ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
o0o
HÀ THỊ TUYẾT NGA
NGHIÊN CỨU CẢNH HUỐNG NGÔN NGỮ
DÂN TỘC TÀY Ở VÙNG ĐÔNG BẮC VIỆT
NAM
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ HỌC
HÀ NỘI – 2014
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
o0o
HÀ THỊ TUYẾT NGA
NGHIÊN CỨU CẢNH HUỐNG NGÔN NGỮ
DÂN TỘC TÀY Ở VÙNG ĐÔNG BẮC VIỆT
NAM
PHỤ LỤCLUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ HỌC
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. VƢƠNG TOÀN
HÀ NỘI – 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,
kết quả trong luận án là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.
Tác giả luận án
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
CHNN: Cảnh huống ngôn ngữ
VTNN: Vị thế ngôn ngữ
UBND: Ủy ban nhân dân
CP: Chính phủ
THPT: Trung học phổ thông
THCS: Trung học cơ sở
TT: Thị trấn
XHCN: Xã hội chủ nghĩa
PL: Phụ lục
MQH: Mối quan hệ
DTTS: Dân tộc thiểu số
PTBV: Phát triển bền vững
ĐB: Đông Bắc
CTTĐ: Công thức tính điểm
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ
DANH MỤC CÁC BẢNG
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
MỞ ĐẦU 1
1.Lý do chọn đề tài 1
1.1. Giá trị thời sự của đề tài 1
1.2.Giá trị khoa học của đề tài 3
2. Lịch sử vấn đề 4
2.1. Trên thế giới 4
2.1.1. Quan điểm phủ quyết trong nghiên cứu ngôn ngữ DTTS 4
2.1.2. Quan điểm ủng hộ nghiên cứu ngôn ngữ các DTTS 5
2.2. Ở Việt Nam 6
3.Mục đích và nhiệm vụ của luận án 10
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 11
4.1. Đối tượng nghiên cứu 11
4.2. Phạm vi nghiên cứu 11
5. Phương pháp nghiên cứu 11
6. Tài liệu 13
7. Đóng góp mới của luận án 14
7.1. Về phương diện khoa học 14
7.2. Về mặt thực tiễn 15
8. Cấu trúc của luận án 15
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN LÝ LUẬN CẢNH HUỐNG NGÔN NGỮ VÀ
DÂN TỘC TÀY VÙNG ĐÔNG BẮC 16
1.1.Những vấn đề lý luận về CHNN 16
1.1.1. Khái niệm CHNN 16
1.1.2. VTNN - yếu tố chủ đạo hình thành CHNN 19
1.2. Bản chất và vai trò của việc tìm hiểu CHNN Tày 28
1.2.1. Bản chất của việc tìm hiểu CHNN Tày 28
1.2.2. Vai trò của việc tìm hiểu CHNN Tày 28
1.3. Phương pháp nghiên cứu CHNN dân tộc Tày vùng ĐB 31
1.3.1. Phương pháp đánh giá VTNN 31
1.3.2. Phương pháp khảo sát thực tiễn 33
1.3.3. Cơ sở tiếp cận giải pháp duy trì và nâng cao vị thế tiếng Tày Vùng
ĐB 38
1.4. Khái quát vùng ĐB và người Tày vùng ĐB 41
1.4.1. Địa giới hành chính 41
1.4.2. Đặc điểm về địa hình, khí hậu 41
1.4.3. Người Tày vùng ĐB 42
Tiểu kết chƣơng 1 44
CHƢƠNG 2: VỊ THẾ TIẾNG TÀY VÙNG ĐÔNG BẮC TRONG BỐI
CẢNH HỘI NHẬP VÀ PHÁT TRIỂN Ở VIỆT NAM 45
2.1. Sự chuyển giao ngôn ngữ giữa các thế hệ 45
2.1.1 Trên địa bàn tỉnh Cao Bằng 46
2.1.2 Trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn 51
2.1.3 Trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn 55
2.2. Sự tiếp nhận của cộng đồng trong các lĩnh vực mới 58
2.2.1. Trong lĩnh vực giáo dục 58
2.2.2 Trong lĩnh vực xã hội 67
2.2.3. Trong lĩnh vực tín ngưỡng 71
2.2.4 Trong lĩnh vực truyền thông 74
Tiểu kết chƣơng 2 81
CHƢƠNG 3: CẢNH HUỐNG NGÔN NGỮ DÂN TỘC TÀY VỚI SỰ
PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG VÙNG ĐÔNG BẮC VIỆT NAM 83
3.1. Các yếu tố tạo nên CHNN dân tộc Tày 83
3.1.1. Yếu tố dân tộc - nhân khẩu 84
3.1.2. Yếu tố xã hội 87
3.1.3. Yếu tố văn hóa 97
3.1.4. Yếu tố thể chế 106
3.2. Vị thế của tiếng Tày đối với sự PTBV vùng ĐB 113
3.2.1 Vị thế tiếng Tày với sự phát triển kinh tế bền vững 113
3.2.2. Vị thế của tiếng Tày với sự phát triển văn hóa 118
3.2.3 Vị thế tiếng Tày với sự phát triển giáo dục 121
3.2.4 Vị thế Tiếng Tày với sự phát triển xã hội bền vững 126
Tiểu kết chƣơng 3 130
CHƢƠNG 4: GIẢI PHÁP DUY TRÌ VÀ NÂNG CAO VỊ THẾ TIẾNG
TÀY VÙNG ĐÔNG BẮC 132
4.1.Những vấn đề thực tiễn của việc tiếp cận giải pháp duy trì và nâng cao vị
thế tiếng Tày vùng ĐB 132
4.1.1. Nguyên nhân gián tiếp - Các nhân tố vĩ mô 132
4.1.2. Nguyên nhân trực tiếp - Các nhân tố vi mô 135
4.2. Các giải pháp duy trì và nâng cao vị thế tiếng Tày vùng ĐB 137
4.2.1. Duy trì, mở rộng số lượng và nâng cao trình độ sử dụng 137
4.2.2. Duy trì và gắn kết sự phát triển ngôn ngữ DTTS với phát triển kinh tế
142 và
4.2.3. Duy trì và phát huy thái độ tích cực của cộng đồng 145s
4.2.4. Duy trì và phát huy hoạt động giáo dục ngôn ngữ Tày trong cộng
đồng dân tộc 150
4.3. Giải pháp xây dựng mô hình duy trì và mở rộng phạm vi sử dụng ngôn
ngữ dân tộc Tày ở vùng ĐB. 153
4.3.1. Khái niệm mô hình 154
4.3.2. Các bước xây dựng mô hình 155
