Tải bản đầy đủ (.pdf) (116 trang)

Nghiên cứu đối chiếu và chuyển dịch các biểu thức quy chiếu trong ngôn ngữ bóng đá Tiếng Anh và Tiếng Việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (859.39 KB, 116 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN





NGUYỄN ANH TUẤN




NGHIÊN CỨU ĐỐI CHIẾU VÀ CHUYỂN DỊCH
CÁC BIỂU THỨC QUY CHIẾU TRONG NGÔN NGỮ
BÓNG ĐÁ TIẾNG ANH VÀ TIẾNG VIỆT







LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC









Hà Nội – 2012
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN





NGUYỄN ANH TUẤN




NGHIÊN CỨU ĐỐI CHIẾU VÀ CHUYỂN DỊCH
CÁC BIỂU THỨC QUY CHIẾU TRONG NGÔN NGỮ
BÓNG ĐÁ TIẾNG ANH VÀ TIẾNG VIỆT


Chuyên ngành:Ngôn ngữ học
Mã số: 60.22.01



LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC


Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Hồng Cổn






Hà Nội - 2012


1
I - PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Khảo sát ngôn ngữ theo hướng đối chiếu là một vấn đề khá mới mẻ và
nghiên cứu. Nghiên cứu đối chiếu và chuyển dịch các biểu thức quy chiếu
trong ngôn ngữ bóng đá tiếng Anh và tiếng Việt mang lại nhiều kết quả thú vị
đặc điểm cấu trúc, đặc điểm ngữ nghĩa cũng như những vấn đề liên quan đến
việc chuyển dịch biểu thức quy chiếu giữa hai ngôn ngữ. Nội dung chính là
chúng tôi muốn đi sâu vào tìm hiểu là những tương đồng và khác biệt về ngôn
ngữ và văn hóa; những tương đồng và khác biệt về phương thức tư duy,
phương thức định danh; những thuận lợi và khó khăn trong dịch thuật.
Ngôn ngữ bóng đá trong các tác phẩm báo chí mang một phong cách
khá mới mẻ và hiện đại, đặc biệt ở trong thời điểm bóng đá là một môn thể
thao Vua được ưa chuộng trên khắp thế giới. Song chính nghiên cứu về ngôn
ngữ bóng đá chưa theo kịp sự phát triển mạnh mẽ của nó trên khắp thế giới.
Nhiều công trình ở Việt Nam đã có những nghiên cứu về cách sử dụng ngôn
ngữ bóng đá trên báo chí, nhưng tất cả đều chưa đi sâu để tìm hiểu chi tiết,
đặc biệt là theo hướng đối chiếu.
Do vậy, chúng tôi chọn đề tài Nghiên cứu đối chiếu và chuyển dịch các
biểu thức quy chiếu trong ngôn ngữ bóng đá tiếng Anh và tiếng Việt với mục
đích làm sáng tỏ hơn những sự tương đồng và khác biệt về cách thức sử dụng
ngôn ngữ bóng đá tiếng Anh và tiếng Việt, đồng thời nêu ra được những kinh
nghiệm quý báu trong việc chuyển dịch từ ngữ bóng đá trong hai ngôn ngữ.
2. Lịch sử vấn đề
Quy chiếu và các biểu thức quy chiếu là một vấn đề được đề cập từ rất

sớm. Vấn đề này được các nhà ngôn ngữ học trong và ngoài nước hết sức
quan tâm.
Theo nhà ngôn ngữ học Geogre Yule, thì tự thân các từ không quy
chiếu đến cái gì cả. Chỉ có con người mới là chủ thể làm việc đó. Vì vậy, có


2
thể coi sự quy chiếu như là một hành động trong đó người nói (người viết) sử
dụng các hình thái ngôn ngữ làm cho người nghe (người đọc) có thể nhận
diện được cái mà mình có chủ đích đề cập đến. Yule cũng cho rằng, "để có
được sự quy chiếu thành công, chúng ta phải thừa nhận vai trò của suy luận
(inference). Bởi lẽ chẳng có một mối liên hệ trực tiếp nào giữa các thực thể
với các từ, nhiệm vụ của người nghe là làm sao suy ra đúng được là người nói
có chủ định nhận diện cái thực thể nào đó bằng cách sử dụng một biểu thức
quy chiếu cụ thể. Thật là chẳng bình thường khi mà người ta muốn quy chiếu
đến một thực thể hay một người nào đó mà không biết chính xác 'tên gọi' nào
có thể là cái từ tốt nhất để dùng". Và ông cũng cho rằng "sự quy chiếu thành
công nhất thiết phải là (kết quả của) sự phối hợp: cả người nói lẫn người nghe
đều có vai trò của mình trong việc nghĩ xem người kia đang xem xét đến cái
gì".
G. Yule gọi các hình thái ngôn ngữ như thế là những biếu thức quy
chiếu (referening expressions) và phân loại như sau:
- Danh từ riêng: Nam, bin Laden, New York
- Các cụm danh từ xác định (trong tiếng Anh, đó là các cụm danh từ có
mạo từ xác định "the"): thằng cha đấy, ông giáo sư này, cái xóm này
- Các cụm danh từ không xác định ( trong tiếng Anh, đó là các cụm
danh từ có mạo từ không xác định "a"): một người đàn ông, một người qua
đường
- Các đại từ: tôi, nó
Liên quan đến vấn đề này, tác giả Lê Đông cho rằng: “Ngữ dụng học

nói riêng và bản thân ngôn ngữ nói chung không nghiên cứu bản thân các quy
chiếu mà nó chỉ quan tâm đến những mối liên hệ giữa từ ngữ và quy chiếu.
Các mối quan hệ ở đây là các mối liên hệ có giá trị tín hiệu học của từ ngữ mà
thôi”.


3
Trong cuốn Dẫn luận ngôn ngữ học, hai tác giả Vũ Đức Nghiệu và
Nguyễn Văn Hiệp định nghĩa quy chiếu là dùng một biểu thức ngôn ngữ (từ,
ngữ) chỉ ra một sự vật cụ thể nào đó. Chiếu vật (vật được quy chiếu) là vật
được biểu thức ngôn ngữ chỉ ra.
Hiện tại ở Việt Nam, những nghiên cứu về các biểu thức quy chiếu theo
hướng đối chiếu là khá ít. Theo khảo sát của chúng tôi, chưa có công trình nào
nghiên cứu đối chiếu và chuyển dịch các biểu thức quy chiếu dựa trên cứ liệu
của hai ngôn ngữ Anh, Việt. Do vậy, đề tài Nghiên cứu đối chiếu và chuyển
dịch các biểu thức quy chiếu trong ngôn ngữ bóng đá tiếng Anh và tiếng Việt
của chúng tôi là khá mới mẻ.
3. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu đối chiếu và chuyển dịch các biểu thức quy
chiếu trong ngôn ngữ bóng đá tiếng Anh và tiếng Việt, luận văn nêu bật ra
được những hiệu quả trong việc dịch thuật các biểu thức quy chiếu bóng đá
cũng như có những đóng góp nhất định cho các nhà nghiên cứu về thể thao
trong cách chuyển dịch từ ngữ bóng đá từ tiếng Anh sang tiếng Việt. Đồng
thời, chúng ta cũng nêu ra được những khuynh hướng về các sử dụng ngôn từ
trên báo chí Việt Nam, những kinh nghiệm về chuyển dịch từ ngữ một cách
chuẩn xác nhất, nâng cao chất lượng các tác phẩm báo chí viết về bóng đá nói
riêng và thể thao nói chung.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các biểu thức quy chiếu trong

