Tải bản đầy đủ (.pdf) (132 trang)

Tìm hiểu vế so sánh trong thành ngữ so sánh tiếng Việt và tiếng Anh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.07 MB, 132 trang )

Comparison Idioms


1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
=***=




NGUYỄN VIỆT HOÀ




TÌM HIỂU VẾ SO SÁNH
TRONG THÀNH NGỮ SO SÁNH
TIẾNG VIỆT VÀ TIẾNG ANH
(Luận văn Thạc sĩ ngành Ngôn ngữ học)











Hà Nội - 2009
Comparison Idioms


2


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
=***=




NGUYỄN VIỆT HOÀ




TÌM HIỂU VẾ SO SÁNH
TRONG THÀNH NGỮ SO SÁNH
TIẾNG VIỆT VÀ TIẾNG ANH
Chuyên ngành: Ngôn ngữ học
Mã số: 60 22 01


Người hướng dẫn: PGS. TS Vũ Đức Nghiệu









Hà Nội - 2009
Comparison Idioms


3


Mục lục

Trang
MỞ ĐẦU
3
1. Lý do chọn đề tài
3
2. Đối tượng, phạm vi và mục đích nghiên cứu
4
3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
5
4. Phương pháp và tư liệu nghiên cứu
8
5. Bố cục luận văn
13
Chương 1. Tổng quan lý luận về thành ngữ và thành ngữ so sánh
14

1.1. Con đường hình thành thành ngữ
14
1.2. Các quan niệm về thành ngữ trong tiếng Việt và tiếng Anh.
15
1.2.1. Quan niệm về thành ngữ trong tiếng Việt.
16
1.2.2. Quan niệm về thành ngữ trong tiếng Anh
17
1.3. Phân biệt thành ngữ và một số đơn vị lân cận
22
1.3.1. Phân biệt thành ngữ với tục ngữ
22
1.3.2. Phân biệt thành ngữ với cụm từ tự do
26
1.3.3. Phân biệt thành ngữ với từ ghép
26
1.3.4. Một số trường hợp trung gian
27
1.4. Phân loại thành ngữ.
29
1.5. Nhận diện thành ngữ so sánh tiếng Việt
31
1.6. Nhận diện thành ngữ so sánh tiếng Anh
34
Tiểu kết
36
Chương 2. Cấu trúc thành ngữ so sánh và cấu trúc vế so sánh của
thành ngữ so sánh tiếng Việt và tiếng Anh
38
2.1. Đặc điểm cấu trúc thành ngữ so sánh tiếng Việt

38
2.1.1. Vế A
40
2.1.2. Từ so sánh
43
2.1.3. Vế B
44
2.2. Đặc điểm cấu trúc thành ngữ so sánh tiếng Anh
48
2.2.1. Vế A
52
Comparison Idioms


4


2.2.2. Từ so sánh
55
2.2.3. Vế B
55
Tiểu kết
57
Chương 3. Hệ hình ảnh và biểu trưng trong vế B của thành ngữ so
sánh Việt - Anh
61
3.1. Một số tiền đề lý luận cho việc so sánh hình ảnh và biểu trưng ở thành
ngữ so sánh Việt – Anh
61
3.1.1. Quan niệm về hình ảnh và biểu trưng

61
3.2. Hệ hình ảnh và biểu trưng trong thành ngữ so sánh tiếng Việt và
tiếng Anh
63
3.2.1. Thành ngữ tiếng Việt và tiếng Anh cùng hình ảnh và biểu trưng
64
3.2.2. Thành ngữ tiếng Việt và tiếng Anh cùng biểu trưng nhưng khác
hình ảnh
68
3.2.3. Thành ngữ tiếng Việt và tiếng Anh cùng hình ảnh nhưng khác
biểu trưng
68
3.2.4. Thành ngữ tiếng Việt không có thành ngữ tiếng Anh tương
đương
70
3.2.5. Thành ngữ tiếng Anh không có thành ngữ tiếng Việt tương
đương
70
3.3. Các vấn đề đằng sau thành ngữ so sánh
71
3.3.1. Phân loại các hình ảnh đại diện trong vế B theo chủ đề
71
3.3.2. Nhận xét
72
Tiểu kết
78
KẾT LUẬN
80
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
87

PHỤ LỤC

Comparison Idioms


5


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Trước một thế giới khách quan vô cùng phong phú và đa dạng, loài người
đã thực hiện các thao tác so sánh, để đánh giá và mô tả một cách cụ thể môi
trường xung quanh, bao gồm cả môi trường tự nhiên và môi trường xã hội.
Trong quá trình đó, họ đã tìm ra nhiều phương thức khác nhau để thể hiện các
mức độ so sánh. Một trong những sản phẩm ngôn ngữ của phương thức đó là
thành ngữ so sánh. Thành ngữ (idioms) là loại đơn vị từ vựng tồn tại trong mọi
ngôn ngữ. Muốn nghiên cứu thành ngữ và thành ngữ so sánh, chúng tôi thấy
cần thiết phải làm rõ nội hàm khái niệm thành ngữ, bởi trên thế giới, đang tồn
tại những cách hiểu khác nhau về tên gọi này.
Thuật ngữ thành ngữ có hai nội dung. Nội dung thứ nhất: là loại đơn vị có
tính chất đặc trưng, riêng biệt nằm trong hệ thống ngôn ngữ, mà cụ thể là trong
hệ thống từ vựng chung của một dân tộc, một đất nước, hay thậm chí là một
vùng. Nội dung thứ hai, xét về mặt cú pháp, thành ngữ là một cụm từ mà nghĩa
của nó không chỉ là “phép cộng” đơn giản nghĩa các từ thành viên lại với nhau.
Điều này thể hiện ở chỗ, ta có thể biết hết nghĩa của từng từ, nhưng khi ghép
chúng lại với nhau thì chúng rất ngô nghê hoặc vô nghĩa. Ví dụ như các cụm từ
give way (đưa cho /đường đi), give up (đưa/lên) …Với những thành ngữ loại
này, chúng ta chỉ được phép hiểu nghĩa của chúng ở trên bình diện chung của
cả cụm từ như give way là nhượng bộ, chịu thua, giảm giá, hay give up là từ bỏ

một thứ gì đó.
Ngoài những chức năng cơ bản giống từ, thành ngữ còn là loại đơn vị có
khả năng chứa đựng nhiều hơn từ những giá trị ngôn ngữ - văn hóa, mặc dù
kích thước vật chất của nó không lớn. V. M Mokienko đã nói: “Đơn vị thành
ngữ, cùng với các từ vị của mình, chính là nguồn ngữ liệu chủ yếu cho tri thức
nền của một dân tộc và còn có khả năng tích lũy thông tin ngoài ngôn ngữ”.
Comparison Idioms