4.3.3. Các dạng mô hình 155
Tiểu kết chƣơng 4 163
KẾT LUẬN 165
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ 169
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 170
DANH MU
̣
C CÁC SƠ ĐÔ
̀
Sơ đồ 1.1. Các yếu tố tạo thành CHNN 23
Sơ đồ 3.1. Các nguyên nhân gây ra bỏ học ở học sinh dân tộc Tày 123
Sơ đồ 4.1. Khuyến khích sử dụng tiếng Tày trong các lĩnh vực khác nhau 139
Sơ đồ 4.2. Hoàn thiện hệ thống chữ viết và tiêu chuẩn hoá tiếng Tày 141
Sơ đồ 4.3. Phát huy truyền thống văn học, nghệ thuật dân tộc Tày 144
Sơ đồ 4.4. Nâng cao nhận thức, thái độ và kỹ năng sử dụng ngôn ngữ của người
Tày 148
Sơ đồ 4.5. Chương trình dành cho người yêu quý ngôn ngữ dân tộc Tày 149
Sơ đồ 4.6. Giảng dạy ngôn ngữ Tày trong Nhà trường và ở các Trung tâm Học
tập cộng đồng 153
Sơ đồ 4.7. Mô hình tổng quát
ngôn ngữ dân tộc Tày 157
Sơ đồ 4.8. Các yếu tố tham gia vào mô hình duy trì và mở rộng phạm vi sử dụng
ngôn ngữ dân tộc Tày 159
Sơ đồ 4.9. Mô hình lan toả ngôn ngữ 160
Sơ đồ 4.10. Mô hình tập trung ngôn ngữ 162
DANH MU
̣
C CA
́
C BA
̉
NG
Bảng 2.1. Tìm hiểu việc các thế hệ sử dụng ngôn ngữ tại tỉnh Cao Bằng 46
Bảng 2.2a. Khảo sát “Những người trong gia đình biết những ngôn ngữ nào?” 49
Bảng 2.2b. Khảo sát “Thường dùng những ngôn ngữ nào để giao tiếp trong gia
đình?” 49
Bảng 2.2c. Khảo sát: “Ngôn ngữ nào con em ông bà học khi vừa tập nói ?”(hoặc
sẽ cho con em mình học) 49
Bảng số 2.3. Tìm hiểu tình hình sử dụng ngôn ngữ tại huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc
Kạn 52
Bảng 2.4. Chuyển giao ngôn ngữ ở thị xã Bắc Kạn và huyện Bạch Thông, tỉnh
Bắc Kạn 53
Bảng 2.5. Bảng tình hình sử dụng ngôn ngữ tại Lạng Sơn 55
Bảng 2.6. Khảo sát sự chuyển giao ngôn ngữ tại Văn Lãng, Lạng Sơn 56
Bảng 2.7. Khảo sát năng lực ngôn ngữ tại trường tiểu học Nam Phong, xã Hưng
Đạo, Hòa An, Cao Bằng 60
Bảng 2.8. Khảo sát “Có hai hình thức dùng ngôn ngữ để giảng dạy trong trường
bạn thích hình thức nào?” 65
Bảng 2.9. Khảo sát ngôn ngữ trong giáo dục tại thị xã Bắc Kạn và các vùng
xung quanh huyện Bạch Thông, tỉnh Bắc Kạn 65
Bảng 2.10. Khảo sát ngôn ngữ trong giáo dục tại Văn Lãng, Lạng Sơn 66
Bảng 2.11. Việc sử dụng ngôn ngữ trong xã hội tại Bắc Kạn 68
Bảng 2.12. Việc sử dụng ngôn ngữ trong xã hội tại Cao Bằng 69
Bảng 2.13. Việc sử dụng ngôn ngữ trong xã hội tại Lạng Sơn 70
Bảng 2.14. Khảo sát “Ngôn ngữ thường dùng khi kể chuyện, 73
cầu cúng và viết thư” 73
Bảng 2.15. Khảo sát truyền thông tại Bắc Kạn 75
Bảng 2.16. Ngôn ngữ trong truyền thông tại Cao Bằng 75
Bảng 2.17. Khảo sát về sử dụng ngôn ngữ trong truyền thông tại Lạng Sơn 76
Bảng 2.18. Thực trạng sử dụng tiếng Tày tính theo lứa tuổi trong các lĩnh vực
khác nhau (Khảo sát theo tiêu chí 1 và 5) 79
Bảng 3.1. Thành phần dân tộc tỉnh Cao Bằng 85
Bảng 3.2. Thành phần dân tộc Lạng Sơn 86
Bảng 3.3. Thành phần dân tộc Bắc Kạn 87
Bảng 3.4. Khảo sát về thái độ của người Tày đối với việc 89
sử dụng tiếng mẹ đẻ tại Cao Bằng 89
Bảng 3.5. Khảo sát thái độ của người Tày với tiếng mẹ đẻ ở Lạng Sơn 91
Bảng 3.6. Sự thể hiện thái độ của người Tày ở Huyện Đình Lập, tỉnh Lạng Sơn
đối với tiếng mẹ đẻ 92
Bảng 3.7. Thái độ sử dụng ngôn ngữ tại thị xã Bắc Kạn và huyện Bạch Thông,
Bắc Kạn 93
Bảng 3.8. Đánh giá việc sử dụng tiếng Tày trong tương lai 96
Bảng 3.8a. Tiếng Tày sẽ mãi được sử dụng 96
Bảng 3.8b. Tiếng Tày không thể bị ảnh hưởng 96
Bảng 3.9. Bảng điều tra về tác phẩm văn học yêu thích 103
DANH MU
̣
C CA
́
C BIÊ
̉
U ĐÔ
̀
Biểu đồ 2.1. Tỉ lệ người nói tiếng Tày qua các thế hệ 47
Biểu đồ 2.2.Vấn đề giáo dục tiếng Tày trong trường 63
Biểu đồ 2.3. Xu hướng sử dụng tiếng Tày 80
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Giá trị thời sự của đề tài
Dân tộc và ngôn ngữ dân tộc là hai mặt của tiến trình phát triển một cộng
đồng dân tộc, trong đó ngôn ngữ của dân tộc thể hiện trình độ phát triển văn hóa
và tư duy của dân tộc. Ngôn ngữ đã tích tụ lưu giữ quá khứ, lịch sử truyền thống,
với cái nhìn về cuộc sống, về tương lai mà từng dân tộc đã đúc kết và xây dựng
nên. “Ngôn ngữ là yếu tố đầu tiên, là phương tiện quan trọng nhất trong văn hoá
phi vật thể của mỗi dân tộc” [39, tr.251]. Tri thức của con người được mã hoá
trong ngôn ngữ, vì vậy, ngôn ngữ là tài sản văn hoá của các dân tộc. Khi một
ngôn ngữ biến mất thì những kiến thức này cũng mất theo và điều đó đồng nghĩa
với việc một phần lịch sử, văn hóa của nhân loại bị xóa sổ và nền văn hóa chung
của thế giới bị nghèo đi.
