Tải bản đầy đủ (.pdf) (133 trang)

Ngôn ngữ truyền thông xã hội qua phân tích diễn ngôn các ca từ trong bài hát kháng chiến

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.21 MB, 133 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN




LÊ THỊ PHƯỢNG





NGÔN NGỮ TRUYỀN THÔNG XÃ HỘI
QUA PHÂN TÍCH DIỄN NGÔN CÁC CA TỪ TRONG
BÀI HÁT KHÁNG CHIẾN


TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ
Chuyên ngành: Ngôn ngữ học






Hà Nội - 2012

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN





LÊ THỊ PHƯỢNG





NGÔN NGỮ TRUYỀN THÔNG XÃ HỘI
QUA PHÂN TÍCH DIỄN NGÔN CÁC CA TỪ TRONG
BÀI HÁT KHÁNG CHIẾN


TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ
Mã số: 602201


Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Đinh Văn Đức






Hà Nội – 2012
LỜI CẢM ƠN




Tôi xin cảm ơn những chỉ dẫn quý báu của GS.TS. Đinh Văn Đức,
Khoa Ngôn ngữ học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – ĐHQG
Hà Nội trong quá trình tôi thực hiện luận văn này.
Xin cảm ơn những người thân trong gia đình và bạn bè đã luôn cho tôi
sự động viên, khích lệ trong suốt thời gian học tập và hoàn thành luận văn.
Do những hạn chế chủ quan và khách quan khó tránh khỏi trong quá
trình nghiên cứu, luận văn này có thể vẫn còn nhiều thiếu sót, tôi rất mong
nhận được sự đóng góp của các thầy cô và bạn bè để có thể hoàn thiện hơn trong
những công trình nghiên cứu tiếp theo.
Xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, tháng 4 năm 2012
Tác giả luận văn



Lê Thị Phượng











MỤC LỤC


MỞ ĐẦU 6
1. Lí do chọn đề tài 6
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 6
3. Phương pháp nghiên cứu 6
4. Phạm vi nghiên cứu 7
5. Đóng góp của đề tài 7
6. Bố cục 8
NỘI DUNG 10
Chương 1: Những cơ sở lí luận liên quan đến đề tài 10
1.1. Các lí thuyết về truyền thông 10
1.1.1. Truyền thông là gì? 10
1.1.2. Thế nào là truyền thông xã hội? 11
1.2. Phân tích diễn ngôn 12
1.2.1. Những nét chính trong nghiên cứu diễn ngôn 12
1.2.2. Phân loại diễn ngôn 17
1.2.3. Phân tích diễn ngôn 21
1.2.4. Lí thuyết cấu trúc diễn ngôn 24
1.2.5. Phân tích cấu trúc diễn ngôn của văn bản 27
1.2.6. Phân đoạn diễn ngôn 28
1.2.7. Chức năng của diễn ngôn 31
1.2.7.1. Chức năng tư tưởng 33
1.2.7.2. Chức năng liên nhân 33
1.2.7.3. Chức năng văn bản 34
1.3. Diễn ngôn ca từ trong bài hát Cách mạng 35
1.3.1. Giới thiệu sơ bộ các bài hát cách mạng 35
1.3.2. Sự giống và khác nhau giữa diễn ngôn ca từ với một số diễn ngôn nghệ
thuật khác 38
1.4. Tiểu kết 41
Chương 2: Kết cấu diễn ngôn trong 42
các ca khúc cách mạng 42

2.1. Cấu trúc tên đề 42
2.2. Bố cục của ca khúc 45
2.3. Đặc điểm của câu mở và câu kết 50
2.4. Câu sử dụng thủ pháp so sánh/ví von 53
2.5. Phương tiện liên kết 57
2.6. Kết cấu đảo 60
2.7. Cấu trúc lồng 62
2.8. Các kiểu quan hệ diễn ngôn 63
2.8.1. Chứng minh 65
2.8.2. Nhân nhượng 65
2.8.3. Nhân quả 66
2.8.4. Liệt kê 66
2.8.5. Mục đích 67
2.8.6. Thời gian 68
2.9. Nguyên lí song song 69
2.10. Vị ngữ phụ 73
2.11. Trạng ngữ 75
2.12. Tiểu kết 76
Chương 3: Chức năng tác động truyền thông xã hội của các ca khúc cách
mạng 78
3.1. Chức năng tác động qua các hành động ngôn từ 79
3.1.1. Hành động khẳng định 80
3.1.2. Hành động cầu khiến (mệnh lệnh) 81
3.1.3. Hành động hứa hẹn 83
3.1.4. Hành động bày tỏ 84
3.1.5. Hành động tuyên bố 90
3.2. Chức năng tác động qua các tiểu chức năng 91
3.2.1. Tính phiếm định 91
3.2.2. Kêu gọi/(Tập hợp) 97
3.2.3. Cổ vũ/(Khuyến khích) 98

3.2.4. Ca ngợi 98
3.2.5. Cảm xúc 100
3.2.6. Chất thơ 102
3.3. Chức năng tác động qua sự phối hợp giữa âm thanh và ngôn từ 104
3.3.1. Âm thanh 104
3.3.2. Âm và vần 107
3.3.3. Nhịp điệu 108
3.3.4. Từ ngữ 112
3.3.4.1. Chỉ địa danh 114
3.3.4.2. Chỉ sự đoàn kết dân tộc 116
3.3.4.3. Từ biểu thị sự quyết tâm giành thắng lợi 118
3.3.4.4. Từ biểu thị hi vọng vào một tương lai chói sáng, vào sự
trường tồn của non sông Việt Nam 119
3.3.5. Trật tự từ 121
3.4. Tiểu kết 123
KẾT LUẬN 124
DANH SÁCH TÀI LIỆU THAM KHẢO 126
DANH MỤC TƯ LIỆU TRÍCH DẪN 130




MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài
Trong những năm gần đây, hướng nghiên cứu ngôn ngữ truyền thông
xã hội đã thu được nhiều kết quả đáng kể, giúp chúng ta hiểu được sâu hơn
bản chất của ngôn ngữ với tư cách là công cụ tương tác xã hội và liên nhân.
Ngôn ngữ truyền thông xã hội là một hướng nghiên cứu được nhiều người
quan tâm. Tuy nhiên, trong Việt ngữ học, việc nghiên cứu này chưa nhiều và

chưa sâu. Trước thời điểm hiện tại, các nhà nghiên cứu ngữ pháp tiếng Việt
chủ yếu bàn đến ngôn ngữ truyền thông xã hội một cách toàn diện, tổng thể.
Chính điều này đã thôi thúc chúng tôi đặt vấn đề nghiên cứu một cách sâu sắc
hơn: Ngôn ngữ truyền thông xã hội qua phân tích diễn ngôn ca từ trong bài
hát kháng chiến. Việc nghiên cứu vấn đề này góp phần chỉ ra sự thể hiện đa
dạng, phong phú của ngôn ngữ truyền thông xã hội, đáp ứng nhu cầu và phù
hợp với xu thế phát triển của ngành ngôn ngữ học hiện nay. Đây là một hướng
đi mới, có thể phát hiện ra nhiều điều mới mẻ, lí thú, góp phần tìm hiểu những
vấn đề về ngôn ngữ truyền thông xã hội.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của luận văn là tìm hiểu “ngôn ngữ truyền thông xã hội qua
phân tích diễn ngôn các ca từ trong bài hát kháng chiến”.
Với mục đích như trên, chúng tôi đặt cho mình những nhiệm vụ như sau:
a. Khảo cứu cấu trúc, chức năng và các tiểu chức năng của diễn ngôn
ca từ trong bài hát Cách mạng giai đoạn 1945 - 1975.
b. Phân tích, miêu tả các chức năng: tư tưởng, liên nhân, văn bản của
diễn ngôn ca từ trong bài hát Cách mạng giai đoạn 1945 - 1975.
c. Khảo cứu chức năng tác động truyền thông xã hội của diễn ngôn ca
từ trong bài hát Kháng chiến giai đoạn 1945 - 1975.
3. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn tiến hành nghiên cứu dựa trên quan điểm ngữ pháp chức năng
và ngữ dụng học. Nghiên cứu phát ngôn trong hoạt động hành chức của nó
hay trong một ngữ cảnh và ngôn cảnh cụ thể. Trong quá trình nghiên cứu luận
văn, chúng tôi có sử dụng phương pháp miêu tả và các thủ pháp: phân tích
nghĩa, phân tích ngữ cảnh, mô hình hóa, thống kê,…
Chúng tôi nghiên cứu theo phương pháp đi từ cụ thể đến khái quát, từ
phân tích đến tổng hợp, từ hình thức đến nội dung, từ cấu trúc đến ý nghĩa, từ
phương tiện đến mục đích, để tìm ra những đặc điểm về ngữ dụng cũng như
các chức năng tác động xã hội thông qua tư liệu đã được khảo sát.
4. Phạm vi nghiên cứu

Nguồn tư liệu được lấy từ những bài hát kháng chiến nổi bật nhất của
một số nhạc sĩ tiêu biểu trong giai đoạn từ 1944 – 1975, trong đó có 50 bài hát
hay được chọn lọc từ Tuyển tập “Những bài hát hay dùng trong các Hội diễn
văn nghệ” của nhiều tác giả - Nhạc sĩ Cù Minh Nhật tuyển soạn, NXB Âm
nhạc, Hà Nội, 2007.
Ngoài ra, nguồn tư liệu còn được lấy từ một số bài hát kháng chiến
khác cũng trong giai đoạn này ở nhiều website.
5. Đóng góp của đề tài
Chúng tôi tin tưởng rằng, công trình nghiên cứu của chúng tôi sẽ có ý
nghĩa cả về lí luận và thực tiễn.
Về lí luận, luận văn hi vọng góp phần làm rõ thêm khái niệm truyền
thông nói chung và truyền thông xã hội nói riêng; giới thiệu một số đặc điểm
chung nhất của các bài hát kháng chiến. Mặt khác, luận văn cũng quan tâm
sâu hơn các chức năng của diễn ngôn thông qua tư liệu được khảo sát: chức
năng tư tưởng, chức năng liên nhân và chức năng văn bản - những vấn đề mà
xưa nay đã đề cập đến nhưng chưa được lí giải đầy đủ; từ đó góp phần vào
việc hoàn thiện các kết quả nghiên cứu về ngôn ngữ truyền thông xã hội nói
chung và chức năng tác động xã hội của các ca từ trong bài hát kháng chiến
nói riêng.
Về thực tiễn, những kết quả nghiên cứu của luận văn có thể góp phần
giải quyết nhiều vấn đề về cách sử dụng tiếng Việt và là cơ sở để biên soạn
nội dung, xác định phương pháp dạy tiếng Việt cho người nước ngoài học
tiếng Việt. Đặc biệt, trong xu thế hội nhập và toàn cầu hóa như hiện nay, kết
quả nghiên cứu của luận văn cũng góp phần không nhỏ vào việc nâng cao
chức năng sử dụng của các ca từ khi nhạc sĩ sáng tác nhạc phẩm mới kèm
theo thông điệp muốn gửi đến thính giả; từ đó thuận lợi hơn trong việc giao
tiếp và thể hiện mục đích giao tiếp của mình.
Tóm lại, việc lựa chọn ngôn ngữ truyền thông xã hội làm đối tượng
nghiên cứu không phải là vấn đề hoàn toàn mới mẻ. Cái mới của luận văn là
tìm hiểu vấn đề ấy thông qua phân tích diễn ngôn các ca từ trong bài hát

kháng chiến và những vấn đề xung quanh nó.
6. Bố cục
Phần mở đầu
Phần nội dung
Chương 1: Cơ sở lí luận liên quan đến đề tài
1.1. Các lí thuyết về truyền thông
1.2. Phân tích diễn ngôn
1.3. Diễn ngôn ca từ trong bài hát Cách mạng
1.4. Tiểu kết
Chương 2: Kết cấu diễn ngôn của ca khúc cách mạng
2.1. Cấu trúc tên đề
2.2. Bố cục một ca khúc
2.3. Đặc điểm của câu mở và câu kết
2.4. Thủ pháp so sánh/ví von
2.5. Phương tiện liên kết
2.6. Kết cấu đảo
2.7. Cấu trúc lồng
2.8. Các kiểu quan hệ diễn ngôn
2.9. Nguyên lí song song
2.10. Vị ngữ phụ
2.11. Trạng ngữ
2.12. Tiểu kết
Chương 3: Chức năng tác động truyền thông xã hội của ca khúc cách
mạng
3.1. Chức năng tác động qua các hành động ngôn từ
3.2. Chức năng tác động qua các tiểu chức năng
3.3. Chức năng tác động qua sự phối hợp giữa âm thanh và ngôn từ
3.4. Tiểu kết
Phần kết luận
Danh mục tài liệu tham khảo

Danh mục nguồn tư liệu trích dẫn



















NỘI DUNG
Chương 1: Những cơ sở lí luận liên quan đến đề tài
1.1. Các lí thuyết về truyền thông
1.1.1. Truyền thông là gì?
Truyền thông (communication) là quá trình chia sẻ thông tin. Truyền
thông là một kiểu tương tác xã hội trong đó ít nhất có hai tác nhân tương tác
lẫn nhau, chia sẻ các quy tắc và tín hiệu chung. Ở dạng đơn giản, thông tin
được truyền từ người gửi tới người nhận. Ở dạng phức tạp hơn, các thông tin
trao đổi liên kết người gửi và người nhận. Phát triển truyền thông là phát triển
các quá trình tạo khả năng để một người hiểu những gì người khác nói (ra

hiệu, hay viết), nắm bắt ý nghĩa của các thanh âm và biểu tượng, và học được
cú pháp của ngôn ngữ.
Truyền thông thường gồm ba phần chính: nội dung, hình thức, và
mục tiêu. Nội dung truyền thông bao gồm các hành động trình bày kinh
nghiệm, hiểu biết, đưa ra lời khuyên hay mệnh lệnh, hoặc câu hỏi. Các hành
động này được thể hiện qua nhiều hình thức như động tác, bài viết, bài phát
biểu, hay bản tin truyền hình. Mục tiêu có thể là cá nhân khác hay tổ chức
khác, thậm chí là chính người/tổ chức gửi đi thông tin. Theo một tư liệu trên
có nhiều cách
định nghĩa lĩnh vực truyền thông, trong đó có truyền thông không bằng lời,
truyền thông bằng lời và truyền thông biểu tượng. Truyền thông không lời
thực hiện thông qua biểu hiện trên nét mặt và điệu bộ. Khoảng 93% “ý nghĩa
biểu cảm” mà chúng ta cảm nhận được từ người khác là qua nét mặt và tông
giọng. Khi bạn ngồi yên lặng trong góc phòng, mặc cho mọi người xung
quanh nói hay làm gì thì cũng đang gửi những tín hiệu truyền thông không
bằng lời cho những người xung quanh (cho dù vô tình hay cố ý). 7% còn lại là
từ những lời nói mà chúng ta nghe được. Truyền thông bằng lời được thực
hiện khi chúng ta truyền đạt thông điệp bằng ngôn từ tới người khác. Truyền
thông biểu tượng là những thứ chúng ta đã định sẵn một ý nghĩa và thể hiện
một ý tưởng nhất định ví dụ như quốc huy của một quốc gia. Quá trình truyền
thông luôn diễn ra một cách liên tục.
Hội thoại giữa các cá nhân thường xuất hiện theo cặp hoặc từng nhóm
với quy mô khác nhau. Quy mô của nhóm tham gia thường tác động tới bản
chất của cuộc hội thoại. Truyền thông trong nhóm nhỏ thường diễn ra giữa ba
đến mười hai cá nhân và khác biệt với trao đổi qua lại giữa các nhóm lớn hơn
như công ty hay cộng đồng. Hình thức truyền thông này được hình thành từ
một cặp hay nhiều hơn, thông thường được đề cập tới như một mô hình tâm lý
học trong đó thông điệp được truyền từ người gửi đến người nhận qua một
kênh thông tin. Ở cấp độ lớn nhất, truyền thông đại chúng chuyển các thông
điệp tới một lượng rất lớn các cá nhân trong cộng đồng thông qua các phương

tiện thông tin đại chúng. Văn thơ, nhạc, kịch, báo chí… đều thuộc về truyền
thông đại chúng.
1.1.2. Thế nào là truyền thông xã hội?
Trước đây hay bây giờ con người đều có nhu cầu truyền tải thông điệp
đến một nhóm lớn các đối tượng tiếp nhận. Chỉ có điều phương tiện truyền tải
thông tin của ngày xưa và bây giờ có chút khác biệt. Hiện nay, con người đã
biết dùng những phương tiện thông tin hiện đại cho nhiều mục tiêu, được thể
hiện theo kiểu mới – đó là sử dụng những sản phẩm truyền thông (tin, bài,
hình ảnh, video clips…) do người dùng tạo ra và xuất bản trên Internet thông
qua các mạng xã hội hay các diễn đàn, các blog… Các tin, bài này được cộng
đồng mạng chia sẻ và phản hồi (bình luận) nên luôn có tính đối thoại. Đây là
một xu hướng truyền thông mới khác hẳn với truyền thông đại chúng trước
đây. Đây là hình thức truyền thông dựa vào các tương tác xã hội của cộng
đồng những người sử dụng Internet. Người dùng Internet ngày nay dễ dàng
tiếp cận và tương tác với nhau thông qua các diễn đàn (forum), thông qua chia
sẻ hình ảnh, video clip và đặc biệt là họ có thể kết nối với nhau thông qua
các mạng xã hội như Facebook, Linkedin
Như vậy, hoạt động hướng tới cộng đồng như những đối tượng đích
cần được tác động để làm thay đổi thái độ, hành vi theo hướng có lợi cho xã
hội thì được gọi là truyền thông xã hội. Truyền thông là các phương tiện
truyền tải thông tin. Xã hội là mục đích của truyền thông.
Ngôn ngữ là một phương tiện truyền thông tuyệt vời. Ngôn ngữ trong
các bài văn, bài thơ, bài ca (đặc biệt là các bài ca Cách mạng) được sử dụng
một cách đặc biệt có hiệu quả trong việc truyền tải thông điệp đến người tiếp
nhận, làm thay đổi thái độ, hành vi của các cá nhân trong cộng đồng.
Luận văn này của chúng tôi tiến hành phân tích diễn ngôn các ca từ
trong bài hát Cách mạng giai đoạn 1945 – 1975 cũng là để thấy rõ hơn vai trò
của ngôn ngữ trong truyền thông xã hội.
1.2. Phân tích diễn ngôn
1.2.1. Những nét chính trong nghiên cứu diễn ngôn

Quan niệm về diễn ngôn được giới thiệu ở ta sớm nhất trong lĩnh vực
ngôn ngữ học. Có thể kể đến các công trình: Hệ thống liên kết văn bản tiếng
Việt của Trần Ngọc Thêm (1985); Văn bản và liên kết trong tiếng Việt, Giao
tiếp diễn ngôn và cấu tạo văn bản của Diệp Quang Ban (1998, 2009), Đại
cương ngôn ngữ học, tập 2 của Đỗ Hữu Châu (2001), Dụng học Việt ngữ của
Nguyễn Thiện Giáp (2000), Phân tích diễn ngôn – một số vấn đề lí luận và
phương pháp của Nguyễn Hoà (2003), Từ điển tu từ – phong cách – thi pháp
học của Nguyễn Thái Hoà (2005),…
Bên cạnh những công trình biên khảo nói trên, cũng có một số công
trình nghiên cứu về diễn ngôn của nước ngoài được dịch sang tiếng Việt,
chẳng hạn: Dụng học, một số dẫn luận nghiên cứu ngôn ngữ của George Yule
(Hồng Nhâm, Trúc Thanh, Ái Nguyên dịch, 1997); Dẫn nhập phân tích diễn
ngôn của David Nunan (Hồ Mỹ Huyền, Trúc Thanh dịch, 1998); Phân tích
diễn ngôn của Gillian Brown, George Yule (Trần Thuần dịch, 2002), Dẫn
luận ngữ pháp chức năng của Mak Halliday (Hoàng Văn Vân dịch, 2004)…
các công trình này tập trung vào mấy điểm sau: diễn ngôn là gì, đặc điểm và
chức năng của diễn ngôn, các vấn đề về ngữ cảnh và ý nghĩa diễn ngôn, cấu
trúc thông tin của diễn ngôn, bản chất quy chiếu trong diễn ngôn, các đường
hướng phân tích diễn ngôn…
Cũng có thể kể đến các bài viết: “Phân tích diễn ngôn phê phán là gì?”
(tạp chí Ngôn ngữ, 2 -2005), “Khía cạnh văn hoá của phân tích diễn ngôn”
(tạp chí Ngôn ngữ, 12 -2005), “Thực hành phân tích diễn ngôn bài Lá rụng”
(tạp chí Ngôn ngữ, 2 – 2009), “Một vài dạng cấu trúc nhân quả khó nhận biết
trong diễn ngôn nghệ thuật ngôn từ” (tạp chí Ngôn ngữ số 4 – 2009)…
Chúng tôi thấy có ít nhất năm nhóm quan niệm về diễn ngôn trong
ngôn ngữ học. Nhóm thứ nhất sử dụng khái niệm diễn ngôn (discourse) và
văn bản (text) đồng nghĩa với nhau, hoặc phân biệt hai khái niệm này bằng
cách đính kèm chúng vào một trong hai dạng tồn tại của ngôn ngữ. Nhóm thứ
hai cho rằng diễn ngôn thuộc đơn vị của ngữ nghĩa, còn văn bản thuộc đơn vị
của ngữ pháp. Nhóm thứ ba quan niệm diễn ngôn chịu sự phán xét của dụng

học, còn văn bản trở thành đối tượng của ngôn ngữ học văn bản. Nhóm thứ tư
đề nghị nên sử dụng tên gọi diễn ngôn để chỉ quá trình giao tiếp, sự kiện giao
tiếp có tính chỉnh thể và có mục đích; còn thuật ngữ văn bản dùng để chỉ sản
phẩm của quá trình giao tiếp, sự kiện giao tiếp ấy. Nhóm thứ năm gồm chức
năng luận chủ trương đặt diễn ngôn vào ngữ cảnh văn hoá xã hội, và cấu trúc
luận thiên về mô tả cấu trúc độc lập của diễn ngôn.
Quan niệm về diễn ngôn cũng đã được giới thiệu trong khoa học văn
học, song còn ở tình trạng tản mạn, hoặc chủ yếu ở dạng thực hành phân tích.
Có thể kể đến các công trình: Chủ nghĩa cấu trúc và văn học của Trịnh Bá
Đĩnh (2002); Sự đỏng đảnh của phương pháp do Đỗ Lai Thuý biên soạn và
giới thiệu (2004); Văn học hậu hiện đại thế giới, những vấn đề lí thuyết, Lại
Nguyên Ân, Đoàn Tử Huyến tổ chức biên soạn (2003); Các khái niệm và
thuật ngữ của các trường phái nghiên cứu văn học ở Tây Âu và Hoa Kỳ thế kỉ
20, Đào Tuấn Ảnh, Trần Hồng Vân, Lại Nguyên Ân dịch (2003); Logic học về
các thể loại văn học của Kate Hamburger, Vũ Hoàng Địch và Trần Ngọc
Vương dịch (2004); Tác phẩm như là quá trình của Trương Đăng Dung
(2007); Thi pháp văn xuôi, Dẫn luận về văn chương kì ảo của Tzevan
Todorov, Đặng Anh Đào, Lê Hồng Sâm dịch (2003, 2007); Bản mệnh của lí
thuyết của Antoine Compagnon, Đặng Anh Đào, Lê Hồng Sâm dịch (2006);
Nhập môn Foucault của L.A. Fillingham, M. Susser, Nguyễn Tuệ Đan, Tôn
Thất Huy dịch (2006); Thi học và ngữ học của Jakobson, Trần Duy Châu biên
khảo (2008); Lý luận – phê bình văn học thế giới thế kỉ XX, tập 1, 2, Lộc
Phương Thuỷ chủ biên (2007); Mấy vấn đề phê bình và lí thuyết văn học của
Nguyễn Hưng Quốc (2007); Những huyền thoại của R. Barthes, Phùng Văn
Tửu dịch (2008); Hoàn cảnh hậu hiện đại của Jean-François Lyotard (2008),
Ngân Xuyên dịch; Những vấn đề lý luận văn học phương Tây hiện đại, Tự sự
học kinh điển, Trần Huyền Sâm biên soạn, giới thiệu (2009)…
Gần đây, xuất hiện thêm nhiều bài viết giới thiệu quan điểm diễn ngôn
của Foucault, hoặc vận dụng quan điểm của Foucault, và của trần thuật
học…lí giải một hiện tượng văn học cụ thể, như: “Những bậc tiên phong của

tư duy hậu hiện đại” (tạp chí Nghiên cứu văn học, số 5 -2008), “Vị thế của
văn học trong sân chơi văn hoá trên tiến trình lịch sử” (tạp chí Nghiên cứu
văn học, 7 – 2009) “Dịch và lí thuyết dịch như một hệ hình lí luận, phê bình
mới” (tạp chí Nghiên cứu văn học, 12 – 2009), “Chủ nghĩa hậu hiện đại như
một hệ hình thế giới quan” (tạp chí Văn hoá Nghệ An, 4 – 2009); Diễn ngôn
về tính dục trong văn xuôi hư cấu Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến 1945 của
Trần Văn Toàn (in trong Nghiên cứu văn học Việt Nam, những khả năng và
thách thức, Nxb. Thế giới, 2009), Về diễn ngôn tiểu thuyết Việt Nam đương
đại (tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, 3 – 2010), Tính chất nước đôi của
chủ thể hậu thuộc địa trong Vu khống của Linda Lê (tạp chí Văn học nước
ngoài số 3 – 2010), Tính chất nước đôi và mầm mống phá huỷ nhãn quan thực
dân về Việt Nam tính trong bộ phim Đông Dương ()…


(***)
Chúng tôi sử dụng khái niệm diễn ngôn để chỉ ngôn ngữ trong hoạt
động, ngôn ngữ được sử dụng trong ngữ cảnh văn hoá – xã hội. Cũng cần
nói rõ thêm là chúng tôi dùng tên gọi diễn ngôn để chỉ ngôn ngữ trong tính
sinh động của nó, chứ không phải đề cập đến ngôn ngữ đã tách khỏi ngữ cảnh
phát ngôn, hoặc những mẫu văn bản đã được trừu tượng hoá, cái văn bản tách
khỏi tư duy của chủ thể phát ngôn, của hệ tư tưởng và hoàn cảnh xã hội. Diễn
ngôn hành chức trong một ngữ cảnh văn hoá – xã hội cụ thể. Diễn ngôn được
tạo ra, sử dụng và được giải mã ra sao phụ thuộc vào ngữ cảnh văn hóa xã
hội, vào một cộng đồng ngôn ngữ cụ thể. Qua diễn ngôn có thể khảo sát được
mối quan hệ liên nhân và các định chế, quy ước phát ngôn, chẳng hạn qua
tấu, một loại diễn ngôn do thần tử tạo lập, trình bày sự việc, ý kiến lên vua.
Qua ngôn ngữ chúng ta còn thấy được kinh nghiệm của chính chúng ta
về thế giới khách quan, ngôn ngữ phản ánh khoảng cách quyền lực và mức độ
phụ thuộc của người sử dụng ngôn ngữ đối với một tổ chức, định chế nào đó,
và đối với hệ thống văn hoá tri thức của cả một xã hội. Trở lại ví dụ chiếu,

cáo, dụ, hịch, mệnh… chúng ta thấy chúng chẳng những thể hiện rõ địa vị,
quyền lực của chủ thể phát ngôn, mà cả cương vị xã hội của người tiếp nhận
diễn ngôn đó. Chính văn hoá và các chuẩn mực của văn hoá đã quy định việc
dùng ngôn ngữ, chi phối việc tạo dựng diễn ngôn, cách thức mã hoá – giải mã
thông điệp. Ngôn ngữ chi phối quá trình tư duy của con người, đồng thời qua
ngôn ngữ quá trình tư duy đó được hiện hữu. Đề cập đến diễn ngôn, trước hết,
chúng tôi muốn nói đến văn bản ở góc độ dụng học, và ngữ nghĩa học. Chúng
tôi cũng xem xét diễn ngôn từ lí thuyết trò chơi, đồng nhất diễn ngôn với “trò
chơi ngôn ngữ”, và chính ở đây chúng ta cần khảo sát các yếu tố như người
phát, người nhận, mã, thông điệp, vật quy chiếu, ngữ cảnh…Cấu trúc mỗi văn
bản có thể thống hợp trong nó nhiều diễn ngôn, mỗi diễn ngôn cũng có thể
gồm nhiều phát ngôn. Các phát ngôn này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau,
được hợp thức hoá, chính thống hoá theo những quy tắc nhất định. Các quy
tắc mã hoá diễn ngôn cùng các điều kiện giải mã diễn ngôn do cộng đồng quy
ước, do chủ thể sáng tạo và chủ thể tiếp nhận thoả thuận với nhau. Cộng
đồng văn hoá – xã hội cụ thể nào đó có thể chấp nhận hoặc không chấp nhận
một phát ngôn thuộc về một kiểu diễn ngôn nhất định, có thể quy định “những
điều không được nói ra” và “những cách để nói” về chúng, có thể quy định
“không chỉ những gì phải được nói ra để được nghe mà cả những gì phải được
nghe để có thể nói”, có thể trao thẩm quyền được nói cho một chủ thể duy
nhất nào đó, lại có thể tạo ra uy quyền cho một số loại phát ngôn nhất định.
Diễn ngôn có thể tạo lập tri thức nhất định về một thời đại, một con người, sự
kiện nào đó. Người phát ngôn và cả người diễn giải nó có thể sử dụng diễn
ngôn để duy trì quyền lực, tái sinh các quyền lực. Thiên đô chiếu (1010) của
Lý Thái Tổ dùng để hợp thức hoá sự kiện rời đô về Đại La. Thiện vị chiếu
(1226) có ý nghĩa hợp thức hóa một cuộc chính biến, một sự chuyển nhượng
quyền lực từ tay một dòng họ này sang tay một dòng họ khác…Công việc
phân tích diễn ngôn văn học sẽ rơi trở lại địa hạt phân tích ngữ pháp văn bản
đơn thuần nếu không xét đến sự đọc, cách đọc của người tiếp nhận mà chỉ
tính đến các hình thức, cấu trúc khép kín của văn bản. Cái khó của nghiên

cứu diễn ngôn ở chỗ phải mô tả được một tổng thể các yếu tố văn hóa – xã
hội chi phối đến việc thiết lập và sự hiểu diễn ngôn. Sự miêu tả cần được tiến
hành song song với việc giải thích diễn ngôn đã được kiến tạo thế nào, vì sao
nó lại tồn tại và hoạt động như thế. Do các phát ngôn trong một diễn ngôn
không chỉ bện kết với nhau theo tư tưởng, quan niệm của người phát mà còn
liên kết theo các chức năng của chúng cho nên nghiên cứu diễn ngôn không
thể chỉ dừng lại ở chức năng giao tiếp của diễn ngôn mà còn cần chú ý đến
khía cạnh tư tưởng và quan hệ quyền thế được thể hiện trong diễn ngôn, hoặc
chi phối đến sự kiến tạo diễn ngôn. Diễn ngôn không chỉ dựng lại diện mạo
thế giới mà còn tạo lập cách nhìn mới thế giới, tạo ra thế giới mới, ở nó chứa
đựng cả vô thức lịch sử lẫn tiềm thức, ý thức của chủ thể sáng tạo ra nó.
(Có tham khảo chuyên luận “Bước đầu nhận diện diễn ngôn, diễn ngôn văn
học, diễn ngôn thơ” của Trần Thiện Khanh 3/2010)
1.2.2. Phân loại diễn ngôn
Có nhiều cách phân loại diễn ngôn. Tham khảo chuyên luận “Bước đầu
nhận diện diễn ngôn, diễn ngôn văn học, diễn ngôn thơ” của Trần Thiện
Khanh 3/2010), chúng tôi thử điểm qua một vài cách phân loại, cùng đặc
điểm của một số loại diễn ngôn.
a/ Dựa vào dạng tồn tại của ngôn ngữ có thể chia diễn ngôn thành hai loại
lớn: diễn ngôn nói và diễn ngôn viết.
b/ Dựa vào các lĩnh vực tri thức có thể chia diễn ngôn ra thành các loại: diễn
ngôn văn học, diễn ngôn khoa học, diễn ngôn tôn giáo, diễn ngôn đạo đức,
diễn ngôn kinh tế, diễn ngôn chính trị, diễn ngôn báo chí, diễn ngôn hành
chính, diễn ngôn hội thoại đời thường, diễn ngôn nghệ thuật, diễn ngôn phi
nghệ thuật, diễn ngôn pháp lí, diễn ngôn quân sự… Diễn ngôn chính trị bao
giờ cũng chịu sự chi phối rất mạnh của quan hệ quyền thế, của tôn ti trật tự; ở
nó, chủ thể - cá nhân không tồn tại, bản sắc cá nhân cũng bị thủ tiêu, chỉ có
các vai xã hội, và các hình thức phát ngôn nhân danh chiếm giữ vai trò chủ
đạo. Diễn ngôn chính trị có mục đích tạo ra hiệu lực xã hội, hiệu lực chỉ đạo
và điều hành, nó chịu sự chi phối của sức mạnh tập thể, cộng đồng, các phát

ngôn của nó đầy ắp tư tưởng hệ, đầy ắp những dấu vết của chiến lược, sách
lược. Diễn ngôn chính trị tạo ra tri thức và áp đặt tri thức qua vai xã hội. Diễn
ngôn khoa học có tính đối thoại còn mạnh hơn cả diễn ngôn chính trị. Ở phát
ngôn khoa học, người nhận và người phát có quyền bình đẳng trước tri thức.
Ở phát ngôn chính trị, người nhận ít có cơ hội bình đẳng, tri thức được truyền
đi
(50)
hơn là được kiểm chứng. Diễn ngôn khoa học coi trọng trò chơi biện giải
lôgíc để hợp thức hoá tri thức, chưa bao giờ nó thoát khỏi sự thử thách của sự
thật, diễn ngôn chính trị hợp thức hoá tri thức hoặc giành quyền quyết đáp
mọi sự thể qua trò chơi nhân danh. Giá trị của phát ngôn khoa học do quan hệ
quy chiếu của nó tạo ra, hiệu lực của phát ngôn chính trị do vai phát ngôn
quyết định. Diễn ngôn pháp luật kiến tạo quyền lực và hiệu lực xã hội qua trò
chơi quy phạm hoá các quy tắc xử sự chung; những quy tắc này thường xuất
hiện dưới dạng những xác ngôn; ở đây cách nói mập mờ, nước đôi hoàn toàn
vắng mặt, hoặc nếu có thì phải điều chỉnh lại…
c/ Dựa vào nội dung phát ngôn có thể chia diễn ngôn thành các loại: diễn
ngôn kì ảo, diễn ngôn về tính dục, diễn ngôn về con người, diễn ngôn về bệnh
điên, diễn ngôn phù thuật, diễn ngôn hiện thực, diễn ngôn hậu thực dân…
Diễn ngôn phù thuật kiến tạo một cách nhìn đầy bí ẩn về vũ trụ và con người;
quyền lực mạnh mẽ và hiệu quả tâm linh của loại diễn ngôn này được nói đến
qua các lá bùa của thầy pháp, thầy phù thuỷ; diễn ngôn phù thuật có chức
năng tạo niềm tin, củng cố niềm tin, nó được sử dụng và kiến tạo như một mã
tâm linh, một kí hiệu văn hoá; các tài cấm kị, cầu ước, bệnh tật, trấn yểm… đã
và đang trở thành “mồi” cho nó. Diễn ngôn về bệnh điên có sức mạnh gạt ra
khỏi đời sống một loại người nào đó, chủ thể của nó trước tiên giành được
quyền nói về bệnh điên, sau nữa và trên cơ sở đó giành được quyền phân loại
con người, quyền định nghĩa về những kẻ không bình thường, họ có thẩm
quyền soi một thứ ánh sáng lên chứng bệnh mà họ cần diễn giải, cũng chính
họ chông trừng những người điên, và đặt ra những cách đối xử đặc biệt nào

đó đối với chứng điên. Diễn ngôn về tính dục kiến tạo một cách lí giải con
người nhằm giành quyền không chế chính con người so với các khoa học
khác; diễn ngôn tính dục có thể truyền dẫn các quan hệ quyền lực nào đó đang
ngự trị trong xã hội, song không phải vì thế mà nó đã thoát khỏi sức mạnh chi
phối của bản năng, diễn ngôn tính dục bao giờ cũng tiềm tại một sức mạnh
chống cự lại cái chết, nó được đồng nhất với sự sống. Diễn ngôn hiện thực và
diễn ngôn tượng trưng khác nhau ở chỗ: một bên dựa vào ưu thế của hoán dụ,
còn một bên dành quyền ưu tiên cho ẩn dụ; diễn ngôn hiện thực tạo ra ảo ảnh
dối lừa rằng nó đang nói về thế giới ở bên ngoài văn bản, nhưng thực ra nó có
các quy tắc, quy ước riêng của mình; diễn ngôn tượng trưng luôn chứng tỏ
rằng nó chỉ nói về bản thân mình, nó có khả năng tạo ra một hình ảnh mới,
một cách nói về hiện thực.
d/ Dựa vào thể loại, có thể chia diễn ngôn báo chí thành diễn ngôn tin tức,
diễn ngôn quảng cáo, diễn ngôn phóng sự điều tra, diễn ngôn tường thuật; có
thể phân loại diễn ngôn văn học thành diễn ngôn tự sự, diễn ngôn thơ, diễn
ngôn phê bình hoặc diễn ngôn hội thoại đời thành diễn ngôn phỏng vấn, xin
lỗi, giới thiệu, chào hỏi… Diễn ngôn xin lỗi chịu sự chi phối của quyền lực
thể diện, tập quán, và quan hệ quyền lực giữa người nói và người nghe, ở đây
cả mức độ tương thân giữa họ cũng có ảnh hưởng quan trọng đến chiến lược
và cấu trúc của lời xin lỗi. Diễn ngôn quảng cáo có tham vọng giành lấy một
lượng người tiêu dùng nào đó, nó định hướng sự tiêu dùng bằng cách ngụy
tạo thông tin và phân phối thông tin; sự kiến tạo và hoạt động thực tiễn của
diễn ngôn quảng cáo chịu sự chi phối của quyền lực của cải, của các phương
tiện truyền thông; diễn ngôn quảng cáo giao dịch cả chính nó và sản phẩm mà
nó tạo ra.
e/ Dựa vào cấp độ của diễn ngôn có thể chia diễn ngôn thành: diễn ngôn và
siêu diễn ngôn. Khổng Tử sáng lập ra siêu diễn ngôn Nho giáo, Thích ca Mâu
ni (Siddharta Gautama) sáng lập ra siêu diễn ngôn Phật giáo, Freud sáng lập
siêu diễn ngôn phân tâm học, Ann Radcliffe sáng tạo ra diễn ngôn tiểu thuyết
kinh dị

(52)
, Bakhtin tạo ra diễn ngôn đa thanh phức điệu. Chủ thể của các siêu
ngôn không chỉ khai phá ra một loại diễn ngôn mới, một ngôn ngữ mới mà
còn mở ra một con đường mới, mở ra các bước đi tạo ra các diễn ngôn khác.
Các siêu diễn ngôn luôn tạo ra sau nó vô số các diễn ngôn đồng dạng, đồng
chất với nó.
f/ Dựa vào chủ thể diễn ngôn có thể chia diễn ngôn thành: diễn ngôn của cá
nhân và diễn ngôn của tập thể, diễn ngôn có nhu cầu có tên “tác giả” và diễn
ngôn không có nhu cầu có “tác giả”, diễn ngôn văn học nữ giới… Diễn ngôn
bài giảng của giáo viên có quyền thế hơn hẳn diễn ngôn của học sinh; sự
không cần bằng này được đánh dấu bằng những cơ hội không cân bằng giữa
giáo viên và học sinh trong việc chỉ ra đề tài, sự luân phiên lượt lời; thí dụ
giáo viên đặt ra một câu hỏi mà mình biết sẵn câu trả lời, một hoặc vài học
sinh được yêu cầu phải trả lời câu hỏi đó, sau đó giáo viên sẽ đánh giá câu trả
lời của học sinh, như vậy sự hợp thức hóa ở đây phần lớn do giáo viên quyết
định. Diễn ngôn của bác sĩ đối với diễn ngôn của bệnh nhân cũng tồn tại sự
bất bình đằng đó, ví dụ ở Mỹ, có thời kì bác sĩ độc quyền về y dược liệu, và
cũng chỉ có họ mới được tiếp xúc với y học, cho nên diễn ngôn của bác sĩ có
sức mạnh ngang với những “câu thần chú của các vị thần”, dĩ nhiên đặt trong
hệ thống ngôn ngữ ấy, các bệnh nhân sẽ trở thành những kẻ ngốc chẳng biết
gì. So với diễn ngôn cá nhân, diễn ngôn tập thể có tính phi sở hữu, phi cá
nhân, có thể tìm thấy kiểu loại diễn ngôn này ở các văn bản thời trung đại, ở
lời của dàn đồng ca trong kịch cổ đại.
g/ Dựa vào cấu trúc có thể xác định diễn ngôn độc lập và diễn ngôn phụ
thuộc; diễn ngôn nguồn, diễn ngôn phụ trợ và diễn ngôn bao chứa; diễn ngôn
của người kể chuyện và diễn ngôn của nhân vật; diễn ngôn liên tục và diễn
ngôn gián đoạn… Diễn ngôn văn học độc lập so với diễn ngôn khoa học; diễn
ngôn về tính dục, diễn ngôn về đạo đức có thể nằm trong loại diễn ngôn văn
học. Diễn ngôn phê bình bao chứa diễn ngôn chú thích, diễn ngôn trích dẫn.
Diễn ngôn bình luận bóng đá phần lớn không có tính liên tục, nhưng diễn

ngôn văn học lại tạo ra một mạch liên kết rõ rệt. Văn bản Chí Phèo có diễn
ngôn của người kể ở ngôi thứ ba, diễn ngôn của nhân vật Chí Phèo, diễn ngôn
của Bá Kiến, diễn ngôn của bà cô Thị Nở… Diễn ngôn của các vai có giá trị
và hiệu lực khác hẳn so với diễn ngôn của người kể.
h/ Dựa vào chức năng của ngôn ngữ (D. Nunan) có thể chia diễn ngôn thành
hai loại: diễn ngôn giao dịch và diễn ngôn liên nhân. Diễn ngôn giao dịch
được tạo lập khi người phát và người nhận quan tâm đến đến sự trao đổi
thông tin và dịch vụ, ví dụ diễn ngôn chỉ đường của cảnh sát, diễn ngôn
hướng dẫn sử dụng thuốc của bác sĩ Diễn ngôn liên nhân được hình thành
khi những người nói quan tâm đến việc sử dụng ngôn ngữ để thiết lập hoặc
duy trì các quan hệ xã hội, ví dụ thư cảm ơn, thư tình.
Diễn ngôn có tính đa chức năng. Ngoài chức năng giao dịch, liên nhân,
diễn ngôn còn có chức năng thẩm mĩ. Dựa vào chức năng của văn bản lại có
thể chia diễn ngôn thành nhiều loại, mỗi loại diễn ngôn ứng với một kiểu giao
tiếp, một kiểu chức năng, ví dụ diễn ngôn chính chị, diễn ngôn quảng cáo và
diễn ngôn của thẩm phán trong phòng xử án có chức năng khác so với diễn
ngôn hội thoại đời thường.
1.2.3. Phân tích diễn ngôn
Tuy về mặt lí thuyết phân tích diễn ngôn (PTDN) còn những vấn đề
chưa có được tiếng nói chung, nhưng về mặt thực hành thì PTDN được ứng
dụng khá rộng rãi trong đời sống xã hội, kể cả trong lĩnh vực ngôn ngữ văn
chương và ngôn ngữ mang tính nghệ thuật.
Trước hết, PTDN không phải là phân tích bất kì diễn ngôn nào, người
ta chỉ phân tích những diễn ngôn có những hiện tượng cần xem xét, với
những mục đích nhất định. Để phân tích một văn bản (viết) thông thường
người ta đọc toàn văn bản để nắm ý tổng thể của nó. Tiếp theo là công đoạn
đọc từ câu này đến câu khác, rồi đọc từ từ này đến từ khác. Chính công đoạn
này giúp nhận ra những điều cần quan tâm. Việc đọc từ câu này đến câu khác
giúp nhận biết những khối ý lớn nhỏ và cách sắp xếp chúng trong văn bản.
Việc đọc từ từ này sang từ khác giúp nhận ra kiểu nghĩa được dùng của chúng

và vị trí của chúng trong từng ngữ cảnh cụ thể (trong quan hệ với các từ khác
trong văn bản). Cần chú ý rằng việc người tạo văn bản chọn từ này, tổ hợp từ
này, tổ hợp câu này v.v…mà không chọn cái khác tương ứng với chúng, cũng
như dùng cách sắp xếp này mà không dùng cách khác tương ứng, đối với
PTDN là điều có ý nghĩa (không phải tùy tiện).
Sau đây là một số ví dụ gợi ý về cách vận dụng PTDN để tìm hiểu cái
hay, cái tài của người sử dụng ngôn ngữ. Trong một số hiện tượng ngôn ngữ
cụ thể. Sự phân tích chúng là việc làm để ngỏ cho nhiều người và cho những
giai đoạn lịch sử khác nhau. Các gợi ý dưới đây chỉ là những “ví dụ” trong
đúng nghĩa của từ này, và chỉ là ý của một người gợi ra, đồng thời là cố gắng
của người đó trong một thời điểm cụ thể với ngữ cảnh vật lý và xã hội - văn
hóa cụ thể (vào thời điểm khác, cách hiểu dù cùng của một người cũng có thể
biến đổi, ít ra là nhận thức đối tượng phân tích được sâu sắc).
Việc phân tích tác phẩm nghệ thuật bằng ngôn ngữ có thể dừng lại ở
những vấn đề chung như tư tưởng nghệ thuật của tác phẩm, ý tưởng của tác
giả thể hiện qua tác phẩm, cụ thể là qua việc chọn chủ đề, đề tài, triển khai đề
tài nhằm phục vụ cho việc thể hiện chủ đề theo ý thức hệ thích hợp với một
giai đoạn lịch sử, v.v… Một tác phẩm nghệ thuật bằng ngôn ngữ còn quan
trọng ở tính nghệ thuật của việc sử dụng ngôn ngữ, không có yếu tố này thì
tác phẩm nghệ thuật không còn là nó nữa, và trái lại, có được yếu tố này một
cách thích hợp thì một bài bình luận chính trị - xã hội cũng có được giá trị
nghệ thuật đáng được ghi nhận. Các yếu tố nghệ thuật thể hiện trực tiếp trước
hết là trong việc sử dụng ngôn ngữ, từ sắc độ của âm thanh ngôn ngữ, đến từ
ngữ, đến việc dùng các kiểu câu, các cấu tạo ngôn ngữ lớn hơn câu; trong
ngôn ngữ viết còn cần chú ý đến việc dùng dấu câu, việc thiết kế cách trình
bày các kiểu chữ v.v… Người viết giàu kinh nghiệm thường vận dụng tất cả
các phuơng tiện ngôn ngữ bằng âm thanh và chữ viết (nếu là bài viết) cho
mục đích diễn đạt ý định nghệ thuật của mình. Cho nên việc nhận biết các
phương tiện nghệ thuật của một bài viết đòi hỏi phải phân tích tỉ mỉ để tìm
gặp ý tưởng của tác giả (hiện tượng tác giả sáng tạo một cách trực giác không

phải là phổ biến, nó chỉ có thể là những phút giây “thăng hoa”, là cái “vô
thức” trên cái nền của một bề dày kinh nghiệm, một vốn hữu thức đáng kính
nể). Cái hữu thức (và cả cái trực giác hay “tình cờ”) thấm đượm tính nghệ
thuật cần được lý giải (hiểu thấu và giảng giải) để khỏi phí hoài.
Việc phân tích các hiện tượng có khả năng diễn đạt một ý nghĩa nào đó
thuộc về kinh nghiệm sống và kinh nghiệm phân tích sự việc, hiện tượng, theo
chủ quan của người phân tích, cho nên việc phân tích có chỗ gặp nhau, có chỗ
không gặp nhau ở những người khác nhau, cũng là lẽ thường. Chẳng hạn
Truyện Kiều của Nguyễn Du được nhiều người cho là kiệt tác, nhưng qua mỗi
thời đại nó được đánh giá một khác và cũng không tránh khỏi một vài người
chê trách coi như là thuộc vào loại sách có hại. Nếu PTDN chủ yếu đặt mọi
hiện tượng ngôn từ trong vào ngữ cảnh tình huống để phân tích, thì phân tích
diễn ngôn phê bình không chỉ dừng lại ở ngữ cảnh tình huống mà còn quan
tâm đến cả thực tế hoạt động xã hội, các lớp người khác nhau trong xã hội, và
đòi hỏi ở người phân tích một ý thức xác định và một thiện chí. Thực ra, trong
phê bình văn học từ lâu đã có những hiện tượng tương tự, nhưng chúng chưa
được nêu lên như những yêu cầu chung đối với mọi người cảm nhận văn chương.
Căn cứ vào việc lý giải các hiện tượng ngôn ngữ đòi hỏi sự cố gắng chỉ
ra cái “như thế nào?” đằng sau các từ ngữ quen thuộc như “đặc sắc”, “độc
đáo”, “sáng tạo”, cụ thể là: đặc sắc như thế nào? Độc đáo như thế nào? Sáng
tạo như thế nào? V.v… Muốn hiểu cái “như thế nào?” thì phải suy luận từ các
từ ngữ, các dấu hiệu có mặt trong diễn ngôn (văn bản) cùng với ngữ cảnh, với
tất cả những gì trong hoạt động thực tế của đời sống xã hội hữu quan, cũng
như từ ý tưởng, thái độ của người sáng tác suy luận được qua sản phẩm ngôn
ngữ của họ. Cho nên các từ ngữ, các dấu hiệu về ngữ cảnh về các hoạt động
thực tế, về ý tưởng, thái độ đó gọi là những cái “suy diễn được”, phân biệt với
“trực giác”. Cái duy diễn được là những trường hợp cụ thể trong tác phẩm
nghệ thuật, hay trong diễn ngôn nói rộng, và cả những cái bên ngoài văn bản
có liên quan đến nó. Việc suy diễn là thuộc về chủ quan, nó là việc để mở cho
những người khác nhau và những thời điểm khác nhau trong quá trình nhận

thức của một người. Điều quan trọng là phải bám vào từ ngữ, bám vào ngữ
cảnh, bám vào hoạt động thực tế của xã hội, và dựa trên một ý thức xác định
và một thiện chí.
Dưới đây là một ví dụ cụ thể: (trích dẫn từ Giao tiếp diễn ngôn và cấu
tạo của văn bản của Diệp Quang Ban – trang 177)
Từ ngữ suy diễn được là hiện tượng rất phổ biến trong văn chương, tuy
nhiên việc khai thác chúng chưa được chú ý nhiều, người ta thường nhắc lại
một vài trường hợp đã được khai thác như từ lẻn trong một câu thơ Kiều (Rẽ
song đã thây Sở Khanh lẻn vào), mà ít dụng công khai thác hiện tượng này ở
nhiều nơi khác. Dưới đây là một vài gợi ý về cách phân tích khả năng suy
diễn trong việc dùng từ ngữ.
Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy,
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu.
Ngàn dâu xanh ngắt một màu,
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai.
(Đoàn Thị Điểm)
Đây là lời nói hay ít ra cũng là tiếng lòng của người phụ nữ trông với
theo người chinh phu, trong đó có những từ ngữ có thể suy diễn được để hiểu
rõ hơn tiếng lòng đó.
Từ ngàn dâu ở câu thứ hai còn mang sắc xanh xanh trung hòa vì người
chinh phụ đang tập trung vào việc tìm bóng dáng người thương chưa chú ý
đến sắc xanh của những cây dâu trước mắt. Thế nhưng sau câu thứ 3 tất cả
các ngàn dâu đã được gán cho một sắc độ mới xanh ngắt một mầu, sắc độ của
sự bất bình, khi cái cần tìm là người thương thì tìm mãi chẳng thấy, cái không
cần tìm là ngàn dâu thì lại thấy bạt ngàn
Để nhận biết giá trị của tiếng được chọn dùng, có thể so sánh với những
tiếng khác có khả năng cạnh tranh với nó. Tại vị trí của xanh ngắt có thể là
xanh thẫm, xanh thắm, xanh biếc, tất cả đều chấp nhận được về mặt thanh
điệu trong câu này, thế nhưng tác giả chỉ chọn xanh ngắt! Trước hết có một
sự thực khách quan là tiếng Việt vốn có những từ mang tiếng ngắt dùng chỉ

những sự việc, hiện tượng gây khó chịu, không chấp nhận được, như tím ngắt
(màu sắc), đắng ngắt (vị), chán ngắt (tâm lí) …; trong phạm vi màu sắc cũng
có những tiếng kèm có nghĩa tiêu cực giống ngắt như đỏ lòm, trắng hếu, vàng
ệch, xanh lè … Mặt khác, bản thân tiếng ngắt ở đây với vần -ắt tạo lên sự liên
tưởng với thắt như trong đau thắt lòng; với vần đóng (có –t ở cuối), nó gợi
lên ấn tượng về “sự bế tắc”. Cả hai hiện tượng vừa nêu là cơ sở để có thể nhận
ra cái xung động tình cảm: “bực mình, đau xót, tuyệt vọng” ở người chinh
phụ. Như vậy, tiếng ngắt ở đây cũng là một căn cứ của sự suy diễn, là một
hiện tượng suy diễn được, giúp nhận biết tâm trạng cụ thể của một con người.
Diễn ngôn thơ còn có nhiều cách tạo nghĩa. Nó tạo nghĩa qua các yếu tố
ngôn ngữ. Ví dụ qua nhịp: “Người ra đi đầu không ngoảnh lại/ Sau lưng thềm
nắng lá rơi đầy”(Đất nước). Câu thơ thứ hai có hai cách ngắt nhịp (2/2/3 hoặc
3/4) mỗi cách ngắt nhịp tạo ra một kiểu nghĩa, tạo ra một sự thể, các nét nghĩa
này có thể trượt ra ngoài ý định chủ quan của tác giả. Nhịp góp phần tạo ra
tiết tấu thẩm mĩ, tiết tấu của cuộc sống, nhịp trở thành cái biểu đạt quan
niệm, cách nhìn. Các yếu tố âm vị, âm thanh, nhịp điệu… ngoài chức tạo
nghĩa, còn tạo hình. Xuân Diệu có câu: “Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang/
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng” (Đây mùa thu tới). Sự tạo nghĩa ở hai
câu này còn do vần, vần “iu” góp phần tạo ra âm hưởng lặng lẽ, buồn thương,
mỏng manh; các chữ buồn, buông, xuống nối nhau tạo hình những lá liễu
đang rủ, đồng thời cũng gợi hình một chủ thể đa mang tâm trạng thu.
1.2.4. Lí thuyết cấu trúc diễn ngôn
Lí thuyết cấu trúc diễn ngôn (Rhetorical Structure Theory) là một
phương pháp dùng để biểu diễn sự mạch lạc, chặt chẽ của văn bản. Trung
tâm của lí thuyết CTDN là các quan hệ diễn ngôn (QHDN) giữa các đoạn
văn bản không gối lên nhau. Đoạn văn bản quan trọng hơn trong một QHDN
được gọi là nhân (nuclei - N), còn thành phần ít quan trọng hơn được gọi là vệ
tinh (satellite – S). Nếu các đoạn văn bản đó có tầm quan trọng ngang nhau
(như quan hệ tương phản hay quan hệ liệt kê) thì các đoạn văn bản đó đều
đóng vai trò nhân trong mối QHDN giữa các thành phần đó.

Điểm khác biệt cơ bản giữa các N và S là: N chứa nhiều thông tin
quan trọng hơn là S; và trong một quan hệ diễn ngôn, N có tính độc lập cao
hơn S.
Ví dụ 1:
Dưới đây là định nghĩa quan hệ chứng minh:

×