Tải bản đầy đủ (.pdf) (124 trang)

Quan hệ thương mại giữa vùng Hoa Nam ( Trung Quốc ) và Bắc Kỳ ( Việt Nam ) từ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.56 MB, 124 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN






TRẦN NAM TRUNG





QUAN HỆ THƯƠNG MẠI GIỮA VÙNG HOA NAM
(TRUNG QUỐC) VÀ BẮC KỲ (VIỆT NAM)
TỪ CUỐI THẾ KỶ XIX ĐẾN ĐẦU THẾ KỶ XX





LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ












HÀ NỘI – 2009




ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN





TRẦN NAM TRUNG




QUAN HỆ THƯƠNG MẠI GIỮA VÙNG HOA NAM
(TRUNG QUỐC) VÀ BẮC KỲ (VIỆT NAM)
TỪ CUỐI THẾ KỶ XIX ĐẾN ĐẦU THẾ KỶ XX


CHUYÊN NGÀNH : LỊCH SỬ THẾ GIỚI
MÃ SỐ : 60 22 50

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ






NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS NGUYỄN VĂN KIM









HÀ NỘI – 2009




MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
CHƢƠNG 1. CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN QUAN HỆ THƢƠNG
MẠI GIỮA TỈNH VÂN NAM, QUẢNG TÂY (TRUNG QUỐC) VÀ BẮC
KỲ (VIỆT NAM) 10
1.1. Điều kiện tự nhiên và tiềm năng kinh tế 10
1.1.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên 10
1.1.2. Tài nguyên khoáng sản 11
1.1.3. Điều kiện giao thông 12
1.2. Quan hệ thƣơng mại giữa Trung Quốc và Việt Nam trong lịch

sử 15
1.2.1. Quan hệ buôn bán giữa Trung Quốc và Việt Nam thời kỳ cổ -
trung đại ………………………………….… 15
1.2.2. Quan hệ buôn bán giữa các tỉnh Vân Nam, Quảng Tây với Bắc
Kỳ từ đầu thế kỷ XIX đến năm 1885 27
CHƢƠNG 2. QUAN HỆ THƢƠNG MẠI GIỮA VÂN NAM, QUẢNG
TÂY VÀ BẮC KỲ TỪ CUỐI THẾ KỶ XIX ĐẾN ĐÂU THẾ KỶ XX 34
2.1. Cơ sở mới của quan hệ thƣơng mại giữa Việt Nam và Trung
Quốc 34
2.1.1. Sự thâm nhập của Pháp vào Vân Nam, Quảng Tây và Việt
Nam 34
2.1.2. Chế độ bảo hộ của Pháp ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ, Chiến tranh
Pháp-Trung (1884-1885) và những điều kiện mới của việc giao
thương Bắc Kỳ - Trung Quốc 41
2.1.3. Những cơ sở pháp lý của trao đổi thương mại Trung-Việt 54
2.1.3.1. Cơ sở pháp lý của trao đổi thương mại giữa Bắc Kỳ và
các tỉnh biên giới Trung Quốc …………………………………. 55
2.1.3.2. Từng bước hoàn thiện cơ sở vật chất phục vụ giao
thương ………………………………………………… …… 59
2.2. Trao đổi thƣơng mại giữa Vân Nam, Quảng Tây và Bắc Kỳ.67
2.2.1. Hoạt động thương mại Việt-Trung qua cửa khẩu Lào Cai…. 68
2.2.2. Trao đổi thương mại Việt-Trung qua đường Lạng Sơn …… 78
2.2.3. Trao đổi thương mại Việt-Trung qua đường Móng Cái …… 80
CHƢƠNG 3. TÁC ĐỘNG CỦA HOẠT ĐỘNG THƢƠNG MẠI ĐẾN SỰ
BIẾN ĐỔI KINH TẾ - XÃ HỘI BẮC KỲ ………………………….… 86
3.1. Tác động của hoạt động thƣơng mại đến sự hình thành thị
trƣờng thống nhất …………………………………….………… 87
3.1.1. Hệ thống chợ ở Bắc Kỳ …………………………………… 87
3.1.2. Sự giao lưu, trao đổi giữa các khu vực ở Bắc Kỳ ….…… 93
3.2. Sự hình thành hệ thống đô thị kiểu mới ở Bắc Kỳ ………… 97

3.2.1. Các đô thị cận đại ………………………………………… 97
3.2.2. Đời sống kinh tế-xã hội ……………………………………. 99
KẾT LUẬN ……………………………………………………………… 103
PHỤ LỤC ……………………………………………………………… 107
TÀI LIỆU THAM KHẢO . ……………………………………………. 111






1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Vùng Hoa Nam là một khái niệm xuất hiện từ thời Cách mạng Tân Hợi
(1911) nhằm chỉ các tỉnh phía Nam Trung Quốc. Theo đó, vùng này gồm 6
tỉnh: Phúc Kiến, Đài Loan, Quảng Đông, Quảng Tây, Quý Châu, Vân Nam và
các vùng đất: Hương Cảng, Áo Môn và Hải Nam (Trung Quốc) [111]. Vùng
Hoa Nam là khu vực có quan hệ lâu đời với Việt Nam. Vì vậy, việc nghiên
cứu một cách hệ thống, toàn diện mối quan hệ thương mại giữa khu vực này
với khu vực Bắc Bộ (Việt Nam) là một vấn đề cấp thiết. Đặc biệt là trong bối
cảnh hiện nay, khi Chính phủ hai nước đều có chiến lược phát triển vùng Nam
và Tây Nam (Trung Quốc) và Bắc-Tây Bắc (Việt Nam) thì việc tìm hiểu mối
quan hệ trong lịch sử nhằm thấy rõ thế mạnh của mỗi bên là một chủ đề
nghiên cứu không chỉ có ý nghĩa khoa học mà còn có giá trị thực tiễn.
Về tự nhiên, với tư cách là khu vực địa-kinh tế, Hoa Nam là một vùng
rộng lớn nên Luận văn chỉ tập trung vào tìm hiểu mối quan hệ thương mại
giữa vùng Hoa Nam (chủ yếu trên địa bàn tỉnh Vân Nam và Quảng Tây,
Trung Quốc – có liên hệ với các tỉnh khác) với Bắc Kỳ (Việt Nam) từ cuối thế
kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX. Hai tỉnh Vân Nam, Quảng Tây là địa bàn tiếp

giáp với Bắc Kỳ, Việt Nam trên bộ với triều dài đường biên giới trên đất liền
lên đến 1463,4km. Đây được coi là khu vực giàu tiềm năng phát triển kinh tế,
với hệ thống các cửa khẩu, đường bộ, đường sắt, nguồn tài nguyên thiên
nhiên phong phú, đa dạng, là cơ sở quan trọng để phát triển quan hệ thương
mại với Bắc Kỳ (Việt Nam) thời cận đại.
Cùng với việc áp đặt ách đô hộ lên Việt Nam nói chung và Bắc Kỳ nói
riêng, thực dân Pháp cũng tích cực gia tăng ảnh hưởng lên vùng đất phía Nam
Trung Quốc, đặc biệt là hai tỉnh Vân Nam, Quảng Tây. Với việc ký kết Hiệp
ước Thiên Tân (9-6-1885) và các Hiệp ước về thương mại và biên giới từ năm