Theo Viện nhân chủng học và Lịch sử quốc gia Mexico, trên thế giới đang
tồn tại khoảng 6700 loại ngôn ngữ khác nhau. Các con số thống kê và dự báo đã
chỉ ra rằng cứ khoảng hai tuần thì thế giới mất đi một ngôn ngữ và đến khoảng
cuối thế kỷ XXI có đến 50% ngôn ngữ trên trái đất có thể biến mất. Vấn đề đặt
ra là số ngôn ngữ có thể mất đi đó lại chủ yếu là ngôn ngữ các DTTS (dân tộc
thiểu số). Sự mất mát này diễn ra với tốc độ ngày càng nhanh hơn trong bối cảnh
toàn cầu hóa hiện nay và nếu chúng ta không có những giải pháp tích cực để duy
trì, mở rộng phạm vi sử dụng và có định hướng phát triển thì nguy cơ diệt vong
một số ngôn ngữ các DTTS sẽ là điều không thể tránh khỏi.
Việt Nam đang tham gia vào quá trình toàn cầu hóa, vì thế những tác động
từ bên ngoài đang làm thay đổi đời sống kinh tế, xã hội, văn hóa trong đó có
ngôn ngữ. Hiện tượng giao thoa ngôn ngữ và tiếp nhận một số ngôn ngữ mới
đang tạo nên sức ép đối với ngôn ngữ của các DTTS ở Việt Nam và làm diện
2
mạo cảnh huống của các ngôn ngữ dân tộc thiểu số thay đổi từng ngày. Thực tế
đời sống ngôn ngữ các DTTS ở Việt Nam cho chúng ta thấy rằng: Do chênh
lệch về trình độ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội giữa các dân tộc nên những
ngôn ngữ nhỏ lẻ không được chính những người bản ngữ coi trọng. Một số
người từ bỏ phong tục và ngôn ngữ của dân tộc mình để hòa nhập với những
người không cùng ngôn ngữ. Kết quả là tiếng mẹ đẻ của họ dần dần bị lãng quên
và biến mất theo mức độ và thời gian hội nhập. Chính vì thế vấn đề nghiên cứu
CHNN (cảnh huống ngôn ngữ) của các dân tộc thiểu số cần được coi trọng và
phải được toàn xã hội quan tâm trong thời đại hiện nay. Các nhà nghiên cứu
ngôn ngữ học đã từng khẳng định: “CHNN là một trong những nhân tố hay nói
đúng hơn là những căn cứ khách quan, quan trọng đến mức có thể gây ảnh
hưởng không những trong việc hoạch định chính sách ngôn ngữ mà còn tác
động tới tất cả các khía cạnh của PTBV (phát triển bền vững) vùng mà ngôn ngữ
đó tồn tại trong thời kì hội nhập” [26, tr.7]. Trên thực tế việc nghiên cứu những
ngôn ngữ đang có nguy cơ bị mất đi luôn được ưu tiên hơn những ngôn ngữ
đang còn “khỏe”. Tuy nhiên, nghiên cứu CHNN Tày ở vùng ĐB (Đông Bắc)
mang tính cấp bách trong thời kỳ hội nhập và phát triển bởi dân số người Tày
không ngừng tăng nhưng việc sử dụng tiếng Tày đang bị giảm sút nghiêm trọng.
Chính vì thế việc lựa chọn CHNN dân tộc Tày để nghiên cứu sẽ đáp ứng được
nhu cầu thực tế của thời kỳ hội nhập và phát triển. Điều này sẽ tác động trực tiếp
tới ngôn ngữ các dân tộc khác như Hoa, Dao, Nùng và nhiều ngôn ngữ thiểu số
khác trước tình trạng bị thu hẹp phạm vi sử dụng.
Ngôn ngữ mất đi hay trường tồn chủ yếu do tác động trực tiếp của con
người. Ngôn ngữ dân tộc là tiếng nói của cha ông, là một vũ khí để chứng minh
nguồn gốc dân tộc và bảo vệ chủ quyền lãnh thổ. Khi một đất nước chưa đủ
mạnh về mặt quân sự thì việc dùng văn hóa để bảo vệ chủ quyền là một điều tất
yếu (theo TS.Trần Thu Dung hiện đang cư trú tại Pháp). Vì vậy, việc nghiên cứu
3
CHNN nhằm duy trì và mở rộng phạm vi sử dụng những giá trị di sản văn hóa
của cha ông và hướng tới PTBV là những công việc vừa có giá trị thực tiễn vừa
có giá trị thời sự.