ngôn ngữ bóng đá tiếng Anh và tiếng Việt, dựa trên những đặc điểm cấu trúc
và đặc điểm ngữ nghĩa để tìm ra để so sánh, đối chiếu sự tương đồng và khác
biệt. Luận văn này sẽ khảo sát và nêu ra những nhận xét chính về biểu thức
quy chiếu ngôn ngữ bóng đá giữa tiếng Anh và tiếng Việt.



4
4.2 Phạm vi nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu đặc điểm cấu trúc và ngữ nghĩa các biểu
thức quy chiếu trong ngôn ngữ tiếng Việt, chúng tôi khảo sát dựa trên ba tờ
báo chuyên về thể thao hàng đầu ở Việt Nam là Báo Bóng đá, Báo Thể thao
Văn hóa (TTVH) và Báo Thể thao 24h (TT24h).
Khi nghiên cứu đặc điểm cấu trúc và ngữ nghĩa của các biểu thức quy
chiếu trong ngôn ngữ bóng đá tiếng Anh, chúng tôi trích dẫn từ 10 tờ báo
chuyên về thể thao hàng đầu ở nước Anh như: Daily Mail, The Sun,
Guardian, Telegraph, Independent, The Times, BBC, Mirror, Daily Star &
People
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài, luận văn sử dụng phối hợp nhiều phương pháp
khác nhau tiêu biểu là các nhóm phương pháp sau
- Phương pháp thống kê: Thống kê là phương pháp đầu tiên mà luận
văn sử dụng, phương pháp này giúp chúng tôi có những ngữ liệu cụ thể để
nghiên cứu. Luận văn thống kê về các biểu thức quy chiếu bóng đá được sử
dụng trong tiếng Anh và tiếng Việt, rồi từ đó rút ra những sự tương đồng,
khác biệt về mặt cấu trúc, ngữ nghĩa.
- Phương pháp so sánh đối chiếu: Trên cơ sở ngữ liệu thống kê được,
chúng tôi tiến hành đối chiếu các biểu thức quy chiếu bóng đá tiếng Anh và
tiếng Việt, qua đó rút ra được những tương đồng, khác biệt về ngôn ngữ, văn
hóa và phương thức tư duy ở hai ngôn ngữ.

- Phương pháp phân tích, giải thích: Ngoài việc đưa ra được những ngữ
liệu, luận văn cũng phân tích được những đặc điểm chính về cấu trúc của các
biểu thức quy chiếu. Bên cạnh đó, chúng tôi cũng có những lý giải sâu hơn về
ngữ nghĩa các nhóm biểu thức quy chiếu bóng đá ở hai ngôn ngữ tiếng Anh
và tiếng Việt.


5
- Phương pháp dịch thuật: Để nhận biết sự tương đồng và khác biệt của
các biểu thức quy chiếu ở hai ngôn ngữ, chúng tôi sử dụng phương pháp dịch
thuật dựa trên sự tương đương ngữ nghĩa, đồng thời nêu ra được những thuận
lợi, khó khăn trong việc dịch thuật.
6. Đóng góp của luận văn
Về lý luận, đề tài: “Nghiên cứu đối chiếu và chuyển dịch các biểu thức
quy chiếu trong ngôn ngữ bóng đá tiếng Anh và tiếng Việt” góp phần làm
sáng tỏ những vấn đề lý luận như quy chiếu, cách phân loại các biểu thức quy
chiếu dựa trên đặc điểm cấu trúc và ngữ nghĩa, đặc điểm phong cách báo chí
Việt Nam và báo chí Anh.
Về thực tiễn, qua việc phân tích đối chiếu các biểu thức quy chiếu bóng
đá trong hai ngôn ngữ tiếng Anh và tiếng Việt, chúng tôi chỉ ra được những
hiệu quả trong việc phân tích cấu trúc, ngữ nghĩa và cách chuyển dịch nhóm
biểu thức quy chiếu ở hai ngôn ngữ. Đồng thời, luận văn này sẽ giúp ích cho
các nhà báo thể thao (chuyên về mảng quốc tế) có những ứng dụng hữu ích
khi đọc và lấy tư liệu ở các báo nước ngoài.
7. Cấu trúc luận văn: Ngoài phần mở đầu và kết luận, Luận văn của
chúng tôi được chia làm 3 chương như sau:
Chương 1: Cơ sở lí thuyết
Chương 2: Phân tích đối chiếu các biểu thức quy chiếu trong ngôn ngữ
bóng đá tiếng Anh và tiếng Việt.
Chương 3 : Các phương thức chuyển dịch biểu thức quy chiếu bóng

đá từ tiếng Anh sang tiếng Việt.








6

CHƢƠNG I - CƠ SỞ LÝ THUYẾT
1.1. Quy chiếu và các biểu thức quy chiếu
1.1.1. Khái niệm quy chiếu:
Theo quan điểm của G. Yule, Quy chiếu là phạm vi đối tượng của thế
giới được người nói chỉ ra khi dùng một từ ngữ nào đó trong phát ngôn là quy
chiếu của từ ngữ đó. Ở đây, chúng ta phải xác định rằng:
+ Các đối tượng được chỉ ra đó không thuộc về ngôn ngữ.
+ Từ ngữ ở đây đóng vai trò là phương tiện, công cụ để chỉ ra quy
chiếu. Nói một cách khác, chỉ ra quy chiếu là một cách dùng từ, là một chức
năng của từ.
Một từ ngữ được tàng trữ trong bộ não thì không có quy chiếu, chỉ
những từ ngữ được sử dụng trong phát ngôn thì mới có quy chiếu, và trong
các phát ngôn khác nhau, ngữ cảnh khác nhau thì có quy chiếu khác nhau.
Các ví dụ:
(1a): Villa, chuyền bóng cho tôi!
(1b): Del Bosque, sao ông lại lựa chọn đội hình như vậy?
(1c): Torres là một tiền đạo giỏi.
(2a): Cầu thủ này đã luống tuổi.
(2b): Cậu ấy là người dự bị của tôi.