6


Điều này có thể lý giải được dựa trên nguyên tắc tiết kiệm trong ngôn ngữ: con
người chỉ dùng một số lượng hữu hạn các kí hiệu ngôn ngữ, nhưng luôn muốn
thể hiện được nhiều thông tin về thế giới vật chất và tinh thần vô hạn, nơi mà
họ đang tồn tại ở đó. Nghiên cứu thành ngữ ở bất cứ góc độ nào cũng sẽ giúp
cho những người quan tâm hiểu thêm về loại đơn vị từ vựng rất thú vị này.
Việc nghiên cứu thành ngữ so sánh cũng là một bước đi phù hợp với xu thế
hiện nay, khi ranh giới văn hóa giữa các quốc gia đang dần xích lại gần nhau
hơn
1
. Chúng tôi nghĩ rằng, chính xu hướng quốc tế hóa mọi mặt của đời sống
kinh tế - văn hóa - xã hội đã đặt ra những yêu cầu mới cho các nhà ngôn ngữ
học trên toàn thế giới. Và một trong những nhiệm vụ quan trọng đó, là làm con
người trên thế giới hiểu nhau hơn.
Tiếng Anh hiện là ngôn ngữ được sử dụng rộng rãi nhất trên thế giới và ở
Việt Nam hiện nay. Trong xu thế hội nhập và giao thoa văn hóa, điều cần thiết
đối với người học và sử dụng ngoại ngữ, là nắm vững tiếng mẹ đẻ, đồng thời
có những kiến thức lý luận nhất định về ngoại ngữ mà mình đang sử dụng để
từ đó phục vụ cho việc dịch tương đương hai hay nhiều ngoại ngữ. Nghiên cứu

đề tài này, chúng tôi mong muốn làm sáng tỏ thêm một số vấn đề về đặc điểm
của thành ngữ so sánh tiếng Anh, trong sự so sánh đối chiếu với thành ngữ
tiếng Việt, nhằm tăng khả năng vận dụng thành ngữ so sánh hiệu quả hơn trong
giao tiếp, phục vụ cho việc dạy và học tiếng Việt cho người nước ngoài ở trình
độ cao.

2. Đối tượng, phạm vi và mục đích nghiên cứu



1
Năm 1999 Hội Nghiên cứu Thành ngữ Châu Âu (European Society of Phraseology EUROPHRAS) thành lập với sự tham
gia của các nhà nghiên cứu từ vựng và thành ngữ Châu Âu. Một trong những trọng tâm nghiên cứu của Hội là dự án
“Những thành ngữ phổ biến ở Châu Âu và xa hơn” (Widespread Idioms in Europe and Beyond - A Cross-linguistic and
Cross-cultural Research Project) với sự tham gia của nhiều nhà khoa học từ các dân tộc nói gần 80 ngôn ngữ Châu Âu
(trên tổng số ước chừng 150 - 200 ngôn ngữ) và 11 ngôn ngữ khác (như Ả Rập, Hán, Nhật, Hàn, Việt…).
Comparison Idioms


7


Tùy vào các tiêu chí khác nhau, các nhà nghiên cứu chia thành ngữ ra làm
nhiều loại. Nếu căn cứ vào phương thức tạo nghĩa, thành ngữ được chia ra làm
2 loại lớn: thành ngữ so sánh và thành ngữ miêu tả ẩn dụ. Trong luận văn này,
chúng tôi nghiên cứu thành ngữ so sánh (comparison idioms), mà trọng tâm là
vế so sánh của loại thành ngữ này. Cụ thể hơn, trên cơ sở thiết lập một danh
sách các thành ngữ so sánh của 2 ngôn ngữ Việt và Anh, chúng tôi sẽ phân
tích, tìm hiểu vế so sánh (vế B) của thành ngữ so sánh ở khía cạnh cấu tạo, các
hình ảnh và hệ biểu trưng của chúng, qua đó, hy vọng chỉ ra được những sự

khác nhau trong tư duy dân tộc giữa những người sử dụng tiếng Anh (người
Anh và người Mỹ) và người Việt.
Chúng tôi khai thác những khía cạnh cấu trúc và ngữ nghĩa của thành ngữ,
để thấy cách biểu hiện so sánh qua thành ngữ so sánh, giúp người Việt Nam
học tiếng Anh lẫn người có bản ngữ là tiếng Anh vượt qua được những trở
ngại và những di chuyển tiêu cực khi dịch các thành ngữ so sánh từ Anh sang
Việt hoặc ngược lại, góp phần nâng cao hiệu quả dạy và học tiếng Việt như
một ngoại ngữ.

3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Việc nghiên cứu thành ngữ hay thành ngữ so sánh không phải là một mảng
đề tài mới mẻ ở nước ngoài cũng như ở Việt Nam giai đoạn hiện nay. Đối với
thành ngữ tiếng Việt, có thể kể đến các công trình tiêu biểu như Les
expressions comparatives de la langue annamite năm 1925 của V. Barbier và
Thành ngữ so sánh tiếng Việt của Trương Đông San, năm 1974. Điều đó nói
lên rằng, thành ngữ đã thu hút được sự quan tâm từ rất sớm của các nhà nghiên
cứu. Ngày nay, những người quan tâm có thể tìm gặp rất nhiều bài báo viết,
báo điện tử, giáo trình, khóa luận, luận văn hay luận án …đề cập đến vấn đề
này. Có thể nói, việc nghiên cứu thành ngữ chưa và không tạo ra những “cơn
sốt” như trào lưu nghiên cứu ngữ pháp chức năng, trào lưu nghiên cứu ngữ
Comparison Idioms