1.2. Giá trị khoa học của đề tài
Mỗi một tộc người trong khối cộng đồng 54 dân tộc trên đất nước Việt
Nam đều góp sức vào quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước. Trong đó, tộc
người Tày là tộc người có ảnh hưởng mạnh mẽ tới các dân tộc khác cùng chung
sống trên địa bàn. Đặt vấn đề nghiên cứu CHNN Tày luận án mong muốn có thể
lý giải được tiêu chí lựa chọn của mình khi chọn “ngôn ngữ của một dân tộc đa
số” trong vùng ĐB Việt Nam để tìm hiểu sự lan tỏa và mức ảnh hưởng của ngôn
ngữ đó trong thời kỳ hội nhập và phát triển. Cả hai tộc người Tày – Việt đã sát
cánh bên nhau trong quá trình dựng nước và giữ nước, xác lập nên các giá trị
văn hoá mang tính bản địa để tồn tại trước khi chịu ảnh hưởng của văn hóa Hán
dưới thời nhà nước Văn Lang – Âu Lạc. Là một thành tố của văn hóa, ngôn ngữ
của người Tày có tác động không nhỏ tạo nên văn hóa Việt. Chính vì thế việc
nghiên cứu CHNN dân tộc Tày vùng ĐB vừa có ý nghĩa thời sự, chính trị, xã hội
vừa có ý nghĩa khoa học. Trong tình hình hiện nay, nghiên cứu CHNN DTTS
nói chung và ngôn ngữ dân tộc Tày nói riêng là một đòi hỏi cấp bách cần phải
được thực hiện, đặc biệt là tìm hiểu cảnh huống một ngôn ngữ có tác động ảnh
hưởng mạnh nhất tới sự phát triển xã hội ở vùng ĐB sau tiếng phổ thông - tiếng
Việt. Xuất phát từ những lý do trên chúng tôi chọn đề tài “Nghiên cứu CHNN
dân tộc Tày ở vùng ĐB Việt Nam” cho luận án của mình.
Nghiên cứu CHNN dân tộc Tày là một vấn đề khá phức tạp. Theo quan
điểm truyền thống, khi nghiên cứu cảnh huống của một ngôn ngữ ở một vùng cụ
thể cần nghiên cứu CHNN qua chính sự tồn tại của ngôn ngữ với tư cách là
phương tiện giao tiếp và cũng là một bộ phận cấu thành mọi cộng đồng, vì vậy
4
những nghiên cứu này thường tập trung giải quyết hai vấn đề chính, đó là hình
thức tồn tại của ngôn ngữ đó và các chức năng mà ngôn ngữ đó đảm nhiệm.
Trên thực tế, việc nghiên cứu CHNN trước đây mới chỉ tập trung nhiều ở
góc độ vi mô chứ chưa khai thác một cách toàn diện. Tuy nhiên, theo Colin
Williams [112, tr.56] thì ngôn ngữ cũng giống như một dạng của hệ sinh thái. Sự
phát triển của ngôn ngữ cũng tuân theo quy luật tiến hóa. Vì vậy, khi nghiên cứu
cảnh huống của một ngôn ngữ nào đó cần phải được đặt trong một vùng cụ thể và
cần được khảo sát trong mối quan hệ chặt chẽ với các đặc điểm về điều kiện văn
hóa, xã hội dân cư của vùng, lãnh thổ mà ngôn ngữ đó tồn tại cùng với những
thay đổi của ngôn ngữ dưới sự tác động của thực tại.
Những khái niệm về vùng hay khu vực đều có tính tương đối, chính vì thế,
chúng tôi muốn đặt nghiên cứu của mình từ hướng tiếp cận ở góc độ vĩ mô
(những chính sách, hoạch định, chuẩn hóa… liên quan tới ngôn ngữ tồn tại) cho
tới góc độ vi mô (chức năng giao tiếp qui thức và không chuẩn mực, phương
ngữ… trong từng giai đoạn cụ thể). Phân tích CHNN được đặt trong MQH tác
động qua lại giữa yếu tố vùng và VTNN (vị thế ngôn ngữ) với sự PTBV sẽ là
những lý luận ban đầu để khơi dậy một hướng nghiên cứu mới trong lĩnh vực
này.
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
2.1. Trên thế giới
2.1.1. Quan điểm phủ quyết trong nghiên cứu ngôn ngữ DTTS
Một số nhà nghiên cứu cho rằng việc giữ lại quá nhiều ngôn ngữ trong
một chừng mực nào đó sẽ làm chia cắt đất nước và là nguyên nhân của những
xung đột sắc tộc và thậm chí họ còn cho rằng quá nhiều ngôn ngữ cùng được sử
dụng sẽ gây trở ngại đáng kể trên con đường phát triển, cản trở việc thống nhất
dân tộc. Pawley [136, tr.10] đã viện dẫn bản sắc dân tộc “thường mang đến
những vấn đề về chính trị cho dân tộc đó”. Nhiều dân tộc ở châu Phi đã phải
5
chịu những cảnh tương tự. Tuy nhiên, những vấn đề này tỏ ra không đúng với
các nước như Thuỵ Sĩ, Ấn Độ Những nước này đều là những cộng đồng đa
ngữ, nhưng ngôn ngữ không hề ảnh hưởng tới việc chia cắt đất nước.
Trước những năm 90 những bài nghiên cứu của Hill [127], Dorian [114],
Fishman [117]… còn chưa thực sự chú ý tới việc phân tích CHNN thiểu số và
nhiều khi coi CHNN là những hiện tượng tự nhiên thì cho đến cuối những năm
1990 đầu năm 2000 các tác giả này [115,118,131,…] đã khẳng định tầm quan
trọng của ngôn ngữ DTTS và đồng thời đề ra các phương pháp tìm hiểu CHNN
hiện đang tồn tại với những biện pháp đề xuất kịp thời để duy trì và mở rộng
phạm vi sử dụng ngôn ngữ các dân tộc.