2
1886 đến năm 1895, thực dân Pháp đã từng bước gây ảnh hưởng và thâu tóm
các nguồn tài nguyên trên địa bàn hai tỉnh này. Các chính sách của Pháp đối
với vùng đất này vô hình chung đã kích thích quan hệ thương mại giữa Bắc
Kỳ với Vân Nam, Quảng Tây không ngừng phát triển. Quan hệ thương mại
giữa hai vùng thường được diễn ra theo các tuyến thương mại: Vân Nam-Lào
Cai-Hà Nội-Hải Phòng và tuyến Quảng Tây-Lạng Sơn-Hà Nội-Hải Phòng.
Hàng hóa thường được trao đổi qua các cửa khẩu chính như Lào Cai-Hà Khẩu
trên địa bàn giáp ranh giữa Lào Cai và Vân Nam cũng như trấn Nam Quan
trên địa bàn giáp ranh giữa Lạng Sơn và Quảng Tây.
Trong thời kỳ này, hàng hóa của Bắc Kỳ được xuất sang địa bàn hai
tỉnh Vân Nam, Quảng Tây chủ yếu là các sản phẩm công nghiệp của Bắc Kỳ,
cũng như lúa gạo, muối… Còn chiều ngược lại, hàng hóa của Trung Quốc
được đưa sang Bắc Kỳ chủ yếu là khoáng sản, các sản phẩm gốm, gỗ, …
Quan hệ thương mại phát triển đã dẫn tới sự biến đổi của tình hình kinh
tế-xã hội các tỉnh Bắc Kỳ với sự phát triển của hệ thống chợ; sự trao đổi, giao
lưu hàng hóa giữa nông thôn và đô thị, giữa vùng núi và đồng bằng diễn ra
ngày càng sôi động. Đặc biệt là, sự phát triển của quan hệ thương mại giữa
hai vùng đã dẫn đến sự hình thành một hệ thống các đô thị kiểu mới trên địa
bàn Bắc Kỳ với những đặc tính xã hội, văn hóa mang dáng dấp của một đô thị

hiện đại.
Có thể nói, nghiên cứu đề tài trên, chúng tôi muốn làm rõ mối quan hệ
truyền thống giữa Việt Nam và Trung Quốc, đặc biệt là vùng Hoa Nam với
các tỉnh miền Bắc Việt Nam trong lịch sử; thấy được tiềm năng và vị thế kinh
tế của hai nước, đặc biệt là hai khu vực; hiểu rõ chính sách của thực dân Pháp
đặc biệt là với vùng Hoa Nam; hơn nữa cũng nhận biết những hệ quả kinh tế -
xã hội của chính sách này đối với vùng Bắc Kỳ (Việt Nam).

3
Bởi những lý do trên, tôi chọn đề tài: “Quan hệ thương mại giữa vùng
Hoa Nam (Trung Quốc) và Bắc Kỳ (Việt Nam) từ cuối thế kỷ XIX đến đầu
thế kỷ XX” làm đề tài luận văn thạc sĩ.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Những công trình viết về thương mại Việt - Trung qua các giai đoạn
lịch sử đã ít nhiều đề cập đến quan hệ thương mại giữa Vân Nam, Quảng Tây
và Bắc Kỳ giai đoạn từ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX.
Ngay từ năm 1959, Nhà xuất bản Văn Sử Địa đã cho xuất bản cuốn
Những thủ đoạn bóc lột của tư bản Pháp ở Việt Nam của tác giả Nguyễn
Khắc Đạm. Trong đó tác giả có đề cập một cách khái lược những chính sách
cũng như hoạt động thương mại giữa Bắc Kỳ với vùng Vân Nam, Quảng Tây.
Tiếp đó, trong tác phẩm Một số vấn đề về lịch sử kinh tế Việt Nam. Nxb.
Chính trị Quốc gia, H. 1998, tác giả Lê Quốc Sử đã đề cập đến quan hệ
thương mại giữa các cửa khẩu Lào Cai và Lạng Sơn Việt Nam với hai tỉnh
Vân Nam, Quảng Tây (Trung Quốc) trong cuộc khai thác thuộc địa lần thứ
nhất của Pháp. Tác giả Nguyễn Thế Anh trong cuốn Việt Nam thời Pháp đô
hộ, Nhà xuất bản Văn học, H, 2008 cũng đã đề cập đến chính sách phát triển
thương mại ở thuộc địa Đông Dương, trong đó có viết về vấn đề mở rộng hệ
thống giao thông, đặc biệt là tuyến đường sắt Việt – Điền và ảnh hưởng của
nó đối với quan hệ thương mại giữa Vân Nam và Bắc Kỳ. Tác giả Phùng Hữu
Phú trong cuốn Lịch sử đường sắt Việt Nam cũng đề cập đến quan hệ thương

mại giữa Vân Nam – Bắc Kỳ từ sau khi hoàn thành tuyến đường sắt Việt –
Điền; Trong cuốn Lịch sử Việt Nam 1858 – 1898 Nxb Khoa học Xã hội, H.
2003, tác giả Vũ Huy Phúc cũng nhắc đến quan hệ thương mại giữa vùng Hoa
Nam và Bắc Kỳ trong những năm đầu của chính quyền thực dân cai trị Bắc
Kỳ, nhấn mạnh đến chương trình khai thác thuộc địa lần thứ nhất của P.Đume
trong việc ưu tiên phát triển thương mại với việc thiết lập hệ thống giao