8


nghĩa cuối thế kỷ XX và những năm đầu thế kỷ XXI mà trong suy nghĩ của
nhiều người, nó hiển nhiên là một phạm trù cần nghiên cứu. Chỉ tính riêng ở
Việt Nam, các bài báo, các công trình nghiên cứu về đề tài này, mang hơi

hướng đối chiếu đã có rất nhiều. Tuy nhiên, việc so sánh đối chiếu ngôn ngữ
chỉ mới được quan tâm nhiều hơn trong thời gian gần đây. Thực tiễn đã đưa
đến những yêu cầu cấp bách, đòi hỏi giới nghiên cứu tập trung giải quyết. Có
thể kể tên một số công trình tiêu biểu như :
- Các nghiên cứu về thành ngữ so sánh tiếng Việt của Hoành Văn Hành : Kể
chuyện thành ngữ tục ngữ Việt Nam- NXB Khoa học Xã hội, 2002, Thành ngữ
học tiếng Việt – NXB Khoa học Xã hội, 2008. Đây là những nghiên cứu tâm
huyết, được tiến hành trong một thời gian dài của ông. Ở chương 4 của 2 cuốn
sách, tác giả tập trung miêu tả cấu trúc của thành ngữ so sánh tiếng Việt và các
đặc điểm ngữ nghĩa của nó một cách công phu và tỉ mỉ. Hầu hết các khía cạnh
về thành ngữ so sánh đều được cố GS đề cập đến, với những phân tích sâu và
mang tính hệ thống cao.
- Với cùng một tên là Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam, ba nhóm tác giả
1) Vũ Dung, Vũ Quang Hào, Vũ Thúy Anh, NXB Văn hóa, 1995, 2) Bùi Hạnh
Cẩn, Bích Hằng, Việt Anh, NXB Văn hóa Thông tin, 2000 và 3) Nguyễn Lân,
NXB Văn học, 2007, đã cung cấp một danh sách khá đầy đủ các thành ngữ so
sánh tiếng Việt.
- Luận án tiến sĩ năm 2009 Đặc điểm thành ngữ so sánh tiếng Hán (có đối
chiếu với tiếng Việt) chuyên ngành lý luận ngôn ngữ của Phạm Minh Tiến đã
cung cấp một cái nhìn khá đầy đủ về thành ngữ so sánh tiếng Hán và tiếng
Việt. Qua đó, công trình này cũng giải quyết được những vấn đề về phương
pháp khi nghiên cứu đối chiếu thành ngữ so sánh các ngôn ngữ.
- Luận án tiến sĩ ngữ văn Phương thức dịch các thành ngữ nhận xét đánh giá
con người giữa các ngôn ngữ Việt- Anh- Nga, Đại học KHXH & NV,
ĐHQGHN, 2001 của Trần Thị Lan đã đưa ra được những nhận định rất quý
báu về thói quen tư duy, đặc điểm văn hóa, thái độ đánh giá….của các dân tộc
Comparison Idioms


9



Việt, Anh, Nga qua thành ngữ. Những kết quả mà luận án tiến sĩ này thực sự
có giá trị cho hướng nghiên cứu trong luận văn của chúng tôi.
- Luận văn Thạc sĩ khoa học Ngữ Văn, chuyên ngành Lý luận ngôn ngữ của
Bùi Thu Hòa, ĐHKHXH & NV, 2004 với tên “Góp phần tìm hiểu thành ngữ
có thành tố chỉ tên gọi động vật trong tiếng Anh” đã giải quyết được một phần
nhỏ khi đề cập đến thành ngữ so sánh tiếng Anh có yếu tố tên gọi động vật.
Miêu tả những nét chung nhất của cấu tạo thành ngữ so sánh tiếng Anh, Bùi
Thu Hòa đã chỉ ra được một số tương đồng và dị biệt trong tư duy ngôn ngữ-
văn hóa ở người Việt và người Anh.
- Các Luận văn Thạc sĩ khoa học ngữ văn của Đường Tú Trân và Vi Trường
Phúc, Đại học KHXH & NV, ĐHQG HN 2005 lần lượt khảo sát các thành ngữ
có yếu tố chỉ thực vật trong tiếng Hán, có so sánh với tiếng Việt và đặc điểm
của thành ngữ chỉ tâm lý tình cảm tiếng Hán
- Bài báo Đặc điểm cấu trúc hình thái của thành ngữ so sánh tiếng Anh của
Hoàng Quốc, đăng trên Tạp chí thông tin Đại học An Giang, số 17 năm 2004.
Bài báo này tuy có tên là “ cấu trúc hình thái ” nhưng chủ yếu giải quyết vấn
đề cấu tạo của thành ngữ so sánh tiếng Anh, từ đó, đưa ra các mô hình tổng
quát. Đây có thể coi là một sự bổ sung khá hoàn chỉnh cho luận án TS của
Nguyễn Công Đức, bàn về bình diện cấu trúc hình thái – ngữ nghĩa của thành
ngữ tiếng Việt. Luận án đã giải quyết được cơ bản vấn đề cấu trúc thành ngữ
tiếng Việt trên 2 góc độ là cấu tạo và ngữ nghĩa.
- Cuốn sách của tác giả Jennifer Seidl với tên gọi “English Idioms and How to
Use Them”, Oxford Univ Press, 1978, có thể được coi là cuốn sách cơ bản khi
thiết lập những khái niệm và cách hiểu về thành ngữ trong tiếng Anh.
- English Idioms in Use" của Michael McCarthy, Felicity O'Dell, Cambridge
University Press quan tâm đến thành ngữ như một khía cạnh hết sức thú vị và
vui nhộn của từ vựng. Nó giúp cho người đọc hiểu được nghĩa của thành ngữ
tiếng Anh, như cách tri nhận của người bản ngữ. Việc cung cấp cách hiểu như

Comparison Idioms


10


vậy thực sự quan trọng trong quá trình dịch Anh- Việt và ngược lại. Tuy nhiên,
các thành ngữ được sưu tập trong công trình này chủ yếu là loại được hiểu theo
nội dung thứ 2 của khái niệm thành ngữ
2
. Cuốn sách cũng thiết lập được ở một
mức độ nhất định các vấn đề liên quan đến idioms.

- Ngoài ra, hiện nay, còn có rất nhiều những bài viết, bài nghiên cứu khác mà
chúng tôi thấy không cần phải kiểm đếm hết ở đây. Đó thực sự là những nguồn
tài liệu phong phú cho chủ đề nghiên cứu mà chúng tôi quan tâm.
Đa số các công trình trên nghiên cứu một cách tổng thể theo từng chủng
loại thành ngữ. Luận văn của chúng tôi đi vào những nghiên cứu cụ thể hơn - ở
một vế của thành ngữ so sánh. Những nghiên cứu trước là những tiền đề lý
luận và thực tiễn rất có giá trị và ý nghĩa mà luận văn của chúng tôi có thể tiếp
thu.

4. Phương pháp và tư liệu nghiên cứu

Trong quá trình thực hiện luận văn, chúng tôi đã sử dụng các thủ pháp
thống kê, phân tích, và so sánh đối chiếu. Đối tượng nghiên cứu của luận văn
là vế so sánh (vế B) trong thành ngữ so sánh được rút ra từ mô hình tổng quát
của cấu trúc so sánh A như B. Tư liệu nghiên cứu của luận văn được cung cấp
từ các nguồn sau đây:
1. Thành ngữ học tiếng Việt, Hoàng Văn Hành, Nxb Khoa học Xã hội,

2008.
2. Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam, Vũ Dung, Vũ Thúy Anh, Vũ
Quang Hào, Nxb Văn hóa, 1995.