2.1.2. Quan điểm ủng hộ nghiên cứu ngôn ngữ các DTTS
Đối với mỗi một dân tộc, ngôn ngữ có tầm quan trọng đặc biệt, ngôn ngữ
đã trở thành phương tiện ghi lại kinh nghiệm lịch sử, tri thức, trí tuệ… tạo nên
văn hoá của mỗi dân tộc [27, tr.137]. Ở Việt Nam, ngôn ngữ chính là một trong
ba tiêu chí để xác định thành phần dân tộc: ngôn ngữ là phương tiện để đoàn kết
các dân tộc, là công cụ giải quyết những bất đồng, tranh chấp giữa các quốc gia,
là phương tiện để con người trên khắp hành tinh xích lại gần nhau, chống lại
thiên tai, dịch bệnh, chiến tranh. Ý thức được tầm quan trọng của ngôn ngữ nên
nhiều quốc gia đã ưu tiên cho chiến lược phát triển đa dạng ngôn ngữ và xem đó
là chiến lược quốc gia. Ở phương diện nghiên cứu, các nhà ngôn ngữ cũng đang
tìm kiếm các giải pháp để duy trì và mở rộng phạm vi sử dụng các ngôn ngữ có
nguy cơ biến mất đồng thời tìm kiếm sự phát triển hòa bình, dân chủ giữa các
ngôn ngữ trong từng dân tộc, quốc gia và trên toàn thế giới.
Những cảnh báo về sự mất đi của các ngôn ngữ thiểu số bắt đầu xuất hiện
từ những công trình nghiên cứu đầu tiên của Krauss với cuốn The World's
Languages in Crisis [131]. Từ đó cho tới năm 2003 đã liên tục xuất hiện rất
nhiều các bài nghiên cứu về vấn đề này. Năm 2003, UNESCO đã yêu cầu một
6
nhóm các nhà ngôn ngữ học quốc tế uy tín xây dựng một khuôn khổ quy chuẩn
để đánh giá sức sống toàn diện của một ngôn ngữ nhằm hỗ trợ về mặt chính sách
phát triển và xác định các nhu cầu cần thiết để đưa ra biện pháp nghiên cứu kịp
thời trong cảnh huống các ngôn ngữ bị thu hẹp phạm vi sử dụng. Đây là công cụ
hết sức hữu hiệu cho việc nghiên cứu cảnh huống của ngôn ngữ dân tộc trong sự
phát triển của nó.
2.2. Ở Việt Nam
Đối với Việt Nam, DTTS, văn hoá và ngôn ngữ DTTS là một bộ phận của
dân tộc không thể tách rời cộng đồng dân tộc Việt Nam. Cái độc đáo trong ngôn
ngữ và văn hoá của từng tộc người Việt Nam là: 54 tộc người, cũng có nghĩa là
54 sắc màu văn hóa, để tạo nên diện mạo chung cho văn hoá Việt Nam một nền
văn hoá thống nhất trong đa dạng. Vì vậy, bình đẳng giữa các dân tộc là luận
điểm quan trọng bậc nhất xuyên suốt trong chính sách dân tộc của Đảng Cộng
sản và Nhà nước Việt Nam.
Ngay từ năm 1935, Nghị quyết Trung ương Đảng về công tác trong các
DTTS tại mục d, điều 1, phần III đã quy định “mỗi dân tộc (…) có quyền tự trị,
nghĩa là được giải quyết lấy vấn đề địa phương chỉ quan hệ đến dân tộc mình
được dùng tiếng mẹ đẻ của mình trong sinh hoạt chính trị, kinh tế và văn hóa
của mình”.
Tiếp cận các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học đi trước, để phục
vụ cho luận án của mình, chúng tôi xin được điểm qua ba hướng nghiên cứu: 1.
Lịch sử nghiên cứu ngôn ngữ các DTTS Việt Nam; 2. Lịch sử nghiên cứu ngôn
ngữ Tày; 3. Lịch sử nghiên cứu CHNN ở Việt Nam nói chung và trong thời kì
hội nhập – phát triển nói riêng.
1. Lịch sử nghiên cứu ngôn ngữ các DTTS Việt Nam
Theo hướng này, luận án đã tiếp cận các tác phẩm có giá trị của các nhà
nghiên cứu Vương Toàn [79,80], Hoàng Văn Ma [49,50], Trần Trí Dõi
7
[10,14,15] Những công trình này đã giúp chúng tôi thấy được thực trạng giáo
dục ngôn ngữ vùng DTTS qua những giải pháp, những kiến nghị thiết thực của
tác giả cho sự nghiệp phát triển giáo dục văn hoá ở vùng đồng bào DTTS. Đồng
thời, các nhà nghiên cứu Hoàng Thị Châu [7,8]; Bế Viết Đẳng [23]; Nguyễn
Văn Lợi [44],… cho chúng tôi một cái nhìn khái quát bức tranh toàn cảnh về
ngôn ngữ và văn hoá các DTTS Việt Nam. Chúng tôi coi những luận điểm của
các tác giả là những gợi dẫn quan trọng cho nghiên cứu của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu ngôn ngữ Tày
Chữ viết và văn học của người Tày đã được các học giả người Pháp
nghiên cứu từ rất sớm. Có thể kể một số công trình như: P. Silve với cuốn
Grammaire Thổ; F.M Savina với cuốn Dictionnaire Tay – Annammite –
Francais; Ediguet với cuốn Etude de langue Thổ; R.Darnault với cuốn Cours de
dialecte Thổ 1939 Năm 1937, ông Coedès - Giám đốc Trường Viễn Đông Bác
Cổ đã cho sưu tập văn học dân gian người Tày của tỉnh Bắc Kạn, ông cho những
sưu tầm được đó rất giá trị và đem lưu giữ trong kho lưu trữ của nhà trường. Có
hai tác giả sáng tác chữ Nôm Tày có tác phẩm để lại nhiều dấu ấn là Nông
Quỳnh Văn và Bế Văn Phùng, còn tiếng Tày Latin được sử dụng để sáng tác rất
thành công qua các tác phẩm của nhà thơ trào phúng Hoàng Đức Hậu (1890 -
1945) quê ở Cao Bằng, rồi sau đó là nhà cách mạng Hoàng Văn Thụ (1909 -
1944) quê ở Lạng Sơn Các tác giả văn học Tày từ thời xưa đến hiện nay, trong
cuộc đời văn nghiệp của mình thường sáng tác một lúc cả bằng mấy thứ tiếng,
họ không bị gò bó bởi một ngôn ngữ nào.