4
thông, đặc biệt là giao thông đường sắt để có thể kết nối các địa phương với
nhau và tạo tiền đề thâm nhập sâu vào vùng Nam Trung Quốc của Pháp. Đặc
biệt, năm 2001 tác giả Nguyễn Minh Hằng chủ biên cuốn Buôn bán biên giới
Việt Nam – Trung Quốc (lịch sử - hiện trạng – tương lai), Nxb Khoa học Xã
hội, Hà Nội đã đề cập tương đối sâu sắc lịch sử quan hệ buôn bán Việt –
Trung trong các giai đoạn lịch sử và cũng dành một phần quan trọng nói về
quan hệ thương mại giữa Bắc Kỳ và hai tỉnh Vân Nam, Quảng Tây thời cận
đại.
Đặc biệt năm 1999 Ủy ban Nhân dân tỉnh Lạng Sơn dành một phần
quan trọng nói về sự phát triển của hệ thống giao thông đường bộ và đặc biệt
là sự hình thành hệ thống đường sắt đã kích thích quan hệ buôn bán, giao lưu
hàng hóa giữa Quảng Tây với Lạng Sơn và đồng bằng Bắc Kỳ. Bên cạnh đó,
Địa chí Quảng Ninh, tập 2, năm 2002 của Tỉnh uỷ - UBND tỉnh Quảng Ninh
cũng đã dành một phần để giới thiệu quan hệ thương mại giữa Việt Nam và
Trung Quốc qua cửa khẩu Móng Cái (Quảng Ninh) thời kỳ cận đại.
Ngoài các tác phẩm được đề cập trên đây, còn có các công trình nghiên
cứu của các học giả khác nằm tản mạn trong các bài viết trên các tạp chí
nghiên cứu chuyên ngành cũng như các bài tham luận hội thảo khoa học tại
các địa phương. Trong đó, đáng chú ý nhất cần phải kể đến các công trình
khảo cứu của Trần Hữu Sơn. Tác giả đã đề cập đến quan hệ thương mại giữa
Bắc Kỳ và Vân Nam thông qua hệ thống giao thông trên sông Hồng và hệ
thống giao thông đường sắt Việt – Điền trong thời kỳ cận đại; Tác giả Lê

Trung Dũng trong bài viết Vài nét về vận chuyển hàng hóa quá cảnh giữa
Hồng Kông và Vân Nam qua đường sông Hồng từ 1889 đến 1899 (qua báo
cáo của Sở Thuế quan và độc quyền Đông Dương), Tạp chí Nghiên cứu Lịch
sử, số 7 năm 2009 đã đề cập đến khối lượng và giá trị của hàng hóa quá cảnh
qua Bắc Kỳ giữa Vân Nam và Hồng Kông trong 10 năm cuối thế kỷ XIX…

5
Trong số các công trình nghiên cứu của người nước ngoài, chủ yếu là
người Pháp trước đây, có nhiều công trình đề cập đến vấn đề quan hệ thương
mại giữa Bắc Kỳ với vùng Vân Nam, Quảng Tây. Trong bài tham luận về
Chợ phiên ở Bắc Kỳ (Les mar chés périodiques au Tonkin) do E. Chassigneux
trình bày ngày 1 tháng 3 năm 1928 tại Hội địa lý Pháp, tác giả đã nêu lên
những biến đổi sâu sắc trong quan hệ thương mại với vùng phía Nam Trung
Quốc, đặc biệt là sau khi hệ thống giao thông được tu sửa và xây dựng hệ
thống đường sắt ở Bắc Kỳ. Tác giả Jean Chesneaux cũng đã dành một phần
quan trọng nói về quan hệ thương mại giữa Bắc Kỳ và tỉnh Vân Nam, Quảng
Tây trong thời kỳ thuộc Pháp trong cuốn Góp phần tìm hiểu lịch sử dân tộc
Việt Nam (Contribution à l
,,
histoire de la nation vietnamienne) xuất bản năm
1955 tại Paris.
Trong công trình viết chung với Pierre Brocheux: Đông Dương, cuộc
thực dân hóa đầy tham vọng 1858 – 1945 (Indichine, la colonisation ambigue
1858 – 1945), nhà sử học D. Hesesmeery đề cập đến vấn đề trên qua phân tích
các công trình trước đây về công cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của
thực dân Pháp ở Đông Dương.
Bên cạnh đó, một số học giả Trung Quốc cũng đề cập đến vấn đề quan
hệ thương mại giữa hai vùng từ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX. Năm
1996, tác giả Thạch Lập Dân trong công trình “1885-1949 niên Quế-Việt biên
cương mậu dịch đích phát triển (Sự phát triển mậu dịch vùng biên giới Quảng

Tây-Bắc Kỳ từ 1885-1949)” được công bố trên Quý san Đông Nam Á Tung
hoành, số 2, đã đề cập đến sự phát triển của quan hệ thương mại giữa tỉnh
Quảng Tây với vùng biên giới Bắc Kỳ nói chung và đặc biệt là quan hệ
thương mại dọc theo tuyến biên giới của tỉnh Quảng Tây. Nói về quan hệ
thương mại giữa Quảng Tây và Bắc Kỳ còn có cuốn Quảng Tây thông sử do
Trung Văn Điển chủ biên, nhà xuất bản Nhân dân Quảng Tây xuất bản năm

6
1999. Trong tác phẩm này, tác giả đã dành một thời lượng không nhỏ, đề cập
đến tình hình tỉnh Quảng Tây sau khi ký Hiệp ước Thiên Tân và đặc biệt là sự
phát triển quan hệ thương mại với Bắc Kỳ từ cuối thế kỷ XIX-đầu thế kỷ XX.
Ngoài ra, trong quyển 3 tác phẩm Hồng Hà Châu chí do Nhà sách liên
kết Tân trí-Độc thư đời sống xuất bản năm 1997 tại Bắc Kinh có đề cập đến
quan hệ thương mại giữa vùng Vân Nam với Bắc Kỳ thông qua hệ thống giao
thương dọc theo sông Hồng. Đặc biệt trong tác phẩm Cá cựu thị chí do nhà
xuất bản Nhân dân Vân Nam ấn hành năm 1998 đã đề cập tương đối tỷ mỉ về
quan hệ giao thương giữa các địa phương của Vân Nam với Bắc Kỳ từ cuối
thế kỷ XIX-đầu thế kỷ XX….
Như vậy, nhìn một cách khái quát, những công trình trên đây phần nào
cho thấy tình hình trao đổi thương mại giữa Bắc Kỳ và hai tỉnh Vân Nam,
Quảng Tây trước và sau năm 1885 song nó vẫn chưa cho thấy được một bức
tranh tổng thể về mối quan hệ giữa hai vùng bởi các công trình đó chỉ đề cập
đến một vài lĩnh vực hoặc ở một giai đoạn riêng lẻ, hơn nữa, những đánh giá
còn tản mạn, rải rác, chưa được tập hợp phân tích có hệ thống và chuyên sâu.