(2c): Cậu ấy chơi ở vị trí thủ môn.
- Nghĩa là một yếu tố bên trong của ngôn ngữ, là mặt không thể tách rời
của tín hiệu ngôn ngữ. Trong khi đó, quy chiếu lại là sự vật bên ngoài hệ
thống ngôn ngữ. Các từ ngữ, với thông tin mà nó truyền đạt, đã tạo ra những
con đường, cách thức để xác lập các quy chiếu. Tuy nhiên, để thực hiện sự
quy chiếu thì nếu chỉ có riêng bản thân từ ngữ không thể mà để làm điều này
nó cần phải được đi kèm với các nhân tố khác


7
Các loại quy chiếu: có hai loại là Quy chiếu xác định và quy chiếu
không xác định.
*Quy chiếu xác định
- Từ ngữ có quy chiếu xác định là những từ ngữ được người nói sử
dụng để chỉ ra và đồng nhất một hay những đối tượng của hiện thực. Trong
đó, theo đánh giá của người nói thì người nghe đã được cung cấp đủ điều kiện
cần thiết để nhằm đúng đối tượng muốn nói tới.
- Quán từ xác định là phương tiện dùng để đánh dấu từ ngữ có quy
chiếu xác định. Điều này có thể thấy rất rõ trong tiếng Anh (the), nhưng trong
tiếng Việt thì không có phương tiện như vậy. Cho nên, việc nhận diện sẽ phụ
thuộc nhiều vào ngữ cảnh. Tuy nhiên, có những từ ngữ, trong đại đa số trường
hợp, được dùng với chức năng là chỉ quy chiếu sẵn. Đó là:
+ Tên riêng, các danh từ chỉ những sự vật đơn nhất;
+ Đại từ có tính trực chỉ hoặc hồi chỉ: tôi, nó, họ, đây, đấy, bây giờ
+ Các yếu tố trực chỉ khác: ở đây, năm ngoái
+ Các danh ngữ có yếu tố hạn định là những từ ngữ trực chỉ, hồi chỉ.
- Các từ ngữ có quy chiếu xác định, khi sử dụng, phải tuân theo một số
quy tắc, chiến lược:
+ Khi dùng một từ ngữ vào chức năng quy chiếu xác định thì, thông
thường, đối tượng được nói tới phải nằm trong thế giới nhận thức của cả

người nói lẫn người nghe.
+ Tuy nhiên, có một số phạm vi giao tiếp có những cơ chế riêng (ngoại
lệ) cho phép được vi phạm. Trong trường hợp này, những ngoại lệ đó tuy
không được quy ước rõ ràng nhưng mọi người đều ngầm hiểu với nhau.
Những ngoại lệ này thường có trong văn chương, báo chí.
+ Thông thường, một từ ngữ có quy chiếu xác định phải dựa vào những
mốc (hệ toạ độ), tức là những thông tin đã biết. Những thông tin này có thể
diễn đạt bằng ngôn ngữ hoặc được ngầm hiểu (không nói ra thành lời).


8
*Quy chiếu không xác định
- Từ ngữ có quy chiếu không xác định là những từ ngữ được người nói
dùng để chỉ vào một đối tượng tồn tại, và về nguyên tắc phải có "căn cước,
địa chỉ", nhưng ở đây người nói chỉ cung cấp thông tin chỉ ra phạm trù mà đối
tượng thuộc vào, chứ không đủ để xác định đối tượng.
VD: Hôm qua, một cầu thủ bị phát hiện sử dụng doping.
Nguyên nhân của việc sử dụng như vậy có thể do không biết, không có
hoặc không cần thông tin xác định; cũng có thể do người nói cố tình lảng
tránh. Có thể nói, việc xảy ra hiện tượng như vậy là do hàng loạt các nhân tố
tác động.
- Trong thực tế giao tiếp, nếu tách rời khỏi ngữ cảnh thì có thể hiểu một
cách mơ hồ về một biểu thức không xác định:
+ Biểu thức không xác định nhưng có quy chiếu (tức là có quy chiếu
không xác định);
+ Biểu thức không có quy chiếu và không xác định.
Ví dụ:
(1a) HLV Capello đã tìm được thủ môn đáng tin cậy.
→ Đối tượng đã tồn tại, HLV Capello đã xác định được đối tượng cần
chọn.

(1b) HLV Capello đang tìm một thủ môn đáng tin cậy, anh xem có ai
đó để giới thiệu
→ Đối tượng chưa xác định → Không có quy chiếu.
(1c) HLV Capello khá mê một thủ thành đồng hương.
→ "thủ thành đồng hương" là một danh ngữ có quy chiếu không xác
định.
(2a) Cậu nên tìm một thành viên ban huấn luyện mà trình bày.
→ Bất kì ai thuộc phạm vi là "ban huấn luyện": không xác định và
không có quy chiếu.


9
(2b) Hôm nay tôi đã phản ứng mạnh với một thành viên ban huấn
luyện.
→ Có quy chiếu không xác định
Ngoài ra, quy chiếu không xác định còn có sự mơ hồ, lẫn lộn giữa cách
đọc có quy chiếu xác định và cách đọc định tính
Ví dụ:
(1): Kẻ cãi lại HLV Mourinho là đồ điên!
+ (1a): có quy chiếu xác định.
+ (1b): chỉ bất kì kẻ nào có thuộc tính "cãi lại HLV Mourinho"
Cách hiểu (1b) suy ra câu (1) được dùng theo lối định tính.
(2): “Quả bóng vàng châu Âu 2009” là một ngôi sao lớn.
+ (2a): chỉ một diễn viên xác định → có quy chiếu xác định
+ (2b): bất kì ai giành “Quả bóng vàng châu Âu 2009” đều là ngôi sao
lớn.
=> Cách dùng định tính.
(3): Vợ của Beckham luôn đối diện với nhiều sức ép.
→ Nỗi khổ ở đây là chính thuộc tính "Vợ của Beckham" đem lại (có
thể bởi vì Beckham hay đi lăng nhăng), chứ nỗi khổ không phải bắt nguồn từ

bản thân người phụ nữ đó.
1.1.2. Các biểu thức quy chiếu:
Các yếu tố ngôn ngữ có ý nghĩa quy chiếu được gọi là các biểu thức
ngôn ngữ quy chiếu. Một biểu thức ngôn ngữ trong những cuộc giao tiếp khác
nhau sẽ có khả năng quy chiếu (ý nghĩa quy chiếu) khác nhau.
Theo G. Yule, sự quy chiếu là một hành động và sự quy chiếu là một
hành động mà trong đó người nói (người viết) sử dụng các hình thái ngôn ngữ
cho người nghe (người đọc) nhận diện được cái chủ đích mà mình đề cập đến.
G. Yule đã phân loại có 4 biểu thức quy chiếu bao gồm:
- Danh từ riêng: Llorente, Mourinho.