Chúng tôi nhận thấy có ba hướng nghiên cứu ngôn ngữ Tày. Thứ nhất, đó
là nghiên cứu ngôn ngữ Tày thuần túy. Các nhà nghiên cứu như Nông Quốc
Chấn (1960), Nguyễn Hàm Dương [20], Nguyễn Thiện Giáp [25], Hoàng Văn
Ma và Lục Văn Pảo [45,61,62], Đoàn Thiện Thuật (1972) là đại diện cho
hướng này. Thứ hai là hướng sưu tầm, nghiên cứu mảng thơ văn, truyện cổ tích,
8
phong tục tập quán của người Tày, Nùng ở ĐB v.v với những tác giả nổi bật là
Triều Ân [2,3], Lã Văn Lô và Hà Văn Thư [42]… Cuối thập niên 70 đến đầu
những năm 90 xuất hiện nhiều chuyên khảo nghiên cứu về ca dao, thành ngữ,
tục ngữ cũng như tiếng nói, chữ viết Tày – Nùng của tác giả Hoàng Quyết (cùng
với Hoàng Triều Ân, Ma Khánh Bằng, Hoàng Huy Phách, Cung Văn Lược,
Vương Toàn, Tuấn Dũng) [66]. Ngoài ra còn phải kể đến các tác phẩm “Địa chí
Cao Bằng” [91], “Văn hoá dân gian Tày” [40], “Tổng tập văn học dân gian các
DTTS Việt Nam” [100, 101]… đã tổng hợp được một cách phong phú về đời
sống các dân tộc nói chung trong đó đề cập rất nhiều về đời sống văn hóa dân
tộc Tày. Đây thực sự là nguồn tư liệu vô cùng quý giá, tạo điều kiện để đi sâu
nghiên cứu mọi mặt của đời sống liên quan tới việc sử dụng ngôn ngữ Tày. Bên
cạnh đó là một số luận văn thạc sĩ gần đây cũng giúp chúng tôi có một cái nhìn
sâu rộng hơn về người Tày cũng như ngôn ngữ Tày. Đơn cử là luận văn thạc sĩ
của Hà Huyền Nga [54], luận án tiến sĩ của Bế Văn Hậu [27]…
Mặc dù vậy, cho đến nay, những nghiên cứu về ngôn ngữ Tày ở ĐB còn tản
mạn và chưa có tính hệ thống. Những công trình nghiên cứu này mới chủ yếu
tập trung giới thiệu hay mô tả sự vận hành của trạng thái ngôn ngữ Tày trong
những cảnh huống nhất định. Bên cạnh đó, đã có những nghiên cứu chuyên
khảo, song chưa sâu đặc biệt là hướng nghiên cứu ngôn ngữ dân tộc Tày trong
thời kì hội nhập nhằm duy trì và mở rộng phạm vi sử dụng ngôn ngữ Tày vẫn
chưa được đề cập đến.
3. Lịch sử nghiên cứu CHNN các DTTS Việt Nam nói chung và trong thời kì
hội nhập - phát triển nói riêng.
Nhiều nhà nghiên cứu chỉ ra các ngôn ngữ Việt Nam đang mất dần đi, đặc
biệt là sức sinh tồn ở các ngôn ngữ tộc người Việt đang chịu ảnh hưởng trực tiếp
từ chính sách dân tộc và chính sách ngôn ngữ của nhà nước. Thêm vào đó, các
ngôn ngữ dân tộc hiện nay cũng đang chịu sự tác động mạnh mẽ của sự phát
9
triển kinh tế và môi trường văn hoá mở. Những đặc điểm riêng của tình hình
ngôn ngữ xã hội học ở Việt Nam đã trực tiếp ảnh hưởng tới sức sống của các
ngôn ngữ.
Trong thời gian gần đây, nhiều nhà nghiên cứu ngôn ngữ đã cảnh báo sức
sống ngôn ngữ của các cộng đồng dân tộc người Việt đang bị suy giảm. Trong
nhiều bài nghiên cứu của mình, nhà ngôn ngữ học người Tày Hoàng Văn Ma đã
chỉ rõ: “hiện trạng biến đổi nhanh của chúng (ngôn ngữ các dân tộc thiểu số –
chúng tôi nhấn mạnh) cùng với các xu hướng phá vỡ cấu trúc tộc người trong sự
tiếp xúc ngôn ngữ và văn hoá ở cấp quốc gia, khu vực và toàn cầu đã rung một
hồi chuông cảnh báo các nhà nghiên cứu Việt Nam học nói chung và các nhà
ngôn ngữ học Việt Nam nói riêng về số phận các ngôn ngữ, đặc biệt là các ngôn
ngữ dân tộc đang có nguy cơ mất đi, cùng với những nền văn hoá tộc người chủ
nhân” [49].