2
Thành ngữ là một cụm từ mà nghĩa của từng từ riêng lẻ không rõ ràng, thể hiện ở chỗ, ta có thể biết hết nghĩa của từng
từ, nhưng khi ghép chúng lại với nhau thì chúng rất ngô nghê hoặc vô nghĩa. Ví dụ như các cụm từ give way (đưa cho
/đường đi), give up (đưa/lên) …Với những thành ngữ loại này, chúng ta chỉ được phép hiểu nghĩa của chúng ở trên bình
diện chung của cả cụm từ như give way là nhượng bộ, chịu thua, giảm giá, hay give up là từ bỏ một thứ gì đó.
Comparison Idioms


11


3. Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam của Nguyễn Lân, Nxb Văn học,
2007
Để thu thập thành ngữ so sánh tiếng Anh và làm cơ sở đối chiếu nghiên cứu
trong tư liệu luận văn, chúng tôi sử dụng các nguồn tư liệu sau đây:
1. NTC’ American Idioms Dictionary , Richard A. Spears, NTC Publishing
Group
2. Từ điển Lạc Việt mtd2002-EVA, Công ty cổ phần tin học Lạc Việt, được
Cục bản quyền, Bộ VHTT nước CHXHCN VN cấp số: N.195/VH/BQ
ngày 12/09/2000
3. Thành ngữ tục ngữ tiếng Anh, Xuân Bá, Quang Minh , Nxb Hà Nội,
2008.
4. Tục ngữ nước Anh và thành ngữ tiếng Anh giàu hình ảnh, Phạm Văn
Bình, Nxb Hải Phòng, 1999


Phần tư liệu của luận văn được xây dựng nhằm phục vụ những mục đích
nghiên cứu cụ thể. Vì vậy, chúng tôi thấy rằng, cần thiết phải đưa ra những chú
giải cụ thể về cách thiết lập bảng tư liệu, nhằm tránh gây ra những khó khăn
cho người đọc. Tư liệu của luận van được xây dựng dựa trên những nguyên tắc
sau đây:
So sánh (tiếng Latin compario), là một thủ pháp nhằm kết nối cái so sánh
và cái được so sánh từ một yếu tố chung và nhờ một công cụ ngữ pháp. Hay
nói cách khác, đó là việc thiết lập mối quan hệ giữa hai thực tế có hai trường
nghĩa khác nhau nhưng lại giống nhau ở một điểm nào đó bằng một từ biểu thị
quan hệ so sánh. Nhà nghiên cứu văn hóa Vũ Bội Liêu giải thích điều này
trong ngôn ngữ như sau : “ dân tộc nào cũng vậy, khi cần hình dung một vật
gì, hay muốn miêu tả một ý gì cho xác đáng, đều cảm thấy sự cần phải đem vật
này ví với vật khác, việc nọ với việc kia, để cho rõ ý mình muốn nói”. Thành
ngữ so sánh nói chung và thành ngữ so sánh tiếng Việt, tiếng Anh nói riêng
đều được xây dựng trên quan hệ đó.
Comparison Idioms


12


Trong dịch thuật, đặc biệt là dịch văn học, việc dịch tục ngữ, thành ngữ từ
ngôn ngữ nguồn sang ngôn ngữ đích không phải là một việc đơn giản. Bởi,
như đã trình bày ở chương 1, nghĩa của thành ngữ hay tục ngữ không cho phép
hiểu theo nghĩa đen một cách đơn giản. Việc thành ngữ so sánh của tiếng Anh
và tiếng Việt tương đương với nhau hoàn toàn trong mọi bối cảnh sử dụng là
điều rất khó xảy ra. Xung quanh việc dịch thành ngữ này còn có nhiều tranh
luận, mà chủ yếu giữa hai trường phái : hướng nguồn và hướng đích. Trường
phái hướng nguồn chủ trương dịch sát nghĩa (word by word) thành ngữ của
văn bản nguồn để trung thành với tinh thần và sắc thái của nguyên bản. Đây

chính là cách dịch tôn trọng nghĩa đen của thành ngữ. Trong khi đó, trường
phái hướng đích đề xuất dịch thành ngữ bằng thủ pháp tương đương về ngữ
nghĩa. Người ta nói đến tương đương nghĩa khi nguyên bản và bản dịch có
cùng nội dung ngữ nghĩa hay ký hiệu, hay nói cách khác là chúng có chung cái
được biểu đạt hoặc trường nghĩa. Trường phái nào cũng có những ưu và nhược
điểm riêng của chúng, song, theo quan điểm của chúng tôi, việc dịch thành ngữ
sang một ngôn ngữ thứ hai, với mục đích của luận văn này, cần đi theo hướng
tương đương về nghĩa. Điều này có nghĩa là, cách thiết lập tư liệu của chúng
tôi sẽ dựa trên sự giống nhau về biểu trưng, về hoàn cảnh thành ngữ sẽ được sử
dụng, chứ không phải giống nhau về hình ảnh. Hai thành ngữ có thể rất khác
nhau về hình ảnh, nhưng nếu biểu trưng của chúng là giống nhau thì sẽ được
đặt cạnh nhau. Hãy thử lấy một ví dụ đơn giản như sau:
- Nếu dịch theo nghĩa đen, chúng ta sẽ đặt hai thành ngữ sau đây tương
đương nhau:



STT
Thành ngữ
tiếng Việt
Thành ngữ
tiếng Anh
Nghĩa
Ghi chú
Comparison Idioms


13



1

Đen như cột nhà
cháy

As black as skillet
Skillet: chảo rán
(ý nói màu đen
của cháy ở dưới
chảo rán)
* Đơn thuần
chỉ là so sánh
mức độ của
màu đen
2
Trơn như mỡ
As slippery as an
eel
an eel: con lươn
* Dùng để chỉ
mức độ trơn
trượt

- Tuy nhiên, nếu đề cao tính biểu trưng của thành ngữ, thì thành ngữ as
black as skillet và as slippery as an eel phải tương đương với thành ngữ
sau đây:

