có thể chia ra những từ khác phụ
âm đầu, những từ khác nguyên âm và những từ khác phụ âm cuối
- Từ khác với toàn dân về ngữ nghĩa: có thể chia ra các trường
nghĩa khác nhau như trường nghĩa chỉ công cụ gia đình, chỉ thực vật,
chỉ nghề cá, chỉ bộ phận cơ thể, cách xưng hô
- Về ngữ nghĩa, các từ trong phương ngữ Hậu Lộc khó có thể đối
chiếu với từ trong tiếng Việt văn hoá một cách đơn giản. Chẳng hạn

cặp từ hòm – quan tài, trong phương ngữ Hậu Lộc hòm không chỉ
tương đương với quan tài mà còn có thể dùng như một số đồ dùng
trong gia đình như cái hòm đựng đồ, cái rương, hòm tiền … Tính đa
nghĩa cũng là một đặc trưng của từ trong phương ngữ Hậu Lộc.
Luận văn cao học -Khảo sát từ ngữ địa phương huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hoá


Trần Thu Thủy
24

I. Từ trong hệ thống từ vựng tiếng Việt
Trong tiếng Việt những tiếng như: ba, bốn, ta, đó, tôi, nhà, cười,
đẹp, …, và, với, tuy, nhưng, ối, ái, à, nhỉ, nhé … đều được mọi người
nhất trí coi là từ vì:
Thứ nhất, chúng đều là những cấu trúc vừa có tính hoàn chỉnh,
vừa có tính độc lập.
Thứ hai, chúng đều biểu thị những sự vật, hiện tượng và những
quan hệ thực tại
Thứ ba, chúng đều tham gia cấu tạo câu nói.
Vì những lý do như trên nên từ tiếng việt có những đặc điểm: từ
tiếng Việt là đơn vị nhỏ nhất có nghĩa, từ tiếng Việt có thể có biến thể
ngữ âm, trong từ tiếng Việt, ý nghĩa từ vựng và ý nghĩa ngữ pháp gắn
bó chặt chẽ với nhau.
II. Từ địa phƣơng Hậu Lộc
Từ trong hệ thống từ địa phương bao giờ cũng có những khác
biệt nhất định với hệ thống từ trong ngôn ngữ toàn dân. Sự khác biệt
này được đánh giá và nghiên cứu trên nhiều phương diện, nhưng tựu
trung người ta thường đánh giá sự khác biệt đó trên hai phương diện
ngữ âm và ngữ nghĩa. Cũng trong bối cảnh chung đó, từ trong tiếng địa
phương Hậu Lộc được chúng tôi khảo sát trên hai phương diện ngữ âm

và ngữ nghĩa để thấy rõ hơn đặc điểm về mối quan hệ giữa từ địa
phương với từ toàn dân, sự vận động của từ địa phương trong quan hệ
với từ toàn dân, sự chuyển hoá, đồng nhất và khác biệt của từ trong hai
hệ thống. Các đơn vị từ địa phương được xét dựa vào tiêu chí ngữ âm,
ngữ nghĩa của từ trong sự đối sánh với vốn từ trong ngôn ngữ toàn dân.
Luận văn cao học -Khảo sát từ ngữ địa phương huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hoá


Trần Thu Thủy
25
Trong khoảng 1600 đơn vị từ chúng tôi sử dụng làm bảng từ
điều tra đã bao gồm những đơn vị từ khác biệt về ngữ âm và những
đơn vị từ khác biệt về ngữ nghĩa so với những đơn vị từ tương đương
trong ngôn ngữ toàn dân.
1. Những đơn vị từ vựng khác âm so với từ toàn dân
So với từ toàn dân, từ địa phương có hai loại, biến đổi ngữ âm
và biến đổi ngữ nghĩa. Như vậy xét trong quan hệ với từ toàn dân về
ngữ âm và ngữ nghĩa, từ ngữ địa phương Hậu Lộc sẽ có hai lớp từ lớn
là lớp từ khác âm và lớp từ khác nghĩa.
Trước hết là lớp từ biến âm:
Căn cứ vào bảng từ điều tra chúng tôi đã tiến hành phân loại các
đơn vị từ. Trước hết chúng tôi tách riêng những đơn vị từ khác âm với
từ toàn dân. Đây là bộ phận từ có số lượng tương đối nhiều so với
những từ đơn loại khác.
Xét trong quan hệ với từ toàn dân, có hai loại đơn vị từ khác âm
với từ toàn dân:
Thứ nhất là loại có quan hệ tương ứng ngữ âm 1/1 giữa một từ
địa phương với một từ toàn dân. Ví dụ:
chị – chậy
đi -đây