Ngoài nghiên cứu của Hoàng Văn Ma, còn có nghiên cứu của nhiều các
tác giả khác như Hoàng Văn Hành, Nguyễn Văn Lợi, Nguyễn Đức Tồn, Nguyễn
Văn Khang, Tạ Văn Thông… và những công trình [102] xuất hiện từ năm 1984
của nhóm tác giả Hoàng Tuệ, Nguyễn Văn Tài, Hoàng Văn Ma, Lục Văn Pảo và
một số công trình khác của Viện ngôn ngữ học như: [103,105,107]. Các tác giả
với bao suy tư trăn trở cùng các quan điểm đa dạng đa chiều từ các hướng tiếp
cận khác nhau đã dựng nên được những đường nét cơ bản, khắc hoạ nên những
nhân tố cơ bản của CHNN ở Việt Nam. Những nghiên cứu này trong nhiều năm
qua đã giúp cho việc thực thi chính sách, đưa ra những khuyến nghị nhằm giúp
cho ngôn ngữ các dân tộc Việt Nam đi đúng quỹ đạo phát triển của dân tộc, khu
vực và toàn cầu. Các nghiên cứu đó được chúng tôi đánh giá là những tiền đề
quan trọng cho nghiên cứu của chính mình. Các công trình nghiên cứu từ trước
đến nay đã chỉ rõ trình độ phát triển và chức năng xã hội của các ngôn ngữ dân
tộc thiểu số qua những trạng thái song ngữ, đa ngữ trên từng địa bàn cụ thể và
10
đồng thời đã phác hoạ một cách khái quát rất nhiều vấn đề liên quan đến ngôn
ngữ và chữ viết của các dân tộc thiểu số. Số lượng các đề tài nghiên cứu liên
quan đến CHNN ngày một nhiều, được quan tâm trên nhiều bình diện nhiều cụ
thể như Cảnh huống tiếng Nùng của Hoàng Văn Ma [46], Cảnh huống tiếng
Thái của Vũ Bá Hùng, Phạm Văn Hào, Hà Quang Năng [29]… và cũng có nhiều
luận văn cũng như luận án đề cập tới vấn đề này như luận văn cao học của
Nguyễn Thị Thanh Huyền [33], Dương Thị Thanh Hoa [28]… Tuy số lượng
nhiều nhưng dường như vẫn thiếu những nghiên cứu đề cập tới phương pháp
xây dựng một cách có hệ thống để đánh giá cụ thể vị thế cũng như thực trạng
cảnh huống của ngôn ngữ các DTTS trong thời kỳ hội nhập và phát triển. Theo
như nhà nghiên cứu Nguyễn Đức Tồn đã đánh giá trong bài phát biểu tại hội
thảo Chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam về ngôn ngữ trong thời kỳ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, Viện Ngôn ngữ học (Viện
Khoa học Xã hội Việt Nam): “Đã đến lúc Nhà nước cần sớm nghiên cứu xây
dựng ngay bộ luật về ngôn ngữ, trong đó quy định rõ vị thế của mỗi ngôn ngữ
trong hệ thống giao tiếp của cộng đồng người Việt Nam theo các cấp bậc chức
năng xã hội của từng ngôn ngữ” [107]. Điều đó đặt ra yêu cầu nghiên cứu vị thế
của mỗi ngôn ngữ cần khác với cách truyền thống để đáp ứng được nhu cầu của
thời đại. Những chính sách ngôn ngữ sẽ mang lại hiệu quả cao nếu được dựa
trên nghiên cứu nhằm vào những mặt yếu của ngôn ngữ DTTS và đưa ra được
giải pháp khắc phục tạo điều kiện PTBV không những cho chính ngôn ngữ đó
mà còn cho vùng nơi ngôn ngữ đó tồn tại.
3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ CỦA LUẬN ÁN
Ngôn ngữ dân tộc Tày vốn là ngôn ngữ có tác động mạnh mẽ tới sự phát
triển của vùng ĐB ở Việt Nam nhưng sức sống của ngôn ngữ này đang có dấu
hiệu suy giảm. Vì vậy mục đích của luận án là tìm hiểu CHNN dân tộc Tày qua
việc khảo sát thực trạng của nó tại vùng ĐB để xác định tầm quan trọng của
11
tiếng Tày - ngôn ngữ chủ thể vùng với sự PTBV. Qua đó, luận án sẽ gióng một
tiếng chuông cảnh tỉnh trước hiện tượng “xói mòn” các ngôn ngữ dân tộc và để
xuất một số giải pháp duy trì và nâng cao vị thế tiếng Tày để PTBV vùng. Để
đạt được mục đích đã nêu ra, luận án đặt ra các nhiệm vụ như sau:
- Nghiên cứu lý thuyết một cách có hệ thống về CHNN trong đó tập trung
tới những vấn đề của CHNN trong kỷ nguyên toàn cầu hóa, từ đó xây
dựng CTTĐ (công thức tính điểm) để đưa ra giả thuyết về sự thay đổi của
CHNN DTTS.
- Xem xét trường hợp cụ thể để từ đó hướng tới cảnh báo về tình trạng bị
thu hẹp phạm vi sử dụng của ngôn ngữ DTTS nói chung.
- Tiến hành khảo sát vị thế - yếu tố chủ đạo và các yếu tố cấu thành CHNN
dân tộc Tày vùng ĐB.
- Đề xuất các giải pháp duy trì và mở rộng phạm vi sử dụng ngôn ngữ dân
tộc Tày có giá trị thực tiễn, báo động nhiều vấn đề và cũng là vấn đề
chung của ngôn ngữ DTTS.
4. ĐỐI TƢỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU
4.1. Đối tƣợng nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về CHNN DTTS, đặc biệt là nghiên cứu lý
thuyết để tìm hiểu VTNN - yếu tố then chốt trong CHNN.
- Thực trạng sử dụng ngôn ngữ dân tộc Tày của các đối tượng khác nhau
đang tồn tại và diễn biến đổi thay của ngôn ngữ Tày ở Vùng ĐB trong thời kỳ
hội nhập.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Giới hạn về đối tượng và nội dung nghiên cứu: Nghiên cứu CHNN dân
tộc Tày thể hiện ở hai phương diện, phương diện cấu trúc ngôn ngữ (từ vựng,
ngữ âm, ngữ pháp, ngữ nghĩa) và phương diện phạm vi sử dụng. Tuy nhiên, do
khả năng, thời gian và dung lượng cho phép, luận án chỉ tập trung nghiên cứu
12
phương diện mở rộng phạm vi sử dụng tiếng Tày bao gồm phạm vi chức năng,
đối tượng và địa lý hành chính của vùng ĐB, nơi tiếng Tày “ngự trị”.
5. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Các phương pháp chính được sử dụng để thực hiện luận án này là thuộc
về nghiên cứu dân tộc ngôn ngữ học và xã hội học - ngôn ngữ học (định tính và
định lượng): phương pháp điền dã dân tộc - ngôn ngữ học; phương pháp điều tra
định lượng xã hội - ngôn ngữ học; phương pháp miêu tả, so sánh đối chiếu kết
hợp với thống kê; phương pháp đặt “mẫu nghiên cứu”
Trong vài thập niên gần đây ở Việt Nam, phương pháp điều tra xã hội học
- ngôn ngữ học tộc người đã được sử dụng tương đối phổ biến khi nghiên cứu
những vấn đề đương đại trong ngôn ngữ học. Việc sử dụng các tài liệu định tính
thu thập được bằng phương pháp điền dã dân tộc - ngôn ngữ học (quan sát -
tham dự, thảo luận nhóm với người dân, ghi chép và mô tả) tạo thế mạnh cho
nghiên cứu tổng thể. Vì vậy phương pháp này đã được áp dụng triệt để để sử
dụng trong Chương hai bởi CHNN chung của vùng ĐB được ghép nên từ cảnh
huống của các vùng khác nhau. CHNN của từng vùng với những nét đa dạng sẽ
tạo nên bức tranh chung đầy màu sắc nhưng cũng thực sự khó đánh giá nếu
không dựa trên cơ sở điều tra áp dụng giống nhau cho từng tỉnh, thống nhất về
số lượng và các tiêu chí điều tra để dựa vào đó đi dến kết luận chung cho cả
vùng ĐB. Thêm vào đó, chúng tôi còn sử dụng phương pháp điều tra định lượng
của xã hội học - ngôn ngữ học tộc người để nghiên cứu về phương diện xã hội
của tiếp xúc ngôn ngữ, nhằm đưa ra một cái nhìn tổng thể và nêu những dự báo
về sự phát triển ngôn ngữ, văn hóa của tộc người Tày trong tiến trình phát triển
ở Việt Nam. Chúng tôi cho rằng nghiên cứu trên quan điểm tổng thể và phân
tích trên các cứ liệu cụ thể sẽ giúp chúng tôi đánh giá được các vấn đề đang tồn
tại để có những giải pháp kịp thời duy trì và mở rộng phạm vi sử dụng và phát
triển ngôn ngữ dân tộc Tày. Chúng tôi nghiên cứu ngôn ngữ Tày trong MQH
13
tổng thể với các ngôn ngữ khác trong cộng đồng dân tộc Việt Nam, cũng như
trong MQH với các hiện tượng xã hội khác như kinh tế, chính trị, văn hóa, dân
tộc với nhận diện người Tày trong một phạm vi cư trú có trình độ phát triển kinh
tế, văn hóa - xã hội khá cao. Đồng thời, chúng tôi cũng sẽ tuân theo quan điểm
cụ thể để xem xét hiện tượng phát triển ngôn ngữ Tày theo các nhóm xã hội của
cộng đồng cư dân ở các vùng để thấy được trình độ phát triển ngôn ngữ trong
nội bộ của tộc người Tày.
Ngoài ra , luận án còn sử dụng ca
́
c phương pháp : miêu tả , so sánh đối
chiếu kết hợp với thống kê . Các phương pháp này được sử dụng trong chương
ba nhiều hơn cả đặc biệt với vấn đề tìm hiểu CHNN dân tộc Tày trong sự phát
triển bền vững vùng ĐB Việt Nam. Còn với phương pháp so sánh đối chiếu,
chúng tôi đã dùng phổ biến trong việc khảo sát so sánh từ vựng của tiếng Tày và
tiếng Việt để tìm hiểu sự mai một của tiếng Tày.
Đặc biệt là chúng tôi tạm đặt ra một mẫu nghiên cứu để làm viê
̣
c: sau khi
xác lập mục đích và hướng nghiên cứu cụ thể. “Mẫu” nghiên cứu được sử dụng
trong luận án dựa trên mật độ cư trú của cư dân (nơi người Tày cư trú tập trung
và nơi họ sống xen kẽ với tộc người khác); theo nhóm xã hội - nghề nghiệp (cán
bộ, công nhân, nông dân và học sinh); theo lứa tuổi thay cho cách khảo sát thông
thường phân tầng xã hội trong sử dụng ngôn ngữ.
6. TÀI LIỆU
Để thực hiện đề tài này, luận án đã sử dụng nhiều nguồn tài liệu khác
nhau. Nguồn tài liệu chủ yếu là các tài liệu điền dã dân tộc học, được thu thập
qua các hình thức:
Phỏng vấn bằng bảng hỏi (an - ket) đối với nhiều đối tượng ở khu vực
ĐB Bộ (Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên…). Tuy nhiên chúng tôi
tập trung chủ yếu vào ba tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn với nhiều mẫu hỏi
khác nhau.
14
Một số bản tin phát thanh của Đài phát thanh địa phương vào các năm
2005, 2007, 2011 và tờ rơi (viết bằng chữ Tày) của cơ quan Tư pháp tỉnh Lạng
Sơn, Cao Bằng, Bắc Kạn; những bài viết, công trình nghiên cứu của các tác giả
trong và ngoài nước từ trước đến nay trên các sách, báo, tạp chí, báo cáo khoa
học về sự phát triển ngôn ngữ, tiếp xúc ngôn ngữ, các yếu tố ảnh hưởng đến sự
phát triển ngôn ngữ, biến đổi ngôn ngữ trong sự biến đổi văn hóa DTTS, kể cả
những bài viết về vấn đề giáo dục ngôn ngữ DTTS, song ngữ và chính sách
ngôn ngữ của các quốc gia trên thế giới cũng như ở Việt Nam cũng được chúng
tôi sử dụng.
Bên cạnh các tài liệu của các nhà nghiên cứu đi trước còn có nguồn tài
liệu điều tra thực địa được chúng tôi tiến hành trong nhiều năm với nhiều hình
thức để tạo nên nguồn tư liệu có giá trị nhằm làm sáng tỏ các giả thuyết nghiên
cứu của luận án. Trước tình hình chung cho rằng tiếng Tày có vị thế tương đối
an toàn, số người sử dụng ổn định thì chúng tôi đưa ra giả thuyết cho rằng diện
mạo CHNN vùng ĐB đang thay đổi, vị thế của tiếng Tày cũng đang giảm sút và
ảnh hưởng không nhỏ tới sự PTBV vùng.
Để tìm hiểu CHNN tiếng Tày vùng ĐB có thực sự an toàn hay cũng đang
thay đổi trong thời kỳ hội nhập, chúng tôi xin đề xuất một hướng nghiên cứu:
Nghiên cứu lý thuyết để có được những nhận định ban đầu về CHNN dân tộc
Tày. Thêm vào đó, chúng tôi xây dựng CTTĐ để xác định độ nguy cấp của ngôn
ngữ được lựa chọn nghiên cứu. Những khảo sát tiếp theo sẽ làm sáng tỏ giả
thuyết mà chúng tôi đặt ra. Kết quả nghiên cứu CHNN sẽ giúp chúng tôi đánh
giá sơ bộ vị thế các ngôn ngữ DTTS chung và chỉ ra sự thay đổi của CHNN mà
chúng tôi lựa chọn, qua đó sẽ xác định được ảnh hưởng của giá trị ngôn ngữ dân
tộc tới việc PTBV vùng.
7. ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN