Tải bản đầy đủ (.pdf) (336 trang)

Nghiên cứu đối chiếu hành động bác bỏ trong tiếng Thái và tiếng Việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.03 MB, 336 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN



SIRIWONG HONGSAWAN






NGHIÊN CỨU ĐỐI CHIẾU HÀNH ĐỘNG BÁC BỎ
TRONG TIẾNG THÁI VÀ TIẾNG VIỆT




LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ HỌC




HÀ NỘI - 2009


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN



SIRIWONG HONGSAWAN




NGHIÊN CỨU ĐỐI CHIẾU HÀNH ĐỘNG BÁC BỎ
TRONG TIẾNG THÁI VÀ TIẾNG VIỆT

Chuyên ngành: Lý luận ngôn ngữ
Mã số: 62 22 01 01


LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ HỌC


Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS.TS. NGUYỄN VĂN HIỆP
2. GS.TS. PHẠM ĐỨC DƯƠNG



HÀ NỘI – 2009



DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT


Adj.
Adjective

Ant.
Antonym
BB
Bác bỏ
BBGT
Bác bỏ gián tiếp
BBTT
Bác bỏ trực tiếp
CD
Chuyên dụng / Chuyên dùng
CLTT
Chiến lược trực tiếp
CLGT
Chiến lược gián tiếp

Hành động
HĐBB
Hành động bác bỏ
HĐGT
Hành động gián tiếp
HĐNT
Hành động ngôn từ
HĐTT
Hành động trực tiếp
HY
Hàm ý
P.
Mệnh đề đưa ra

Phủ định

S.
Subject
TGĐ
Tiền giả định
V.
Verb




1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nghiên cứu đối chiếu hành động bác bỏ (HĐBB) trên cứ liệu tiếng Thái và
tiếng Việt có thể cho thấy những nét tương đồng và khác biệt về ngôn ngữ, về tính
lịch sự, về cách ứng xử văn hóa và cách thức tư duy thể hiện trong hành động ngôn
từ (HĐNT) của hai dân tộc. Hiện nay vẫn còn ít tài liệu tham khảo cả tiếng Việt lẫn
tiếng nước ngoài về các HĐNT xét theo góc độ đối chiếu, đặc biệt là đối chiếu tiếng
Thái với tiếng Việt.
Khi nói đến những nghiên cứu về ngữ dụng học và đặc biệt về hành động
(HĐ) giao tiếp có liên quan đến tiếng Thái và tiếng Việt, người ta chỉ chủ yếu nhắc
đến một số luận văn thạc sĩ và một vài (rất ít) luận án tiến sĩ của Thái Lan và Việt
Nam. Quả thật, từ năm 1996 đến nay có một số luận văn thạc sĩ và luận án tiến sĩ
thực hiện tại Thái Lan và Việt Nam sử dụng lý thuyết “Hành đô
̣
ng ngôn tư
̀
” của
John L. Austin và John R. Searle. Ở Thái Lan có những luận văn và luận án như
“The Speech Act of Apologizing in Thai” () của Thasanee

Makthavornvattana (1998), “The Speech Act of Promising in Thai Children: a
Metapragmatic Study” (: ) của Sinee
Wanitchanon (1998), “Linguistic Device in Examination in Chief, Cross-
Examination, Re-Examination in Trial” (
) của Sareeya Thabthan (2000), “Responding to Apologies in Thai”
() của Passapong Pewporchai (2002), “Indirectness as
Communicative Strategy in Japanese Language” ()
của Watcharachai Khobluang (2004), “Strategies for Expressing Conflict in Thai”
() của Supasinee Pothiwit (2004), v.v. Còn trong văn
liệu tiếng Việt, đã xuất hiện một số công trình nghiên cứu như: “Ngữ nghĩa-ngữ
dụng câu hỏi chính danh (Trên ngữ liệu tiếng Việt)” của Lê Đông (1996), “Một số
khác biệt giao tiếp lời nói Việt - Mĩ trong cách thức khen và tiếp nhận lời khen” của
Nguyễn Quang (1999), “Hội thoại trong truyện ngắn Nam Cao (các hành thức thoại



2
dẫn)” của Mai Thị Hảo Yến (2000), “Cơ sở giải nghĩa hàm ẩn của các hành vi ngôn
ngữ gián tiếp trong hội thoại” của Đặng Thị Hảo Tâm (2002), “Một số đặc điểm
ngôn ngữ-văn hóa ứng xử của hành vi từ chối trong tiếng Việt (có sự đối chiếu với
tiếng Anh)” của Nguyễn Phương Chi (2004), “Phương thức biểu hiện hành vi từ
chối lời cầu khiến trong tiếng Anh (liên hệ với tiếng Việt)” của Trần Chi Mai
(2005), “Hành động phản bác trong tiếng Việt” của Nguyễn Thị Kim Dung (2006),
v.v. Có thể thấy, trong một bối cảnh nghiên cứu chung như vậy, việc nghiên cứu
HĐBB trong phối cảnh đối chiếu giữa tiếng Thái và tiếng Việt quả thật là một
khoảng trống cần được bổ khuyết càng sớm càng tốt.
Ngày nay trong xu thế hội nhập của toàn cầu hóa, việc thương lượng, đàm
phán kinh tế giữa các quốc gia là lĩnh vực của những chấp thuận và BB, vậy cần
phải biết cách BB và biết cách giữ hòa khí v.v. Đối với HĐBB, chúng tôi cho rằng
đây là một đề tài nghiên cứu đầy hứa hẹn vì cấu trúc ngôn ngữ dùng để thực hiện

HĐBB rất phong phú. Đặc biệt là HĐNT này liên quan đến một loạt nhân tố ngữ
dụng thú vị, chẳng hạn như phải chọn chiến lược bác bỏ (BB) như thế nào để đạt
hiệu quả cao nhất, sử dụng những biểu thức điều biến (modification) nào để có thể
bảo đảm được tính lịch sự. Có thể nói BB là một trong những HĐ dễ làm mất lòng
người đối thoại nhất, vì thế việc nghiên cứu loại HĐNT này sẽ góp phần làm sáng
tỏ những vấn đề trung tâm nhất của ngữ dụng học.
Theo từ điển tiếng Việt (1997) của Hoàng Phê (Chủ biên), BB là: “…bác đi,
gạt đi không chấp nhận” [40, 22]. Còn theo từ điển tiếng Việt (2001) của Bùi Quang
Tịnh, BB là: “không nạp, không nhận” [57, 30]. Hiệu lực của lời nói BB được
Nguyễn Thị Thìn (2003) mở rộng, cụ thể hóa ở phương diện phạm vi, đó là: “…phủ
định một lời khẳng định, đoán định, phê phán buộc tội trước đó của người đối
thoại” [55, 174]. BB là một trong những HĐ dễ đe dọa đến thể diện người nghe
nhất cho nên trong tiếng Thái và tiếng Việt có những chiến lược làm giảm thiểu sự
mất thể diện. Ở đây, cũng cần phân biệt BB với từ chối. BB khác với từ chối vì BB
là BB về mặt thông tin, tức là có một người đưa ra một nhận định (tiếng Anh gọi là
“statement” hoặc “assertion”) sau đó có người phủ định (PĐ) thông tin đó. Còn từ



3
chối là không chấp nhận lời mời. Ví dụ, có người mời: “Em có muốn đi ăn cơm với
anh không?” Người được mời có thể từ chối: “Em không đi được v em có hẹn rồi”.
Mặc dù tiếng Thái và tiếng Việt có nguồn gốc khác nhau (tiếng Thái có nguồn
gốc “Thái Kadai” và tiếng Việt có nguồn gốc “Nam Á” [96, 1] ), có diện mạo ngữ
âm, từ vựng, ngữ pháp khác nhau, chúng tôi vẫn đặt ra giả thuyết nghiên cứu là: bên
cạnh những điểm khác biệt th HĐNT nói chung và BB nói riêng trên cứ liệu hai
thứ tiếng ắt có nhiều điểm tương đồng, thể hiện những phương diện chung nào đó
trong chiến lược giao tiếp. Việc tìm hiểu HĐBB theo hướng đối chiếu, so sánh như
vậy là rất quan trọng trong việc dạy và học tiếng với tư cách là một ngoại ngữ.
2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

2.1. Đối tượng của luận án là HĐBB, một loại HĐNT luôn luôn đe dọa xúc
phạm thể diện, và do đó nó đặt ra nhiều vấn đề có liên quan về lịch sự, về ứng xử
văn hóa. Nói cách khác, đối tượng nghiên cứu của luận án là HĐBB trong tính toàn
diện của nó. Việc nghiên cứu HĐBB trong tính toàn diện, nhiều chiều kích của nó
sẽ cho phép hiểu sâu hơn những đặc trưng văn hóa ứng xử của người Thái Lan và
người Việt Nam.
2.2. Cũng như các HĐ khác, BB có trường hợp gián tiếp, có trường hợp trực
tiếp. Khi nào người ta bác bỏ gián tiếp (BBGT) là vấn đề rất thú vị, có liên quan đến
những nguyên tắc giao tiếp chung, nhưng cũng liên quan đến những đặc thù văn hóa
riêng của các cộng đồng dân tộc.
2.3. HĐBB là HĐ có rất nhiều dấu hiệu tường minh (explicit), đã ổn định hay
đang trên đường ổn định. Trong trường hợp lí tưởng nhất, khi dấu hiệu BB là ổn
định, có thể thấy quan hệ giữa BB (một HĐ) và một loại câu, đó là câu PĐ
1
(một
kiến trúc ngôn ngữ).
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận án
Luận án đặt cho mình mục đích và nhiệm vụ sau đây:
3.1. Khảo sát HĐBB trên cứ liệu tiếng Thái và tiếng Việt.

1
Ở đây, cần nhắc lại rằng bác bỏ không nhất thiết phải dùng câu phủ định (đây là trường hợp chọn lối bác bỏ
gián tiếp), và ngược lại, câu phủ định không nhất thiết chỉ dùng để bác bỏ, mà có thể dùng để miêu tả cũng
như thực hiện nhiều hành động ngôn từ khác.



4
3.2. Tìm hiểu những nét tương đồng và khác biệt trong cấu trúc hình thức và
ngữ nghĩa của những phát ngôn dùng để thực hiện HĐBB trong tiếng Thái và tiếng

Việt.
3.3. Phân tích ảnh hưởng của phép lịch sự đối với HĐBB, qua đó đưa ra
những nhận xét về cách ứng xử văn hóa và cách thức tư duy của hai dân tộc Thái và
Việt được thể hiện qua HĐBB.
4. Đóng góp mới của luận án
Về ý nghĩa lý luận, luận án góp phần làm rõ những tương đồng và khác biệt
của HĐBB trong tiếng Thái và tiếng Việt ở cả hai mặt hình thức tổ chức và ngữ
nghĩa-ngữ dụng. Sau nữa, đối với một loại HĐNT có nhiều điểm thú vị như BB,
luận án cũng đặt cho mình nhiệm vụ bước đầu giải thích những tương đồng, khác
biệt của HĐ này trong tiếng Thái và tiếng Việt từ góc độ tư duy và văn hóa.
Về ý nghĩa thực tiễn, chúng tôi cho rằng kết quả nghiên cứu của luận án sẽ có
tác dụng tích cực trong việc biên soạn các tài liệu giảng dạy và xây dựng phương
pháp học ngoại ngữ theo lí thuyết HĐNT, ứng dụng trong lĩnh vực dịch thuật, góp
phần tăng sự hiểu biết về phép lịch sự, về ứng xử văn hóa ngôn từ và về phương
thức tư duy của người Thái Lan và người Việt Nam. Tất cả đều là chìa khóa cho sự
hợp tác thành công và có hiệu quả giữa hai dân tộc.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu và tƣ liệu nghiên cứu
5.1. Phương pháp nghiên cứu: Để làm sáng tỏ HĐBB trên cứ liệu tiếng Thái
và tiếng Việt, luận án sử dụng hai phương pháp nghiên cứu chung là phương pháp
qui nạp và phương pháp diễn dịch, vận dụng chúng một cách linh hoạt, trong đó
phương pháp qui nạp là phương pháp chủ đạo.
Phương pháp qui nạp được thực hiện qua việc thu thập tư liệu về HĐBB trong
tiếng Thái và tiếng Việt, từ đó đi đến khái quát hóa hai chiến lược BB với những
biểu hiện cụ thể của chúng.
Phuơng pháp diễn dịch được thể hiện trong luận án thông qua nguyên lí lịch
sự, diễn giải nguyên lí này với tư cách là nguyên lí phổ quát chi phối giao tiếp ngôn
từ nói chung và BB nói riêng.




5
Đi vào những vấn đề cụ thể, luận án sử dụng một loạt các thủ pháp nghiên cứu
ngôn ngữ học như thủ pháp miêu tả định tính, thủ pháp so sánh đối chiếu và thủ
pháp phân tích ngữ cảnh. Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng phương pháp khảo sát
mang tính xã hội học, áp dụng cho các phiếu điều tra HĐBB.
5.2. Tư liệu nghiên cứu: Ngữ liệu nghiên cứu được khai thác từ các nguồn
chính sau đây:
5.2.1. Tư liệu chính được rút ra từ những phiếu điều tra HĐBB của sinh viên,
học viên cao học và nghiên cư
́
u sinh chuyên ngành tiếng Thái và Ngôn ngữ học của
Khoa Ngôn ngữ học, Trường Đại học Chulalongkorn, Băng Cốc, Thái Lan và sinh
viên, học viên cao học và nghiên cư
́
u sinh chuyên ngành Ngôn Ngữ học của Khoa
Ngôn ngữ học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia
Hà Nội, Việt Nam. Số lượng của phiếu điều tra cho mỗi ngôn ngữ là 100 phiếu,
được phát bằng cách gửi thư điện tử và phát trực tiếp. Những câu trả lời tiêu biểu
được người viết chọn để làm ví dụ cho luận án. Trong trường hợp có phát ngôn BB
hay mà chúng tôi chưa hiểu rõ hoặc muốn tìm hiểu thêm về ý nghĩa và cách sử dụng
phát ngôn đó, chúng tôi sẽ phỏng vấn thêm bằng cách chát online, gửi thư điện tử,
hoặc hỏi trực tiếp chủ nhân của lời BB đó.
5.2.2. Ngoài ra không thể không kể đến những phát ngôn BB được quan sát từ
thực tế tiếng Thái và tiếng Việt v người viết luận án trực tiếp trải nghiệm môi
trường sinh ngữ trong cả hai xã hội Thái Lan và Việt Nam.
5.2.3. Một số phát ngôn BB được chọn lọc và suy ngẫm dựa trên tư liệu quan
sát được trong quá trình học tập, nghiên cứu cũng như trong các ấn phẩm chính thức
về ngôn ngữ học trong tiếng Thái và tiếng Việt.
Cả 3 phương pháp trên vừa mang tính ngoại quan (extrospective) (quan sát,
thu thập tư liệu) nhưng vừa mang tính nội quan (introspective), có tính đến những

đánh giá chủ quan của bản thân người viết luận án.
6. Bố cục của luận án
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận án gồm bốn chương:



6
Chương thứ nhất: Phần cơ sở lí thuyết. Chương này nhấn mạnh vào lí thuyết
HĐNT của John L. Austin và John R. Searle. Sau đó là lí thuyết về nguyên lí lịch sự
của Penelope Brown và Stephen C. Levinson, cùng một số vấn đề có liên quan
khác như vấn đề cặp thoại (xác tín / BB), tiền gia
̉
đi
̣
nh (TGĐ) và hàm ý (HY). Tất
cả nhằm đến mục đích là nêu ra một cái phông (background) tri thức cần thiết cho
việc tìm hiểu HĐBB.
Chương thứ hai: Miêu tả về HĐBB trong tiếng Thái.
Chương thứ ba: Miêu tả về HĐBB trong tiếng Việt.
Chương thứ tư: Đối chiếu những nét tương đồng và khác biệt trong HĐBB
giữa tiếng Thái và tiếng Việt. Trong chương này, một số khuôn mẫu của HĐBB
trong hai ngôn ngữ sẽ được xem xét tỉ mỉ. Chương này cũng phân tích nguyên lí
lịch sự, cách ứng xử văn hóa có liên quan và cách thức tư duy được thể hiện trong
HĐBB của người Thái và người Việt.
7. Kết quả có thể đạt đƣợc
7.1. Trong phối cảnh so sánh, luận án đi đến xác định những nét tương đồng
và khác biệt trong cấu trúc hình thức và ngữ nghĩa của các phát ngôn được dùng để
thực hiện HĐBB trong tiếng Thái và tiếng Việt, nghiên cứu phép lịch sự cùng
những đặc trưng văn hóa-tư duy được thể hiện trong HĐBB nói riêng và hoạt động
giao tiếp liên nhân nói chung trong tiếng Việt và tiếng Thái.

7.2. Kết quả của luận án này có thể giúp cho việc biên soạn các sách dạy tiếng
Thái và tiếng Việt theo định hướng giao tiếp. Kết quả của luận án cũng có thể được
áp dụng để nâng cao chất lượng biên-phiên dịch Thái-Việt có liên quan đến HĐBB
nói riêng và HĐNT nói chung.




7
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ THUYẾT

1.1. Lý thuyết “Hành động ngôn từ”(Theory of Speech Act)
2
của John L.
Austin và John R. Searle
1.1.1. Lý thuyết “Hành động ngôn từ” của John L. Austin
1.1.1.1. Bối cảnh ra đời của “How to Do Things with Words”
Austin, nhà triết học thuộc trường phái Triết học “Theo nội hàm”
(Intentionalist), là người đầu tiên đưa ra quan niệm về “Ha
̀
nh đô
̣
ng ngôn tư
̀

(Speech Act), trình bày tại Trường Đại học Harvard, được in thành sách với tên gọi
“How to Do Things with Words” năm 1962 sau khi ông mất. Trong cuốn này
Austin đã phát biểu một mệnh đề rất quan trọng đến nỗi bất k ai đọc nó đều phải
nhớ, đó là “khi tôi nói tức là tôi hành động” (When I say, (…) I do) [64, 6]. Nghĩa

là, nói năng là một HĐ giống như các HĐ khác của con người, có điều đây là loại
HĐ được thực hiện bằng lời. HĐ của người nói gây ra biến đổi nào đó trong thực tế
và những ảnh hưởng nào đó ở đối tượng tiếp nhận.
1.1.1.2. Những “Hành động ngôn từ” theo quan điểm của John L. Austin
Trước hết, trong thực tiễn hành ngôn, Austin phân biệt 2 kiểu câu:
1) Câu tường thuật (Constative Sentence)
3
là câu người ta dùng để thông báo
về cái g đó với ý nghĩa tương đối ổn định và người ta có thể nhận xét câu nói đó là
đúng hay sai.
Ví dụ: Chị Siriwong là nghiên cứu sinh, người Thái Lan.
Câu này là đúng nếu có bằng chứng thực tế chứng minh như hộ chiếu, lí lịch
khoa học v.v. của chị Siriwong.

2
Tên gọi “Lý thuyết hành động ngôn từ” dùng theo Cao Xuân Hạo (2005) cho hợp với thuật ngữ tiếng Thái
vì tiếng Thái gọi “hành động ngôn từ” là “” [wa!t&ca&na!?&kam],  [wa!t&ca&na!?] là 
[kHam&pHu#:t] nghĩa là “lời nói”, tiếng Anh dùng từ “speech”, còn  [kam] là 
[ka:n&kra&tHam] nghĩa là “hành động”, tiếng Anh dùng từ “act”. V vậy, tất cả có nghĩa là “hành động
của lời nói”. Hiện nay còn có một số cách dịch khác: “Hành vi ngôn ngữ” (Nguyễn Đức Dân, 2000; Đỗ Hữu
Châu, 2003), “Hành vi nói năng” (Nguyễn Văn Khang, 1999), “Hành động phát ngôn” (Nguyễn Thị Thìn,
2003), v.v.

3
Thuật ngữ dùng theo Cao Xuân Hạo (2005).




8

Câu ngôn hành (Performative Sentence) là câu mà người nói không nhằm để
nói về một cái g đó mà là để thực hiện HĐ. Câu ngôn hành khác với câu tường
thuật ở chỗ không thể đánh giá được là đúng hay sai theo chân lí.
Ví dụ: I bet you six pence it will rain tomorrow. [64, 5]
„Tôi đánh cược 6 xu với bạn là mai trời sẽ mưa.‟
Câu này thể hiện HĐ đánh cược của người nói, theo đó nếu ngày mai trời
không mưa th người nói phải đưa cho người nghe 6 xu, và ngược lại.
Sau đó, ông tiếp tục phát triển tư tưởng của mình, khi cho rằng tất cả câu nói
đều là ngôn hành, tức nói (saying) cũng là HĐ, có điều cần phân biệt ngôn hành
tường minh (explicit), tức có dấu hiệu ngôn ngữ chỉ ra loại HĐ đang được thực
hiện, và ngôn hành nguyên cấp (primary), tức trường hợp không có dấu hiệu ngôn
ngữ đặc thù, chỉ có thể nhận biết được nhờ vào ngữ cảnh.
Hơn thế nữa, theo Austin, khi ta nói ra một câu cụ thể trong một ngữ cảnh nào
đó, ta sẽ thực hiện không phải một HĐ mà là đồng thời 3 kiểu HĐNT sau đây:
1) Hành động tạo lời (Locutionary act) là HĐ mà người nói sử dụng các yếu tố
ngôn ngữ và quy tắc ngữ pháp để tạo ra câu nói ít nhiều có nghĩa. Đây chỉ là nghĩa
bề mặt, nghĩa hiển ngôn, chưa tính đến bất kì hàm ý gì trong câu nói.
Ví dụ: Sáng nay trời mưa rất nhiều, bố ạ. (con nói với bố)
Câu này chỉ có nghĩa đơn giản là người con muốn thông báo cho bố biết tình
hình thời tiết sáng nay.
2) Hành động tại lời (Illocutionary act) là HĐ mà cả người nói và người nghe
hiểu được “lực ngôn trung” (Illocutionary force) của phát ngôn. Lực ngôn trung là ý
nghĩa thật sự của phát ngôn trong một hoàn cảnh giao tiếp hiện thực. Ví dụ: HĐ
chào, hỏi, khen, xin lỗi, từ chối, bác bỏ, v.v.
Ví dụ: Áo dài của bạn đẹp lắm? (bạn nói với bạn)
Câu này có “Lực ngôn trung” là người nói muốn khen áo dài của người nghe.
Theo Austin, “Hành động tại lời” phân ra 2 kiểu sau đây:
(2.1) Hành động trực tiếp (Direct speech act) là HĐ được thực hiện bằng
những phương tiện ngôn ngữ chuyên dùng cho nó.




9
Ví dụ: Cái áo này bao nhiêu tiền? (bạn nói với bạn)
Câu này nghĩa là người nói có ý định hỏi để biết giá của cái áo. Đó là câu
nghi vấn có mục đích hỏi và đòi hỏi có câu trả lời.
(2.2) Hành động gián tiếp (Indirect speech act) là HĐ được thực hiện một cách
gián tiếp, thông qua việc thực hiện, theo câu chữ, một HĐ tại lời trực tiếp khác.
Ví dụ: Sao mà bạn nấu cơm ngon thế! (bạn nói với bạn)
Trong trường hợp này, tuy về hình thức, có thể xếp câu nói vào câu nghi vấn
(chẳng hạn, dựa trên dấu hiệu có từ nghi vấn “sao”) nhưng thực ra người nói không
hề có ý định hỏi (hỏi về lí do tại sao mà bạn nấu cơm ngon thế) mà là muốn khen
người nghe nấu cơm ngon. Câu nghi vấn trong trường hợp này không có mục đích
hỏi, không cần câu trả lời.
3) Hành động mượn lời (Perlocutionary act) là HĐ mà khi người nói nói ra
một câu thì có thể gây ra một hiệu quả tâm lí nào đó ở người nghe như khiến người
nghe vui mừng, phấn chấn, lo sợ hay tin tưởng v.v. Hiệu quả này có thể phù hợp
hoặc không phù hợp với ý muốn của người nói.
Ví dụ: Liệu hồn, bố sắp về rồi đấy! (mẹ nói với con)
Câu nói của người mẹ trong trường hợp này có thể có tác động làm cho người
con có ý thức về việc bố mình sắp về, cho nên phải thay đổi cách ứng xử hay thái
độ đối với mọi việc, không còn được tự do thoải mái như trước nữa.
1.1.2. Lý thuyết “Hành động ngôn từ” của John R. Searle
1.1.2.1. Tinh thần của “Speech Acts”
Searle, nhà triết học ngôn ngữ người Mỹ, là học trò của Austin và P.F.
Strawson. Ông đã tiếp tục tư tưởng của hai người thầy và phát triển lý thuyết “Ha
̀
nh
đô
̣

ng ngôn tư
̀
”. Cuốn sách nổi tiếng nhất của ông là cuốn “Speech Acts” được rất
nhiều nhà ngôn ngữ học tham khảo khi bàn về ngữ dụng học, đặc biệt là khi nói về
sự kế tục công trnh “How to Do Things with Words” của Austin.
Đối với Searle, “Speech Acts” có thể diễn giả là “Nói là hành động tuân theo
điều kiện” (Talking is performing acts according to rules) [77, 22]. Mỗi HĐNT
(speech act) sẽ được thực hiện theo những điều kiện khác nhau.



10
1.1.2.2. Những “Hành động ngôn từ” theo quan điểm của John R. Searle
- Hành động lời nói của con ngƣời
Searle tin rằng mỗi khi ai đó thực hiện một HĐNT th người đó có thể thực
hiện 3 HĐ
4
sau đây:
1) Hành động phát ngôn (Utterance act) là HĐ mà người nói sử dụng dòng âm
thanh, từ ngữ và cấu trúc ngữ pháp để tạo ra phát ngôn giao tiếp. Tư tưởng này
giống tư tưởng của Austin.
2) Hành động mệnh đề (Propositional act) là nội dung ý nghĩa của phát ngôn
và nội dung đó có thể nhận xét được là đúng hay sai.
Ví dụ: Trong gia đnh, em là con cả. (sinh viên nói với cô giáo)
Câu này có nghĩa: sinh viên (nguời nói) là con cả trong gia đnh. Điều đó có
thể kiểm tra được, chẳng hạn, bằng lý lịch của sinh viên.
3) Hành động tại lời (Illocutionary act) là sự bày tỏ của người nói cho người
nghe biết chủ ý / ý định tại lời (illocutionary intention) của mình khi dùng một phát
ngôn.
Ví dụ: Sắp thi rồi đấy con ơi. (bố nói với con khi con đang xem tivi)

Câu này của bố HY cảnh báo con là gần đến ngày thi.
- Các kiểu hành động ngôn từ của “Hành động tại lời”
Theo Searle, có 5 kiểu HĐNT
5
sau đây:
1) Hành động biểu kiến (Representatives) là HĐ mà người nói dùng để thông
báo, nêu nhận định nào đó có thể đúng hay sai.
Ví dụ: Ngày mai ban chủ nhiệm khoa họp từ 9 giờ sáng. (chủ nhiệm khoa nói
với cô thư ký)
Câu này chủ nhiệm khoa nói với cô thư ký về thời gian của cuộc họp và chịu
trách nhiệm về thông tin này.
2) Hành động cầu khiến (Directives) là HĐ mà người nói dùng ngôn từ để
khiến người nghe thực hiện một HĐ nào đó theo ý của mình.

4
Thuật ngữ dùng theo Cao Xuân Hạo (2005).
5
Thuật ngữ dùng theo Cao Xuân Hạo (2005).




11
Ví dụ: Đừng nói chuyện khi thầy đang dạy. (thầy giáo nói với sinh viên)
Với phát ngôn này, thầy giáo yêu cầu sinh viên đừng nói chuyện trong lớp, vì
điều đó có thể làm cho thầy giáo không dạy được.
3) Hành động kết ước (Commissives) là HĐ mà người nói cho người nghe biết
là người nói sẽ làm việc g đó.
Ví dụ: Thưa cô, em hứa với cô là từ hôm nay em sẽ chăm chỉ học hơn. (sinh
viên nói với cô giáo)

Câu này có nghĩa: sinh viên hứa với cô giáo là từ hôm nay mình sẽ chăm chỉ
học hơn. Câu này có TGĐ là trước đây sinh viên lười học và có thể đã bị cô giáo
trách mắng.
4) Hành động biểu cảm (Expressives) là HĐ mà qua lời nói người nói bộc lộ
trạng thái tâm lý, tình cảm, thái độ của mnh đối với sự tnh được đề cập đến trong
nội dung của phát ngôn hoặc đối với người nghe.
Ví dụ: Tôi xin chân thành cảm ơn anh đã giúp đỡ tôi hết sức! (một phụ nữ nói
với anh công an đã bắt được kẻ ăn cắp xe của mình)
Người phụ nữ nói câu này để cảm ơn anh công an.
5) Hành động tuyên bố (Declarations) là HĐNT mà người nói dùng để thay
đổi thực lại.
Ví dụ: Từ hôm nay, tôi đuổi anh và không cho anh làm việc ở công ty của tôi
nữa! (giám đốc nói với một nhân viên)
Bằng phát ngôn này, giám đốc đã đuổi anh nhân viên ra khỏi công ty của mình
v lí do nào đó.
Trong “HĐ tại lời”, Searle quan tâm đến hành đô
̣
ng gia
́
n tiếp (HĐGT)
(Indirect speech) hơn hành động trực tiếp (HĐTT) (Direct speech). Theo Searle,
mặc dù HĐGT được thực hiện bằng phát ngôn mà theo đó nghĩa đích thực của câu
nói không liên hệ trực tiếp với nghĩa theo câu chữ của câu nhưng người nghe vẫn
nhận biết và hiểu được ý nghĩa đó, v người nói và người nghe cùng có nền hiểu biết
chung, nền “tri thức bách khoa” giống nhau và có sự nhạy cảm nào đó đối với ngữ
cảnh giao tiếp.



12

Ví dụ: Ba sinh viên đang nói chuyện với nhau:
- A: Chúng ta xuống căng tin ăn cơm đi.
- B: Cơm ở căng tin khô lắm.
- C: Còn hơn là không có g nhét vào bụng.
Nội dung của ba câu trên đây có thể khúc giải là: A mời B và C đi ăn
cơm nhưng B dùng HĐGT để từ chối. Còn C th đồng ý nhưng sự đồng ý này cũng
được thực hiện thông qua một HĐGT.
Trong giao tiếp hàng ngày, bác bỏ thường được thực hiện thông qua HĐGT,
bởi vì BB luôn luôn thuộc vào số những HĐNT “nhạy cảm”, “tế nhị”, đụng chạm
đến thể diện (face) của người nghe.
Ví dụ: Hai người hàng xóm nói chuyện với nhau.
- A: Thằng Hưng con nhà Hiền chăm chỉ học nhỉ!
- B: Thấy nó chỉ đọc truyện tranh cả ngày.
Trên đây, A nói đến Hưng (con của Hiền) và khen Hưng là rất chăm chỉ học.
Nhưng B không đồng ý và BB bằng một câu trả lời gián tiếp vì không muốn nói
thẳng ra là “thằng đó lười học”.
Lý thuyết HĐNT của Austin và Searle là lý thuyết chính mà chúng tôi sử dụng
trong luận án này cho nên chúng tôi sẽ đi vào những phần quan trọng của lý thuyết
có liên quan đến luận án, đặc biệt là HĐ tại lời.
1.2. So sánh lý thuyết “Hành động ngôn từ” của John L. Austin và của John R.
Searle
So sánh lý thuyết “HĐNT” của Austin và của Searle, có thể thấy rằng giữa hai
lí thuyết này có cả nét tương đồng và khác biệt, nhưng nét khác biệt thì nhiều hơn.
Mặc dầu Searle là học trò của Austin nhưng ông không phải có tư tưởng hoàn toàn
giống Austin.
1.2.1. Những nét tương đồng
1) Về mục đích: Mặc dù công trình của Austin và Searle có tên gọi khác nhau
nhưng cả hai đều có mục đích nghiên cứu về “HĐNT”.




13
2) Về đường hướng lý thuyết: Lý thuyết của Austin và Searle đều liên quan
đến “ngữ dụng học” (Pragmatics).Và cả hai ông đều quan tâm đến “HĐGT” - một
dạng đặc biệt của “HĐ tại lời” - khi một HĐ tại lời kiểu này được thực hiện thông
qua phát ngôn có dấu hiệu ngôn ngữ đặc thù cho một HĐ tại lời thuộc kiểu khác.
1.2.2. Những nét khác biệt
1) Tên công trình: Mặc dù công trình của Austin và Searle đều có mục đích
viết về “HĐNT” giống nhau, nhưng cách đặt tên của 2 tác giả là khác nhau. Tên của
công trnh Austin là: “How to Do Things with Words”, còn của Searle là: “Speech
Acts”. Tên công trình của Austin khó hiểu và nhiều HY hơn của Searle.
2) Tư tưởng về HĐNT: Theo Austin, “khi tôi nói tức là tôi hành động”. Điều
đó nghĩa là Austin quan tâm đến “hiệu quả” nhiều hơn cách bày tỏ của người nói.
Hơn nữa, Austin nghĩ rằng lời nói và cách bày tỏ của người nói là có thể tách ra
được. Vì vậy, HĐNT theo Austin là HĐ theo truyền thống, theo luật và đúng cung
cách. HĐ đó không cần người nghe cắt nghĩa nhiều. Còn theo Searle, HĐNT chính
là dùng lời nói để bày tỏ ý của mình, “Nói là hành động tuân theo điều kiện”.
Searle không quan tâm đến hiệu quả của HĐNT như Austin nhưng quan tâm đến
cách bày tỏ của người nói nhiều hơn nội dung và cần người nghe cắt nghĩa. Searle
nghĩ rằng lời nói và cách bày tỏ của người nói không thể tách ra được. Mỗi lần nói,
người nói luôn có sự bày tỏ trong câu nói của mình.
3) Nội dung trong HĐNT: Trong cuốn “How to Do Things with Words”,
Austin nghiên cứu chủ yếu về nghi thức giao tiếp ví dụ như cách đặt tên thuyền, lễ
cưới, v.v. nên kết cấu của câu là kết cấu theo truyền thống, tuân thủ chặt chẽ quy tắc
ngữ pháp-ngữ nghĩa. Còn trong cuốn “Speech Acts”, Searle tập trung nghiên cứu về
lời nói trong giao tiếp hàng ngày của con người, không nghiên cứu lời nói trong
nghi thức giao tiếp nên Searle quan tâm đến cách bày tỏ của người nói và cách
người nghe cắt nghĩa.
4) Kiểu HĐNT: Austin đã phân ra 3 kiểu HĐNT được thực hiện đồng thời khi
phát ngôn câu nói. Đó là HĐ tạo lời (locutionary act), HĐ tại lời (illocutionary act)

và HĐ mượn lời (perlocutionary act). Còn Searle chú ý đến 3 loại HĐNT của con



14
người là HĐ phát ngôn (utterance act), HĐ mệnh đề (propositional act) và HĐ tại
lời (illocutionary act). Sau đó Searle tập trung vào 5 kiểu HĐNT thuộc HĐ tại lời.
Đó là kiểu HĐ biểu kiến (representatives), kiểu HĐ cầu khiến (directives), kiểu HĐ
kết ước (commissives), kiểu HĐ biểu cảm (expressives) và kiểu HĐ tuyên bố
(declarations).
Trên đây chúng tôi đã đề cập đến cách phân chia HĐNT của 2 tác giả khác
nhau với hệ thuật ngữ khác nhau. Chỉ có một thuật ngữ “HĐ tại lời” (illocutionary
act) là giống nhau. Searle nghĩ rằng HĐ được thực hiện bao giờ cũng kèm theo
những điều kiện thành công nào đó. Mỗi HĐNT (speech act) được thực hiện sẽ đòi
hỏi những điều kiện thành công khác nhau.
5) HĐ tại lời: Theo Austin, khi nói ra một phát ngôn, “HĐ tại lời” chỉ là sự
bày tỏ của người nói cho người nghe biết. Người nói và người nghe không cần phải
có cơ sở dựa trên nền hiểu biết chung. Còn Searle chú trọng nhiều đến HĐNT gián
tiếp, được thực hiện bằng phát ngôn mà nghĩa của nó không liên hệ trực tiếp với kết
cấu và diện mạo từ vựng của câu nhưng người nghe vẫn nhận biết và hiểu được,
dựa trên những TGĐ và điều kiện nào đó của ngữ cảnh giao tiếp.
Theo chúng tôi, phần so sánh khái quát lý thuyết HĐNT của Austin và Searle
là cơ sở quan trọng giúp chúng tôi rút ra những nét tương đồng và khác biệt trong lý
thuyết của hai ông trước khi đi vào phân tích những nội dung liên quan trong luận
án.
1.3. Quan điểm của một số nhà ngôn ngữ học khác có liên quan đến lý thuyết
“Hành động ngôn từ” của John L. Austin và John R. Searle
1.3.1. John R. Searle, Ferenc Kiefer và Manfred Bierwisch (Chủ biên, 1980) với
cuốn “Speech Act Theory and Pragmatics” (Lý thuyết về Hành động ngôn từ và
Ngữ dụng học)

Trong cuốn này có rất nhiều bài viết thú vị liên quan đến lý thuyết HĐNT của
Austin và Searle. Sau đây là một vài tóm lược của chúng tôi:
- Bài: “Cấu trúc ngữ nghĩa và lực ngôn trung” (Semantic Structure and
Illocutionary Force) của Manfred Bierwisch



15
Bài này bàn về quan hệ giữa cấu trúc ngữ nghĩa và lực ngôn trung. Phát ngôn
ra một câu là thực hiện HĐNT tuân theo điều kiện, ví dụ: lời hứa, lời tiên đoán, lời
cảnh báo. Trong những phát ngôn như vậy tồn tại những “phương tiện chỉ dẫn hiệu
lực ở lời
6
”, viết tắt là IFID (illocutionary force indicating device = IFIDs for short).
Đây là những yếu tố đánh dấu lực ngôn trung của HĐ đã được sử dụng (bất luận là
ít hoặc nhiều). Theo Manfred Bierwisch, IFIDs có 2 loại. Loại thứ nhất ở dạng công
thức ngôn hành hiển ngôn (explicit performative formulas), ví dụ: I promise you
to… „Tôi hứa với bạn sẽ…‟ hay I request that… „Tôi yêu cầu là ‟ [78, 1]. Loại thứ
hai được thấy ở những trường hợp xuất hiện một thức ngữ pháp (grammatical
moods), hoặc một kiểu cấu trúc làm hình thành những kiểu câu như câu mệnh lệnh
(imperatives) hoặc câu nghi vấn (interrogatives), ví dụ: Could you come in the
evening? „Bạn có thể đến buổi chiều được không?‟ hay Come in the evening!
„Chiều hãy đến!‟ [76, 1]. Trong kiểu câu mệnh lệnh, IFID là thức mệnh lệnh
(imperative mood), còn trong kiểu câu nghi vấn, IFID là cấu trúc đảo (inversion)
của trợ động từ tình thái.
- Bài: “Ngôn cảnh tình huống và hiệu lực của hành động tại lời” (Situational
Context and Illocutionary Force) của Wolfgang Motsch
Bài này bàn về quan hệ giữa ngữ cảnh và lực ngôn trung. Wolfgang Motsch
cho biết đối với việc nghiên cứu ngôn ngữ học, vấn đề ngôn cảnh tình huống được
đặt ra là:

1) Có cách tiếp cận ngôn ngữ học loại biệt nào để nghiên cứu những HĐ thực
hiện bằng ngôn từ không?
2) Ở khía cạnh nào thì việc phân tích ngôn ngữ phải dựa vào một lí thuyết khái
quát hơn về HĐ xã hội?
Để trả lời những câu hỏi này, Motsch đã phân tích lý thuyết của Austin và
Searle theo các khía cạnh sau đây:
a) Mỗi phát ngôn thực hiện trong tình huống là một kiểu HĐ.

6
Chúng tôi dùng cách gọi của Đỗ Hữu Châu và Bùi Minh Toán (2001, trang 92)



16
b) Mỗi kiểu phát ngôn, đặc biệt là lực ngôn trung, có thể kiểm tra bằng cách
phân tích ngôn ngữ học.
c) Đối với mỗi ngôn ngữ, có thể phân chia được những kiểu HĐNT. Còn lý
thuyết HĐNT th phân chia được hệ thống của những HĐ. Tức là đối với mỗi ngôn
ngữ có thể phân biệt những kiểu HĐNT khác nhau. Đến lượt mình, mỗi kiểu HĐNT
đó lại được chia thành những HĐ khác nhau, tạo nên một hệ thống những HĐNT
làm nền tảng cho hoạt động giao tiếp hàng ngày.
- Bài: “Một số nhận xét về câu ngôn hành tường minh, hành động tại lời gián
tiếp, ý nghĩa tạo lời và chân trị” (Some Remarks on Explicit Performatives, Indirect
Speech Acts, Locutionary Meaning and Truth-Value) của Francois Recanati.
Như tên gọi cho biết, nội dung của bài này đề cập đến dấu hiệu trong câu ngôn
hành tường minh (explicit), HĐGT, ý nghĩa tạo lời và chân trị, đặc biệt là chân trị
trong một số câu ngôn hành. Theo Recanati, đây là trường hợp những câu ngôn
hành có hình thức câu trần thuật, và câu trần thuật là câu được sử dụng theo lối điển
hnh để xác nhận hay ít nhất để nói về cái g đó. Ngoài ra, trường hợp này câu ngôn
hành cũng tuân theo nguyên tắc sau: phát ngôn nghiêm túc một câu trần thuật là nói

về một điều g đó đúng hay sai thế nào. Recanati nêu ví dụ của Warnock (1973),
trong trường hợp khi có người nào nói “I promise” (Tôi hứa), nghĩa là anh ấy đã
hứa. Vấn đề là vì sao không coi câu ngôn hành (performative utterances) là câu xác
nhận hiển nhiên (straightforward assertions). Vấn đề này hiện đang được nhiều nhà
ngôn ngữ học tranh luận. Đối với Recanati, điều quan trọng của câu ngôn hành
trong trường hợp này vẫn là: (1) hình thành một nhận định (results in a statement)
và (2) làm cho câu đó đúng (makes it true) [78, 205].
- Bài: “Lô gích của hành động tại lời và thất sách của hành động”
(Illocutionary logic and Self-Defeating ) của Daniel Vanderveken
Ở đây, Vanderveken bàn đến lô gích của HĐ tại lời, liên quan đến cái gọi là
“thất sách” của HĐ. Theo Vanderveken, lô gích của HĐ tại lời là một chuyên ngành
của lô gích về triết học, có liên quan đến HĐ tại lời (khẳng định, hỏi, yêu cầu, hứa
hẹn, ra mệnh lệnh, tuyên bố, v.v.).



17
Vanderveken cho rằng phương pháp phân tích lô gích của triết học (đặc biệt là
lý thuyết của Austin và Searle) đã chỉ ra tầm quan trọng của triết học trong cách
phân tích các HĐNT. Thực vậy, lực ngôn trung (illocutionary force) là một thành tố
cần thiết và không thể thiếu (không thể bị coi nhẹ) trong ý nghĩa câu nói của ngôn
ngữ tự nhiên chứ không như một số nhà logic hình thức lầm tưởng (các nhà lô gích
chỉ quan tâm đến nghĩa miêu tả, tức loại nghĩa liên quan đến hàm chân trị của câu).
Một điều cực kì quan trọng là ta không thể hiểu được ý nghĩa thực sự của câu nếu
không hiểu được ngôn cảnh mà phát ngôn đó được dùng để thực hiện một HĐ tại
lời nào đó.
1.3.2. Frans H. van Eemeren and Rob Grootendorest (1982) với cuốn “Speech
Acts in Argumentative Discussions” (Hành động ngôn từ trong thảo luận lập
luận)
Cuốn này chủ yếu bàn về khía cạnh lập luận (argumentation) của HĐNT, như

lập luận là một phức thể của HĐ tại lời, lập luận và sức thuyết phục của HĐ mượn
lời (perlocutionary act). Eemeren và Grootendorest cho rằng lý thuyết HĐNT đã
xác lập bộ khung có hiệu quả nhất để phân tích chức năng của ngôn ngữ, nhưng cho
đến đầu những năm 80 lập luận vẫn chưa được phân tích như HĐNT. Vấn đề còn
phức tạp hơn nếu xét đến hiệu lực thực sự của lập luận. Điểm quan trọng là các HĐ
thường được phân tích từ quan điểm của người nói có liên quan đến tình huống có
tranh chấp, khác biệt giữa các bên. Ở đây hai tác giả quan tâm đến điều kiện để
người nghe bị thuyết phục, dựa trên sự kết hợp chuỗi của các nhận định lập luận.
Mục đích của hai tác giả là nhằm phân loại các HĐNT dùng trong lập luận và điều
kiện nào đã làm cho những HĐ đó được thực hiện.
Đối với Eemeren và Grootendorest, thực chất lập luận là một loại HĐ tại lời
phức tạp. Thành tố của HĐ tại lời này dựa trên nguyên tắc của phạm trù khẳng định
(assertives), cùng với sự kết hợp chuỗi tại lời nhằm biện minh hoặc BB (a justifying
or refuting), hoặc để bày tỏ ý kiến nói chung. Hai tác giả thấy rằng việc phân tích
HĐ lập luận có liên quan đến cơ sở lý thuyết về HĐ tại lời của Searle v HĐ lập
luận cũng tuân theo điều kiện. Tuy vậy, hai tác giả không đồng ý với Searle khi cho



18
rằng Searle đã không chú ý đúng mức đến HĐ mượn lời. Theo hai tác giả HĐ lập
luận cũng liên quan đến HĐ mượn lời, đặc biệt là HĐ mượn lời có mục đích thuyết
phục. Theo hai tác giả, lập luận tại lời (illocution argumentation) có liên quan đến
sự thuyết phục mượn lời vì việc lập luận của một người và sự thuyết phục đối với
người khác phải gắn kết với nhau, không thể thiếu nhau được. Đây là lý do v sao
hiệu lực tại lời và hiệu lực mượn lời phải hoà hợp với nhau và lực mượn lời thực
hiện thông qua lực tại lời. Rõ ràng, tại lời và mượn lời đều là hai bình diện khác biệt
(distinct aspect) của một HĐNT trọn vẹn (complete speech act). Tại lời liên quan
đến bình diện giao tiếp được thể hiện trong cố gắng để thông hiểu. Còn mượn lời
liên quan đến bình diện tương tác được thể hiện trong cố gắng để đạt được sự chấp

nhận.
Trong công trình này, Eemeren và Grootendorest còn trình bày thêm về sự
đồng tnh (agreement) và không đồng tnh (disagreement) v chúng liên quan đến
lập luận. Theo chúng tôi, HĐBB có thể được xếp vào loại “không đồng tnh” theo
quan điểm của Eemeren và Grootendorest.
1.3.3. Michale L. Geis (1995) với cuốn “Speech Acts and Conversational
Interaction” (Hành động ngôn từ và tương tác hội thoại)
Trong cuốn này Geis tập trung bàn về HĐNT gián tiếp (Indirect speech act),
tương tác hội thoại, cấu trúc của tương tác hội thoại và ảnh hưởng của tương tác
trong hội thoại.
Về HĐNT gián tiếp, Geis đã viện quan điểm của Searle (1975). Searle cho
rằng HĐGT được thực hiện trong một phát ngôn mà phát ngôn này đã có lực ngôn
trung (illocutionary force) là một loại của HĐ tại lời nào đó khác. Ví dụ như trong
phát ngôn sau, HĐ hứa hẹn là sự bổ sung vào lực ngôn trung sẵn có của phát ngôn
vốn chỉ là lời khẳng định: I will be in my office. „Tôi sẽ có mặt ở văn phòng‟ [68,
123]. Ngoài ra, Geis còn dẫn một số nhà ngôn ngữ học khác như Sadock (1970,
1972), Gordon and Lakoff (1971), Morgan (1975), và Green (1975). Các nhà ngôn
ngữ học này cho rằng chúng ta không thể tính toán chính xác được lực ngôn trung
của phát ngôn (v đại lượng này biến đổi theo những tham số ngữ cảnh).



19
1.3.4. Susan M. Gass and Joyce Neu (Chủ biên, 1996) với cuốn “Speech Acts
Across Cultures: Challenges to Communication in a Second Language” (Hành
động ngôn từ qua các nền văn hóa: Thách thức cho việc giao tiếp bằng ngôn ngữ
thứ hai)
Cuốn sách dày dặn, vạm vỡ này là tập hợp những bài viết rất thú vị liên quan
đến lý thuyết về HĐNT của Austin và Searle cũng như nội dung của luận án. Sau
đây là một vài tóm lược của chúng tôi:

- Bài: “Khảo sát việc sản sinh các hành động ngôn từ” (Investigating the
production of speech act set) của Andrew Cohen
Bài này nhấn mạnh đến những khía cạnh và phương pháp nghiên cứu của
HĐNT như sau đây:
1) Vấn đề lý thuyết. Phần này Cohen nói đến quan điểm của mình và của
Olshtain (1983) về chiến lược giao tiếp đối với chuỗi HĐNT. Ông nhấn mạnh trước
khi phân tích chuỗi HĐNT, thì phải xác định được mục đích, cũng như những tiền
đề ngữ nghĩa-ngữ dụng cho sự hiện thực hóa chuỗi HĐ đó. Đối với phần này có 3
nội dung liên quan như sau:
1.1) Năng lực văn hóa xã hội và ngôn ngữ học xã hội (Socioculture and
sociolinguistic abilities). Người nói và người nghe thành công khi giao tiếp vì họ
đều có thể kiểm soát được chuỗi HĐNT trong ngôn ngữ mà họ dùng khi giao tiếp
với nhau. Khả năng kiểm soát này liên quan chặt chẽ đến năng lực văn hóa xã hội
và ngôn ngữ học xã hội.
1.2) Phương pháp nghiên cứu liên quan đến việc miêu tả các HĐNT và việc
lựa chọn chiến lược giao tiếp
1.3) Nghiên cứu về HĐ thê
̉
hiê
̣
n qua ngôn ngữ trung gian. Điều này liên quan
đến việc nghiên cứu sự thụ đắc ngôn ngữ thứ hai.
2) Vấn đề tìm, khôi phục và lựa chọn hình thức của ngôn ngữ. Cohen đặt vấn
đề phải xem xét nên dùng hình thức của ngôn ngữ trong bài nghiên cứu thế nào? Ví
dụ: dùng từ vựng, HĐ chính thức, biểu thức, v.v.