7
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là quan hệ thương mại giữa Trung
Quốc và Việt Nam diễn ra giữa vùng Hoa Nam và Bắc Kỳ.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là quan hệ thương mại giữa vùng Hoa
Nam (Trung Quốc) và Bắc Kỳ (Việt Nam) giai đoạn cuối thế kỷ XIX – đầu
thế kỷ XX. Tuy nhiên, để làm rõ những đặc điểm của giai đoạn mới, luận văn
cũng cố gắng tìm hiểu và so sánh với tình hình buôn bán giữa hai vùng trong
các giai đoạn lịch sử.
4. Nhiệm vụ của đề tài
Đề tài khái quát, tổng hợp và trình bày có hệ thống tình hình trao đổi,
buôn bán giữa vùng Hoa Nam (Trung Quốc) và Bắc Kỳ (Việt Nam) trong giai
đoạn từ sau cuộc chiến tranh Trung Pháp (1885) đến năm 1919, thông qua đó
tìm hiểu những tác động của hoạt động thương mại đối với sự biến đổi kinh tế
- xã hội trên địa bàn Bắc Kỳ.
Bước đầu tìm hiểu về các điểm trao đổi, buôn bán ven biên giới, các
mặt hàng chủ yếu là thế mạnh của mỗi bên, từ đó góp phần vào việc nghiên
cứu lịch sử quan hệ thương mại Việt Nam - Trung Quốc thời cận đại. Về thực
tiễn, qua việc nghiên cứu lịch sử buôn bán giữa vùng Hoa Nam (Trung Quốc)
và Bắc Kỳ (Việt Nam) có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm nhất định,
góp phần vào việc hoạch định và phát triển thương mại Việt Nam - Trung
Quốc vùng biên giới trong giai đoạn hiện nay.






8
5. Nguồn tài liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Nguồn tài liệu
Nguồn tài liệu sử dụng khi viết luận văn chủ yếu tham khảo các công
trình viết hoặc đề cập đến quan hệ thương mại giữa vùng Vân Nam, Quảng
Tây với Bắc Kỳ qua các giai đoạn.
Bên cạnh đó, luận văn khai thác và sử lý một số tư liệu tiếng Pháp,
tiếng Trung của Trung tâm Lưu trữ Trung ương I, Viện Sử học, Thư viện
Quốc gia.
Ngoài ra trong quá trình hoàn thiện luận văn chúng tôi còn tham khảo
các báo, tạp chí có liên quan đến vấn đề nghiên cứu như: Tạp san Văn Sử Địa,
Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, Tạp chí nghiên cứu Trung Quốc, Tạp chí nghiên
cứu Kinh tế và các báo, tài liệu điện tử truy cập qua internet…
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp luận sử học Mác xít, đặt hoạt động
thương mại giữa vùng Hoa Nam Trung Quốc và Bắc Kỳ Việt Nam trong mối
quan hệ biện chứng với điều kiện và hoàn cảnh xã hội của mỗi nước. Phương
pháp lịch sử trình bày vấn đề theo mạch thời gian kết hợp với phương pháp
logic để khái quát hóa những kết quả nghiên cứu, rút ra những đánh giá, nhận
xét.
Ngoài ra, luận văn còn sử dụng phương pháp tổng hợp và phân tích để
thấy được mối liên hệ, tác động qua lại giữa hoạt động thương mại giữa Bắc
Kỳ và Vân Nam, Quảng Tây với sự biến đổi tế - xã hội các tỉnh Bắc Kỳ trong
thời kỳ từ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX.
6. Đóng góp của đề tài

Luận văn trình bày có hệ thống, toàn diện và cụ thể tình hình quan hệ
thương mại giữa Vân Nam, Quảng Tây và Bắc Kỳ giai đoạn từ cuối thế kỷ
XIX đến đầu thế kỷ XX. Trên cơ sở nghiên cứu cụ thể tình hình phát triển của

9
quan hệ thương mại giữa hai vùng, tác giả tiến hành phân tích sự biến đổi
kinh tế xã hội trên địa bàn Bắc Kỳ trong giai đoạn này.
Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho công tác
nghiên cứu, biên soạn lịch sử quan hệ thương mại Trung Quốc – Việt Nam
thời cận đại.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, các bảng biểu, phụ lục và tài liệu tham
khảo, Luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Các yếu tố tác động đến quan hệ thương mại giữa các tỉnh
Vân Nam, Quảng Tây (Trung Quốc) và Bắc Kỳ (Việt Nam).
Chương 2: Quan hệ thương mại giữa Vân Nam, Quảng Tây và Bắc Kỳ
từ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX.
Chương 3: Tác động của hoạt động thương mại đến sự biến đổi kinh tế
- xã hội Bắc Kỳ.



10
CHƢƠNG 1
CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN QUAN HỆ THƢƠNG MẠI GIỮA
CÁC TỈNH VÂN NAM, QUẢNG TÂY (TRUNG QUỐC)
VÀ BẮC KỲ (VIỆT NAM)
1.1. Điều kiện tự nhiên và tiềm năng kinh tế
1.1.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên
Vân Nam và Quảng Tây là hai tỉnh nằm phía cực Nam và Tây Nam Trung

Quốc, có đường biên giới giáp với Việt Nam. Tỉnh Vân Nam, phía Đông giáp
với Quảng Tây và Quý Châu, phía Bắc giáp với tỉnh Tứ Xuyên, và phía Tây
Bắc giáp với Tây Tạng. Vân Nam có đường biên giới phía Tây giáp với
Myanma, phía Nam giáp Lào, và phía Đông Nam giáp với Việt Nam.
Quảng Tây nằm ở phía Nam Trung Quốc, giáp giới với Vân Nam phía
Tây, Quý Châu phía Bắc, Hồ Nam phía Đông Bắc, và Quảng Đông phía Đông
Nam. Phía Tây Nam, Quảng Tây có biên giới với Việt Nam.
Hai tỉnh Quảng Tây và Vân Nam là vùng đất giàu các nguồn tài nguyên
thiên nhiên, với đa dạng các loài động - thực vật, và tập trung nhiều loại
khoáng sản. Vân Nam không những là địa phương có sự đa dạng sinh học vào
bậc nhất Trung Quốc, với đủ các loài thực vật nhiệt đới, cận nhiệt đới, ôn đới,
mà còn có nhiều loài thực vật cổ. Trong số khoảng 30.000 loài thực vật tại
Trung Quốc thì trên địa bàn Vân Nam có tới khoảng 18.000 loài. Đây cũng là
nơi nhiều loài động vật quý hiếm trên thế giới sinh sống, đặc biệt là hổ, voi và
bò tót…[10, 48].
Nếu Vân Nam có sự đa dạng sinh học cao thì Quảng Tây với đặc thù
của vùng khí hậu cận nhiệt đới, các loài thực vật ở đây cũng mang tính chất
của vùng khí hậu này. Tại Quảng Tây có khoảng 6.000 loài thực vật, trong đó
có 113 loài có nguy cơ tuyệt chủng và được Trung Quốc đưa vào diện cần bảo
vệ [111].

