Tải bản đầy đủ (.pdf) (177 trang)

Khảo sát hoạt động của một số hư từ trong tác phẩm Phép giảng tám ngày của Alexandre De Rhodes

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.41 MB, 177 trang )



















































ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA NGÔN NGỮ HỌC















TRỊNH KIM NGỌC


KHẢO SÁT HOẠT ĐỘNG CỦA MỘT SỐ HƯ TỪ
TRONG TÁC PHẨM “PHÉP GIẢNG TÁM NGÀY”
CỦA ALEXANDRE DE RHODES




LUẬN VĂN THẠC SỸ NGÔN NGỮ HỌC

















Hà Nội - 2008


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HA NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA NGÔN NGỮ HỌC
 






TRỊNH KIM NGỌC


KHẢO SÁT HOẠT ĐỘNG CỦA MỘT SỐ HƯ TỪ
TRONG TÁC PHẨM “PHÉP GIẢNG TÁM NGÀY”
CỦA ALEXANDRE DE RHODES


LUẬN VĂN THẠC SỸ NGÔN NGỮ HỌC

Chuyên ngành: Ngôn ngữ học
Mã số: 60 22 01
Khóa: 2005-2008




Hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Đào Thanh Lan










Hà Nội - 2008

MỤC LỤC
Mở đầu……………………………………………………… …………….1
Nội dung……………………………………………………………….… 6
Chương I: Cơ sở lý thuyết liên quan đến đề tài…………………………6
1. Khái quát về Hư từ:……….………………………………………….….6
1.1. Khái niệm hư từ……….………………………………… …… … 6
1.2. Phân loại……………….……………………………………….……9
1.3. Ý nghĩa và chức năng………….……………………………….……9
2. Vấn đề hư từ gốc Hán trong tiếng Việt ………………………… 11
3. Khái quát chung về Phó từ, Liên từ, Giới từ………………….……… 15
3.1. Phó từ…………………………………………………………………15
3.2. Liên từ………………………………………………… ……………21
3.3. Giới từ…………………………………………………………… ….24
3.4. Phân biệt liên từ và giới từ ……………………………… …………26
Chương II. Miêu tả hoạt động của Phó từ, Liên từ, Giới từ trong “Phép
giảng tám ngày”………………………………………………… …….32

2.1. Phó từ ……………………………………………………………… 32
1.1.1. Phó từ gốc Hán…… ………………………………….………… 32
2.1.2. Phó từ thuần Việt ……………….…………………………………39
2.2. Liên từ ……………………………………………………………….65
2.2.1. Liên từ gốc Hán…………………………………………… ……. 65
2.2.2. Liên từ thuần Việt………………………………………….………76
2.3. Giới từ ………………………………………………………………95
2.3.1. Giới từ gốc Hán……………………………………………………95
2.3.2. Giới từ thuần Việt…………………………………………… …100
Chương III: So sánh, nhận xét về Phó từ, Liên từ, Giới từ trong “Phép
giảng tám ngày” …………………………………………………….…117
3.1. So sánh lớp hư từ gốc Hán và hư từ thuần Việt…… ………… …117
3.1.1. Số lượng và tần số xuất hiện…………………………………… 117
3.1.2. Một vài nhận xét về sự biến đổi, ý nghĩa cũng như cách dùng của các
hư từ……………………………………………………………… …. 120
3.2. So sánh Phó từ, Liên từ, Giới từ………………………… ……… 132
3.2.1. Bảng so sánh tần số xuất hiện………………………………… 132
3.2.2. Nhận xét:……………………………………………………… 132
Kết luận …………………………………………………… …………140
Danh mục tài liệu tham khảo………………………………… ……. 142
Phụ lục



Luận văn thạc sĩ

Trịnh Kim Ngọc K50A Cao học Ngôn ngữ
1
MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài

Hư từ là một trong những nội dung quan trọng khi tiến hành nghiên cứu
về ngữ pháp tiếng Việt. Hư từ thường được coi là một phạm trù từ loại đối lập
với thực từ. Đây là một tập hợp không lớn về số lượng trong hệ thống từ loại
tiếng Việt nhưng tần số sử dụng khá cao. Đã có nhiều công trình nghiên cứu về
hư từ ở các phương diện như: nguồn gốc, tiêu chí phân định thực từ- hư từ,
chức năng của hư từ…, điển hình là các tác giả Nguyễn Anh Quế, Nguyễn Tài
Cẩn, Nguyễn Kim Thản… Điều đó cũng đủ chứng tỏ việc nghiên cứu hư từ có
vị trí như thế nào trong nghiên cứu ngôn ngữ học nói chung.
Tuy vậy, việc nghiên cứu sâu về hư từ ở phương diện đối chiếu, so sánh
hư từ gốc Hán và hư từ thuần Việt qua các nguồn tư liệu văn học cổ thì vẫn
chưa nhiều. Một vài công trình nghiên cứu được kể tên như: Luận văn thạc sĩ
“Khảo sát hoạt động chức năng của một số hư từ có nguồn gốc từ tiếng Hán
trong tiếng Việt” của tác giả Phạm Thị Hồng Trung, khóa luận tốt nghiệp
“Bước đầu khảo sát hoạt động của một số hư từ ở các tác phẩm trong Văn Thơ
Nôm thời Tây Sơn” của tác giả Trương Thị Thu Trang, khóa luận tốt nghiệp
“Khảo sát hoạt động của phó từ gốc Hán trong tác phẩm “Hoàng Lê nhất thống
chí” của Ngô Gia Văn Phái và tác phẩm “Giàn thiêu” của Võ Thị Hảo”” của
Nguyễn Nam Thái.
Bởi vậy, chúng tôi đã chọn vấn đề “Khảo sát hoạt động của một số hư từ
trong tác phẩm “Pháp giảng tám ngày” của Alexandre De Rhodes” làm đề tài
cho luận văn thạc sĩ của mình.
II. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1. Đối tượng nghiên cứu:
Hệ thống hư từ trong tiếng Việt thường được phân chia thành các tiểu
loại là phó từ, liên từ, giới từ, ngữ khí từ, trợ từ, tình thái từ. Tuy nhiên, trong
Luận văn thạc sĩ