20
- Bài “Chiến lược phép lịch sự trong tiếng Pháp và tiếng Anh” (Politeness

strategies in French and English) của Michael L. Geis và Linda L. Harlow.
Bài này các tác giả trình bày về chiến lược lịch sự trong tiếng Pháp và tiếng
Anh. Đây là một nghiên cứu có tính chất thử nghiệm (pilot study). Về đối tượng
nghiên cứu, các tác giả đã chọn người Anh, người Pháp và người Pháp nói tiếng
Anh dựa trên hai tiêu chí chính: giới tính và tuổi tác. Về phương pháp nghiên cứu,
các tác giả tiến hành thí nghiệm dựa trên những ngôn cảnh hội thoại không chính
thức. Hai tác giả đã nói đến quan điểm của Brown và Levinson (1987) về thể diện
tích cực (positive face), thể diện tiêu cực (negative face) và áp dụng trong báo cáo
của mình. Kết quả thu được từ báo cáo này đã góp phần làm sáng tỏ những hình
thức được sử dụng để thể hiện phép lịch sự trong tiếng Anh và tiếng Pháp.
- Bài “Văn hóa, thương lượng và hợp tác quốc tế” (Culture, negotiations and
international cooperative ventures) của John L. Graham.
Theo Graham, khó có thể đưa ra một quan niệm nhất quán (consistent) về văn
hóa. Graham đã lấy xuất phát điểm là quan điểm về văn hóa của Linton. Linton
(1945:5) cho rằng “văn hóa là cấu hình của những hành vi có giáo dục và kết quả
của những hành vi mà thành tố của nó được áp dụng và truyền đạt giữa các thành
viên của một xã hội cụ thể” [68, 319-320].
Bên cạnh việc khám phá những sự khác biệt về văn hóa trong các hành vi
thương lượng, giá trị của bài viết này còn nằm ở việc giải quyết vấn đề “nội dung
hay ngôn cảnh” (content versus context). Nếu như các nhà tâm lí học xã hội đề cao
nội dung ngôn từ (verbal content), thì các nhà ngôn ngữ học xã hội lại cho rằng nếu
chỉ chú trọng vào những phần phô diễn trên ngôn từ thì sẽ không thể hiểu được khía
cạnh tương tác liên nhân của văn bản một cách thấu đáo. Cũng giống như các nhà
ngôn ngữ học xã hội, Graham đặc biệt nhấn mạnh tầm quan trọng của ngôn cảnh
trong cả giao tiếp ngôn từ cũng như giao tiếp phi ngôn từ (nonverbal).
Những trình bày tóm lược của chúng tôi về những nghiên cứu tiêu biểu, mang
tính thời sự về lí thuyết HĐNT trên đây đã cho thấy những khía cạnh phức tạp, tinh
tế có được thể hiện trong hoạt động nói năng của con người. Sự trình bày này góp




21
phần làm nên cái nền tảng (background) cần thiết để chúng tôi triển khai đề tài
nghiên cứu của mnh, đó là tm hiểu và so sánh HĐBB trong tiếng Thái và tiếng
Việt.
1.4. Khái niệm “Hành động bác bỏ” (The Speech Act of Denial)
- Theo “Từ điển tiếng Việt” (1997) của Hoàng Phê (Chủ biên), BB là: “…bác
đi, gạt đi không chấp nhận” [40, 22].
- Theo “Từ điển tiếng Việt” (2001) của Bùi Quang Tịnh, BB là lời nói: “không
nạp, không nhận” [57, 30].
- Nguyễn Thị Thìn (2003) mở rộng, cụ thể hóa BB, đó là: “…phủ định một
lời khẳng định, đoán định, phê phán buộc tội trước đó của người đối thoại” [55,
174].
- Trong cuốn “English Speech Act Verbs” của Anna Wierzbicka (1987), tác
giả cho rằng BB (deny) là không đồng ý với ý kiến của người đối thoại vì cho rằng
ý kiến này không đúng (This is not true). Ví dụ, khi tôi nói điều đó không đúng (I
say it is not true), đích tại lời là tôi không muốn người ta nghĩ rằng là điều đó đúng
(I don‟t want people to think that it is true) [82, 134].
Theo chúng tôi “Hành động bác bỏ ” là HĐ mà người nói thể hiện sự không
chấp nhận điều mà người nói đã nghe trước đó, hoặc có thể suy luận từ những g đã
có trước đó. Trong trường hợp những đặc trưng hnh thức của câu nói dùng để BB
là ổn định, có thể thấy quan hệ giữa BB (một HĐNT) và câu PĐ (một kiến trúc
ngôn ngữ). Cũng như nhiều HĐNT khác, BB có trường hợp trực tiếp và gián tiếp.
1.4.1. Hành động bác bỏ trong tương quan của cặp thoại xác tín-bác bỏ
Lý thuyết HĐNT của Austin chỉ xem xét các HĐNT một cách riêng biệt và
độc lập với những HĐ khác. Nhưng trong hội thoại, mỗi phát ngôn đều có quan hệ
trực tiếp đến những phát ngôn đi trước nó hoặc bản thân nó định hướng cho những
phát ngôn tiếp theo sau. Và hệ quả là những HĐNT này sẽ kéo theo những HĐNT
khác. Một HĐNT A có thể kéo theo HĐNT B, lượt lời này cũng có thể kéo theo
lượt lời khác. Trong những trường hợp như thế, chúng ta nói đến khái niệm “cặp




22
thoại”. Các cặp thoại được tổ chức theo một quy cách chặt chẽ và tuân theo những
quy tắc chi phối hội thoại.
BB là một HĐ phát sinh từ một HĐ xác tín khác đi trước. Tuy nhiên, nội dung
xác tín đi trước đó có thể là hiển ngôn hoặc hiểu ngầm ẩn (là dẫn ý, TGĐ, hàm ngôn
qui ước hoặc hàm ngôn hội thoại).
Ví dụ (dẫn theo Nguyễn Đức Dân, 1999):
“A: Lấy cơm ra mà ăn!
B: Có cơm đâu mà ăn!
C: * Không có cơm mà ăn”. [11, 395]
Câu A thể hiện một mệnh lệnh. Mệnh lệnh này (lấy cơm ra mà ăn!) có tiền giả
định là “Còn cơm”. Còn câu B là câu mà người ta dùng để chất vấn về sự tồn tại của
điều kiện cho phép thực hiện mệnh lệnh đó. Nghĩa là chất vấn TGĐ của mệnh lệnh
đó. Để phê phán một hiện tượng người ta có thể dùng cả sự PĐ miêu tả và chất vấn.
Chẳng hạn, có thể phê phán về sự lãng phí theo hai cách: 1) “Lãng phí như vậy rồi
đến lúc không có cơm mà ăn”, 2) “Lãng phí như vậy rồi lấy cơm đâu ra mà ăn”.
Từ ví dụ trên, chúng ta có thể nhận ra một HĐ ngôn ngữ gián tiếp khác, được
tạo thành từ các HĐ chất vấn, từ chối và thanh minh với một hiệu lực tại lời nào đó.
Theo Nguyễn Đức Dân (1999), đây là HĐ được nảy sinh từ lô gích nội tại của ngôn
ngữ.
1.4.2. Đặc điểm của “Hành động bác bỏ”
“HĐBB” đã được nhiều người nghiên cứu, chỉ ra đặc điểm của nó:
Nguyễn Đức Dân (1983) cho rằng “Trong quá trnh giao tiếp, nếu một người
khẳng định, trực tiếp hay gián tiếp, về một thuộc tính A của sự vật, nhưng nếu
người khác cho rằng ý kiến đó không đúng và BB ý kiến đó, như thế người thứ hai
đã thực hiện một hành vi PĐ, ‎hay là hành vi BB. Ví dụ:
1.) X: Ngôi nhà kia cao.

Y: (a) Ngôi nhà kia đâu có cao!
(b) Ngôi nhà kia không cao!
2.) X: Ngôi nhà kia không cao.

×