11
Nhìn chung, hai tỉnh Vân Nam và Quảng Tây là vùng đất có sự đa dạng
sinh học vô cùng to lớn, với nhiều loài thực vật mang tính chất của khí hậu
nhiệt đới, cận nhiệt đới, ôn đới với nhiều loài thực vật cổ. Hơn thế, vùng đất
này còn tập trung nhiều loài động vật quý hiếm không những của riêng Trung
Quốc mà còn của châu Á và thế giới. Sự đa dạng sinh học này là điều kiện
thuận lợi cho sự phát triển một nền kinh tế với đa dạng các sản phẩm mang
tính chất riêng của mình. Tiềm năng tự nhiên ở đó có thể khiến cho Việt Nam,
Trung Quốc có thể phát triển thương mại với những vùng khác của Trung

Quốc cũng như với thị trường nước ngoài.
Tỉnh Vân Nam, Quảng Tây là vùng đất có vị trí địa lý đặc thù, ở vùng
cực Nam và Tây Nam Trung Quốc, có đường biên giới tiếp giáp với Việt
Nam, đây là điều kiện thuận lợi cho sự phát triển giao lưu buôn bán giữa hai
nước. Hơn nữa, với tính chất đa dạng của điều kiện khí hậu đã tạo ra sự phong
phú về số lượng và chủng loại các loài động - thực vật vào bậc nhất Trung
Quốc. Đây chính là sự ưu đãi của thiên nhiên cho vùng đất này có thể phát
triển đa dạng các sản phẩm từ trồng trọt và chăn nuôi cung cấp cho thị trường
Trung Quốc và khu vực. Hai tỉnh Vân Nam, Quảng Tây còn là nơi tập trung
một số lượng lớn các loại khoáng sản với trữ lượng lớn.
1.1.2. Tài nguyên khoáng sản
Trên địa bàn Vân Nam, Quảng Tây tập trung một khối lượng khoáng
sản không những đa dạng, phong phú về chủng loại mà nơi đây còn có trữ
lượng khoáng sản lớn vào bậc nhất Trung Quốc.
Theo thống kê, riêng trên địa bàn tỉnh Vân Nam người ta đã phát hiện
hơn 200 loại khoáng sản. Khoáng sản ở đây chủ yếu thuộc các loại khoáng
sản có chứa kẽm, chì, thiếc, măng gan, cadmi, indi, tali và crocidolit. Theo
đánh giá ngày nay, trong số tài nguyên khoáng sản tại đây thì, đến hơn 40%
số khoáng sản là các loại khoáng sản cung cấp nhiên liệu, 7,3% là khoáng sản

12
kim loại và 52,7% là các loại khoáng sản phi kim loại. Trên địa bàn hai tỉnh
này có khoảng 13% trong số các loại khoáng sản trầm tích có trữ lượng lớn
nhất trong số các mỏ khoáng sản tại Trung Quốc, và 2/3 các trầm tích có trữ
lượng lớn nhất tại lưu vực sông Dương Tử và miền Nam Trung Quốc [10,
47].
Không phong phú về chủng loại khoáng sản như ở Vân Nam nhưng
Quảng Tây được mệnh danh là “đô thị của khoáng sản phi kim loại”. Nơi đây
tập trung 145 loại khoáng sản thì trong đó có đến 97 loại là khoáng sản phi
kim loại. Các loại khoáng sản có trữ lượng lớn có mặt tại Quảng Tây phải kể

đến: mangan, bạc, thiếc, sắt, asen, bentonit, vanadi, vonfram, indi, chì, kẽm,
antimon, bạc [111].
Sự phong phú về chủng loại và tập trung với trữ lượng lớn khoáng sản
trên địa bàn hai tỉnh là điều kiện thuận lợi cho ngành công nghiệp khai thác và
chế biến khoáng sản phát triển. Và hơn thế, sự giàu có tài nguyên thiên nhiên
nơi đây còn tạo ra điều kiện thuận lợi cho việc phát triển quan hệ thương mại
giữa vùng đất này với các nước khác.
Tuy là vùng đất có điều kiện tự nhiên thuận lợi, nhưng đến cuối thế kỷ
XIX, nơi đây vẫn là vùng đất nghèo nàn, cư dân chủ yếu vẫn sống bằng nông
nghiệp với lối canh tác truyền thống thô sơ, lạc hậu, người dân ở đây chủ yếu
phải yên phận với cuộc sống nghèo đói. Đánh giá về thực trạng kinh tế Vân
Nam vào những năm cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX, học giả người Pháp
Paul Marabail viết: “… mặc cho những tài nguyên đủ loại vốn có của mình,
tỉnh Vân Nam vẫn không sản xuất đủ cho việc tiêu thụ của bản thân mình”
[10, 47].
1.1.3. Điều kiện giao thông
Vân Nam và Quảng Tây vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX có điều
kiện giao thông lạc hậu. Do địa hình chủ yếu là núi cao và rừng rậm, nên hệ

13
thống giao thông đường bộ nơi đây chủ yếu dựa vào những lối mòn, vận
chuyển chủ yếu bằng những phương tiện thô sơ như: ngựa, la, lừa.
Tuy nhiên, nơi đây cũng có hệ thống sông, suối rất thuận lợi cho việc
vận chuyển hàng hóa với bên ngoài. Từ tỉnh Vân Nam, có thể vận chuyển sản
vật theo ba con sông lớn, gồm sông Hồng, sông Lô và sông Quảng Châu
(Canton).
Trong khi sông Lô bắt nguồn từ Vân Nam, đổ vào Việt Nam qua các
tỉnh Cao Bằng và Tuyên Quang, khó có thể ra biển Đông; sông Quảng Châu
chảy ra phía Đông dẫn tới Quảng Châu, thì sông Hồng, từ Vân Nam tới Hải
Phòng, đến biển Đông chỉ có độ dài 750km. Ở đây cũng cần lưu ý rằng con

đường từ Vân Nam tới các trung tâm xuất nhập khẩu khác là khá xa, như: Vân
Nam - Rangoum (Myanma) với độ dài 1.827km; Vân Nam – Hán Khẩu (Hồ
Bắc) có độ dài 1.700km; Vân Nam – Quảng Châu (Quảng Đông) là 1.500km.
Điều này cho thấy việc lựa chọn sông Hồng làm con đường giao lưu thương
mại giữa Vân Nam với Bắc Kỳ và ra với thế giới là một sự lựa chọn tối ưu
[10, 48].
Giao thông giữa tỉnh Quảng Tây với Lạng Sơn đi vào Bắc Kỳ có thuận
lợi hơn. Từ Quảng Tây có thể vận chuyển hàng hóa theo hệ thống đường bộ
và hệ thống đường thủy. Nếu theo tuyến đường bộ, Quảng Tây có hệ thống
giao thông đường bộ tương đối thuận tiện cho việc phát triển quan hệ giao
thương với Việt Nam, như: từ Nam Ninh (Quảng Tây) đi Na Sầm – Lạng Sơn
rồi xuống Phủ Lạng Thương; đường từ Long Châu (Quảng Tây) đến Đồng
Đăng…
Ngoài hệ thống đường bộ, Quảng Tây cũng có hệ thống giao thông
đường thủy nối liền với Bắc Kỳ, rất thuận lợi cho việc phát triển quan hệ giao
thương giữa hai vùng. Đó chính là sông Kỳ Cùng, tuy bị cắt ngang vài đoạn,
và nhiều thác ghềnh, nhưng có thể sử dụng được bắt đầu từ Bi Nhi (một điểm