Thành ngữ
tiếng Việt
Thành ngữ

tiếng Anh
Ghi chú
Tối như bưng
As black as skillet

Khôn như ranh
As slippery as an eel


Rõ ràng, với mục đích nghiên cứu của luận văn, hướng đi thứ hai là hướng
đi phù hợp hơn cả. Nó cho phép người sử dụng dùng đúng thành ngữ tiếng
Anh trong hoàn cảnh nhất định khi đã hiểu rõ thành ngữ tiếng Việt. Nếu dùng
cách dịch tôn trọng nghĩa đen của văn bản, chúng ta sẽ không có cơ sở tin cậy
để so sánh hình ảnh và biểu trưng của kho tàng thành ngữ so sánh giữa hai
ngôn ngữ. Cách này chỉ có tác dụng khi đặt trong những mục đích nghiên cứu
khác.
Vì vậy, phần phụ lục của luận văn, chúng tôi xây dựng trên nguyên tắc như
sau :
- Nếu thành ngữ tiếng Việt và thành ngữ tiếng Anh có cùng hình ảnh và
cùng biểu trưng (kể cả trường hợp một thành ngữ tiếng Việt tương
đương với nhiều thành ngữ tiếng Anh), vị trí của chúng như sau:
Comparison Idioms


14


-
STT
Thành ngữ so sánh

tiếng Việt
Thành ngữ so sánh
tiếng Anh
Nghĩa
vế B
Vế A

Vế B

Vế A

Vế B

1
Câm
như
hến
as
mum
as
an oyster
Con hến
- Cùng biểu trưng nhưng khác hình ảnh :

STT
Thành ngữ so sánh
tiếng Việt
Thành ngữ so sánh
tiếng Anh
Nghĩa

vế B
Vế A

Vế B

Vế A

Vế B

1
Chua
như
mẻ
as
sour
as
lime
Quả chanh

- Thành ngữ tiếng Việt và thành ngữ tiếng Anh khác nhau cả hình ảnh và
biểu trưng, chúng chỉ tương đương nhau ở một nét nghĩa:

STT
Thành ngữ so sánh
tiếng Việt
Thành ngữ so sánh
tiếng Anh
Nghĩa
vế B
Vế A


Vế B

Vế A

Vế B

1
Trắng
như
trứng gà bóc





2



as
white
as
Sheets
(sheet on bed)
Ga trải
giường

(Cùng là màu trắng, người Việt dùng màu trắng của quả trứng gà luộc so sánh
với màu da, có ý khen, còn người Anh dùng màu trắng của khăn trải giường

với ý chê làn da trắng nhợt nhạt, trắng bệch).

Comparison Idioms


15


- Thành ngữ tiếng Việt không có thành ngữ tiếng Anh tương đương:

STT
Thành ngữ so sánh
tiếng Việt
Thành ngữ so sánh
tiếng Anh
Nghĩa
vế B
Vế A

Vế B

Vế A

Vế B

1
Trộm cắp
như
Rươi







- Thành ngữ tiếng Anh không có thành ngữ tiếng Việt tương đương

STT
Thành ngữ so sánh
tiếng Việt
Thành ngữ so sánh
tiếng Anh
Nghĩa
vế B
Vế A

Vế B

Vế A

Vế B

1



To
drunk
like
a lord

Ông chủ

5. Bố cục của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương:


Chương 1


Tổng quan lý luận về thành ngữ và thành ngữ so sánh.
Chương 2
Cấu trúc thành ngữ so sánh và cấu trúc vế so sánh của
thành ngữ so sánh tiếng Việt và tiếng Anh
Chương 3
Hệ hình ảnh và biểu trưng trong vế B của thành ngữ so
sánh Việt -Anh

Comparison Idioms


16


CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN LÝ LUẬN
VỀ THÀNH NGỮ VÀ THÀNH NGỮ SO SÁNH

1.1. Con đường hình thành thành ngữ


Về khía cạnh lịch sử, giống như các từ trong ngôn ngữ, thành ngữ là
những đơn vị có sẵn, xuất hiện dần dà từ nhiều nguồn, vào nhiều thời điểm
khác nhau và được sử dụng rộng rãi, tự nhiên trong đời sống xã hội. Các kết
quả nghiên cứu đã xác nhận rằng các yếu tố tạo nên thành ngữ, tục ngữ vốn là
những từ độc lập, tức những đơn vị định danh có ý nghĩa từ vựng và có chức
năng cú pháp ổn định. Tuy vậy, trong hệ thống thành ngữ của các ngôn ngữ,
xét trên góc nhìn đồng đại, không dễ dàng nhận biết được ý nghĩa của các yếu
tố, do đó, việc suy xét nghĩa thành ngữ, cũng như việc tìm kiếm nguồn gốc của
nó cũng trở nên khó khăn hơn.
Xuất phát từ quan điểm coi vốn từ là hệ thống của các đơn vị định danh,
Hoàng Văn Hành đã phân biệt đơn vị định danh gốc (hay bậc 1) với đơn vị
định danh phái sinh (hay bậc 2). Đơn vị định danh gốc (từ đơn âm tiết) là
những từ tối giản về hình thái - cấu trúc, mang nghĩa đen, được dùng làm cơ sở
để tạo ra những đơn vị định danh khác - mà thành ngữ là một tiểu loại. Các
đơn vị phái sinh ra đời, đáp ứng nhu cầu định danh của con người. Đơn vị định
danh phái sinh là những đơn vị có hình thái - cấu trúc phức tạp hơn đơn vị gốc,
mang nghĩa biểu trưng hóa (dưới hình thái ẩn dụ hay hoán dụ). Đơn vị định
danh phái sinh được tạo ra bằng hai con đường:
a. Bằng con đường ngữ nghĩa, có thể nhân khả năng định danh gốc lên
nhiều lần (phái sinh nghĩa). VD như: xương trong xương xẩu và xương
trong bài toán này xương quá.
Comparison Idioms


17


b. Bằng con đường hình thái - cú pháp, có thể tạo ra hàng loạt các đơn vị
định danh với các đặc trưng khác nhau về hình thái, cấu trúc, bao gồm

quá trình tạo từ trên cơ sở dựa vào đơn vị gốc (như suy phỏng, láy,
ghép ) và quá trình từ vựng hóa (hay còn gọi là định danh hóa) đoản
ngữ (mang tính thành ngữ)











Về cơ bản, trong tiếng Việt, thành ngữ được hình thành từ các nguồn sau
đây:
- Sử dụng tiếng nước ngoài dưới các hình thức khác nhau, như mượn
nguyên dạng, mượn không nguyên dạng hay dịch nghĩa (chủ yếu là tiếng Hán)
- Định danh hóa các tổ hợp từ tự do thành một cụm từ cố định, có tính ổn
định về thành phần, chặt chẽ về cấu trúc, hoàn chỉnh về nghĩa
- Mô phỏng theo mẫu cấu trúc của thành ngữ đã có trước.

