Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

So sánh cách chuyển từ câu dẫn trực tiếp sang câu dẫn gián tiếp trong tiếng Pháp và tiếng Việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.24 MB, 95 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA NGÔN NGỮ HỌC
***



NGUYỄN THỊ GIANG




SO SÁCH CÁCH CHUYỂN TỪ CÂU TRỰC TIẾP
SANG CÂU GIÁN TIẾP TRONG TIẾNG PHÁP VÀ
TIẾNG VIỆT



LUẬN VĂN THẠC SỸ
Chuyên ngành: Ngôn ngữ học







Hà Nội, 2009





ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA NGÔN NGỮ HỌC
***

NGUYỄN THỊ GIANG



SO SÁNH CÁCH CHUYỂN TỪ CÂU TRỰC TIẾP
SANG CÂU GIÁN TIẾP TRONG TIẾNG PHÁP VÀ
TIẾNG VIỆT


LUẬN VĂN THẠC SỸ
Chuyên ngành: Ngôn ngữ học
Mã số: 602201


Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS Nguyễn Văn Hiệp






Hà Nội, 2009


1
Mục lục
Mở đầu 3
1.Giới thiệu đề tài của luận văn 3
2. Mục đích và ý nghĩa của luận văn 5
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn 5
4. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn 6
5. Phương pháp nghiên cứu của luận văn 6
6. Bố cục 7
Chương 1: Cơ sở lí luận 8
1.1. Toạ độ trực chỉ (deixis) 8
1.1.1. Trực chỉ về ngôi 11
1.1.2. Trực chỉ về thời 13
1.1.3. Trực chỉ về không gian 16
1.2. Định nghĩa về câu dẫn 18
1.3.Các kiểu câu dẫn trong tiếng Pháp và tiếng Việt 21
1.3.1. Câu dẫn trực tiếp (le discours direct – DD) 21
1.3.2. Câu dẫn gián tiếp (le discours indirect – DI) 25
1.3.3. Câu dẫn gián tiếp tự do (le discours indrect libre – DIL) 29
Chương 2: So sánh những qui tắc chuyển từ câu dẫn trực tiếp sang câu dẫn
gián tiếp trong tiếng Pháp và tiếng Việt.
33
2.1. Những động từ dẫn 33
2.1.1. Những động từ dẫn dùng cho câu trần thuật 33
2.1.2. Những động từ dẫn dùng cho câu nghi vấn 39
2.1.3. Những động từ dẫn dùng cho câu cầu khiến 40
2.1.4. Những động từ dẫn dùng cho câu cảm thán
43

2

2.2. Những thay đổi khi chuyển từ câu dẫn trực tiếp sang câu dẫn gián tiếp
trong tiếng Pháp và tiếng Việt 45
2.2.1. Lựa chọn từ dẫn 47
2.2.2. Những thay đổi liên quan đến trực chỉ 55
2.2.2.1. Những thay đổi của đại từ nhân xưng và những từ sở hữu 55
2.2.2.2. Những thay đổi của thức và thời 61
2.2.2.3. Những thay đổi của cụm từ chỉ thời gian, nơi chốn và từ chỉ
định 66
Chương 3: Một số gợi ý cho việc dịch các bài báo từ tiếng Việt sang tiếng
Pháp có liên quan đến cách chuyển từ câu dẫn trực tiếp sang câu dẫn gián
tiếp 73
3.1. Thủ pháp dịch mệnh đề chính 73
3.1.1. Những động từ dẫn thường được sử dụng 73
3.1.2. Sử dụng những trạng từ hoặc liên từ thay cho mệnh đề chính 82
3.2. Thủ pháp dịch mệnh đề phụ 84
3.2.1. Dịch nghĩa gốc 84
3.2.2. Dịch chuyển đổi 86
Kết luận. 89
Tài liệu trích dẫn
Tài liệu tham khảo









3

Mở đầu
1. Giới thiệu đề tài của luận văn
Như chúng ta đã biết, thời đại ngày nay là thời đại của hoà bình, hợp tác
và hội nhập cho nên hơn lúc nào hết việc dạy và học ngoại ngữ giữ một vai trò
hết sức quan trọng. Đó là một trong những nhân tố gắn kết các nền văn hoá khác
nhau đồng thời cũng là cơ sở để tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau và tăng cường
hợp tác quốc tế.
Việt Nam là một nước đang phát triển, đang tích cực tham gia vào quá
trình hội nhập quốc tế theo tinh thần nghị quyết của Đại hội Đảng lần thứ 9:
“…Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng
quốc tế…”.[Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ 9, 2001:119]. Như vậy, việc giảng dạy ngoại ngữ là nhu cầu tất yếu khách
quan trong đời sống kinh tế, xã hội và văn hoá của đất nước. Hiện nay, có sáu
thứ tiếng được tổ chức Liên Hợp Quốc chọn làm ngôn ngữ chính thức, đó là
tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Nga, tiếng Trung, tiếng Nhật Bản, tiếng Đức. Bên
cạnh tiếng Anh, tiếng Pháp đang được sử dụng rộng rãi tại các cuộc hội thảo
quốc tế. Nhiều văn bản, tài liệu, tác phẩm báo chí và một khối lượng sách lớn đã
dùng tiếng Pháp hoặc dịch sang tiếng Pháp ở nhiều quốc gia trên thế giới. Chính
vì vậy, chúng ta có thể nhận thấy tiếng Pháp đang là một trong những phương
tiện giao tiếp rất thông dụng của nhân loại.
ở Việt Nam, từ hơn nửa thế kỷ nay, tiếng Pháp đã được sử dụng và trở
thành ngôn ngữ giao dịch được sử dụng trong nhiều lĩnh vực như văn hoá, giáo
dục, văn học, khoa học kỹ thuật, kinh tế, chính trị Đặc biệt là sau Hội nghị
thượng đỉnh các nước nói và sử dụng tiếng Pháp được tổ chức vào tháng 11 năm
1997, tiếng Pháp lại càng khẳng định vị trí đặc biệt quan trọng của mình. Hơn
bao giờ hết, nhu cầu giao tiếp để hoà nhập vào cộng đồng quốc tế ngày càng trở
nên quan trọng và cần thiết. Trên thực tế, cùng với tiếng Anh, tiếng Pháp được
dạy ở tất cả các cấp học từ tiểu học đến đại học.Tuy nhiên, việc nắm vững và sử