10
- Danh ngữ xác định: HLV người Pháp, Tiền đạo 24 tuổi.
- Danh ngữ không xác định: một cầu thủ, một trọng tài.
- Đại từ: Tôi, cậu ấy, ông ấy.
Tuy nhiên, việc lựa chọn kiểu biểu thức quy chiếu nào là dựa vào cái
người nói cho rằng người nghe đã biết. Trong ngữ cảnh mà mọi người đều
nhìn thấy dùng các đại từ làm biểu thức quy chiếu có thể đủ để quy chiếu
thành công, nhưng ở những ngữ cảnh việc nhận diện khó khăn hơn có thể
dùng danh ngữ phức tạp.
VD: HLV Mourinho từng gắn bó nhiều năm với Ricardo Carvalho?
Cậu ấy đã chuyển sang chơi cho Real Madrid => Ở đây, người nói quy định
đối tượng được qui chiếu là Cậu ấy – Ricardo Carvalho, chứ không phải là
HLV Mourinho.
Dựa trên khái niệm về quy chiếu và các biểu thức quy chiếu của Yule,
trong luận văn này chúng tôi đi sâu vào khảo sát các biểu thức quy chiếu bóng
đá - những từ, ngữ mang đầy đủ những đặc điểm và thuộc tính liên quan đến
bóng đá.
1.2. Sự chuyển nghĩa của các biểu thức quy chiếu

1.2.1. Cách nhìn của ngữ nghĩa học từ vựng (qua khái niệm trường nghĩa)
1.2.1.1 Khái niệm trường nghĩa
Lý thuyết về các trường đã được một số nhà ngôn ngữ học người Đức và
Thuỵ Sĩ đưa ra vào những thập kỉ 20 và 30 của thế kỉ trước. Những tư tưởng
về mối quan hệ ngữ nghĩa giữa các từ trong ngôn ngữ đã được phát biểu trước
đó. Năm 1986, M. M. Pokrovxkij viết: “Từ và ý nghĩa của chúng không tồn
tại tách rời nhau mà liên kết với nhau trong tư tưởng của chúng ta và độc lập
với ý thức chúng ta thành một nhóm nhất định. Cơ sở để tập hợp những nhóm
như vậy là sự đồng nhất hay trái ngược trực tiếp giữa chúng về mặt ý nghĩa.
Chúng ta đã biết một cách tiên nghiệm rằng các từ như vậy hoặc giống nhau
hoặc song hành với nhau trong sự biến đổi ý nghĩa và trong lịch sử của


11
chúng, chúng ảnh hưởng lẫn nhau. Chúng ta cũng biết rằng những từ này
được dùng trong những tổ hợp cú pháp giống nhau. (Dẫn theo 11, 873).
Tuy nhiên, khái niệm về trường nghĩa chỉ thực sự được nghiên cứu từ
những nguyên lý của F. de Saussure đặc biệt là luận điểm: “Giá trị của bất cứ
yếu tố nào cũng do những yếu tố ở xung quanh quy định” [39, 202] và “chính
phải xuất phát từ cái toàn thể làm thành một khối để phân tích ra những yếu
tố àm nó chứa đựng” [39, 198].
Ở Đức, lý thuyết về các trường gắn liền với hai tên tuổi của J. Trier và L.
Weisgerber. Về mặt thuật ngữ, J. Trier không có những cách dùng cố định và
cũng chưa đưa ra được những định nghĩa rõ ràng cho thuật ngữ của mình.
Ông đưa ra hai khái niệm về “trường từ” và “trường khái niệm”. Những quan
điểm của J. Trier cho rằng trong ngôn ngữ, mỗi từ tồn tại trong một trường,
giá trị của nó là do quan hệ với các từ khác trong trường quyết định, “trường”
là những hiện thực ngôn ngữ nằm giẵ từ với toàn bộ từ vựng.
L. Weisgerber có một quan điểm rất đáng chú ý về các trường. Theo tác
giả cần phải tính đến các “góc nhìn” khác nhau mà tác động giữa chúng sẽ

cho kết quả là sự ngôn ngữ hoá một lĩnh vực nào đó của cuộc sống.
Các trường theo kiểu của J. Trier, L. Weisgerber là những trường có tính
chất đối vị gọi là trường trực tuyến hay trường đọc. Còn W. Porzig lại là
người đầu tiên xây dựng quan niệm về trường tuyến tính hay trường ngang.
Từ năm 1934, W. Porzig đã xây dựng nguyên tắc liên tưởng. Theo đó một từ
ngữ nào xuất hiện cũng gợi lên những từ khác tồn tại trong ngôn ngữ. Chẳng
hạn “ăn” sẽ nghĩ đến “miệng”, “cầm” sẽ nghĩ đến “tay”, nhưng “tay” thì có
thể kết hợp với nhiều động từ khác nữa. Dựa trên cơ sở này, từ vựng được
chia ra trong đó động từ và tính từ được chọn làm trung tâm.
Ở Việt Nam, Đỗ Hữu Châu đã vận dụng lý thuyết về trường của các tác
giả nước ngoài để hình thành nên quan niệm của mình về trường từ vựng. Đỗ
Hữu Châu định nghĩa: “Mỗi tiểu hệ thống ngữ nghĩa được gọi là một trường


12
nghĩa. Đó là tập hợp những từ động nhất với nhau về ngữ nghĩa” [10, 171].
Đỗ Hữu Châu đã phân lập trường nghĩa dựa trên cơ sở ý nghĩa của từ. Chúng
tôi lấy lý thuyết về trường nghĩa của Đỗ Hữu Châu làm cơ sở cho luận văn.
1.2.1.2. Phân loại trường nghĩa
F. de Saussure trong “Giáo trình ngôn ngữ học đại cương” đã chỉ ra hai
dạng quan hệ của ngôn ngữ là: quan hệ ngữ đoạn (quan hệ ngang, quan hệ
hình tuyến, quan hệ tuyến tính) và quan hệ liên tưởng (quan hệ dọc, quan hệ
trực tuyến, quan hệ hệ hình). “Quan hệ ngữ đoạn là một quan hệ hiện diện (in
praesentia) trong lời nói; nó dựa trên hai hay nhiều yếu tố cùng có mặt trong
một ngữ đoạn hiện thực. Trái lại, quan hệ liên tưởng nối liền những yếu tố
khiếm diện (in absentia) thuộc một hệ thống tiềm tàng trong kí ức”. [39, 239]
1.2.1.2.1. Trường nghĩa dọc
Trường nghĩa dọc gồm có trường nghĩa biểu vật và trường nghĩa biểu
niệm.
* Trường nghĩa biểu vật

Một trường biểu vật là một tập hợp những từ đồng nhất về ý nghĩa biểu
vật. Để xác định một trường nghĩa biểu vật, chúng ta chọn một danh từ rồi tìm
tất cả các từ đồng nghĩa về phạm vi biểu vật do danh từ gốc biểu thị.
Ví dụ: Chọn danh từ bóng đá làm gốc ta có thể xác lập được trường
nghĩa biểu vật theo các miền sau:
- Thành viên tham gia vào một đội bóng: huấn luyện viên, cầu thủ, thủ
môn,…
- Các vị trí thi đấu: thủ môn, hậu vệ, tiền vệ, tiền đạo,…
- Các hình phạt trong bóng đá: thẻ vàng, thẻ đỏ…
Số lượng các trường từ vựng là vô cùng phong phú, có trường lớn,
trường nhỏ. Một trường lớn có thể phân thành nhiều trường nhỏ. Trong một
trường có những từ gắn chặt với trường thành trung tâm của trường, có những


13
từ có quan hệ lỏng lẻo hơn, dễ đi vào các trường khác. Vì vậy các trường từ
vựng có thể thẩm thấu và giao thoa với nhau.
* Trường nghĩa biểu niệm
“Một trường nghĩa biểu niệm là một tập hợp các từ có chung cấu trúc
nghĩa biểu niệm”
Cũng như trường biểu vật, trường biểu niệm lớn có thể phân chia thành
các trường nhỏ. Một trường biểu niệm có các miền với những mức độ khác
nhau. Một số từ có khả năng đi vào nhiều cấu trúc biểu niệm. Như vậy các
trường biểu niệm cũng có thể giao thoa với nhau. Trong một trường biểu niệm
có những lớp từ trung tâm điển hình và những từ ở lớp ngoại vi.
Ví dụ: Trường biểu niệm: (hoạt động) (tạo ra âm thanh) (của người, động
vật) có các từ: hót, huýt, kêu, gào, rít, gầm, nói, hát, hí, sủa, hú…
Trường biểu niệm trên có thể chia làm hai trường nhỏ:
- Trường 1: (hoạt động) (phát ra âm thanh) (của người) có các từ: huýt,
kêu, gào, gầm, nói, hát, hít, hú…

- Trường 2: (hoạt động) (tạo ra âm thanh) (của động vật) có các từ: hí,
sủa, rít, gầm, hú, hót, kêu,…
Trong hai trường hợp biểu niệm trên, có các từ gắn chặt với trường, có
những từ dễ đi vào trường khác. Các từ: nói, hát, huýt là đặc trưng cho trường
thứ nhất; các từ: hí, sủa, hót là đặc trưng cho trường thứ hai. Một số từ còn lại
như: gào, kêu, rít, gầm, hú có thể đi vào cả hai trường.
Ví dụ: Nó gầm lên với tôi.
Con gấu gầm lên một tiếng.
Sự phân biệt thành trường biểu vật hay trường biểu niệm dựa trên sự
phân biệt hai thành phần nghĩa của từ. Nhưng cũng chính nhờ các trường, nhờ
sự định vị được từng từ một trong trường thích hợp mà chúng ta hiểu biết sâu
sắc hơn ý nghĩa của từ.



14
1.2.1.2.2. Trường nghĩa ngang
Trường nghĩa ngang là tập hợp những từ ngữ cùng hiện diện trong chuỗi
lời nói. Khi muốn xác lập một trường nghĩa ngang, chúng ta chọn một từ làm
gốc rồi tìm tất cả những từ có thể kết hợp với nó thành chuỗi tuyến tính chấp
nhận được trong ngôn ngữ.
Ví dụ:
- Trường nghĩa ngang của từ “mặt” là: tròn, dài, bầu, trái xoan, lưỡi cày,
chữ điền, trắng, đen, lạnh lùng, dễ gần,…
- Trường nghĩa ngang của “ăn” là: nhanh, chậm, tham, ngon, sang,
hoang, thịt, tôm, rau, nhà hàng,…
- Trường nghĩa ngang của từ “đen” là: sậm, thui, kịt, tuyền, xam, láy, hổ
giun…
Các từ ngữ trong trường nghĩa ngang bao giờ cũng hiện hữu trong ngôn
bản. Phân tích ý nghĩa của chúng, ta có thể phát hiện ra được những nội dung

ngữ nghĩa của các quan hệ ngữ pháp và tính chất của các quan hệ đó.
1.2.1.3. Hiện tượng chuyển trường từ vựng
1.2.1.3.1. Khái niệm chuyển trường từ vựng
Ngôn ngữ là một hiện tượng xã hội. Xã hội càng phát triển bao nhiêu thì
nhu cầu nảy sinh các từ ngữ mới, cách diễn đạt mới lại càng bức thiết bấy
nhiêu. Số lượng các sự vật hiện tượng mới nảy sinh trong cuộc sống cần được
gọi tên rất phong phú nên cần có các từ để gọi tên chúng. Nhưng số lượng các
từ ngữ không thể tăng lên nhanh chóng như những sự vật hiện tượng trong
thực tế. Bởi vì con người không thể nghĩ thêm tất cả các từ mới được, nếu có
nghĩ ra thì số lượng các từ trong một ngôn ngữ sẽ rất khổng lồ gây khó khăn
cho giao tiếp. Vậy nên để gọi tên các khái niệm, hiện tượng mới, người ta đã
tận dụng các từ ngữ có sẵn trong ngôn ngữ tạo cho nó những nghĩa mới. Kết
quả là cùng một từ nhưng số lượng nghĩa được mở rộng thêm ra. Sự biến đổi


15
ý nghĩa lúc đầu chỉ xảy ra với một cá nhân nào đó nhưng sau được xã hội thừa
nhận và sử dụng như một tài sản chung của xã hội.
Mỗi từ ngữ ban đầu chỉ có một nghĩa, nằm trong một hoặc một số trường
nhất định. Nhưng khi có sự chuyển nghĩa thì số lượng các nghĩa tăng lên và
chúng có thể đi vào nhiều trường nghĩa khác nhau thậm chí đối lập với nghĩa
của nó trước đây. “Chuyển nghĩa là thay đổi số lượng nghĩa vốn có của từ
(cụm từ) làm cho nó có khả năng gọi tên các sự vật hiện tượng, hành động
hoặc thuộc tính khác nhau về phương diện nào đó (nhưng vẫn nằm trong
phạm vi một từ)” [49, 8]
Ví dụ: Từ “đầu” ban đầu chỉ có nghĩa: (bộ phận cơ thể người hay động
vật), (ở trên cùng hay trước hết), (chứa não), (điều khiển cơ thể). Từ ý nghĩa
ban đầu này, nó đã được chuyển nghĩa thành nhiều ý nghĩa khác nhau và đi
vào nhiều trường từ vựng khác nhau
- (Bộ phận của vật), (vị trí trước hết): đầu bàn, đầu ghế, đầu giường…

- (Vị trí trước hết), (khoảng không gian): đầu làng, đầu thôn, đầu tỉnh…
- (Vị trí trước hết), (khoảng thời gian): đầu giờ, đầu ngày, đầu tháng…
- (Vị trí trước hết), (sự vật, hiện tượng): đầu câu chuyện, đầu bài học,
đầu bộ phim…
Từ việc nghiên cứu về sự biến đổi ý nghĩa của từ, Đỗ Hữu Châu kết
luận: Hiện tượng chuyển trường từ vựng là “một từ ngữ thuộc một trường ý
niệm này được chuyển sang dùng cho các sự vật thuộc một trường ý niệm
khác”.
Chẳng hạn từ “lá” ban đầu có nghĩa chỉ bộ phận của cây, thường có màu
xanh, dáng mỏng, dẹt, có chức năng tiếp nhận ánh sáng Mặt trời. Từ đặc điểm
về hình dáng, từ “lá” xuất hiện thêm nhiều nghĩa mới như:
- Chỉ bộ phận cơ thể động vật: lá gan, lá phổi, lá lách, lá mía,…
- Chỉ một sự vật bằng giấy: lá đơn, lá thư, lá bài, lá phiếu,…
- Chỉ sự vật bằng vải: lá cờ, lá buồm,…


16
- Chỉ sự vật bằng kim loại: lá tôn, lá đồng, lá vàng, lá chắn,…
Như vậy, từ một nghĩa gốc, từ “lá” mở rộng thêm rất nhiều nghĩa khác
nhau. Mỗi nghĩa mới hình thành, từ “lá” lại đi vào một trường nghĩa khác
nhau. Từ trường nghĩa chỉ thực vật chuyển sang trường nghĩa chỉ bộ phận cơ
thể động vật, trường nghĩa chỉ sự vật.
Khi các từ ngữ chuyển từ trường nghĩa này sang trường nghĩa khác,
chúng mang theo những đặc điểm vốn có của nó ở trường nghĩa ban đầu vào
trường nghĩa mới. Ví dụ: ý nghĩa về “sự vật có bề rộng, dẹt” của từ “lá” đã
được chuyển vào nghĩa của các từ trong trường nghĩa về sự vật bằng kim loại
như: lá tôn, lá đồng, lá vàng, lá chắn… ý nghĩa về “hình dáng nhỏ, mỏng” đã
được chuyển vào nghĩa của các từ trong trường nghĩa chỉ sự vật bằng giấy
như: lá bài, lá phiếu, lá thư…
1.2.1.3.2. Phương thức chuyển trường từ vựng

Chuyển trường từ vựng là một hiện tượng phổ biến trong tất cả các ngôn
ngữ. Có khá nhiều phương thức chuyển trường từ vựng nhưng ở luận văn này
chúng tôi chỉ đề cập đến hiện tượng ẩn dụ.Ẩn dụ là biện pháp dùng từ hay
cụm từ vốn dùng để chỉ sự vật B (người, đồ vật, hoạt động, trạng thái, tính
chất…) để chỉ sự vật A vì A và B giống nhau. Ẩn dụ dựa vào quan hệ tương
đồng mà có. Ẩn dụ diễn ra tuỳ thuộc vào nhận thức có tính chất chủ quan của
con người về sự giống nhau giữa các sự vật. Có rất nhiều từ ngữ chuyển
trường theo phương thức ẩn dụ. Đây không phải là một hiện tượng đơn lẻ mà
xảy ra đối với hàng loạt từ, phổ bíên là việc chuyển trường từ vựng từ trường
nghĩa chỉ người sang trường nghĩa chỉ vật và ngược lại do giống nhau về hình
thức, vị trí, dễ nhận biết qua thị giác.
Ví dụ: Ẩn dụ chuyển từ trường từ vựng chỉ người sang chỉ vật như:
- Tay: tay bàn, tay ghế, tay chén…
- Chân: chân núi, chân tường, chân cầu,…
- Đầu: đầu sông, đầu núi, đầu tường…


17
- Mặt: mặt bàn, mặt nước, mặt hồ,…
Ẩn dụ chuyển từ trường từ vựng chỉ vật sang chỉ người như:
- Một tài năng đã chín
- Tay viết còn non
- Suy nghĩ già
Trên đây là những cách nói quen thuộc, thông dụng trong ngôn ngữ,
Cùng xu hướng này, đôi khi người sử dụng ngôn ngữ có những cách viết khá
bất ngờ. Trong một buổi tường thuật bóng đá, người bình luận viên dùng cụm
từ “khoảng hói trước khung thành”. Điều làm cho chúng ta thấy thú vị ấy là
cách dùng từ “hói”. Từ này vốn dĩ được dùng trong trường nghĩa chỉ người
(phần đầu không có tóc) được chuyển sang trường nghĩa chỉ sự vật (khoảng
sân trước cầu môn). Bình luận viên đã chuyển trường từ “hói” dựa trên cơ sở

giống nhau giữa một phần bộ phận cơ thể người và một phần của sân vận
động. Khoảng sân trống trước cầu môn cỏ không mọc được cũng giống như
phần trán không mọc tóc của con người.
Phân loại các hiện tượng ẩn dụ
Có hai căn cứ để phân loại ẩn dụ:
- Thứ nhất, căn cứ theo các sự vật B và A.
- Thứ hai, căn cứ theo nét nghĩa phạm trù.
Dựa vào hai căn cứ trên chúng ta có các loại ẩn dụ sau:
- Ẩn dụ căn cứ vào các sự vật A, B
+Ẩn dụ cụ thể - cụ thể
A và B đều là các sự vật cụ thể
Ví dụ: Nghĩa của từ chân, đầu, cánh trong chân bàn, đầu tường, cánh
đồng… là các ẩn dụ cụ thể - cụ thể.
+Ẩn dụ cụ thể - trừu tượng
A và B một yếu tố là cụ thể, còn yếu tố kia là trừu tượng


18
Ví dụ: Khi chúng ta nói “trọng lượng của tư tưởng”, “con đường tiến lên
của xã hội” hay “vốn kiến thức còn mỏng” thì chúng ta đã dùng ẩn dụ cụ thể -
trừu tượng.
- Ẩn dụ căn cứ theo nét nghĩa phạm trù
+ Ẩn dụ hình thức
Là những ẩn dụ dựa trên sự giống nhau về hình thức giữa các sự vật.
Ví dụ:
Cổ trong cổ chai, cổ tay… -> phần thắt lại của sự vật.
Mặt trong mặt biển, mặt hồ, mặt bàn …-> bề rộng phía trên hay trước
hết của sự vật.
+ Ẩn dụ cách thức
Là những ẩn dụ dựa vào sự giống nhau về cách thức thực hiện giữa hoạt

động và hiện tượng.
Ví dụ: Khi chúng ta nói “cắt hộ khẩu”, “nắm tư tưởng”… là chúng ta nói
cách thức “chuyển hộ khẩu”, cách “nhận thức tư tưởng” cũng giống như cách
chúng ta cắt, nắm một sự vật vật lý nào đó.
+Ẩn dụ chức năng
Là những ẩn dụ dựa vào sự giống nhau giữa các sự vật.
Ví dụ: Nhà trong “nhà máy”, bến trong “bến xe”, “bến sông”, “bến
tàu”… không phải giống nhau về vị trí, hình thức mà giống nhau chức năng
dùng để sản xuất hay đầu mối giao thông.
+Ẩn dụ kết quả
Là những ẩn dụ dựa vào sự giống nhau về tác động của các sự vật đối
với con người.
Ví dụ: Khi chúng ta nói “ấn tượng nặng nề” là muốn nói tới tác động của
ấn tượng đối với lí trí, tình cảm của con người như khi chúng ta mang vác một
vật nặng nào đó làm cho chúng ta di chuyển khó khăn, đi đứng chậm chạp.


19
Trong ẩn dụ kết quả có ẩn dụ chuyển đổi cảm giác. Đó là những ẩn dụ
dùng tên gọi của những cảm thuộc giác quan này để gọi tên những cảm giác
của giác quan khác hay những “cảm giác” của trí tuệ, tình cảm.
Ví dụ: “Chua”, “cay”, “mặn”, “ngọt” là những cảm giác vị giác được
dùng để gọi những cảm giác của thính giác: nói chua loét, nói ngọt như
đường, kể chuyện nhạt nhẽo, nói cay quá…
Sự phân loại ẩn dụ theo cơ chế nghĩa không phải bao giờ cũng tách bạch
dứt khoát. Trong nhiều ẩn dụ không phải chỉ có một mà thường có nhiều nét
nghĩa tác động.
Ví dụ: Mũi, chân, cánh có hai nét nghĩa “vị trí” và “hình thức” cùng
phối hợp với nhau tạo nên các nét nghĩa ẩn dụ của chúng.
Qua khái niệm về trường nghĩa, chúng tôi đi đến khảo sát những hiện

tượng vay mượn các trường nghĩa áp dụng trong ngôn ngữ bóng đá. Dựa trên
đặc điểm của ngôn ngữ bóng đá, chúng tôi đi đến khảo sát các trường nghĩa
được vay mượn trong ngôn ngữ bóng đá, bên cạnh trường nghĩa chuyên môn
thuần túy về bóng đá.
- Trường nghĩa xã hội: bóng đá gắn liền với sự phát triển và chịu sự ảnh
hưởng của xã hội. Do vậy, các từ ngữ mang ý nghĩa xã hội cũng được sử dụng
nhiều trong bóng đá như ông vua, ngai vàng, triều đại, đế chế, kiến trúc sư…
- Trường nghĩa kinh tế: trong xã hội hiện đại ngày nay, bóng đá là một
loại hình kinh tế khá phổ biến và ngày càng có tính thương mại hóa. Trong
cách sử dụng ngôn ngữ bóng đá ở tiếng Việt, các từ ngữ như món nợ, hàng
ngoại, đồ thừa, hàng tồn kho…được sử dụng khá rộng rãi.
- Trường nghĩa chỉ hiện tượng thiên nhiên: bóng đá là môn thể thao vua,
nó được ưa chuộng bởi tính bất ngờ và gay cấn. Những trận đấu hay, hấp dẫn
có nhiều bàn thắng còn được ví von là cơn mưa, những trận đấu không có bàn
thắng được gọi là cơn hạn hán hay những cuộc đối đầu tạo nên bất ngờ đôi
khi được gọi là cơn địa chấn…


20
- Trường nghĩa quân sự: bóng đá là một môn thể thao đối kháng, sự căng
thẳng và quyết liệt luôn được đẩy lên cao độ trong mỗi cuộc so tài đỉnh cao.
Chính vì vậy, một loạt từ ngữ vay mượn từ trường nghĩa quân sự được sử
dụng nhiều trong ngôn ngữ bóng đá, điển hình như sân đấu được gọi là pháo
đài, đội bóng được gọi là hạm đội, các cầu thủ được gọi là chiến binh…
1.2.2. Cách nhìn của ngữ nghĩa học tri nhận (qua khái ẩn dụ tri nhận)
Theo quan điểm của G. Lakoff và M. Johnson thì Bản chất của ấn dụ
tri nhận là ở sự ý niệm hóa và hiểu những hiện tượng loại này trong thuật
ngữ các hiện tượng loại khác.
Thuật ngữ đầu tiên và quan trọng nhất của ngôn ngữ tri nhận là Ý
NIỆM, bởi lẽ, theo khoa học tri nhận, con người bình thường (không phải là

nhà khoa học) suy nghĩ, tư duy chính là bằng ý niệm (không phải bằng khái
niệm). Theo Trần Văn Cơ 2007, ý niệm được hình thành trong ý thức của con
người. Nó có cấu trúc nội tại của nó bao gồm một mặt là nội dung thông tin
về thế giới hiện thực và thế giới tưởng tượng, mang những nét phổ quát, mặt
khác, bao gồm tất cả những gì làm cho nó trở thành sự kiện văn hóa, nghĩa là
nó chứa đựng những nét đặc trưng văn hóa – dân tộc. Cơ sở của ý niệm là
kinh nghiệm cảm tính trực tiếp mà con người thu nhận được thông qua quá
trình tri giác thế giới bằng các cơ quan cảm giác, thông qua hoạt động tư duy
và hoạt động giao tiếp dưới hình thức ngôn ngữ.
Căn cứ vào nguyên lý cơ bản nêu trên, ẩn dụ tri nhận (hay còn gọi là ẩn
dụ ý niệm – cognitive/conceptual metaphor) là một trong những hình thức ý
niệm, một quá trình tri nhận có chức năng biểu hiện và hình thành những ý
niệm mới mà không có nó thì không thể nhận được tri thức mới. Nói cách
khác, ẩn dụ tri nhận thể hiện năng lực của con người nắm bắt và tạo ra sự
giống nhau giữa những cá thể và những lớp đối tượng khác nhau.