Trịnh Kim Ngọc K50A Cao học Ngôn ngữ
2
luận văn này, chúng tôi chỉ đi sâu vào ba tiểu loại chính là phó từ, liên từ và

giới từ. Đây cũng là những tiểu loại tập trung phần lớn các hư từ gốc Hán trong
tiếng Việt.
2. Phạm vi nghiên cứu:
Trong luận văn này, chúng tôi tiến hành khảo sát, thống kê hư từ ở tác
phẩm “Phép giảng tám ngày” của Alexandre De Rhodes (1593 -1660) do Tủ
sách đoàn kết (thuộc UBĐKCG Thành phố Hồ Chí Minh chủ trương) tuyển
chọn, in ấn và phát hành năm 1993 (gồm 319 trang).
Tập sách này gồm các phần:
1. Bài giới thiệu “Phép giảng tám ngày” của ông Nguyễn Khắc
Xuyên đã được đăng tải trong cuốn sách do Tinh Việt Văn Đoàn xuất bản năm
1961. Nguyễn Khắc Xuyên vốn là một nhà nghiên cứu, đã bảo vệ luận án tại đại
học Gregoriana Roma năm 1958 về cuốn giáo lý bằng Việt ngữ của giáo sư
Alexandre De Rhodes.
2. Bản chụp toàn bộ cuốn “Phép giảng tám ngày” y cỡ 13x17, gồm
hai cột La ngữ và Việt ngữ.
Ngoài ra, ban biên tập của Tủ sách đoàn kết đã thêm vào một thứ ba với
bản văn Việt ngữ đọc theo lối viết ngày nay. (Phía dưới cũng có thêm bản Pháp
văn của Henri Chappoulie). Bản Việt ngữ này phần lớn là bản Việt ngữ của
Tịnh Việt Văn Đoàn với một số điều chỉnh.
“Phép giảng tám ngày” của linh mục Alexandre De Rhodes vốn là tác
phẩm chữ quốc ngữ đầu tiên được in ấn mà hiện chúng ta có. Tác phẩm đã được
nhà in của Bộ Tuyên giáo Roma ấn hành năm 1651, gồm 315 trang văn bản với
hai cột La ngữ và Việt ngữ. Nó được đánh giá là cuốn sách quý, hiếm đối với
những người muốn nghiên cứu sự hình thành của chữ quốc ngữ cũng như cách
trình bày giáo lý công giáo ngay từ đầu, ở thế kỉ XVII.
Luận văn thạc sĩ

Trịnh Kim Ngọc K50A Cao học Ngôn ngữ
3
Do vậy, để có thể dễ dàng tiếp cận tác phẩm, chúng tôi đã sử dụng và tiến

hành khảo sát, thống kê số lượng ba tiểu loại hư từ Phó từ, Liên từ và Giới từ
trên bản văn Việt ngữ đọc theo lối viết ngày nay trong cuốn “Phép giảng tám
ngày” do “Tủ sách đoàn kết” ấn hành.
III. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu và ý nghĩa
1. Mục đích nghiên cứu:
- Khảo sát, miêu tả hoạt động của ba tiểu loại hư từ: Phó từ, Liên từ,
Giới từ trong tác phẩm “Phép giảng tám ngày” ở cả hai mảng từ gốc Hán và từ
thuần Việt.
- Sau khi thống kê, miêu tả, so sánh, chúng tôi sẽ đưa ra một số nhận
xét về việc sử dụng hư từ của tiếng Việt giai đoạn này.
2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Từ những mục đích trên, chúng tôi xác định những nhiệm vụ cụ thể phải
thực hiện:
- Trình bày những lý thuyết quan trọng làm cơ sở lý luận cho luận
văn.
- Khảo sát, thống kê, phân loại hư từ theo ba tiểu loại Phó từ, Liên
từ, Giới từ.
- Miêu tả cụ thể theo từng tiểu loại hư từ.
- So sánh việc sử dụng hư từ trên một vài phương diện và rút ra nhận
xét. Cụ thể:
+ So sánh hư từ gốc Hán và hư từ thuần Việt.
+ So sánh Phó từ, Liên từ, Giới từ.
3. Ý nghĩa:
- Dựng lên bức tranh về ba tiểu loại hư từ: phó từ, liên từ, giới từ
trong tác phẩm công giáo “Phép giảng tám ngày” của Alexandre De Rhodes
thuộc giai đoạn cuối thế kỉ XVII.
Luận văn thạc sĩ

Trịnh Kim Ngọc K50A Cao học Ngôn ngữ
4

- Kết quả của nguồn tư liệu thống kê được sẽ là một nguồn tư liệu
bổ sung trong quá trình nghiên cứu ngữ pháp lịch sử.
IV. Phương pháp nghiên cứu
Trong luận văn này, chúng tôi sử dụng các phương pháp sau:
1. Phương pháp thống kê, phân loại
- Thống kê các hư từ khảo sát được theo phương pháp lập phiếu,
mỗi phiếu tương ứng với một hư từ cụ thể xuất hiện trong ngữ cảnh cụ thể.
- Phân loại tư liệu:
Phân chia theo ba tiểu loại: phó từ, liên từ, giới từ.
Mỗi tiểu loại lại phân chia theo hai phân mảng: hư từ gốc Hán và hư từ
thuần Việt. Trong đó, lớp từ gốc Hán phân thành 2 loại: Hán Việt, Hán Việt
Việt hóa.
- Lập bảng thống kê 3 tiểu loại hư từ phó từ, liên từ, giới từ.
2. Phương pháp miêu tả
Sau khi phân loại cụ thể, chúng tôi sẽ tiến hành miêu tả theo nhóm chức
năng ngữ pháp mà từ đảm nhiệm:
- Ý nghĩa ngữ pháp của từ
- Cấu trúc ngữ pháp mà từ tham gia
- Ví dụ, phân tích.
3. Phương pháp so sánh
Dựa vào nguồn tư liệu thống kê được, chúng tôi sẽ tiến hành lập các bảng
so sánh trên một vài khía cạnh cụ thể. Từ đó đánh giá, rút ra nhận xét.
V. Bố cục của luận văn
Luận văn chia thành ba phần, ngoài phần Mở đầu, Kết luận thì phần Nội
dung gồm có 3 chương:
Chương I: Cơ sở lý thuyết liên quan đến đề tài.
Luận văn thạc sĩ

Trịnh Kim Ngọc K50A Cao học Ngôn ngữ
5

Chương II: Miêu tả hoạt động của Phó từ, Liên từ, Giới từ trong “Phép
giảng tám ngày”.
Chương III: So sánh, nhận xét về hoạt động của ba tiểu loại hư từ trong
tác phẩm “Phép giảng tám ngày”.
VI. Một số chữ viết tắt
DT: danh từ
D: danh ngữ
ĐT: động từ
V: vị từ


















Luận văn thạc sĩ

Trịnh Kim Ngọc K50A Cao học Ngôn ngữ

6
NỘI DUNG
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ THUYẾT LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1. Khái quát về hư từ:
Tiếng Việt có một vốn từ rất lớn. Khi phân chia về mặt từ vựng thì vốn từ
này có thể chia theo cấu tạo từ đơn, từ phức; hoặc chia theo nguồn gốc thành từ
thuần Việt, từ Hán Việt, từ vay mượn, từ quốc tế. Riêng từ Hán Việt cũng đã
phân chia thành Hán Việt cổ, Hán Việt, Hán Việt Việt hóa. Còn về mặt ngữ
pháp, vốn từ này được phân chia thành 2 phân mảng thực từ và hư từ.
Với một ngôn ngữ phân tích tính như tiếng Việt thì bên cạnh những thực
từ, hư từ đóng một vai trò hết sức quan trọng, bởi phần lớn các phạm trù ngữ
pháp, các quan hệ ngữ pháp đều được thể hiện thông qua hư từ. Bản chất ý
nghĩa của hư từ thiên về tính chất ngữ pháp. Trong tiếng Việt, số lượng thực từ
nhiều hơn hẳn so với hư từ. Nhưng tần số sử dụng hư từ lại cao hơn hẳn so với
thực từ. Nếu như không có thực từ thì không thể có sự liên hệ với sự vật, hiện
tượng trong thực tế, nhưng không có hư từ thì không thể suy nghĩ, thông báo
được đầy đủ, rõ ràng. Không thể nói ra toàn những câu mà trong đó chỉ có thực
từ.
Đã có nhiều nhà ngôn ngữ học đề cập đến vấn đề hư từ trong tiếng Việt.
Tuy vậy, cũng chưa hẳn đã có sự thống nhất hoàn toàn giữa các nhà nghiên cứu
về vấn đề này, mà trước tiên có thể kể đến quan niệm về hư từ. Bởi vậy, trong
phần lý thuyết này, chúng tôi xin trích dẫn một vài ý kiến làm cơ sở lý luận cho
việc nhìn nhận, đánh giá về hư từ, phục vụ cho việc tiến hành khảo sát, phân
loại hư từ được chính xác hơn.
1.1. Khái niệm hư từ
Luận văn thạc sĩ

Trịnh Kim Ngọc K50A Cao học Ngôn ngữ
7

- Tác giả Hoàng Phê trong [14, 472] giải thích: “Hư từ là những từ
không có khả năng độc lập làm thành phần câu, được dùng để biểu thị quan hệ
ngữ pháp giữa các thực từ”.
- Nguyễn Anh Quế trong [16, 14] cho rằng: “Hư từ không có ý
nghĩa từ vựng chân thực, chỉ có tác dụng nối các từ, các mệnh đề, các câu lại
với nhau theo một quan hệ nào đó, chúng cũng không thể làm thành phần câu”.
- Diệp Quang Ban trong [3, 469] quan niệm: “Hư từ là từ không có
khả năng độc lập làm thành phần câu và phục vụ cho việc biểu hiện các mối
quan hệ ngữ nghĩa, cú pháp giữa các thực từ”.
- Đinh Văn Đức trong [9, 53] cho rằng: “Hư từ không trực tiếp biểu
niệm, nó là phương tiện dùng để phân suất các hình thức của khái niệm và biểu
đạt mối quan hệ giữa các khái niệm trong tư duy (theo cách phản ánh bằng ngôn
ngữ của người bản ngữ).
- Hoàng Trọng Phiến trong [15, 7] cũng quan niệm: “Hư từ là một
lớp từ làm phương tiện biểu hiện các quan hệ ngữ pháp – ngữ nghĩa khác nhau
giữa các thực từ”.
- Nguyễn Kim Thản trong [20, 149] cho rằng: “Hư từ là những từ
không có ý nghĩa từ vựng hẳn hoi mà chỉ có tác dụng làm công cụ để chỉ các ý
nghĩa ngữ pháp khác nhau”.
- “Ngữ pháp tiếng Việt” của UBKHXH (tr 68): Hư từ là những từ có
nghĩa hư, loại nghĩa mà không thể nhờ nó làm sự liên hệ với sự vật, hiện tượng.
Hư từ được dùng để biểu thị một số những quan hệ cú pháp nhất định.
Như vậy có thể thấy rằng, hư từ là một phạm trù từ loại đối lập với thực
từ. Một số tiêu chí được các nhà nghiên cứu nhắc đến khi phân biệt hư từ với
thực từ (theo [3, 470]) gồm:
- Ý nghĩa khái quát
- Khả năng kết hợp
Luận văn thạc sĩ

Trịnh Kim Ngọc K50A Cao học Ngôn ngữ

8
- Chức vụ cú pháp
Mỗi nhà ngôn ngữ học lại đưa ra những đặc điểm của hư từ:
- Quan niệm của Đinh Văn Đức [9, 53-54]: Hư từ không làm trung
tâm đoản ngữ, trong đa số trường hợp hư từ được dùng làm yếu tố liên kết cú
pháp và là chất “xúc tác” cho việc liên kết từ trong ngữ lưu qua các loại hình
cấu trúc ngữ pháp. Hư từ không có khả năng độc lập tạo ra câu và cũng không
làm thành phần câu.
- Theo Hoàng Trọng Phiến [15, 8-11], hư từ có những đặc điểm:
+ Hư từ mang nghĩa quan hệ. Nghĩa của hư từ gắn với cách thức tư duy,
hành vi tư duy. Lựa chọn hư từ nào để cấu tạo câu nói mang thông tin là xuất
phát từ nhu cầu diễn đạt của tư duy.
+ Hư từ tham gia kiến tạo lập luận.
+ Hư từ không làm trung tâm của cụm từ, của ngữ đoạn và không độc lập
làm thành phần câu cũng như không độc lập tạo ra câu. Hư từ và các kết cấu hư
từ đứng ngoài nòng cốt câu và có liên đới đến toàn câu nhằm diễn đạt ý nghĩa
ngữ dụng nào đó tùy theo chiến lược của người sử dụng chúng.
+ Hư từ tự nó không có khả năng biểu hiện sắc thái nghĩa. Nó có nghĩa
tình thái khi tham gia vào một kết cấu cú pháp nào đó, trong một văn cảnh nào
đó.
+ Hư từ không có khả năng láy để tạo dạng thức ngữ pháp.
Nguyễn Minh Thuyết trong [22] cũng đưa ra một số dấu hiện để nhận
diện từ loại hư từ. Dựa trên các dấu hiệu này, chúng ta có thể có một cách hiểu
khái quát về hư từ như sau:
Một từ được coi là hư từ khi nó không mang ý nghĩa từ vựng chân thực,
không có khả năng làm trung tâm trong đoản ngữ, không đứng độc lập làm
thành phần câu. Hư từ chỉ làm thành tố phụ cho thực từ, hoặc có tác dụng nối
kết các thực từ theo một quan hệ ngữ pháp nào đó.
Luận văn thạc sĩ