4

dụng thành thạo tiếng Pháp không hề là công việc dễ dàng. Đối với người Việt
Nam, một trong những nhân tố gây khó khăn cho việc học các tiếng Châu Âu nói
chung và tiếng Pháp nói riêng là sự khác biệt về mặt loại hình ngôn ngữ. Tiếng
Pháp thuộc loại ngôn ngữ biến hình, có hệ thống hình thái khá phong phú, đặc
biệt là những phạm trù ngữ pháp có liên quan đến động từ, đến sự thay đổi của
thức, thời, thể Học ngoại ngữ cũng có nghĩa là phải luyện bốn kỹ năng giao
tiếp: nghe, nói, đọc, viết. Để thành thạo bốn kỹ năng này người học ngoại ngữ
nói chung và người học tiếng Pháp nói riêng phải nắm chắc ngữ pháp. Chúng tôi
cho rằng dù phương pháp giảng dạy ngoại ngữ có thay đổi theo hướng nào đi
chăng nữa thì việc nắm vững ngữ pháp vẫn luôn luôn là tiêu chí quan trọng hàng
đầu để đánh giá mức độ thành thạo của người học ngoại ngữ.
Trong quá trình học tập và nghiên cứu ngữ pháp tiếng Pháp, chúng tôi
nhận thấy học sinh, sinh viên Việt Nam gặp rất nhiều khó khăn trong khi chuyển
từ câu dẫn trực tiếp sang câu dẫn gián tiếp. Những khó khăn này một phần do
ảnh hưởng của tiếng mẹ đẻ, phần khác là do việc vận dụng chưa chính xác và
thành thạo các quy tắc ngữ pháp. Nhận ra những khó khăn này và nguyên nhân
của chúng, chúng tôi chọn đề tài nghiên cứu: “So sánh cách chuyển từ câu dẫn
trực tiếp sang câu dẫn gián tiếp trong câu tiếng Pháp và tiếng Việt” để giúp
người học nhận thấy những điểm giống nhau và khác nhau trong quá trình
chuyển câu ở cả hai ngôn ngữ nhằm tránh lỗi và tạo điều kiện thuận lợi cho quá
trình làm bài tập, dịch xuôi dịch ngược cũng như có được sự thành thạo trong
giao tiếp khi phải sử dụng câu dẫn. Bởi vì, trong khi giao tiếp, trong một câu
chuyện kể hay một bài báo, chúng ta thường dẫn lại lời nói của một hay nhiều
nhân vật. Việc dẫn lại những câu nói hay suy nghĩ của những nhân vật đó thường
được thể hiện dưới nhiều hình thức. ở Việt Nam cũng như ở Pháp, các nhà
nghiên cứu đã đưa ra rất nhiều định nghĩa khác nhau về câu dẫn. Mỗi định nghĩa
đều đề cập đến một phương diện hay một đặc trưng nào đó của câu dẫn. Mặc dù
có nhiều định nghĩa khác nhau nhưng ở cả hai ngôn ngữ đều tồn tại ba dạng

5

chính có liên quan đến câu dẫn là câu dẫn trực tiếp, câu dẫn gián tiếp, câu dẫn
gián tiếp tự do. Đối với những người mới học tiếng Pháp, khi chuyển câu, họ
thường mới chỉ chú ý đến thái độ của người dẫn chứ chưa quan tâm đến những
thay đổi ngữ pháp như cách lựa chọn từ dẫn, động từ dẫn, những thay đổi về yếu
tố trực chỉ như đại từ nhân xưng, đại từ sở hữu, những biến đổi của thức, thời,
thể liên quan đến động từ, của trạng từ chỉ thời gian, nơi chốn Luận văn của
chúng tôi sẽ trình bày và miêu tả chi tiết về đặc trưng của từng kiểu câu ở cả hai
ngôn ngữ, sau đó chúng tôi sẽ tiến hành so sánh những quy tắc ngữ pháp chuyển
từ câu dẫn trực tiếp sang câu dẫn gián tiếp, từ đó rút ra những điểm giống nhau
và khác nhau của cả hai ngôn ngữ ở những phương diện có liên quan đến vấn đề
này.
2.Mục đích và ý nghĩa của luận văn
Qua việc phân tích, mô tả, so sánh và tổng hợp những đặc điểm ngữ pháp
của từng kiểu loại câu dẫn và những quy tắc chuyển đổi từ câu dẫn trực tiếp
sang câu dẫn gián tiếp, luận văn đã rút ra được những điểm giống và khác nhau
khi chuyển từ câu dẫn trực tiếp sang câu dẫn gián tiếp trong tiếng Pháp và tiếng
Việt, đồng thời luận văn cũng đưa ra một số gợi ý cho việc dịch các bài báo từ
tiếng Việt sang tiếng Pháp có liên quan đến câu dẫn nhằm giúp các bạn học sinh,
sinh viên có thêm tài liệu tham khảo để phục vụ cho việc học tập và nghiên cứu.
3.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Tên gọi của đề tài của chúng tôi “So sánh cách chuyển từ câu dẫn trực
tiếp sang câu dẫn gián tiếp trong câu tiếng Pháp và tiếng Việt” đã thể hiện
một cách hết sức khái quát đối tượng và phạm vi nghiên cứu luận văn. Như có
thể thấy qua tên gọi, chúng tôi muốn tiến hành nghiên cứu, so sánh những đặc
trưng và đặc điểm ngữ pháp của câu dẫn, câu dẫn trực tiếp, câu dẫn gián tiếp
trong cả hai ngôn ngữ và những quy tắc ngữ pháp chuyển từ câu dẫn trực tiếp
sang câu dẫn gián tiếp trong tiếng Pháp và tiếng Việt.

6
Chúng tôi có sử dụng những ví dụ được trích dẫn trong các sách nghiên

cứu chuyên ngành ngôn ngữ, những ví dụ trong các giáo trình ngữ pháp tiếng
Pháp và đặc biệt là tập hợp những ví dụ được trích trong một số tờ báo thông
dụng của Việt Nam để minh hoạ và dẫn giải cho những luận điểm của mình.
Trên cơ sở đó, chúng tôi cố gắng tìm ra được những nét tương đồng và khác biệt
trong câu dẫn của tiếng Pháp và tiếng Việt. Những kết quả nghiên cứu như vậy
sẽ đưa đến những gợi mở, giúp cho việc học, việc dạy về câu dẫn có thể đạt hiệu
quả cao nhất.
4.Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Để thực hiện tốt và đạt hiệu quả cao cho luận văn, chúng tôi đã tiến hành
nghiên cứu, tham khảo về các vấn đề lý thuyết để làm sáng tỏ các khái niệm liên
quan đến câu dẫn như trực chỉ (gồm trực chỉ về ngôi, thời, không gian) và tọa độ
trực chỉ, định nghĩa về câu dẫn, về câu dẫn trực tiếp, câu dẫn gián tiếp, câu dẫn
gián tiếp tự do trong tiếng Pháp và tiếng Việt. Chúng tôi tìm hiểu quan điểm của
các nhà nghiên cứu ngữ pháp và cố gắng xác lập quan điểm riêng của chúng tôi
về vấn đề này. Điều này cho phép chúng tôi giải quyết những vấn đề lớn của quá
trình chuyển câu, nêu và phân tích sự giống nhau, khác nhau của câu dẫn trong
tiếng Pháp và tiếng Việt thông qua các bảng mô tả, liệt kê, phân loại những yếu
tố, thành phần liên quan đến quá trình chuyển câu như động từ dẫn và các phạm
trù ngữ pháp liên quan đến động từ dẫn đó như ngôi, thời, thể, thức, những thay
đổi về đại từ nhân xưng, đại từ sở hữu, trạng từ chỉ thời gian, nơi chốn Cuối
cùng, chúng tôi đưa ra một số gợi ý khi thực hiện thao tác dịch những câu dẫn
trong các bài báo từ tiếng Việt sang tiếng Pháp. Với mỗi vấn đề, chúng tôi đưa ra
những ví dụ minh hoạ cụ thể được trích từ các bài báo tiếng Việt và sau đó dịch
sang tiếng Pháp.
5.Phương pháp nghiên cứu của luận văn
Trong luận văn này, chúng tôi đã sử dụng nhiều thủ pháp nghiên cứu khác
nhau, trong đó đặc biệt quan trọng là các thủ pháp:

7
- Thủ pháp mô tả và phân tích: chúng tôi sử dụng thủ pháp mô tả, phân

tích để trình bày chi tiết đặc điểm của từng kiểu câu, đặc điểm ngữ pháp và
những quy tắc biến đổi của từng thành phần câu có liên quan khi chuyển câu,
những thay đổi của toạ độ trực chỉ về ngôi, thời, thể.
- Thủ pháp so sánh: Chúng tôi sử dụng thủ pháp so sánh để nêu ra những
điểm tương đồng và khác biệt của câu dẫn trong tiếng Pháp và tiếng Việt. Chúng
tôi tiến hành lập các bảng so sánh để minh hoạ chi tiết cho từng vấn đề cụ thể.
Đồng thời chúng tôi cũng vận dụng thủ pháp này trong việc trình bày các hệ
thống quan niệm của các tác giả về các vấn đề có liên quan.
- Một số thủ pháp ngôn ngữ học như cải biến, phân tích ngữ cảnh cũng
được vận dụng linh hoạt, nhằm giúp phát hiện bản chất của các kiểu câu dẫn
trong tiếng Pháp và tiếng Việt.
6.Bố cục
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn của chúng tôi
bao gồm có 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận
Chương 2: So sánh những qui tắc chuyển từ câu dẫn trực tiếp sang câu
dẫn gián tiếp trong tiếng Pháp và tiếng Việt.
Chương 3: Một số gợi ý cho việc dịch các bài báo từ tiếng Việt sang tiếng
Pháp có liên quan đến cách chuyển từ câu dẫn trực tiếp sang câu dẫn gián tiếp.
Trong phạm vi đề tài này, dĩ nhiên chúng tôi không thể đề cập hết những
vấn đề có liên quan đến lối nói gián tiếp mà chỉ đi sâu vào so sánh phần chuyển
từ lối nói trực tiếp sang lối nói gián tiếp. Chúng tôi hi vọng kết quả đề tài sẽ trở
thành công cụ hữu ích cho các bạn Việt Nam học tiếng Pháp cũng như những
người làm công tác biên, phiên dịch Pháp-Việt, Việt-Pháp.




8
Chương 1: Cơ sở lí luận

1.1.Tọa độ trực chỉ (deixis)
Khái niệm “Trực chỉ” đã được rất nhiều nhà nghiên cứu ngôn ngữ quan
tâm, đề cập đến. Mỗi tác giả đều có những quan điểm và khái niệm riêng của
mình. Theo tác giả John Lyons trong cuốn“Ngữ nghĩa học dẫn luận” thì thuật
ngữ “trực chỉ” bắt nguồn từ khái niệm quy chiếu bằng chỉ trỏ (gestural
reference), có nghĩa là người nói xác định chiếu vật bằng cách dùng cử chỉ thân
thể nào đó của mình. Trực chỉ hay chỉ xuất “deixis” là một thuật ngữ chuyên
môn (gốc từ Hy Lạp) dành cho một trong số nhiều những điều cơ bản mà chúng
ta làm khi tạo ra các phát ngôn. Nó có nghĩa là “chỉ ra” hay “cho thấy” thông qua
ngôn ngữ. (Dùng tay hay ngón tay để chỉ là phương pháp xác định sự vật nhờ
vào động tác thân thể, vốn có thể có nguồn gốc tự nhiên, mang bản chất sinh vật
và được thể chế hoá nhắm vào chức năng trong nhiều nền văn hoá). Bất cứ một
biểu thức quy chiếu nào có cùng những đặc điểm logic với động tác chỉ trỏ về
bản chất sự kiện đều là biểu thức trực chỉ (deictic expression) hay các yếu tố
trực chỉ (deixis). Biểu thức trực chỉ đôi khi cũng được gọi là các chỉ hiệu
(indexicals)- biểu thị sự chỉ trỏ bằng ngón tay. Đại từ nhân xưng và đại từ trực
chỉ là những biểu thức ngôn ngữ học hiển nhiên nhất mang những đặc điểm như
vậy, và rõ ràng là mang bản chất trực chỉ xét theo cách định nghĩa như trên.
[John Lyon, Ngữ nghĩa học dẫn luận, 2006:312-313]
Đỗ Hữu Châu thì cho rằng trực chỉ có rất nhiều hạn chế. “Thứ nhất, cái
cần được chiếu vật thì nhiều mà cái có thể trực chỉ được thì rất có hạn Thứ
hai, chúng ta chỉ có thể chỉ trỏ từng cá thể, không thể chỉ trỏ được loại sự vật,
hiện tượng, hoạt động, có nghĩa là không những không chỉ được cái trừu tượng
mà cũng không chỉ được cái khái quát Không phải lúc nào cũng có thể chỉ trỏ
được cho nên chỉ trỏ gắn liền với giao tiếp mặt đối mặt Vì có rất nhiều hạn
chế, hơn nữa tay không phải là yếu tố của ngôn ngữ, cho nên trực chỉ không thể
đảm nhiệm được chức năng chiếu vật của ngôn ngữ. Trong ngôn ngữ không có

9
phương thức trực chỉ mà chỉ có phương thức chỉ xuất. Đối với phương thức chỉ

xuất, trực chỉ chỉ là phương tiện kèm ngôn ngữ” [Đỗ Hữu Châu, Đỗ Hữu Châu
tuyển tập, 2005:333,334].
Bar -Hillel trong tác phẩm “Pragmatics of Natural Language” thì cho
rằng tính chỉ xuất là một đặc tính thuộc bản thân và không thể tránh né được của
các ngôn ngữ tự nhiên. Theo ông đến 90% các câu trần thuyết (indicative) của
các ngôn ngữ đều là những câu chỉ xuất do chỗ chúng ngầm có quan hệ chiếu vật
với người nói, người nghe, thời gian, không gian của sự phát triển. [Đỗ Hữu
Châu, Đỗ Hữu Châu tuyển tập, 2005:334]
Từ điển “The Encyclopedia of Language and Linguitics” định nghĩa:
“Thuật ngữ “deixis” chỉ cách thức đặc thù theo đó sự thuyết giải một số biểu thức
ngôn ngữ (các deictics còn gọi là indexical) phụ thuộc vào ngữ cảnh trong đó
chúng được tạo ra hay được thuyết giải. Nếu như chiếu vật là phương diện đầu
tiên của ngữ dụng học thì chỉ xuất là phương diện đầu tiên, ngữ dụng nhất của
chiếu vật bởi tính gắn bó giữa chỉ xuất với ngữ cảnh là cao nhất. Sự chỉ trỏ chỉ
diễn ra trong những cuộc giao tiếp mặt đối mặt cho nên chỉ xuất nhắc nhở chúng
ta rằng ngôn ngữ tự nhiên được sử dụng trước hết để phục vụ cho tương tác mặt
đối mặt và được thiết kế sao cho có thể khai thác được một cách triệt để cái
hoàn cảnh sử dụng nó”. [Đỗ Hữu Châu, Đỗ Hữu Châu tuyển tập, 2005:334]
Chúng tôi đồng ý với những quan điểm của George Yule về “trực chỉ” khi
ông cho rằng “Mỗi ngôn ngữ trên thế giới đều có những yếu tố trực chỉ, chúng
nằm trong những hình thái ngôn ngữ đầu tiên được trẻ con nói ra và có thể được
dùng để chỉ con người thông qua yếu tố chỉ xuất nhân xưng (tôi, anh), hoặc để
định vị thông qua yếu tố chỉ xuất không gian (đây, kia), hoặc chỉ thời gian thông
qua yếu tố chỉ xuất thời gian (bây giờ, bấy giờ). Để hiểu được chúng, thì phải
thấy rằng tất cả những biểu thức này lệ thuộc vào chính người nói và người nghe
đang tham dự vào cùng cái ngữ cảnh đó”.[Goerge Yule, Dụng học,1997: 29].
Ngữ cảnh này được gọi là ngữ cảnh trực chỉ (deictic context), hoạt động như

10
một bộ phận cơ hữu của ngữ cảnh phát ngôn. Mọi hành động phát ngôn-tức mọi

hành động tạo lời- đều xuất hiện trong một ngữ cảnh không gian - thời gian mà
tâm của nó, điểm gốc (zero point), có thể nêu ra như là cái toạ độ ở đây và bây
giờ. Ngữ cảnh trực chỉ sẽ xoay quanh cái toạ độ ở đây và bây giờ của người nói;
nó mang tính tự kỷ trung tâm (egocentric). Đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất “I”
trong tiếng Anh chỉ ra cái người nói thực tại, tức chỉ ra bất kỳ ai đang nói ở thời
điểm đó. Khi vai trò của người nói- khái quát hơn, vai trò của tác thể tạo ngôn-
thay đổi từ người này sang người khác trong tiến trình hội thoại thì “điểm gốc”
của ngữ cảnh trực chỉ cũng thay đổi qua lại, cùng với quy chiếu của “I” (tôi) và
“here” (ở đây). Quy chiếu “now” (bây giờ) thì không thay đổi qua lại theo cùng
cách như vậy, bởi vì người nói và người nghe thường thao tác với cùng một
khung thời gian quy chiếu và với những giả định chung về diễn tiến của thời
gian. Song “now” (ở đây) luôn được xác định lại, trong khuôn khổ cái khung quy
chiếu thời gian được chia sẻ này, nhờ vào hành động phát ngôn.
George giải thích, sự chỉ xuất là một dạng của sự quy chiếu liên quan chặt
chẽ đến ngữ cảnh của người nói, với một sự khu biệt cơ bản nhất giữa biểu thức
chỉ xuất là ở “gần người nói” đối lại với ở “xa người nói”. Trong tiếng Anh, từ
chỉ sự “gần người nói”, hay là những từ chỉ tầm gần (proximal terms) là “this”
([cái] này), “here”([ở] đây), “now”(bây giờ). Xa người nói, hay những từ chỉ tầm
xa (distal terms) là“that”([cái] kia),“there”([đằng kia]),“then” (bấy giờ, lúc đó).
Những từ chỉ tầm gần được giải thích một cách rất tiêu biểu từ sự định vị của
phía người nói, hoặc từ tâm chỉ xuất (deictic center), cho nên “now” (bây giờ)
nhìn chung được hiểu như là sự quy chiếu đề cập tới một điểm thời gian hay một
quãng thời gian mà tại đó thời gian của lời nói của người nói ở vào vị trí trung
tâm. [George Yule, Dụng học,1997: 29].
Như vậy, phần lớn phát ngôn (có nghĩa là các “phát ngôn thành phẩm”,
thuật ngữ của John Lyons, dùng để chỉ các phát ngôn cụ thể như là kết quả của

11
giao tiếp,) trong tất cả các ngôn ngữ đều mang tính chỉ xuất hay trực chỉ, ở chỗ
cái chân trị của mệnh đề mà chúng biểu thị được xác định bởi các chiều kích

không gian -thời gian của ngữ cảnh mang tính trực chỉ.
Như đã nói một cách khái quát trên đây, các yếu tố trực chỉ có thể tập hợp
thành ba nhóm chính, đó là trực chỉ về ngôi (chỉ xuất nhân xưng), trực chỉ về
thời và trực chỉ về không gian. Sau đây là trình bày chi tiết hơn của chúng tôi
về ba nhóm trực chỉ này.
1.1.1. Trực chỉ về ngôi.
Chỉ xuất nhân xưng hoạt động trên cơ sở sự phân chia ba ngôi, được minh
hoạ bằng các đại từ ngôi thứ nhất (tôi), ngôi thứ hai (mày), và ngôi thứ ba (anh
ấy, chị ấy, cái đó). Các đại từ ngôi thứ nhất được người nói dùng để chỉ mình với
tư cách là chủ thể của lời nói, các đại từ ngôi thứ hai được dùng để chỉ người
nghe và các đại từ ngôi thứ ba để chỉ những người và vật khác với người nói và
người nghe. Đại từ ngôi thứ ba phân biệt với đại từ ngôi thứ nhất và đại từ ngôi
thứ hai về các mặt sau:
Đại từ ngôi thứ nhất và đại từ ngôi thứ hai chỉ người nói và người nghe là
những đối tượng nhất định phải có mặt trong tình huống phát ngôn, còn đại từ
ngôi thứ ba chỉ những đối tượng không những có thể vắng mặt trong những tình
huống phát ngôn mà còn có thể không được nhận thức. Các đại từ ngôi thứ nhất
và thứ hai nhất thiết phải chỉ người. Những trường hợp dùng đại từ ngôi thứ nhất
và ngôi thứ hai để chỉ động vật và đồ vật trong chuyện ngụ ngôn và thần thoại
chỉ là những hiện tượng nhân cách hoá.Các đại từ ngôi thứ nhất và ngôi thứ hai
là những từ xưng hô trong giao tiếp, còn đại từ ngôi thứ ba không phải là xưng
hô vì nó không nhất thiết chỉ những người tham gia vào tình huống giao tiếp.
Phạm trù ngôi đã được nghiên cứu từ xa xưa, khi có ngữ pháp học trên thế
giới. Đây là phạm trù ngữ dụng được ngữ pháp hoá điển hình nhất trong ngôn
ngữ. Benveniste trong cuốn “Problème de linguistique générale” từng chỉ ra

12
rằng cần phải tách ngôi thứ ba khỏi ngôi thứ nhất và ngôi thứ hai theo thế đối
lập:
Ngôi thứ nhất / Ngôi thứ hai

Ngôi thứ ba
là vì ngôi thứ nhất, ngôi thứ hai mới thực sự là ngôi xưng hô, mới chiếu vật
những người tham gia và sự trao đổi lời, mới được các đối ngôn dùng để xưng và
hô nhau. Còn ngôi thứ ba chiếu vật những người hay sự vật không phải là đối
ngôn trong một lời nói. [Đỗ Hữu Châu, Đỗ Hữu Châu tuyển tập, 2005:349]
Hệ thống đại từ chỉ ngôi của tiếng Việt khá phức tạp, tuy nhiên có thể
hình dung một cách khái quát như sau:
Ngôi thứ nhất
Ngôi thứ hai
Ngôi thứ ba
Số ít
Số nhiều
Số ít
Số nhiều
Số ít
Số nhiều
tôi ( tui)
chúng tôi
Mày
chúng mày

chúng nó
tao ( tau)
chúng tao
mi
Chúng mi
y
Chúng
Tớ
chúng tớ

bay
chúng bay
va

Ta
chúng ta


hắn





nghỉ

(Nguyễn Thiện Giáp, Dụng học Việt ngữ, 2004:31,32)
Theo tác giả George Yule, trong nhiều ngôn ngữ, những phạm trù chỉ xuất
của người nói, của người nhận và của (những) người khác cũn cú thể được chi
tiết hoá bằng những dấu hiệu về cương vị xó hội tương đối (chẳng hạn người
nhận có cương vị cao hơn đối nghịch với người nhận có cương vị thấp hơn).
Những biểu thức chỉ ra cương cị cao hơn được miêu tả như là dấu hiệu tụn vinh
hay kớnh ngữ (honorifics).Cuộc thảo luận về những hoàn cảnh dẫn đến sự lựa
chọn một trong những hỡnh thỏi này hơn là những hỡnh khỏc đôi khi được miêu
tả như là yếu tố chỉ xuất xó hội (social deixis). Sự tương phản xó hội được ký
mó trong yếu tố chỉ xuất nhõn xưng là sự phân biệt giữa các hỡnh thỏi được
dùng đối với người quen thân đối nghịch với những hỡnh thỏi được dùng cho

13
người không quen thân trong một số ngôn ngữ. Trong tiếng Pháp, sự khu biệt

giữa Tu/Vous được thể hiện rất rừ: Tu (mày- thõn quen) và Vous (ụng/bà -
khụng thõn quen). Trong những hoàn cảnh xó hội mà cỏc cỏ nhõn thường đánh
dấu sự phân biệt về cương vị xó hội giữa người nói và người nhận thỡ người bề
trên, người nhiều tuổi hơn và người có quyền lực hơn sẽ có khuynh hướng dùng
kiểu “Tu” (mày/cậu) đối với người bề dưới, người trẻ hơn và người có quyền lực
thấp hơn, cũn người nhận thỡ đến lượt mỡnh lại dựng “Vous” (ụng/ bà).
Đối với tiếng Việt, mặc dự có nhiều quan điểm về hệ thống đại từ nhân
xưng và những từ có giá trị trực chỉ về ngôi nhưng có thể thấy được một điều
quan trọng rằng trong mỗi hoàn cảnh giao tiếp đều cần có mặt những đối tượng
tham gia giao tiếp đó là người nói (ngụi thứ nhất) và người nghe (ngụi thứ hai)
và vai trũ, vị trớ chỉ ngụi được luân chuyển trong cuộc hội thoại với khung ngữ
cảnh nhất định.
1.1.2 Trực chỉ về thời.
Chỉ xuất thời gian là phương thức chiếu vật thời gian bằng cách định vị
thời gian- nghĩa chiếu vật theo quan hệ thời gian với một thời gian mốc (thời
gian trung tâm của chỉ xuất).
Thời gian có tính tuyến tính phân chia theo hai hướng tính từ một điểm
toạ độ zero nào đó. Hình vẽ sau đây biểu thị đường tuyến thời gian cơ sở:
O
Nói chỉ xuất thời gian là nói đến sự chỉ xuất bằng cách định vị một thời
gian nào đó so với thời điểm mốc (0). Những biểu thức nào không biểu thị sự đối
chiếu với thời điểm mốc thì không phải là biểu thức chỉ xuất thời gian. Ví dụ
như “Năm anh ấy học đại học”; “thời gian làm việc” không phải là biểu thức
chỉ xuất thời gian.
Những yếu tố chỉ xuất thời gian trong tiếng Pháp là “aujourd‟hui/ hier/
demain”, “prochain/ dernier/ce/cette/ Lundi/ semaine/ mois/an”.
Còn các yếu tố dùng để định vị thời gian trong tiếng Việt bao gồm :

14
Chỉ từ chuyên dùng chỉ thời gian: nay, nãy

Chỉ từ không gian được dùng chỉ thời gian: này, kia, ấy, nọ, đó, đầu, cuối
Các giới từ không gian được dùng như chỉ từ chỉ thời gian: sau, trước
(tháng trước, tuần sau)
Các giới từ không gian được dùng như giới từ chỉ thời gian : trong (trong
năm), ngoài (ngoài năm), sau (sau 1945), trước (trước cách mạng tháng Tám).
Các từ hay tổ hợp từ chỉ các thời điểm: (tang) tảng sáng, đầu hôm, chập
choạng, ngày nay, bây giờ, thuở xưa, thuở trước, ngày trước, ngày sau
Các phó từ vừa chỉ thời gian, vừa biểu thị các ý nghĩa thể, thức, tình thái
đi kèm với thời gian: vẫn, cũng, cứ, còn, đã, sẽ, đang, sắp
Nói đến thời gian là nói đến quá trình, đến sự kiện. Biểu thức chỉ xuất thời
gian có chức năng chỉ xuất thời gian xảy ra một sự kiện nào đó so với một thời
điểm nào đó mà người nói, người nghe và những người tham gia hội thoại đã lựa
chọn làm điểm mốc. Thời điểm nói được lấy làm thời điểm mốc cho chỉ xuất
thời gian chủ quan (tuyệt đối) là thời điểm được phó từ “now” tiếng Anh và “bây
giờ” tiếng Việt biểu thị. Dải thời gian bao chứa do “bây giờ” biểu thị vừa trùng
hợp với thời gian nói đích thực - tức là “bây giờ” luôn luôn có nghĩa hiện tại -
vừa tràn về quá khứ vừa tràn sang tương lai.
Có thể biểu diễn nghĩa của “bây giờ” bằng hình vẽ sau:
Thời điểm nói đích thực
Quá khứ Tương lai
S
Bây giờ
Các ngôn ngữ trong đó có tiếng Việt thường chọn hai cách để biểu diễn
đường tuyến thời gian. Cách biểu diễn đường tuyến thời gian theo hệ vectơ và
cách biểu diễn đường tuyến thời gian theo hệ đo lường. Trong tiếng Việt có thế
đối lập ba biểu thức biểu thị sự bao chứa thời điểm nói đích thực: “bây giờ”,
biểu thức chỉ xuất với “này” và biểu thức chỉ xuất với “nay”.

15
Chúng ta có sơ đồ chi tiết biểu thị các biểu thức chỉ xuất với “nay, này”:

Hôm kia Hôm nay Ngày mai
Hôm qua Ngày kia
Hôm trước Ngày(hôm) sau
S
Tuần qua Tuần này Tuần sau
Tuần trước Tuần tới
S
Tháng trước Tháng này Tháng sau
Tháng tới
S
Năm kia Năm nay Năm sau
Năm trước Năm tới
Năm ngoái
S
George Yule cho rằng tất cả những diễn đạt chỉ xuất như
“yesterday”(hôm qua), “today” (hôm nay), “tomorrow” (ngày mai), “tonigh” (tối
nay) “next week” (tuần tới), “this week” (tuần này) đều lệ thuộc vào sự giải
thích chúng trên cơ sở biết được cái thời gian phát ngôn thích hợp với chúng.
[George Yule, Dụng học, 1997: 38]. Chính vì thế mà đặc trưng của những từ trực
chỉ thời gian như : “hiện nay, bây giờ, mai, lúc này, năm ngoái ” trong tiếng
Việt chỉ có thể giải thích thấu đáo trong ngữ cảnh riêng của chúng. Không thể
chỉ rõ “bây giờ, sau đó, ngày mai ” là lúc nào nếu không biết thời gian chính
xác khi phát ngôn được nói ra.
Trong nhiều ngôn ngữ, phạm trù thời gian được ngữ pháp hoá trong hình
thái của động từ. Tiếng Việt không có phạm trù thời như các ngôn ngữ châu Âu.
Các đại từ chỉ định như “đây, đấy, này, kia, ấy ” không chỉ định vị vị trí mà còn
định vị thời gian. Khoảng cách gần xa được xác định căn cứ vào thời điểm phát

16
ngôn của người nói. “Đây” được dùng để chỉ thời điểm ở vào lúc đang nói,

“đấy” được dùng để chỉ thời điểm không còn ở lúc đang nói, “này” được chỉ
thời điểm vào lúc đang nói, “kia” được dùng để chỉ thời điểm nào đó không xác
định, nhưng coi như là có thể hình dung được cụ thể, “nọ” được dùng để chỉ
một thời điểm không xác định trong quá khứ.
Rechenbach đề xuất mô hình logic cơ sở cần thiết để phân tích các hệ
thống thời gian. Theo tác giả, tất cả các thời gian đều được sản sinh ra từ sự tổ
hợp theo một trật tự nào đó ba vị trí sau đây trên đường tuyến thời gian lý tưởng:
Điểm nói (point of speech) tức là thời gian chỉ xuất, điểm sự kiện (point of
event) tức là sự kiện được định vị, và điểm chiếu vật (point of reference) tức thời
điểm mốc. Nếu như người nói lấy điểm nói, tức thời điểm mình thực hiện hành
vi chỉ xuất thời gian làm điểm chiếu vật thì ta có chỉ xuất thời gian chủ quan.
Nếu lấy một sự kiện nào khác hoặc một thời điểm nào khác không phải thời điểm
nói làm điểm chiếu vật thì ta có chỉ xuất thời gian khách quan.
Chúng ta xem xét các ví dụ sau:
Ví dụ 1:
“Hắn đã lấy vợ trước khi vào đại học”
Trong câu này, không phải chỉ có hai thời điểm, thời điểm sự kiện được chỉ
xuất (anh ta đã lấy vợ), thời điểm chiếu vật (thời điểm mốc) (trước khi vào đại
học) mà còn có cả thời điểm nói ra câu nói đó của người nói. Nếu phát triển câu
đó thành:
Ví dụ 2:
“Tôi bảo mọi người biết hắn đã lấy vợ trước khi vào đại học”
thì chắc chắn, ở các ngôn ngữ động từ có hình thái thời gian, các động từ “bảo,
lấy vợ, vào” phải ở những hình thái thời khác nhau; “bảo” sẽ ở hình thái hiện tại
nếu như câu đó được nói ngay khi cuộc đối thoại giữa tôi với mọi người đang
diễn ra.

17
Bằng chỉ xuất thời gian, người nói, tức người thực hiện hành vi chỉ xuất
thời gian chỉ cho người tiếp thoại nhận biết được thời gian nào đang được nói tới

trong diễn ngôn của mình, tức là làm cho người tiếp thoại nhận biết được thời
gian được nói đến trong diễn ngôn của mình.
1.1.3. Trực chỉ về không gian.
Chỉ xuất không gian là phương thức chiếu vật bằng cách định vị sự vật (sự
vật được nói tới trong diễn ngôn) theo quan hệ không gian với vật mốc.
Trong tiếng Anh có các phương tiện chỉ xuất không gian như sau: this,
that (these, those), here, there, left, right, up, down, above, below, in front,
behind, come, go, bring,take.
Trong tiếng Việt, các đơn vị sau đây là các phương tiện chỉ xuất không
gian:
Các chỉ từ : Này, kia, ấy, nọ, đây, đấy (đó).
Các quan hệ từ không gian (các giới từ không gian, có tác giả gọi là
phương vị từ): trên, dưới, trong, ngoài, trước, sau, giữa, bên, cạnh, đối diện, ở
phía bắc, phía tây, bên phải, bên trái
Các động từ chỉ sự dời chỗ có hướng: đi, về, đến, lại, qua, sang, vào, ra,
lên, xuống, tới, lui
Ví dụ 3: “ Cuốn sách trên bàn”
Cuốn sách là sự vật được định vị theo quan hệ không gian phía trên so với
cái bàn.
Có các tham số tham gia vào quá trình định vị không gian như sau: người
định vị, sự vật được định vị, sự vật mốc. Chúng ta có định vị chủ quan khi người
định vị tự lấy mình sự vật được định vị, và có định vị khách quan khi sự vật
được định vị khác với người định vị. ở định vị chủ quan chỉ còn người định vị và
sự vật được định vị, cơ sở của chỉ xuất chủ quan là trực chỉ.
Sự định vị không gian được dùng để chỉ xuất và qua chỉ xuất mà thực hiện
hành vi chiếu vật khi sự vật - nghĩa chiếu vật cũng là sự vật được định vị. Như

18
vậy, khi chiếu vật bằng định vị thì người thực hiện hành vi chiếu vật cũng là
người định vị.

Sự chỉ xuất chủ quan được thực hiện khi người chiếu vật (người nói) lấy vị
trí của mình đang có mặt khi chiếu vật làm mốc.
Có hai dạng chỉ xuất khách quan chính: chỉ xuất khách quan lấy người
tham gia giao tiếp không phải người nói làm mốc và chỉ xuất khách quan lấy một
sự vật hay người nào đó không phải người tham gia giao tiếp làm mốc.
Ví dụ 4: “Đứa bé sau xe”
Trong câu này, đứa bé được chỉ xuất không gian khách quan theo phương
vị (sau) vốn có của chiếc xe.
Các phương tiện chuyên dùng để chỉ xuất không gian chủ quan của tiếng
Việt là các chỉ từ. Trong các biểu thức chỉ từ có hai tham tố, hiện diện trong biểu
thức là sự vật được chỉ xuất và sự vật mốc, sự vật trung tâm chỉ xuất tức người
nói đựơc hiểu theo cách hàm ẩn. Sự vật được chỉ xuất có thể là địa điểm và có
thể là người, đồ vật, vật thể địa lý “Đây” là chỉ từ chuyên dùng để chỉ xuất địa
điểm. “Đây” là địa điểm mà người chỉ xuất không gian chiếm giữ khi chỉ xuất
(tức khi nói, khi thực hiện hành vi chiếu vật). Cũng giống như ở đại từ “tôi”, ở
chỉ từ “đây” địa điểm mốc và địa điểm được định vị trùng làm một. “Đó” dùng
một mình cũng chỉ xuất địa điểm, dùng để chỉ bất cứ địa điểm nào miễn là địa
điểm đó không phải là “đây” (gần người nói); “này” dùng để chỉ xuất sự vật
được chiếu vật ở vị trí gần với “đây”. “Kia” vừa đối lập với “đây”, được dùng để
chỉ xuất sự vật- nghĩa chiếu vật ở xa vị trí người nói, vừa đối lập với “này” để chỉ
xuất sự vật nghĩa chiếu vật ở xa một sự vật khác đã được chỉ xuất bằng “này”
Theo Levinson, trong “Pragmatics”, nhiều ngôn ngữ có các chỉ từ chỉ xuất
không gian lấy người tham gia giao tiếp làm trung tâm chỉ xuất. Trong các ngôn
ngữ đó có sự chỉ xuất khách quan lấy người tiếp thoại làm mốc, còn tiếng Việt
không có các giới từ chỉ xuất khách quan như vậy. Để chỉ xuất khách quan, tiếng

19
Việt dùng các giới ngữ trong đó danh từ ở sau giới từ biểu thị sự vật mốc khách
quan.
Ví dụ 5: “ Cái bàn trước cái giường”

Chỉ xuất có nghĩa là làm cho người tiếp thoại biết sự vật nào là sự vật
được định vị trong một quan hệ định vị. Và bằng cách chỉ ra cho người tiếp thoại
biết sự vật được định vị là sự vật nào mà chỉ xuất làm cho người tiếp thoại biết
rằng sự vật đó là sự vật mà người nói nói tới trong diễn ngôn của mình.
1.2.Định nghĩa về câu dẫn ( Le discours rapporté - DR)
Trong một câu chuyện, người ta thường phải dẫn lại những lời nói của một
hay nhiều nhân vật. Việc chuyển lại những câu nói hay những ý nghĩ của những
nhân vật này được thể hiện dưới nhiều hình thức. ở Việt Nam cũng như ở Pháp,
các nhà nghiên cứu đã đưa ra nhiêù định nghĩa về câu dẫn (le discours rapporté).
Mỗi định nghĩa đều đề cập đến một phương diện hay một đặc trưng nào đó của
câu dẫn. Trước khi đưa ra định nghĩa khái quát chung về câu dẫn, chúng ta hãy
xem xét ví dụ sau :
Ví dụ 6:
La concierge dit: “Est –ce que vous pouvez me laisser votre nouvelle
adresse?”
(Người bảo vệ nói: “Ông có thể để lại cho tôi địa chỉ mới của ông được
không ạ?” [4 tr 122]
Ví dụ 7:
La concierge me demande si je peux lui laisser ma nouvelle adresse.
(Người bảo vệ hỏi tôi xem tôi có thể để lại cho ông ấy địa chỉ mới của tôi)
[4 tr 122]
Cả hai ví dụ 6 và 7 đều là hai phát ngôn nói về cùng một nội dung thông
tin nhưng được trình bày lại ở hai dạng khác nhau. ở ví dụ 6 là phát ngôn được
trình bày lại một cách chính xác của chính người nói- le locuteur (người bảo vệ)
và người nhận - le destinateur (người tiếp thoại). Còn phát ngôn ở ví dụ 7 lại có

20
điểm đặc biệt hơn so với phát ngôn ở ví dụ 6 người phát ngôn đã chuyển lại nội
dung thông tin của một phát ngôn khác. Hay nói một cách khác hai ví dụ trên
được chuyển lại dưới hình thức của câu dẫn(Le discours rapporté- DR).

Như trên đã nói, có nhiều định nghĩa khác nhau về câu dẫn trong tiếng
Pháp và trong tiếng Việt. Mặc dù có nhiều quan niệm khác nhau, nhưng nhìn
chung các tác giả Pháp đều có chung quan điểm với khái niệm sau:
“Nói một cách đơn giản nhất, câu dẫn chỉ là câu mà được dẫn lại bởi
người nói đối với một phát ngôn hội thoại mà anh ta vừa nghe hoặc đã nghe
được (thậm chí anh ta có tham gia cùng). Nhìn chung, người dẫn lại phát ngôn
đó phải cung cấp đủ thông tin cho một người thứ ba: người đó hiện đang có mặt
nhưng đã không nghe được hoặc vắng mặt trong cuộc hội thoại và muốn biết rõ
những gì đã được nói”.
(Sous sa forme la plus simple, le discours rapporté n‟est que la simple
reprise par un locuteur d‟énoncé d‟une conversation qu‟il vient d‟entendre ou
qu‟il a entendue (ou même à laquelle il a participé). En général, le locuteur qui
rapporte répond à une demande d‟information d‟une tierce personne: quelqu‟un
qui est présent mais qui n‟a pas entendu ou qui était absent mais qui voudrait
bien savoir cequi s‟est dit”.
[H. Gauvenet et Sophie-Colette Moriant, Le discours rapporté, Le franỗais
dans le monde, N
0
102, 1997 :15]
Như vậy, mỗi câu dẫn đều gồm hai hành động phát ngôn khác nhau với
hai cặp người nói/ người tiếp thoại có thể khác nhau. Nói một cách khác, câu dẫn
là sự chồng xếp lên nhau của ít nhất hai phát ngôn: phát ngôn của người nói đầu
tiên được chuyển lại qua người nói thứ hai, và điều này có thể tiếp tục được
chuyển đến người nói cuối cùng, đó là tác giả. Tất nhiên, nếu người ta chồng xếp
quá nhiều phát ngôn người tiếp nhận sẽ không hiểu được gì ( Ví dụ: X nói rằng Y
đã nói rằng Z đã nói rằng….).

21
Những nhà ngữ pháp Việt Nam thì có cùng quan điểm với khái niệm sau
về câu dẫn/ câu dẫn:

“ Lời dẫn là lời người khác được dẫn lại trong câu nói ( viết)”
[Bùi Minh Toán- Lê A- Đỗ Việt Hùng, Tiếng Việt thực hành,2006: 164]
Mặc dù có nhiều quan điểm khác nhau về câu dẫn, nhưng trong tiếng Pháp
cũng như trong tiếng Việt đều tồn tại ba dạng câu có liên quan đến câu dẫn là:
câu dẫn trực tiếp (le discours diriect – DD), câu dẫn gián tiếp (le discours
indirect – DI) và câu dẫn gián tiếp tự do (le discours indirect libre- DIL).
1.3.Những kiểu câu dẫn trong tiếng Pháp và tiếng Việt
1.3.1.Câu dẫn trực tiếp ( le discours direct – DD)
Câu dẫn trực tiếp là câu dẫn lại lời nói của người nào đó một cách nguyên
vẹn như nó đã được nói mà không hề có một sự thay đổi nào. (Le narrateur les
rapporte censément telles quelles, sans les modifier. C‟est le discours direct).
[Maurice Grévisse, Le Bon Usage,1993: 675]. Nói một cách khác, trong câu dẫn
trực tiếp, phát ngôn được trình bày lại một cách chính xác như những gì nó đã
được dùng trong lời nói hay trong suy nghĩ mà không có bất kỳ sự thay đổi nào.
Ví dụ 8 :
J‟ai dit : “ Jeanne, je suis fatigué”
Các nhà ngữ pháp Việt Nam đã định nghĩa :“ Lời dẫn trực tiếp (lời dẫn
được dẫn lại nguyên văn không thêm bớt được đặt sau dấu hai chấm và trong
dấu ngoặc kép”. [Bùi Minh Toán, Lê A, Đỗ Việt Hùng, Tiếng Việt thực hành,
2006: 164].
Ví dụ 9:
Thầy nói: “Ngày mai các em đến sớm 10 phút”
Qua ví dụ 8 và 9 trên, chúng ta thấy rằng trong tiếng Pháp cũng như trong
tiếng Việt, cấu trúc cú pháp của câu dẫn trực tiếp được biểu hiện bằng các mệnh
đề độc lập và trật tự từ hay ngữ điệu của chúng được chuyển lại nguyên vẹn như
trong ngôn ngữ nói. Đó chính là những lời nói hay những suy nghĩ của người nói

22
ra chúng. Trong câu dẫn trực tiếp, người nói và người chuyển lại lời nói đó có
thể là một, có thể khác nhau. Như thế chúng ta sẽ có các trường hợp cụ thể như

sau:
+ Người nói và người chuyển lại phát ngôn là một. Đó là trường hợp tất cả
các sự kiện được kể bằng đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất.
Ví dụ 10:
“Tôi rất sợ con chó giống Đức hung hăng ấy. Sợ đến nỗi mỗi lần đến chơi,
không thấy anh Hoàng ra đứng tấn để giữ nó lại mà buồn rầu báo cho tôi biết nó
chết rồi, thì mặc dầu có làm ra mặt tiếc với anh, thật tình tôi thấy nhẹ cả người”
[ 8 tr 62]
Ví dụ 11:
“Je me souviens d‟avoir essayé alors de comprendre ce qu‟exprimait le
visage de Nelly Bonnive. Elle remettait ses cheuveux en ordre, me regardait
gravement et ne disait pas un mot”
(Tôi còn nhớ là lúc đó tôi đã cố tìm xem trên mặt Nenly Bonnive biểu lộ cái gì.
Bà vuốt lại tóc, nhìn tôi một cách nghiêm trang và không nói một lời)
[2 tr 13]
+ Người nói ra các phát ngôn được phân biệt với người chuyển lại các
phát ngôn đó.
Ví dụ 12:
Anh thanh niên làng chỉ một cái cổng gạch nhỏ, quay lại bảo tôi: “Ngõ này
đây, ông Hoàng ở đây”. [8 tr 62]
Để thực hiện một mục đích phát ngôn, người ta thường dùng một cấu trúc
cú pháp đặc trưng với những phương tiện ngôn ngữ riêng biệt. Và như vậy, căn
cứ vào mục đích phát ngôn, câu dẫn trực tiếp trong tiếng Pháp và tiếng Việt gồm
có bốn kiểu câu: câu trần thuật, câu nghi vấn, câu cầu khiến và câu cảm thán
[Diệp Quang Ban, Ngữ pháp tiếng Việt tập 2,2002 :224]
Ví dụ 13:

23
Câu
Tiếng Việt

Tiếng Pháp
Trần
thuật
1. Quỳnh nói : “Bạn em là vua
trèo cây chị ạ.” [6 tr 126]
1‟. Il déclare : “Je t’aiderai”
[5 tr 126]
Nghi
vấn
2. Ông hỏi giọng trầm hẳn
xuống: “Em mệt quá phải
không?” [6 tr 141]
2‟ “Madame, quel est votre
nom?” [3 tr 62]
Cầu
khiến
3 “Đi mau lên !” tên cai ngục
bợp gáy Lượm. [6 tr 291]

3‟ “Restez à la maison toute la
matinée du 14 et attendez mon
passage!”, lui demande le livreur
[4 tr 123]
Cảm
thán
4._“Nhỏ nhoi thế kia mà chú ta
đã phải chịu đựng những nỗi
khổ nhường ấy!” [6 tr 311]
4‟. “La neige est bonne!” dit –
elle.

[4 tr 124]
Qua các ví dụ trên, chúng ta có thể nhận thấy những đặc trưng sau của câu
dẫn trực tiếp trong cả hai ngôn ngữ:
+ Người nói chuyển lại một cách khách quan và chính xác những lời nói
(hay những suy nghĩ) của các nhân vật tham gia giao tiếp. Chính vì thế phát ngôn
ở câu dẫn trực tiếp bảo lưu được những “dấu hiệu” của ngôn ngữ nói được thể
hiện trên chữ viết như dấu chấm hỏi, dấu chấm than, dấu chấm lửng, các thán
từ,
+ Trong câu dẫn có một động từ được gọi là “động từ dẫn” được dùng để
dẫn lại những phát ngôn, chẳng hạn những động từ sau “nói”, “bảo”, “yêu
cầu” Động từ dẫn này thường được đặt trước các phát ngôn và dấu hai chấm
hoặc nó cũng có thể đứng đan xen trong các phát ngôn (ví dụ: anh ta nói, ,
.dit-il…) hoặc đứng ở cuối câu khi đó là một câu ngắn. Một danh từ hay một đại
từ được dùng để chỉ người mà người kể đang dẫn lại những lời nói của người đó
sẽ là chủ ngữ của động từ dẫn. Những động từ này luôn là một phần của mệnh đề
chính trong câu.Trong nhiều trường hợp động từ dẫn có thể chứa đựng ít hay
nhiều thông tin về ngữ nghĩa. Việc lựa chọn động từ dẫn cũng không đơn giản;

×