1.2. Các quan niệm về thành ngữ trong tiếng Việt và tiếng Anh.

Để đi đến sự thống nhất trong cách hiểu khái niệm thành ngữ, các nhà ngôn
ngữ học đã gặp những khó khăn nhất định, mà một trong những khó khăn đó là
sự khác biệt về loại hình ngôn ngữ. Tuy nhiên, khác biệt loại hình này không
Đơn vị định danh
Đơn vị định danh bậc 2
Đơn vị định danh bậc 1

2. Bằng con đường ngữ nghĩa
1. Bằng con đường hình thái- cú pháp
như suy phỏng, láy, ghép, quá trình từ
vựng hóa đoản ngữ
Comparison Idioms


18


gây cản trở quá lớn. Có chăng, sự khác nhau đó là do góc nhìn khi các nhà
nghiên cứu nghiêng về mặt này hay mặt khác.

1.2.1. Quan niệm về thành ngữ trong tiếng Việt.

Do góc nhìn và hệ quan điểm khác nhau, các nhà nghiên cứu Việt ngữ cũng
có những cách hiểu khái niệm thành ngữ khác nhau. Có thể liệt kê ra một số
tác giả tiêu biểu sau đây:
- “Từ điển tiếng Việt” của Hoàng Phê, NXB Đà Nẵng, 2006 định nghĩa
rằng, “thành ngữ là tập hợp cố định đã quen dùng mà nghĩa thường
không thể giải thích được một cách đơn giản bằng nghĩa của các từ tạo
nên nó”.
- Nguyễn Thiện Giáp trong “Từ vựng học tiếng Việt”, NXB Giáo Dục,
2005 cho rằng, “thành ngữ là những cụm từ cố định vừa có tính hoàn
chỉnh về nghĩa, vừa có tính gợi cảm”. Ví dụ: lừ đừ như ông từ vào đền,
lanh chanh như hành không muối
- Nhóm tác giả của công trình “Nhập môn ngôn ngữ học”, NXB Giáo dục,
2007 cho rằng, “thành ngữ là đơn vị đặc trưng của ngữ cố định về tính
ổn định trong cấu tạo và giá trị biểu trưng về mặt nghĩa.”
- Nhóm tác giả cuốn “Cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt”, Nxb Giáo dục,

2008 cũng định nghĩa thành ngữ qua khái niệm cụm từ cố định: “thành
ngữ là cụm từ cố định, hoàn chỉnh về cấu trúc và ý nghĩa. Nghĩa của
chúng có tính hình tượng và/ hoặc gợi cảm.”
- Hoành Văn Hành thì nhận xét, “thành ngữ là loại tổ hợp cố định, bền
vững về hình thái- cấu trúc, hoàn chỉnh, bóng bẩy về nghĩa, được sử
dụng rộng rãi trong giao tiếp hàng ngày, đặc biệt trong khẩu ngữ.”
- Nguyễn Như Ý trong cuốn “Đại từ điển Tiếng Việt”, 1999 đưa ra định
nghĩa thành ngữ như sau: “Thành ngữ là tập hợp từ cố định quen dùng
có ý nghĩa định danh gọi tên sự vật, thường không thể suy ra từ nghĩa
Comparison Idioms


19


của từng yếu tố cấu tạo thành, và được lưu truyền trong dân gian và văn
chương.”
- Tác giả Hồ Lê trong “Vấn đề cấu tạo từ tiếng Việt hiện đại” viết:
“Thành ngữ là ngữ tổ hợp từ cố định có tính vững chắc về cấu tạo và có
tính bóng bẩy về nghĩa dùng để miêu tả một hình ảnh hiện tượng, một
tính cách hay một trạng thái nào đó.”

Nhìn chung, về cơ bản, cách hiểu thành ngữ của các tác giả trên không khác
nhau nhiều. Có chăng, đó là sự khác nhau ở các nét phụ, ví như tên gọi của
những khái niệm dùng để định nghĩa. Hoàng Phê gọi thành ngữ là “tập hợp cố
định đã quen dùng ” trong khi Nguyễn Thiện Giáp gọi là “những cụm từ cố
định”…Hay Hồ Lê miêu tả thành ngữ có tính bóng bẩy về nghĩa trong khi
nhóm tác giả cuốn “Cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt”, lại dùng cụm từ tính
hình tượng và gợi cảm. Sự khác nhau này không ảnh hưởng nhiều tới quan
niệm về thành ngữ của các tác giả. Vì vậy, điểm chung dễ thấy nhất của các

nhà Việt ngữ học là tính cố định và tính hình tượng/ hình ảnh về nghĩa của
thành ngữ.

1.2.2 Quan niệm về thành ngữ trong tiếng Anh

Do những khác biệt về hoàn cảnh lịch sử, việc nghiên cứu thành ngữ trong
tiếng Anh đã đi trước Việt Nam một khoảng thời gian rất dài. Tuy nhiên, có
một đặc điểm chung của người Anh và người Việt là cả hai dân tộc đều ưa
thích sử dụng các thành ngữ so sánh. Năm 1978, Mc Modie và Seidl đã nhận
xét về xu hướng của tiếng Anh hiện đại “Modern English use many short
comparison in order to make language vivid and clear.” (tiếng Anh hiện đại sử
dụng nhiều dạng so sánh ngắn để làm cho ngôn ngữ sinh động, giàu màu sắc
và rõ ràng hơn ) Có thể liệt kê một vài quan niệm về thành ngữ như sau:
Comparison Idioms


20


- Jenniffer Seidl “Một thành ngữ có thể được định nghĩa là một nhóm từ
khi xuất hiện cùng nhau và mang một ý nghĩa khác những ý nghĩa của
mỗi từ đơn. ”
- Rosalind Ferguson định nghĩa “Thành ngữ có thể được định nghĩa là
một “Cụm từ” hoặc ngữ mà nghĩa của nó không thể hiểu ngay được từ
nghĩa của các thành tố cấu tạo nó”
- Trong English Idiom in use, Cambridge University Press, Michael Mc
Carthy và Felicity O’Dell nêu lên cách hiểu về thành ngữ như sau:
Thành ngữ là sự diễn đạt mà nghĩa của chúng không thể hiểu bởi các từ
riêng lẻ. Ví dụ, thành ngữ Drive somebody round the bend nghĩa là làm cho
ai đó nản chí, nhưng chúng ta không thể hiểu nghĩa của nó chỉ bằng cách

hiểu nghĩa của từ (Idiom are expression which have a meaning that is not
obvious from the individual words. For example, the idiom drive sombody
round the bend means makes somebody angry or frustrated, but we cannot
know this just by looking at the words.)
- Hai tác giả cũng chỉ ra rằng để hiểu nghĩa của thành ngữ, cách tốt nhất là
đặt chúng vào trong ngữ cảnh: The best way to undestand an idiom is to
see it in context.
Cũng như trong tiếng Việt, có rất nhiều cách hiểu về khái niệm thành ngữ
trong tiếng Anh
3
. Tuy nhiên, điều đáng mừng ở đây là những cách hiểu này


3
Glossary of linguistic terms, by Eugene E. Loos (general editor):
Definition

An idiom is a multiword construction that
 is a semantic unit whose meaning cannot be deduced from the meanings of its constituents, and
 has a non-productive syntactic structure.
Features
 An idiom is a multiword expression. Individual components of an idiom can often be inflected in the same way
individual words in a phrase can be inflected. This inflection usually follows the same pattern of inflection as the
idiom's literal counterpart.
 An idiom behaves as a single semantic unit.
Comparison Idioms


21



đều có nhiều điểm chung, và dị biệt thường rất nhỏ. Các tác giả Anh về cơ bản
cũng thống nhất với nhau ở kích thước lớn hơn từ của thành ngữ (cụm từ/ ngữ)
và nghĩa của thành ngữ không phải là sự cộng gộp đơn thuần của các thành tố
cấu tạo.
Như vậy, qua việc khảo sát các quan niệm về thành ngữ trong tiếng Việt và
tiếng Anh, chúng tôi nhận thấy, mặc dù trong các cách hiểu ít nhiều có sự khác
nhau ở phạm vi, phong cách sử dụng, tính biểu cảm, tính biểu trưng nhưng
khái niệm thành ngữ đã được các tác giả hiểu tương đối giống nhau. Xem lại
các định nghĩa trên, có thể thấy, các tác giả đều thống nhất với nhau ở 2 điểm
sau:
- Tuy gọi thành ngữ bằng các tên khác nhau như một tổ hợp, một cụm từ
cố định, một ngữ cố định, ngữ tổ hợp từ cố định, tập hợp từ cố
định nhưng chung quy lại, các nhà nghiên cứu đều thống nhất ở tính cố
định trong cấu tạo của khái niệm này.
- Về mặt nghĩa, thành ngữ có tính hình ảnh (tính thành ngữ), mang tính
hình tượng cao, và thường không thể giải thích được một cách đơn giản
bằng nghĩa của các từ tạo nên nó.
Có thể giải thích sơ bộ hai thuộc tính này của thành ngữ như sau:


o It tends to have some measure of internal cohesion such that it can often be replaced by a literal
counterpart that is made up of a single word.
o It resists interruption by other words whether they are semantically compatible or not.
o It resists reordering of its component parts.
 An idiom has a non-productive syntactic structure. Only single particular lexemes can collocate in an idiomatic
construction. Substituting other words from the same generic lexical relation set will destroy the idiomatic
meaning of the expression.
2. An idiom is a phrase whose meaning cannot be determined by the literal definition of the phrase itself, but refers instead
to a figurative meaning that is known only through common use.

3. An idiom as words collocated together happen to become fossilized, becoming fixed over time. This collocation - words
commonly used in a group - changes the definition of each of the words that exist. As an expression, the word-group
becomes a team, so to speak. That is, the collocated words develop a specialized meaning as a whole and an idiom is born.
An idiom is a word or phrase that means something different than the words imply if interpreted literally. When a person
uses an idiom, the listener might take the actual meaning wrong if he or she has not heard this figure of speech before.

Comparison Idioms


22


a. Tính cố định về hình thái và cấu trúc:
- Về số lượng các thành tố tạo nên thành ngữ:

Do yêu cầu ổn định về mặt cấu trúc, với một thành ngữ, nếu người ta đếm
được 4 từ cấu tạo nên nó ở một thời điểm nào đó, thì hầu như không bao
giờ có trường hợp thành ngữ này biến đổi về số lượng và trở thành 3 hay 5
từ.
VD: Thin thít như thịt nấu đông (+)
Thin thít giống như thịt nấu đông (-)

- Về trật tự của các thành tố:

Có thể nói, khả năng thay đổi trật tự của các thành tố trong thành ngữ là rất
thấp. Đối với loại thành ngữ miêu tả ẩn dụ, ví dụ như: đo lọ nước mắm,
đếm củ dưa hành, giậu đổ bìm leo, khả năng này gần như bằng không.
Tuy nhiên, người ta có thể nói đến sự thay đổi trật tự này ở một mức độ nào
đó, như ghét cay ghét đắng -> ghét đắng ghét cay, ghi xương khắc cốt- >
khắc cốt ghi xương


- Khả năng chêm xen các yếu tố cấu tạo mới vào thành ngữ

Một tổ hợp có tính cố định cao thì khả năng thêm các yếu tố khác vào cấu
trúc của nó là rất thấp. Đây cũng chính là hệ quả từ đặc điểm ổn định về số
lượng của các thành tố cấu tạo, trừ trường hợp, người viết muốn tạo ý nghĩa
ngữ dụng phục vụ các mục đích nhất định. Cũng cần phải nói thêm rằng,
tính cố định của thành ngữ so sánh không thể cao bằng thành ngữ miêu tả
ẩn dụ. Đây là nguyên nhân của việc thành ngữ miêu tả ẩn dụ có tính thành
ngữ rất cao, làm cho khả năng chêm xen hay thay đổi thành tố tương đương
là không thể xảy ra.
Comparison Idioms


23


- Thành phần từ vựng của thành ngữ

Thành ngữ có thành phần từ vựng rất ổn định. Các yếu tố tạo nên thành ngữ
hầu như được giữ nguyên, mà không thể thay thế bằng các yếu tố đồng
nghĩa khác. VD: trong thành ngữ Chân đăm đá chân chiêu, chúng ta không
thể thay thế “đăm” bằng “phải”và “chiêu”bằng “trái” được.

Tính bền vững của thành ngữ có thể được giải thuyết ở nhiều nguyên nhân,
nhưng chủ yếu do hệ quả của việc mờ nhạt về ngữ nghĩa của các thành tố và
những mối quan hệ về ngữ pháp giữa chúng, hoặc do các điển tích, điển cố
mang lại. Sự mờ nhạt về nghĩa dẫn đến sự ổn định về dấu hiệu hình thức. Và
nguời ta coi cả một tổ hợp có kí hiệu ngôn ngữ như vậy là mang một ý nghĩa X
nhất định. Khi thay đổi thành phần từ vựng, điều đó có nghĩa làm thay đổi kí

hiệu ngôn ngữ của nó, và tất nhiên, việc hiểu nghĩa của thành ngữ sẽ gặp
những khó khăn nhất định. Tuy nhiên, tính cố định cần được hiểu một cách
linh hoạt, bởi dù sao chăng nữa, thành ngữ do nhân dân sáng tạo ra, phụ thuộc
rất lớn vào thói quen sử dụng của nhân dân trong các thời kỳ lịch sử nhất định.

b. Tính thành ngữ

Thành ngữ, đơn vị tương đương với từ xét về khía cạnh chức năng của nó
trong câu, biểu thị những khái niệm trọn vẹn về các thuộc tính, quá trình hay
sự vật. Ví dụ như: mặt người dạ thú, tin bợm mất bò, giết người như
ngóe Tuy nhiên, như đã trình bày ở phần con đường tạo nên thành ngữ, thành
ngữ không đơn thuần là đơn vị định danh bậc 1 như từ. Nó là một loại đơn vị
định danh bậc 2, nghĩa là nội dung của thành ngữ không thể hiểu nếu tiến hành
một phép cộng đơn giản nghĩa của các thành tố lại với nhau. Có thể hình dung
điều này như sau: giả sử có một kết cấu X gồm các yếu tố a, b, c hợp thành X
= a+b+c. Nếu ý nghĩa của X mà không thể giải thích được bằng ý nghĩa của
Comparison Idioms


24


từng thành tố a, b, c thì X có tính thành ngữ. Theo Hoành Văn Hành, nghĩa của
thành ngữ tiếng Việt thường là kết quả của hai hình thái biểu trưng hóa: hình
thái tỷ dụ (rõ như ban ngày ) và hình thái ẩn dụ ( tiu nghỉu như mèo cắt tai )
Tính gợi tả, giàu hình ảnh, màu sắc là một đặc điểm cơ bản của thành ngữ.
Nguyễn Thiện Giáp đã bày tỏ quan điểm của mình , khi ông nhấn mạnh, nói
tới thành ngữ là nói tới đơn vị định danh hình tuợng. Cần phải dựa vào tính
hình tuợng để xác định thành ngữ. Một tổ hợp được coi là có tính thành ngữ
nếu trong đó có ít nhất một từ khi dịch toàn bộ tổ hợp người ta phải dịch từ ấy

bằng một yếu tố mà yếu tố đó chỉ tương đương với từ ấy khi xuất hiện đồng
thời với tất cả các yếu tố còn lại của tổ hợp trong một trật tự nhất định. Thêm
vào đó, từ này có thể được gặp khi không có sự xuất hiện của các yêu tố đi
cùng, và lúc đó, nó được dịch bằng một yếu tố khác.
Ở đây, cần nói thêm về tính thành ngữ của thành ngữ so sánh. So với các
thành ngữ miêu tả ẩn dụ, rõ ràng, tính thành ngữ của thành ngữ so sánh không
thể cao bằng, ví như thành ngữ dây mơ rễ má so với cay như ớt. Tuy nhiên,
nếu để ý đến cách sử dụng, thành ngữ so sánh không phải là không có những
ngữ cảnh hạn chế. Thành ngữ lạnh như tiền chỉ dùng nói đến thái độ ứng xử,
quan hệ của con người, không thể dùng nó với ý nghĩa chẳng hạn như trời lạnh
như tiền được. Hay thành ngữ as dull as ditch water (nhạt nhẽo như nước tù
đọng trong ao) dùng với nghĩa một con người nhạt nhẽo hay một bài phát biểu
nhạt nhẽo. Vì thế, tuy nghĩa của thành ngữ so sánh có thể dễ hiểu hơn thành
ngữ miêu tả ẩn dụ, nhưng nếu không nắm chắc các bối cảnh nó được phép xuất
hiện thì việc dùng thành ngữ trong giao tiếp sẽ trở nên kệch cỡm và vô duyên.

1.3. Phân biệt thành ngữ và một số đơn vị lân cận

1.3.1. Phân biệt thành ngữ với tục ngữ

Comparison Idioms


25


Thành ngữ và tục ngữ giống nhau ở chỗ, chúng đều do các từ tổ hợp với
nhau tạo nên và có tính ổn định cao. Sự khác nhau giữa chúng, trước hết là sự
khác biệt về tư cách ngữ pháp. Thành ngữ chỉ là một nhóm từ, chưa phải là
một câu hoàn chỉnh, còn tục ngữ dù ngắn đến đâu cũng đã là một câu hoàn

chỉnh. Trong Tục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam, Vũ Ngọc Phan đã nêu ra
nhận định của mình “tục ngữ là một câu tự nó diễn đạt một ý trọn một ý nghĩa,
một nhận xét, một kinh nghiệm, một lý luận, một công lý, có khi là một sự phê
phán, còn thành ngữ là một phần câu sẵn có, nó là một bộ phận câu mà nhiều
người đã quen dùng, nhưng tự riêng nó không diễn đạt được một ý trọn vẹn”.
Vì thành ngữ có chức năng tương đương từ và thực hiện chức năng ngữ
pháp là bộ phận, thành phần câu và tục ngữ có tư cách ngữ pháp là câu nên
điều này dẫn đến sự khác biệt giữa chúng về mặt biểu hiện. Tục ngữ là những
phán đoán thể hiện kinh nghiệm sống, kinh nghiệm ứng xử (anh em khinh
trước, làng nước khinh sau, gió heo may, chuồn chuồn bay thì bão, đồng tiền
đi liền khúc ruột…). Tục ngữ có thể dùng tương đối độc lập. Trong khi đó,
thành ngữ thực hiện chức năng định danh hoặc miêu tả sự vật, sự việc một
cách hình ảnh, được dùng phụ thuộc trong câu (mưu sâu chước độc, chân
không đến đất, cật chẳng đến trời, trời đánh thánh vật…).
Tuy nhiên, khi đi vào xem xét từng trường hợp cụ thể, người ta vẫn cần có
những biện luận chi tiết. Theo tác giả Triều Nguyên, Hội Liên hiệp VHNT
Thừa Thiên Huế, trong quá trình nghiên cứu thành ngữ so sánh, có khá nhiều ý
kiến tranh luận xung quanh việc xác định cấu trúc X như CVB có phải là thành
ngữ so sánh hay không. X như CVB (X : vị từ chỉ tính chất, trạng thái, CVB:
chủ ngữ, vị ngữ, bổ ngữ ) là cấu trúc khá phổ biến trong tiếng Việt:
- Te tái như gà mái nhảy ổ
- Lua khua như thầy chùa mất sớ điệp
- Lộp bộp như gà mổ mo
- Lúng búng như ngậm hột thị
- Lật đật như ma vật ông vải

×