Trịnh Kim Ngọc K50A Cao học Ngôn ngữ
9
1.2. Phân loại
Hư từ trong tiếng Việt được xác định bao gồm các tiểu loại: phó từ, liên
từ, giới từ, ngữ khí từ, trợ từ, tình thái từ. Tuy vậy, không phải các nhà ngôn
ngữ học đều có sự thống nhất với nhau trong cách phân chia và gọi tên các tiểu
loại hư từ này.
Ở đây, chúng tôi xin tạm không bàn sâu đến vấn đề này mà tập trung đi
vào chi tiết. Cụ thể, trong phạm vi luận văn này, chúng tôi chỉ tiến hành khảo
sát ba tiểu loại hư từ là : Phó từ, Liên từ, Giới từ. Phần lớn các hư từ gốc Hán
trong tiếng Việt đều thuộc ba tiểu loại này, nên đây sẽ là cơ sở dễ dàng để
chúng tôi tiến hành so sánh, đối chiếu hư từ thuần Việt với các hư từ gốc Hán.
1.3. Ý nghĩa và chức năng
Bên cạnh thực từ, hư từ là mảng từ không thể thiếu trong vốn từ tiếng
Việt. Hư từ cũng là một đơn vị cơ bản của ngôn ngữ, là vật liệu tạo nên các đơn
vị lớn hơn như đoản ngữ, cú… Hư từ không có ý nghĩa từ vựng, nhưng trong
tiếng Việt một số lượng không nhỏ các hư từ là chuyển từ thực mà ra, nhất là
các phó từ, giới từ, liên từ… Khi tham gia tổ chức câu nói, hư từ cũng mang
vào câu những nét nghĩa bổ sung, còn gọi là nghĩa tình thái Bởi vậy, không có
lý gì chúng ta có thể bỏ qua ý nghĩa cũng như chức năng của hư từ.
1.3.1. Ý nghĩa
So với thực từ, hư từ có ý nghĩa từ vựng mờ nhạt hơn (theo [16, 38]), nó
không thể hiện trọn vẹn một ý nghĩa chân thực nào mà chỉ thể hiện ý nghĩa
nghĩa ngữ pháp, như ý nghĩa về thời, thể… hoặc quan hệ liên kết. Để xác định ý
nghĩa của hư từ cần thông qua chức năng cú pháp do chúng biểu thị trong các tổ
hợp.
1.3.2. Chức năng
Theo Nguyễn Anh Quế trong [16, 43] thì hư từ không làm yếu tố chính,
chỉ làm yếu tố phụ trong đoản ngữ, chỉ dùng để kết nối các thành phần câu, các
Luận văn thạc sĩ


Trịnh Kim Ngọc K50A Cao học Ngôn ngữ
10
đoản ngữ với nhau. Tuy vậy, không phải chỉ khi đứng cạnh các yếu tố trung tâm
hoặc nối kết các câu với nhau chúng mới mang nghĩa.
VD: Những cái bàn bằng gỗ.
“Những” là hư từ chỉ số nhiều. Thử thay thế “những” bằng số từ là 3
(chiếc bàn) thì danh từ vẫn là số nhiều. Như vậy chứng tỏ, không phải quan hệ
giữa “những” và “cái bàn” quy định nét nghĩa số nhiều của “những”. Sở dĩ
“những” mang nét nghĩa số nhiều chính là vì nó đối lập với “một” (số ít).
Hư từ mặc dù không lớn về số lượng trong hệ thống từ loại tiếng Việt
nhưng tần số sử dụng lại khá cao. Như trên đã nói, khi tham gia tổ chức câu, hư
từ còn mang vào câu những nét nghĩa bổ sung, còn gọi là nghĩa tình thái (theo
Hoàng Trọng Phiến trong [15, 8]). Theo ông, về mặt triết học, quan hệ cũng là
nghĩa. Đó là khái niệm về sự liên hệ và quan hệ giữa các sự vật mà các từ biểu
thị. Chẳng hạn: quan hệ đồng thời: Anh cùng em đi trên đường cách mạng;
quan hệ sở hữu: Đất nước của chúng ta, đất nước của những người không bao
giờ chịu khuất phục trước bất cứ kẻ thù nào; quan hệ điều kiện – kết quả: Có
làm thì mới có ăn. Nghĩa quan hệ của các hư từ thuộc vào phạm trù trừu tượng,
nghĩa lập luận logic.
1.3.3. Tác dụng
Hoàng Trọng Phiến [15, 11-17] có chỉ ra những tác dụng của hư từ:
- Gắn kết các đơn vị tham gia cấu tạo câu với các quan hệ ngữ
nghĩa- ngữ pháp khác nhau.
VD: Vâng, đã từ bao nhiêu năm rồi, dễ thường cũng phải 45 năm thì
phải.
Phát ngôn có “dễ thường… thì phải” tạo nên kết cấu câu biểu hiện nghĩa
phỏng đoán với nghĩa “rất có thể là như vậy”.
Luận văn thạc sĩ


Trịnh Kim Ngọc K50A Cao học Ngôn ngữ
11
- Đánh dấu nghĩa hàm ý trong lời nói: Chẳng hạn, hư từ “à… thì”
tạo nên một tầng nghĩa sâu của câu: “Mẹ thằng bé mà còn thì nó đã không đến
nối khổ”.
- Hư từ có tác dụng tu từ, thể hiện:
+ Tạo nhịp điệu, tạo sự uyển chuyển cân đối câu thơ.
+ Tăng cường hiệu lực ngôn trung biểu đạt tư tưởng, tình cảm, thái độ
của chủ thể phát ngôn.
+ Nhờ dùng các kết cấu hư từ mà một nội dung tình thái chủ quan của
câu nói được biểu hiện bằng các phát ngôn khác nhau.

2. Vấn đề hư từ gốc Hán trong tiếng Việt
Đề cập đến các từ Việt gốc Hán, tác giả Nguyễn Ngọc San trong [18,
141] có nói: “Một thực tế mà ai cũng phải thừa nhận là giữa tiếng Việt và tiếng
Hán đã có sự tiếp xúc từ rất sớm, vào khoảng hơn 2000 năm về trước. Sự tiếp
xúc này đã để lại nhiều dấu vết trong tiếng Việt hiện đại. Một số lượng khá lớn
từ Hán thuộc các nguồn gốc khác nhau (Hán, Tạng, Miến, Ấn) đã dần dần, qua
nhiều giai đoạn và phương thức khác nhau, được du nhập vào tiếng Việt. Sự du
nhập này có lúc diễn ra chậm chạp, lẻ tẻ, có lúc diễn ra ồ ạt. Cũng có khi nó đã
vào tiếng Việt rồi lại được biến đổi đi theo các sự biến đổi ngữ âm của tiếng
Việt. Thành thử nhìn quang cảnh, ta thấy từ Việt gốc Hán là một hiện tượng đa
dạng và phức tạp”.
Trần Trí Dõi trong [7] cũng có viết: “Do một điều kiện địa lý và lịch sử
đặc biệt, trong quá trình phát triển của mình tiếng Việt đã có một sự vay mượn
hết sức quan trọng từ tiếng Hán…”.
Hay “…tiếng Việt – Mường chung đã biết chủ động lựa chọn những gì
mình chưa có, vay mượn theo cách của mình để đáp ứng, để thỏa mãn đòi hỏi
của sự phát triển mới của văn hóa dân tộc… Và qua đó, chúng ta sẽ hiểu tại sao
Luận văn thạc sĩ


Trịnh Kim Ngọc K50A Cao học Ngôn ngữ
12
tiếng Hán lại được người Việt ta vay mượn một cách phổ biến, ồ ạt như vậy.
Đồng thời chúng ta cũng sẽ hiểu vì sao tất cả những vay mượn đó đều phải tuân
theo, đều phải chấp thuận “cách của tiếng Việt”. Đó là cách những âm đọc có ở
tiếng Hán nhưng không có âm đọc ở tiếng Việt tương đương được xử lý theo
cách đọc của người Việt gần với âm đó; điều đặc biệt quan trọng là các từ vay
mượn đều phải được “Việt hóa về nghĩa”, tức là được cấp cho một ý nghĩa do
người Việt nhận thức, những yếu tố vay mượn đều được nhận diện bằng một
quy tắc hình thức không giống với các yếu tố thuần gốc…”
Quả thật, tiếng Việt và tiếng Hán đã trải qua một quá trình tiếp xúc lâu
dài, sâu rộng và liên tục. Sự tiếp xúc này đã để lại dấu ấn trong tiếng Việt trên
cả ba bình diện: ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp.
Hệ thống từ tiếng Hán nói chung và hư từ tiếng Hán nói riêng khi đi vào
tiếng Việt đã có những cách phát âm khác nhau: tiền Hán Việt (Hán Việt cổ),
Hán Việt, Hán Việt Việt hóa,… nhưng chủ yếu là theo âm Hán Việt. Nghiên
cứu hư từ gốc Hán sẽ cho chúng ta tìm hiểu sâu hơn về ảnh hưởng của ngữ
pháp tiếng Hán đối với ngữ pháp tiếng Việt. Vậy, khái niệm hư từ gốc Hán
được hiểu như thế nào?
Tác giả Phan Văn Các (1981)- theo Nguyễn Văn Khang trong [11, 85],
cho rằng, trong tiếng Việt có hai khái niệm “từ gốc Hán” và “từ mượn Hán” cần
phải phân biệt. Theo đó, “từ gốc Hán” chỉ toàn bộ những đơn vị mà với kiểu
thức từ nguyên học ta có thể tìm thấy mối liên hệ với những đơn vị tương ứng
có một bộ phận chưa được Việt hóa, tức chưa có dấu hiệu hình thức của sự Việt
hóa. Còn “từ mượn Hán” là những từ còn mang cái vỏ âm Hán bác học (âm
Hán Việt) mà chưa có bộ phận nào được Việt hóa (khoái trá, để kháng, cầu/
cẩu an…).
Tuy nhiên, đa phần các nhà nghiên cứu đều cho rằng chỉ nên chấp nhận
một khái niệm “từ gốc Hán” trong tiếng Việt.

Luận văn thạc sĩ

Trịnh Kim Ngọc K50A Cao học Ngôn ngữ
13
Nguyễn Tài Cẩn trong [4] sử dụng khái niệm “yếu tố gốc Hán” để chỉ
những yếu tố có nguồn gốc từ tiếng Hán. Mỗi yếu tố này là một chữ vuông
trong tiếng Hán, còn trong tiếng Việt là một chữ (một âm tiết). Theo tác giả có
ba khu vực yếu tố gốc Hán:
- I: Những chữ có thể đọc theo cách đọc Hán Việt nhưng không liên
quan gì đến tiếng Việt (ta quen gọi là từ cổ Hán Việt).
- II: Những yếu tố người Việt mượn từ tiếng Hán, nhưng không trực
tiếp liên quan đến cách đọc Hán Việt (ta quen gọi là từ Hán Việt Việt hóa).
- III: những yếu tố mượn từ tiếng Hán thông qua cách đọc Hán Việt
nên gọi là yếu tố Hán Việt (từ Hán Việt).
Và từ Hán Việt thuộc nhóm yếu tố thứ III này bắt nguồn từ tiếng Hán ở
giai đoạn sau của tiếng Hán trung cổ gồm thế kỉ VIII, IX (còn gọi là tiếng Hán
cuối đời Đường) du nhập vào tiếng Việt thông qua cách đọc Hán Việt kiểu như
can, cận, đương, liên.
Nguyễn Thiện Giáp trong [10, 242] có nói: “Chỉ được phép coi là từ Việt
gốc Hán những từ Hán nào thực sự nhập vào hệ thống từ vựng tiếng Việt, chịu
sự chi phối của các quy luật ngữ âm, ngữ nghĩa và ngữ pháp của tiếng Việt. (Từ
gốc Hán trong tiếng Việt gồm 2 bộ phận chính: từ gốc Hán đọc theo âm Hán
Việt- bộ phận chủ yếu trong các từ ngoại lai của tiếng Việt; từ gốc Hán không
đọc theo âm Hán Việt (tiền Hán Việt, Hán Việt Việt hóa, từ gốc Hán tiếp nhận
bằng con đường khẩu ngữ qua cách phát âm nào đó của tiếng Hán hiện đại).
Lê Đình Khẩn trong [12, 67] có phân biệt giữa từ gốc Hán và từ thuần
Việt như sau:
“Một đơn vị B trong tiếng Việt được xem là đã vay mượn từ một đơn vị
A trong tiếng Hán, khi giữa B và A có những mối quan hệ sau:
1) B trên cơ bản giống A, gần giống A, hoặc có phần giống A về mặt ngữ

nghĩa.
Luận văn thạc sĩ

Trịnh Kim Ngọc K50A Cao học Ngôn ngữ
14
2) B có khả năng viết thành chữ Hán giống như A.
3) B trên cơ bản giống A, gần giống A, hoặc có phần giống A về mặt ngữ
âm.
… còn theo cách diễn đạt của ngôn ngữ học so sánh – đối chiếu thì phải
tìm ra được, chỉ ra được quy luật đối ứng ngữ âm dựa trên sự tương đồng nào
đó về mặt ngữ nghĩa của các đối tượng cần xem xét (đơn vị gốc Hán với đơn vị
trong tiếng Hán)”.
 Như vậy, hư từ gốc Hán cũng được xác định trong phạm vi những từ
gốc Hán theo cách hiểu này.
=> Để nhận diện và phân biệt từ gốc Hán với từ thuần Việt nói chung và
hư từ gốc Hán với hư từ thuần Việt nói riêng cần dựa vào một số đặc điểm sau:
- Dựa vào cấu tạo vỏ âm thanh (về mặt ngữ âm)
- Dựa vào chữ viết Hán
- Dựa vào nguồn gốc lịch sử.
Theo Lê Đình Khẩn [12, 265] thì “có khoảng trên 100 hư từ gốc Hán
thường dùng trong tiếng Việt, chiếm khoảng 11% tổng số hư từ tiếng Hán.
Những hư từ này cũng giống như tất cả những đơn vị Hán khác đã có những
thay đổi theo hướng Việt hóa. Phó từ, liên từ, giới từ là ba tiểu loại có số lượng
lớn, hầu hết chúng đã hòa nhập vào tiếng Việt một cách dễ dàng. Có một số
thay đổi từ loại khi vào tiếng Việt. Một số khác thay đổi vị trí, đặc biệt là giới
từ. Cũng có trường hợp ngoài chức năng làm công cụ ngữ pháp, còn mang thêm
nghĩa biểu cảm mà trước đó trong tiếng Hán không có. Hư từ gốc Hán cũng tạo
ảnh hưởng nhất định đến cú pháp tiếng Việt”. Cụ thể những biến đổi của hư từ
gốc Hán cũng như những ảnh hưởng của nó tới cú pháp tiếng Việt như thế nào,
chúng tôi sẽ nói rõ trong phần miêu tả ở chương II.


Luận văn thạc sĩ

Trịnh Kim Ngọc K50A Cao học Ngôn ngữ
15
Dựa vào danh sách 3 tiểu loại hư từ: phó từ, liên từ, giới từ trong Luận
văn TH.S của Phạm Thị Hồng Trung và bảng danh sách hư từ gốc Hán trong
[12, 397], chúng tôi sẽ tiến hành khảo sát trong sự so sánh tương ứng với 3 tiểu
loại hư từ thuần Việt. Danh sách cụ thể 3 tiểu loại hư từ gồm Phó từ, Liên từ,
Giới từ chúng tôi sẽ trích dẫn theo từng phần phía dưới.

3. Khái quát chung về Phó từ, Liên từ, Giới từ
3.1. Phó từ
a. Định nghĩa:
Phó từ là những từ chuyên làm thành tố phụ trong các cụm từ do thực từ
làm trung tâm để biểu thị ý nghĩa ngữ pháp cho thực từ.
b. Phân loại:
Phó từ trong tiếng Việt là từ loại tương đối phức tạp cả về tên gọi, khái
niệm, chức năng và cách phân loại. Ngoài tên gọi là “phó từ”, có tác giả còn gọi
nó là “trạng từ”, “tiểu từ”, “phụ từ”.
- Căn cứ vào nguồn gốc, phó từ trong tiếng Việt bao gồm: phó từ gốc
Hán, phó từ thuần Việt.
“Tên gọi phó từ là thuật ngữ được nhiều sách ngữ pháp tiếng Hán dùng
để chỉ lớp từ loại hư từ có tác dụng tu sức hoặc hạn định cho động từ, hình dung
từ (tính từ) biểu thị phạm vi, trình độ, phó từ không thể tu sức và hạn định cho
danh từ (Từ điển tiếng Hán hiện đại 2002). Thuật ngữ phó từ ở Việt ngữ có ba
cách hiểu khác nhau. Trần Trọng Kim trong Việt Nam văn phạm dùng thuật ngữ
trạng tự với nội dung của từ adverb trong tiếng Anh theo cách hiểu của ngữ
pháp truyền thống: “trạng tự là tiếng dùng để phụ thêm nghĩa cho một động tự,
tĩnh tự, một trạng tự khác hay cả một mệnh đề/cú. Nhiều khi tiếng tĩnh tự dùng

biến ra thành trạng tự”. Nguyễn Minh Thuyết trong [22] lại dùng thuật ngữ phó
từ và hiểu phó từ là phụ từ chuyên làm thành tố phụ trong cách cụm từ do thực
Luận văn thạc sĩ

Trịnh Kim Ngọc K50A Cao học Ngôn ngữ
16
từ làm trung tâm để biểu thị ý nghĩa ngữ pháp của thực từ. Như vậy, sẽ có phó
từ cho danh từ và phó từ cho vị từ (động từ, tính từ). Phó từ nằm trong cấu trúc
của đoản ngữ. Cách hiểu này vừa rộng hơn quan niệm trong Hán ngữ (có phó từ
phụ cho danh từ) lại vừa hẹp hơn quan niệm trong Hán ngữ (phó từ thuộc về
đoản ngữ). Nguyễn Kim Thản trong [20] lại dùng thuật ngữ phó từ và hiểu như
Hán ngữ học (tương đương cách hiểu adverb trong tiếng Anh). Đó là cách hiểu
vừa dựa vào hình thức vừa dựa vào chức năng. Đối với tiếng Hán và tiếng Việt,
đặc điểm hình thức được thể hiện ở khả năng kết hợp của phó từ với vị từ, còn
chức năng là phụ trợ ý nghĩa cho vị từ.
Do còn có sự chưa thống nhất như vậy nên ở đây chúng tôi xuất phát từ
cách hiểu phó từ trong Hán ngữ học truyền thống để xác định danh sách phó từ
Hán Việt”. [13]
- Căn cứ vào chức năng ngữ pháp mà từ đảm nhiệm, chúng ta có thể
chia ra các nhóm phó từ sau:
+ Phó từ biểu thị ý nghĩa tiếp diễn: cũng, vẫn, còn, cứ, đều…
+ Phó từ biểu thị ý nghĩa thời gian: đã, đang, sẽ, vừa, mới…
+ Phó từ biểu thị ý nghĩa phủ định: không, chưa, chẳng…
+ Phó từ biểu thị mức độ: rất, khí, hơi, lắm…
+ Phó từ biểu thị ý nghĩa kết thúc: xong, rồi…
c. Chức năng:
Theo Nguyễn Anh Quế trong [17] thì “Phó từ là từ loại không có ý nghĩa
từ vựng chân thực, chúng chỉ bổ sung cho động từ, tính từ một ý nghĩa ngữ
pháp nào đó. Chức năng chủ yếu của phó từ là làm thành tố phụ cho đoản ngữ
và một số lớn là thành tố phụ đứng trước: trừ một số văn cảnh đặc biệt, còn thì

nói chung chúng ít khi một mình làm các thành phần chính của câu như chủ ngữ
hay vị ngữ”.
Như vậy, chức năng của phó từ là:
Luận văn thạc sĩ

Trịnh Kim Ngọc K50A Cao học Ngôn ngữ
17
- Làm thành tố phụ tham gia vào việc tổ chức, cấu tạo nên thành
phần câu khi kết hợp với thực từ.
- Giúp cho việc xác định các quan hệ ngữ pháp, thành phần câu.
- Phó từ thường đứng trước vị từ trong câu (cũng có thể đứng trước
danh từ, đại từ). Cấu trúc ngữ pháp thường là:
PT + Vị từ (động từ, tính từ)  Giữ vai trò làm vị ngữ trong câu.
Một số ít các PT (VD: rồi, xong,…) có thể đứng sau vị từ: V + PT
d. Danh sách hệ thống phó từ tiếng Việt:
Dựa vào danh sách phó từ trong “Cách dùng hư từ tiếng Việt hiện đại”
của Hoàng Trọng Phiến và “Từ điển tiếng Việt” do Hoàng Phê chủ biên,
Trương Thị Thu Trang trong [23] có đưa ra một bảng danh sách phó từ thuần
Việt gồm 97 từ. Tuy nhiên, trong danh sách này, có một số từ cần phải xem xét
lại.
Bất chợt, bất ngờ, sao là những từ song tiết do một yếu tố gốc Hán
bất/sao/hồ và một yếu tố thuần Việt tương ứng chợt/ngờ/cớ/dễ tạo thành. Theo
quan niệm của Nguyễn Thiện Giáp trong [10, 244] thì đây chính là những từ
ngữ Hán Việt được cấu tạo ở Việt Nam và thuộc vào tiểu loại B2: những đơn vị
do các yếu tố gốc Hán và thuần Việt tạo thành.
Cực là hư từ Hán Việt, không phải thuần Việt (theo [1], [12])
Nghiễm nhiên là từ Hán Việt biểu thị nghĩa: ra cách nghiêm trang, y như
vậy (theo [1, 284]).
Nức nở, theo Hoàng Phê trong [14, 745] có hai chức năng: động từ và
phó từ. Tuy nhiên, với chức năng phó từ, nức nở dùng trong khẩu ngữ với nghĩa

không ngớt lời, hết lời. VD: nức nở khen ngôi nhà đẹp.
Bởi vậy, chúng tôi tạm đưa ra bảng thống kê danh sách phó từ trong tiếng
Việt (phó từ thuần Việt) như sau:
Danh sách phó từ tiếng Việt (Thuần Việt)
Luận văn thạc sĩ

Trịnh Kim Ngọc K50A Cao học Ngôn ngữ
18
STT
Phó từ
STT
Phó từ
STT
Phó từ
STT
Phó từ
1
Bao nhiêu
26
Đời nào
51
Nổi
76
Thái quá
2
Băng
27
Hay
52
Nốt

77
Thật
3
Bấy
28
Hằng
53
Nữa
78
Thình lình
4
Bèn
29
Hết
54
Ơi ới
79
Tốt
5
Biết đâu
30
Hơi
55
Phốc
80
Tít
6
Bỗng
31
Hơn

56
Phụt
81
Tựa như
7
Cách
32
Kém
57
Ra
82
Tức thì
8
Chả
33
Khá
58
Ráo
83
Tức thời
9
Chăng
34
Khắc
59
Rất
84
Tỳ tỳ
10
Chẳng

35
Khéo
60

85
Vẫn
11
Chớ
36
Không
61
Rồi
86
Với
12
Chốc
37
Kỳ cùng
62
Rốt cuộc
87
Vừa
13
Chợt
38
Lại
63

88
Vụt

14
Chưa
39
Lắm
64
Sao
89
Xong
15
Chừng
40
Lần
65
Sắp
90
Nào
16
Có lẽ
41
Lâu lâu
66
Sẽ


17
Còn
42
Lũ lượt
67
Sơ sơ



18
Cứ
43
Luôn
68
Suýt


19
Cũng
44
Luống
69
Thỉnh
thoảng


20
Dáng
chừng
45
Mãi
70
Thoáng


21
Dần

46
Miết
71
Thoạt


22
Đã
47
Mới
72
Thoắt


23
Đâu
48
Ngay
73
Thôi


Luận văn thạc sĩ

Trịnh Kim Ngọc K50A Cao học Ngôn ngữ
19
24
Đến
49
Như thế

74
Tót


25
Đều
50
Nỏ
75
Tọt



e. Phó từ gốc Hán trong tiếng Việt:
Theo kết quả nghiên cứu từ luận văn TH.S của Phạm Thị Hồng Trung
[24], trong hệ thống tiếng Việt, phó từ gốc Hán chiếm một số lượng tương đối
nhiều: khoảng 97 từ. Khi du nhập vào hệ thống từ vựng của tiếng Việt, phó từ
gốc Hán đã dần khẳng định được vị trí, vai trò của mình trong ngữ pháp tiếng
Việt. Chúng đảm nhận chức năng ngữ nghĩa ngữ pháp là những từ đi kèm với
thực từ để bổ sung ý nghĩa cho thực từ, tham gia vào tổ chức cú pháp của đoản
ngữ, câu với tư cách là các thành phần phụ cùng với thực từ. Theo tiến trình
phát triển của tiếng Việt, đến nay, một số phó từ gốc Hán đã mất đi, nhưng cũng
có một bộ phận không nhỏ vẫn được sử dụng, trong số đó có các từ gốc Hán đã
được Việt hóa.
Tuy vậy, trong danh sách phó từ gốc Hán của Phạm Thị Hồng Trung vẫn
còn có những từ cần phải xem xét lại. Theo Đào Thanh Lan trong [13], “từ vạn
trong vạn phần biểu thị ý nghĩa số lượng, là số từ chứ không phải là phó từ.
(Chỉ có từ vạn biểu thị ý nghĩa “rất, cực” mới là phó từ). Có 14 từ chỉ là phó từ
của tiếng Hán như: cứu cánh (có nghĩa là cuối cùng), thực tại, khả năng, khả,
tối, tương, đa, khỉ, giai, vật, tảo, tiên, trùng, vạn vì khi vào tiếng Việt hoặc

chúng chỉ hoạt động với chức năng danh từ (cứu cánh, thực tại, khả năng) và
mang nghĩa khác với tiếng Hán, hoặc chúng trở thành hình vị/từ tố của từ (khả,
tối, đa, tương, vạn trong khả ái, tối ưu, đa mưu, tương đối, vạn bất đắc dĩ) hoặc
còn nghi vấn (khỉ, giai, vật, tảo, tiên, trùng). Từ liền không đúng với cách đọc
Hán Việt (cách đọc Hán Việt là liên, và liên không xuất hiện trong tiếng Việt
với tư cách phó từ). Như vậy, danh sách phó từ gốc Hán ở trên còn lại 81 từ là
phó từ Hán Việt”.
Luận văn thạc sĩ

Trịnh Kim Ngọc K50A Cao học Ngôn ngữ
20
Dưới đây chúng tôi sẽ đưa ra bảng thống kê danh sách Phó từ gốc Hán,
dựa theo kết quả nghiên cứu của Phạm Thị Hồng Trung và quan điểm của Đào
Thanh Lan.
Bảng danh sách Phó từ gốc Hán
STT
Phó từ
STT
Phó từ
STT
Phó từ
STT
Phó từ
1
Bất
26
Đích xác
51
Quyết
76

Tự nhiên
2
Bất quá
27
Độc
52
Xác thực
77
Tức khắc
3
Bất tất
28
Đồng
53
Tái
78
Tương hỗ
4
Cánh
29
Đơn độc
54
Tạm thời
79
Vị
5
Căn bản
30
Đương
55

Tất nhiên
80
Vị tất
6
Cập thời
31
Đương
nhiên
56
Tất
81
Vĩnh viễn
7
Chi
32
Hà tất
57
Tằng


8
Chỉ
33
Hiển nhiên
58
Thậm


9
Chuyên

34
Hốt nhiên
59
Thậm chí


10
Cố ý
35
Huống
60
Thông
thường


11
Cơ bản
36
Kì thực
61
Thốt nhiên


12
Cơ hồ
37
Lập tức
62
Thường



13
Cực
38
Liên tục
63
Thường
thường


14
Cực đoan
39
Lục tục
64
Thuần


15
Cực lực
40
Nhất định
65
Thuần túy


16
Dị thường
41
Nhất luật

66
Thực


17
Dĩ nhiên
42
Nhất nhất
67
Toàn


18
Duy
43
Nhất quán
68
Tự hồ


Luận văn thạc sĩ

Trịnh Kim Ngọc K50A Cao học Ngôn ngữ
21
19
Đa
44
Nhất thời
69
Tận



20
Đại
45
Nhất tề
70
Tịnh


21
Đại để
46
Ngẫu nhiên
71
Tuyệt


22
Đại khái
47
Phàm
72
Tuyệt đối


23
Đại thể
48
Quá

73
Tuyệt đỉnh


24
Đặc biệt
49
Quả
74
Tối đa


25
Đáo để
50
Quả nhiên
75
Tối thiểu


3.2. Liên từ
a. Định nghĩa:
Liên từ là một loại hư từ dùng để liên kết các từ, các ngữ đoạn, các vế
trong câu, các vế câu với nhau nhằm biểu thị quan hệ ngữ nghĩa của các thực từ.
Liên từ còn có những tên gọi khác nhau như: “quan hệ từ”, “kết từ” (bao
gồm cả liên từ và giới từ).
VD: Đào Thanh Lan trong [13] có quan niệm: Kết từ để nối kết các từ
thực hoặc các vế câu. Kết từ còn có tên gọi là quan hệ từ vì ngoài việc nối kết,
chúng còn diễn đạt mối quan hệ giữa các thực từ, các vế câu. Có thể chia làm 2
loại kết từ dựa theo kiểu quan hệ được diễn đạt là giới từ và liên từ.

b. Phân loại:
- Liên từ tiếng Việt bao gồm: Liên từ gốc Hán, liên từ thuần Việt.
- Phân loại theo chức năng ngữ pháp: Theo tác giả Diệp Quang Ban thì
liên từ tiếng Việt có thể chia làm hai loại lớn, cụ thể là:
+ Liên từ đẳng lập: chia thành 2 nhóm:
Liên từ liên hợp: (đồng thời) và, với, cùng, còn, mà… (tương phản)
nhưng, mà, song, tuy…
Liên từ lựa chọn: hay, hay là, hoặc…
+ Liên từ chính phụ: chia thành 2 nhóm:
* Liên từ chỉ điều kiện - kết quả: nếu, giá mà, nếu như, hễ, thì…

×