trâu – tru
chựp – chộp
lon – non …
Đây là loại có tương ứng ngữ âm 1/1 với từ toàn dân quen thuộc
và có số lượng lớn.
Luận văn cao học -Khảo sát từ ngữ địa phương huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hoá


Trần Thu Thủy
26
Thứ hai là những đơn vị có quan hệ tương ứng 1/>1, một từ toàn
dân có thể tương ứng với 2 từ địa phương.
Ví dụ:
cấn – cắn / cặn,
lận – lặn /nặn…
Biến âm trong phương ngữ không chỉ là sự phản ánh quy luật
nội bộ hệ thống vốn từ của một phương ngữ. Các từ địa phương không
chỉ có quan hệ với từ toàn dân mà nó còn trực tiếp có quan hệ với các
từ địa phương khác trong cùng hệ thống.
Ví dụ:
Cấn (địa phương) tương ứng với cặn (toàn dân) đồng thời lại có
quan hệ với cắn (địa phương)
Bên cạnh đó còn có những đơn vị từ có biến thể ngữ âm không
tương ứng với từ toàn dân mà chỉ tương ứng ngữ âm có tính chất nội
bộ trong phương ngữ.
Ví dụ:
đốn – vặc (chặt)…
Dạng thức tương ứng 1/1 (một từ địa phương tương ứng với một
từ toàn dân) còn xảy ra ở những trường hợp sau đây:
Ví dụ:

vần cơm - ghế cơm
ngũ lang – ngủ nhờ
bù lào – bí đỏ …
Dạng thức tương ứng 1/>1 (hơn 1 đơn vị từ địa phương tương
ứng với 1 đơn vị từ toàn dân) còn xuất hiện trong những đơn vị từ sau
đây:
Luận văn cao học -Khảo sát từ ngữ địa phương huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hoá


Trần Thu Thủy
27
Ví dụ:
dao cau, dao nem – dao thái chuối
co quạy, cọ quậy – cựa quậy …
Xét trong quan hệ nội bộ từ địa phương còn có thêm một loại
biến âm nữa, đó là dạng tương ứng giữa từ địa phương với từ địa
phương.
Ví dụ:
kiến hôi, kiến hoi - kiến đen
giữ trâu, thả trâu, thả tru – chăn trâu
ken, nhờm – dử mắt
Hiện tượng từ biến âm là hiện tượng rất phổ biến trong các
phương ngữ. Đồng thời đây cũng là dấu hiệu để nhận diện các phương
ngữ khác nhau, nhận diện sự khác biệt giữa phương ngữ với từ toàn
dân. Thậm chí cũng dựa vào những trường hợp của các đơn vị từ biến
âm này người ta còn có thể tìm thấy nhiều quy luật biến âm lịch sử
trong ngôn ngữ. Đó là là những cứ liệu ngôn ngữ lịch sử đang được lưu
giữ lại trong vốn từ địa phương.

2. Những đơn vị từ vựng khác nghĩa so với từ toàn dân

Đây là lớp từ có âm và nghĩa giống như từ toàn dân tương ứng
nhưng đã có sự phát triển về nghĩa khi chúng được hoạt động trong nội
bộ phương ngữ. Đó là những nét nghĩa riêng biệt, tạo ra sự khác biệt
nhất định so với từ toàn dân. Bên cạnh lớp từ này còn có một lớp từ
khác, những từ cổ, cũ trong từ toàn dân được lưu giữ trong phương ngữ
đã có sự chuyển nghĩa, tạo nên một số yếu tố nghĩa khác biệt nên nó có
một lượng nghĩa khác với từ toàn dân đồng nghĩa đã thay thế nó.

×