14
giáp ranh biên giới Việt Nam – Trung Quốc trên địa phận Lạng Sơn), điểm
cuối cùng của con đường đi từ Phủ Lạng Thương. Về con đường này, người
Pháp đã đánh giá là:
“Do có con đường thủy sông Kỳ Cùng, là cho đường Phủ Lạng Thương
kéo dài, tự nhiên, chúng ta có thể hy vọng đưa sản phẩm của chúng ta vào
Trung Quốc với giá rẻ hơn hàng hóa của các nước ngoài khác. Người Anh,
người Đức phải mượn đường Pa Khoi hoặc Quảng Đông dài hơn và tốn kém
hơn”. Và “Bằng những Hiệp ước thương mại (sẽ nói ở dưới đây), Long Châu
đã mở cửa cho chúng ta, đây chính là một thị trường biên giới quan trọng khi
chúng ta biết tận dụng nó” [45, 23].
Qua những trình bày trên đây, có thể thấy hệ thống giao thông của hai

tỉnh Vân Nam và Quảng Tây vào cuối thế kỷ XIX về cơ bản là tương đối khó
khăn cho việc đi lại, vận chuyển hàng hóa trong nội địa cũng như giao thương
với các địa phương, quốc gia láng giềng khu vực. Tuy nhiên, hệ thống giao
thông thủy, đặc biệt là sông Hồng và sông Kỳ Cùng lại là điều kiện lý tưởng
cho việc phát triển quan hệ giao thương giữa vùng này với Bắc Kỳ trong giai
đoạn từ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX.
Những điều kiện về tự nhiên, tài nguyên khoáng sản là tiềm năng lớn
cho việc phát triển quan hệ giao thương giữa Bắc Kỳ và tỉnh Vân Nam,
Quảng Tây. Đặc biệt, với những điều khoản được ký kết giữa thực dân Pháp
và nhà Thanh đã kích thích sự đầu tư của Pháp nhằm xây dựng và mở mang
hệ thống giao thông nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển quan hệ
thương mại giữa hai vùng.
Quan hệ thương mại giữa Bắc Kỳ và Vân Nam, Quảng Tây còn có khả
năng phát triển nữa là, hai vùng đã có truyền thống quan hệ buôn bán, trao đổi
hàng hóa rất lâu đời trong lịch sử.


15

1.2. Quan hệ thƣơng mại giữa Trung Quốc và Việt Nam trong lịch sử
1.2.1. Quan hệ buôn bán giữa Trung Quốc và Việt Nam thời kỳ cổ
trung đại
Trung Quốc và Việt Nam có đường biên giới trên đất liền dài 1463,4
km [3], ngoài ra còn có chung đường biên giới trên biển. Khu vực biên giới
Trung Quốc tiếp giáp với tỉnh Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng
Sơn, Quảng Ninh (Việt Nam) bao gồm 2 tỉnh: Vân Nam và Khu tự trị dân tộc
Choang thuộc tỉnh Quảng Tây.
Quan hệ buôn bán giữa Trung Quốc và Việt Nam đã có từ lâu đời
nhưng cũng trải qua nhiều thăng trầm bởi nó cũng chịu tác động của mối quan
hệ chính trị giữa hai nước trong từng giai đoạn lịch sử.

Ngay từ thời cổ đại, quan hệ thương mại giữa Trung Quốc và Việt Nam
đã bước đầu được hình thành, trong sách Đại Việt Sử ký toàn thư, Ngô Sĩ Liên
từng viết: “Thời Thành Vương nhà Chu, nước Việt ta mới sang thăm nhà
Chu, xưng là Việt Thường tới dâng chim trĩ trắng. Chu Công nói: “nước nào
chính lệnh không đến thì người quân tử không bắt họ thần phục”. Sai làm xe
chỉ nam đưa họ về nước [24, 62]. Sự kiện này tuy mang nhiều dấu tích huyền
bí, nhưng cũng phần nào chứng tỏ mối quan hệ giữa Trung Quốc và Việt Nam
đã hình thành từ rất sớm.
Năm 207 trước Công nguyên, sau khi xâm chiếm Âu Lạc, Triệu Đà
thành lập nước Nam Việt. Từ đây, quan hệ buôn bán trao đổi giữa Trung
Quốc và vùng đất Nam Việt dần dần hình thành và phát triển. Trong thời kỳ
này, sông Tây Giang là đường giao thông thiên nhiên quan trọng được các bộ
lạc người Lão, người Khương ở Tây Nam Trung Quốc vận chuyển hàng hóa
từ đất Thục đến Phiên Ngung trao đổi. Các mặt hàng được đem đến đây gồm
có: đồ điền khí, đồ sắt, vàng, trâu bò, ngựa, dê…

16
Sau khi nhà Hán thống nhất Trung Quốc (206 TCN), Hán Cao Tổ sai
Lục Giả xuống phong cho Triệu Đà làm Nam Việt Vương (năm 196 TCN),
nước Nam Việt chính thức thần phục chính quyền trung ương. Lúc này quyền
lực của nước Nam Việt vẫn được đảm bảo như cũ. Chính yếu tố đó là điều
kiện thuận lợi, kích thích sự phát triển quan hệ buôn bán trao đổi giữa Trung
Nguyên với Nam Việt (trong đó có đất Việt Nam).
Trong thời kỳ nhà Tây Hán - đặc biệt là dưới triều vua Hán Vũ Đế (128
– 88 TCN) - các vua Hán thường xuyên tiến hành các cuộc chiến tranh xâm
lược xuống vùng đất phương Nam nhằm mở mang phạm vi ảnh hưởng cũng
như thúc đẩy mối giao lưu kinh tế thương mại với nơi đó. Chính sách xâm lấn
của đế chế Trung Hoa vô hình chung đã trở thành điều kiện khách quan
khuyến khích quan hệ trao đổi buôn bán giữa Trung Quốc và Giao Châu. Thật
vậy, sau khi chinh phục được Nam Việt (bao gồm Âu Lạc), tình hình trao đổi

buôn bán giữa Trung Quốc và Việt Nam phát triển mạnh và diễn ra chủ yếu ở
khu vực Hải Nam. Các mặt hàng chính được thương nhân trao đổi gồm: sừng
tê, ngà voi, đồi mồi, châu ngọc, bạc, đồng, hoa quả, vải,…
Từ thế kỷ I đến thế kỷ VI, dưới sự đô hộ của các triều Đông Hán, Tam
Quốc, Lục triều (Trung Quốc), kinh tế nông nghiệp quận Giao Chỉ (vùng đất
Bắc Bộ, Việt Nam) có sự phát triển hơn cả. Quan hệ buôn bán giữa Trung
Quốc và Việt Nam lúc đó càng có thêm điều kiện. Ngoài các mặt hàng truyền
thống vẫn được hai bên trao đổi, thương nhân cả người Hán và người Việt
thường chở lúa gạo từ phương Nam sang đem bán cho các quận Cửu Chân,
Hợp Phố.
Ngoài các mặt hàng kể trên, các thương nhân còn thường xuyên chuyên
chở châu báu, đồ đồng, đồ sắt, đồ gốm của các địa phương phía Nam đế quốc
Hán đến Giao Châu trao đổi. Qua kết quả khai quật, các nhà khảo cổ học đã
phát hiện trên địa bàn miền Bắc nước ta một số hiện vật là vũ khí, gương

17
đồng, bình đồng thuộc văn hóa Hán. Ngoài ra, ở Việt Nam cũng tìm được
nhiều tiền đồng thời Vương Mãng.
Qua những phát hiện trên chúng ta có thể đoán định vào thời điểm đó
các thương nhân người Hán thường xuất sang Giao Châu những đồ điền khí
bằng sắt là nông cụ, một số vũ khí và trở về mặt hàng muối, sừng tê, ngà
voi…. Sự buôn bán đồ sắt, muối do chính quyền đô hộ nắm độc quyền. Các
mặt hàng của Trung Quốc đưa sang phần lớn được vận chuyển đến các trung
tâm hành chính và quân sự như Luy Lâu, Long Biên (Bắc Ninh), Tứ Phố
(Thanh Hóa), Lạch Trường (Hậu Lộc – Thanh Hóa).
Ngoài việc buôn bán với vùng đất phương Nam, các thương nhân người
Hán từ thời Đông Hán đến thời Lục triều còn phát triển quan hệ giao thương
với các nước miền Nam Dương, Ấn Độ. Con đường hàng hải từ Giao Châu,
Nhật Nam, qua Ấn Độ, chạy tới Địa Trung Hải chính thức được hình thành
trong giai đoạn này.

Đến thời Đường (618 – 907), chính quyền đô hộ nhận thức được tầm
quan trọng của hệ thống giao thông trong việc giữ gìn trật tự xã hội cũng như
mở mang quan hệ giao thương giữa hai bên nên đã cho mở mang hệ thống
giao thông nhằm nối liền Trung Quốc với Việt Nam và các nước phía Nam.
Ngay từ năm 638, Đô đốc Giao Châu là Lý Đạo Ngạn đã khai thông và duy trì
con đường giao thông đường bộ nối liền An Nam với Quảng Tây, Vân Nam
cho tới tận kinh đô Trường An. Về đường biển, chính quyền đô hộ tiếp tục
duy trì tuyến đường nối liền Quảng Châu – Giao Châu và các nước vùng Hải
Nam. Năm 867, Cao Biền còn cho đào ghềnh Bắc Thú, phá đá ngầm để
thuyền bè tiện đi lại.
Chính nhờ việc mở mang giao thông, đường xá đi lại thuận lợi hơn đã
kích thích nhu cầu trao đổi hàng hóa theo hệ thống giao thông đường thủy,
đường bộ giữa Trung Quốc và Giao Châu. Nhờ đó, quan hệ buôn bán trao đổi

18
giữa miền Nam Trung Quốc và Giao Châu ngày càng phát triển. Các thương
nhân người Hán thường đem sản phẩm thủ công của họ như đồ sứ, chè, thuốc
bắc bán sang Giao Châu và mua các sản phẩm địa phương như ngà voi, lông
trả, châu báu … đem về Trung Quốc.
Vào thế kỷ VIII – IX, do nhu cầu hàng hóa của tầng lớp quý tộc nhà
Đường tăng lên, quan hệ buôn bán giữa Trung Quốc và Việt Nam có thêm
điều kiện phát triển. Bộ phận quan lại đô hộ ở An Nam và số thương nhân
Trung Quốc thường xuyên mua các hàng hóa nhẹ và là sản phẩm ưa thích của
giới quý tộc Trung Hoa như: đồ đồng, hải vị, áo vóc, ngà voi, long trả, hương
trầm, mật trăn… từ Giao Châu đem về bán ở Trung Quốc.
Có thể khẳng định rằng vào thời kỳ Bắc thuộc, quan hệ buôn bán trao
đổi hàng hóa giữa Trung Quốc và Giao Châu dưới sự đô hộ của các triều đại
quân chủ phong kiến phương Bắc đã có sự phát triển nhất định. Các thương
nhân người Hán thường chuyên chở các hàng hóa là các nông cụ bằng sắt, các
sản phẩm thủ công, … theo các tuyến đường bộ nằm trên hai tỉnh Quảng Tây,

Vân Nam rồi vận chuyển theo đường mòn vào buôn bán tại các trung tâm
chính trị, quân sự của nước ta; hoặc hàng hóa được các thương nhân vận
chuyển theo hệ thống đường biển, cập cảng Vân Đồn, Vạn Ninh để rồi sau đó
được vận chuyển theo các dòng sông đến nơi tiêu thụ. Ngược lại, số thương
nhân này đã thu mua những mặt hàng như: gạo, lông trả, ngà voi, muối… từ
vùng đất này đem về bán trên thị trường Trung Quốc. Sự phát triển quan hệ
thương mại trong thời kỳ này chủ yếu do các thương nhân người Hán kiểm
soát.
Mối quan hệ buôn bán, trao đổi hàng hóa giữa Trung Quốc và Việt
Nam ngày càng được đẩy mạnh, đặc biệt là sau khi Việt Nam hoàn toàn thoát
khỏi ách đô hộ của phong kiến phương Bắc.

19
Cuộc khởi nghĩa của Ngô Quyền năm 938 đã đập tan ách đô hộ của
thời kỳ Bắc thuộc kéo dài một nghìn năm, đưa đất nước ta bước sang thời kỳ
độc lập. Sau sự kiện này, quan hệ thương mại giữa Trung Quốc và Việt Nam
vẫn được duy trì và phát triển.
Sau khi nhà Lý lên nắm quyền (1010), vua Lý Công Uẩn sai sứ thần
sang nhà Tống, xin được buôn bán với người Trung Quốc ở Ung Châu (Nam
Ninh, Quảng Tây) nhưng không được chấp nhận. Triều Tống chỉ đồng ý cho
thương nhân Việt Nam buôn bán tại hai điểm là Liên Châu và trấn Như Hồng.
Tuy không được vua Tống chấp nhận cho các thương nhân vào Ung
Châu buôn bán nhưng quan hệ buôn bán vẫn được duy trì. Các hoạt động
buôn bán, trao đổi hàng hóa giữa Trung Quốc và Việt Nam giai đoạn này chủ
yếu được diễn ra tại các địa điểm buôn bán dọc biên giới Trung – Việt. Các
địa điểm buôn bán này được gọi là “Bạc dịch trường”. Trong thời gian này
chúng ta có thể kể đến một số Bạc dịch trường tiêu biểu, thường xuyên diễn ra
các hoạt động trao đổi hàng hóa giữa hai nước, như: Bạc dịch trường Hoành
Sơn, Vĩnh Bình, Cổ Vạn, Tô Mậu…
Bạc dịch trường ở trại Hoành Sơn (Na Sầm, Lạng Sơn) có tầm quan

trọng đối với việc buôn bán giữa hai nước. Bạc dịch trường Hoành Sơn là
điểm giao thương thuận lợi, có thể thu hút đa số thương nhân từ Quảng
Nguyên (Cao Bằng) và thương nhân từ nước Đại Lý (Vân Nam) đem hàng
hóa đến buôn bán. Hàng hóa được đem đến thường là các kim loại quý của
vùng Quảng Nguyên (Cao Bằng) và Đại Lý (Vân Nam – Trung Quốc) như:
vàng, bạc, đồng, chu sa, diêm tiêu… Đó là những hàng hóa được các thương
nhân người Hán rất ưa chuộng. Ngoài ra, tại đây còn diễn ra hoạt động buôn
bán ngựa, các lâm sản, dược vật… của các dân tộc thiểu số sống dọc biên
giới. Các thương nhân người Hán đến đây buôn bán phần lớn đều đến từ
Quảng Châu.

20
Bạc dịch trường Vĩnh Bình (chợ Kỳ Lừa, Lạng Sơn) là Bạc dịch trường
có tầm quan trọng hơn cả trong giao dịch hàng hóa giữa Trung Quốc và Việt
Nam thời kỳ này. Nơi đây là điểm giao thương rất thuận lợi, điểm tiếp giáp
giữa Ung Châu (Trung Quốc) và Giao Chỉ (Việt Nam) chỉ với dòng sông Kỳ
Cùng. Các thương nhân Trung Quốc thường đem các mặt hàng như vải vóc,
đồ sành sứ đổi lấy các mặt hàng như ngà voi, sừng tê, vàng, bạc, muối của
Việt Nam.
Trong thời kỳ này, quan hệ buôn bán, trao đổi hàng hóa giữa thương
nhân hai nước còn thường xuyên diễn ra tại Bạc dịch trường ở Khâm Châu.
Trong sách Lĩnh Ngoại đại đáp, Chu Khứ Phi cho biết: “Bạc dịch trường ở
ngoài thành, tại trạm Giang Đông. Những người thuyền chài Giao Chỉ mang
cá, sò đến để đổi lấy đấu gạo, thước vải. Phú thương nước ấy (chỉ Giao Chỉ)
đến buôn bán thì từ châu Vĩnh An phải thông điệp cho Khâm Châu, ấy là tiểu
cương (buôn nhỏ), còn nước ấy sai sứ đến Khâm Châu để buôn bán, thì gọi là
đại cương (buôn to). Hàng đem bán có bạc, đồng, tiền, trầm hương, trân châu,
ngà voi, sừng tê. Những tiểu thương nước ta (chỉ Trung Quốc) bán các thứ bút
giấy, gạo, vải, hàng ngày trao đổi một ít với người Giao Chỉ, không đáng
kể… Phú thương nước ta (tức Trung Quốc) sai người nhà buôn bán nhỏ, đến

tự cấp dựng nhà, cày ruộng để ở lâu. Phú thương nước ấy cũng ngoan cố
không nhúc nhích, giữ giá lâu làm cho ta khốn đốn. Khi lái buôn hai bên gặp
nhau, mời uống rượu làm vui, lâu rồi mới nói đến buôn bán. Những người tả,
hữu đi theo dần dần nâng cao giá, gần bằng nhau rồi đến ngang nhau. Bấy giờ
mới có quan cân hương và giao gấm” [68, 9b - 10a - 10b]. Các thương nhân
Việt Nam đến buôn bán tại Bạc dịch trường Khâm Châu thường đem theo các
mặt hàng là trầm hương và mua về các sản phẩm như giấy, bút, tơ, vải, gấm
vóc của Trung Quốc.

21
Dưới triều Lý, quan hệ buôn bán không chỉ diễn ra giữa người Hán và
người Việt mà còn được thực hiện bởi cư dân là các dân tộc thiểu số vùng
biên giới. Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép: Năm 1012, người Man (thuộc
tộc Thái ở miền Tả Giang và Hữu Giang Trung Quốc vượt qua cột đồng (do
Mã Viện dựng ở Tả Giang và Hữu Giang) đến bến Kim Hoa (Mục Mã, Cao
Bằng) châu Vị Long (thuộc huyện Châu Hóa, Tuyên Quang) buôn bán. Vua
(Lý Thái Tổ) sai người bắt được người Man và hơn một vạn con ngựa [24,
194].
Quan hệ buôn bán, trao đổi hàng hóa giữa Trung Quốc và Việt Nam
trong thời kỳ này không chỉ diễn ra tại các Bạc Dịch trường nằm dọc theo
tuyến biên giới trên bộ, mà nó còn được tiến hành tại Bạc Dịch trường Vân
Đồn. Tuy không được ghi chép lại, nhưng Vân Đồn là điểm có đường giao
thông với Khâm Châu, Quảng Châu, Liêm Châu của Tống và với các nơi
miền Đông và Nam Trung Quốc rất thuận lợi. Ngày nay các nhà khảo cổ học
Việt Nam và Nhật Bản đã tìm thấy ở Vân Đồn nhiều tiền đời Tống và các
mảnh gốm sứ đời nhà Tống. Điều đó cho thấy, rất có thể vào thời Tống, các
thương nhân Trung Quốc cũng thường xuyên đến Vân Đồn trao đổi buôn bán
với thương nhân người Việt và thương nhân các nước khác như Trảo Oa,
Xiêm…
Vào đầu thế kỷ XIII, sau khi thôn tính toàn bộ nhà Tống, lập ra triều

Nguyên, quân Mông Cổ tiếp tục mở cuộc chinh chiến nhằm xâm chiếm Đại
Việt. Những cuộc xâm lược của quân Nguyên đều bị quân dân Đại Việt đẩy
lui. Sau cuộc chiến, quan hệ chính trị giữa triều Nguyên và Đại Việt được nối
lại. Lúc này, quan hệ thương mại tuy không phát triển như giai đoạn trước
nhưng nó vẫn được thường xuyên diễn ra tại các Bạc Dịch trường nằm dọc
biên giới hai nước. Các thương nhân người Hán và người Việt thường xuyên
qua lại trao đổi hàng hóa tại các Bạc dịch trường Vĩnh Bình và Khâm Châu.

×