21
Ẩn dụ là một cơ chế tri nhận đặt trên cơ sở tri giác của con người (bao
gồm năm giác quan) hoạt động liên tục nhằm tạo ra những ý niệm mới trong
bối cảnh ngôn ngữ và văn hóa của người bản ngữ.
Với cách tiếp cận chung nhất, ẩn dụ tri nhận được xem như là cách nhìn
đối tượng này thông qua một đối tượng khác, với ý nghĩa đó, ẩn dụ là một
trong những phương thức biểu tượng tri thức dưới dạng ngôn ngữ. Ẩn dụ
thường có quan hệ không phải với những đối tượng cô lập riêng lẻ, mà với
những không gian tư duy phức tạp (những miền kinh nghiệm cảm tính và xã
hội). Trong quá trình nhận thức, những không gian tư duy không thể quan sát
trực tiếp này thông qua ẩn dụ xác lập mối tương quan với những không gian
tư duy đơn giản hơn hoặc với những không gian tư duy có thể quan sát được
cụ thể (chẳng hạn, cảm xúc của con người có thể so sánh với lửa, các lĩnh vực

kinh tế và chính trị có thể so sánh với các trò chơi, với các cuộc thi thể thao
v.v.). Trong những biểu tượng ẩn dụ tương tự diễn ra việc chuyển ý niệm hóa
không gian tư duy quan sát trực tiếp được sang không gian không quan sát
trực tiếp được. Trong quá trình này, không gian không thể quan sát trực tiếp
được ý niệm hóa và nhập vào trong một hệ thống ý niệm chung của một cộng
đồng ngôn ngữ nhất định. Đồng thời cùng một không gian tư duy có thể được
biểu tượng nhờ một hoặc một số ẩn dụ ý niệm.
Từ nguyên lý chung đó có thể rút ra hai luận điểm cơ bản phản ánh bản
chất của ẩn dụ tri nhận và làm tiền đề cho luận văn của chúng tôi:
- Ẩn dụ là cơ chế chủ yếu trong tư duy ý niệm của con người, phản ánh
cách con người nhìn và nhận biết thế giới qua lăng kính ngôn ngữ và văn hóa
dân tộc.
- Cấu trúc của ẩn dụ tri nhận là cấu trúc hai không gian: không gian
NGUỒN (hay miền NGUỒN) và không gian ĐÍCH (hay miền ĐÍCH).
Qua khái niệm ẩn dụ tri nhận của G. Lakoff và M. Johnson, dựa trên tư
duy ý niệm của con người và phản ánh cách nhìn của con người về thế giới


22
qua lăng kính ngôn ngữ, chúng tôi nhận thấy mối liên hệ giữa các từ ngữ ẩn
dụ bóng đá với các trường nghĩa: xã hội, kinh tế, quân sự và các hiện tượng
thiên nhiên.
(1) Trong mối liên hệ giữa trường nghĩa xã hội (nguồn) và bóng đá
(đích), xã hội là khái niệm chỉ một phạm vi rộng lớn, còn bóng đá có thể coi
là hoạt động xã hội. Vì lý do đó, bóng đá chịu ảnh hưởng của xã hội, các từ
ngữ được sử dụng trong bóng đá liên tưởng nhiều đến yếu tố xã hội như đội
bóng vô địch còn được gọi là ông vua, những thành viên quan trọng trong đội
bóng còn được gọi là ban lãnh đạo…
(2) Trong mối quan hệ giữa trường nghĩa kinh tế (nguồn) và bóng đá
(đích), các từ ngữ được sử dụng trong bóng đá cũng liên tưởng nhiều đến yếu

tố kinh tế như: một trận đấu thua còn được gọi là món nợ, cầu thủ nước ngoài
còn được gọi là hàng ngoại nhập…
(3) Trong mối quan hệ giữa trường nghĩa quân sự (nguồn) và bóng đá
(đích): bóng đá là một môn thể thao đối kháng, người ta có thể liên tưởng đến
những trận đấy nảy lửa như cuộc chiến, màn đấu súng, các cầu thủ có thể
được liên tưởng như các chiến binh, các dũng sỹ…, hay các sân đấu được ví
như pháo đài…
(4) Trong mối quan hệ giữa trường nghĩa chỉ hiện tượng thiên nhiên
(nguồn) và bóng đá (đích): sự bất ngờ, hấp dẫn là yếu tố đặc biệt của bóng đá,
các trận đấu luôn có thừa những yếu tố cảm xúc đặc biệt. Một trận đấu có
nhiều bàn thắng được liên tưởng đến những cơn mưa, một trận đấu không có
bàn thắng được liên tưởng đến cơn hạn hán, hay một trận đấu bất ngờ có thể
được liên tưởng như cơn địa chấn.
1.3. Các biểu thức quy chiếu trong ngôn ngữ bóng đá
1.3.1. Nhận diện các biểu thức quy chiếu trong ngôn ngữ bóng đá:
Khi nhận diện các biểu thức quy chiếu trong ngôn ngữ bóng đá, chúng
ta phải dựa trên hai đặc điểm quan trọng nhất là cấu trúc ngữ pháp và ngữ


23
nghĩa. Tác giả Yule đã phân loại thành biểu thức quy chiếu xác định và biểu
thức quy chiếu không xác định. Và trong ngôn ngữ bóng đá, chúng tôi cũng đi
sâu vào phân tích hai loại biểu thức quy chiếu này.
- Quy chiếu xác định
Các danh từ (Ronaldo, Messi, Real Madrid), danh ngữ (CLB thành
Manchester, đội chủ sân Anfield) là những biểu thức quy chiếu xác định, bởi
đó là những danh từ (ngữ) riêng được gọi tên và xác định.
- Quy chiếu không xác định: Để xác định được biểu thức quy chiếu
bóng đá không xác định, chúng ta nhìn vào các ví dụ trên:
(1) Jose Mourinho yêu cầu chủ tịch CLB Real Madrid phải cho phép

ông được chọn trợ lý => ở câu này, chủ tịch CLB Real Madrid (không nêu
tên) hay trợ lý (không nêu tên) là quy chiếu không xác định, không được nhận
diện cụ thể nhưng cũng là đối tượng được nhắc đến trong câu.
(2) Ronaldo lập hattrick trong thắng lợi 4-2 trước Levante, cầu thủ này
đã có 27 bàn thắng sau 22 vòng đấu ở La Liga => cầu thủ này là quy chiếu
không xác định, nhưng tiền giả định của nó trước đó là Ronaldo.
Để tìm hiểu rõ hơn về các biểu thức quy chiếu trong ngôn ngữ bóng đá,
chúng tôi đi sâu vào phân loại các biểu thức quy chiếu này dựa trên các đặc
điểm về cấu trúc ngữ pháp và về ngữ nghĩa.
1.3.2 Phân loại các biểu thức quy chiếu trong ngôn ngữ bóng đá
1.3.2.1.Về mặt cấu trúc (ngữ pháp)
Tác giả Yule đã phân loại ra 4 biểu thức quy chiếu gồm: Danh từ riêng,
danh ngữ xác định, danh ngữ không xác định và đại từ. Nhưng trong ngôn
ngữ bóng đá, các đại từ như anh, tôi, cậu ấy không phải là biểu thức quy
chiếu bóng đá bởi nghĩa tự thân của nó không mang ý nghĩa về bóng đá. Do
vậy, về mặt cấu trúc chúng tôi chỉ xét đến 2 biểu thức là danh từ (ngữ) xác
định, danh từ (ngữ) không xác định.
- Danh từ (ngữ) xác định

×