Tải bản đầy đủ (.pdf) (191 trang)

Cấu trúc nghĩa biểu hiện của câu có vị ngữ là vị từ mang ý nghĩa trao tặng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.41 MB, 191 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN





LÂM QUANG ĐÔNG



CẤU TRÚC NGHĨA BIỂU HIỆN
CỦA CÂU CÓ VỊ NGỮ LÀ VỊ TỪ
MANG Ý NGHĨA TRAO/TẶNG
(trên cơ sở tiếng Việt và tiếng Anh)








LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ HỌC











Hà Nội, 2007
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN






LÂM QUANG ĐÔNG



CẤU TRÚC NGHĨA BIỂU HIỆN
CỦA CÂU CÓ VỊ NGỮ LÀ VỊ TỪ
MANG Ý NGHĨA TRAO/TẶNG
(trên cơ sở tiếng Việt và tiếng Anh)


Chuyên ngành: Lí luận Ngôn ngữ
Mã số: 62.22.01.01


LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ HỌC




NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. GS.TS LÊ QUANG THIÊM
2. PGS.TS VŨ ĐỨC NGHIỆU




Hà Nội, 2007

iii
MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN
i
LỜI CẢM ƠN
ii
MỤC LỤC
iii
MỞ ĐẦU
1
0.1
Lý do lựa chọn đề tài
1
0.2
Đối tượng, nhiệm vụ, phương pháp và tư liệu nghiên cứu
2

0.2.1
Đối tượng nghiên cứu
2


0.2.2
Nhiệm vụ nghiên cứu
3

0.2.3
Phương pháp và tư liệu nghiên cứu
4
0.3
Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
5
0.4
Bố cục của luận án
6

CHƢƠNG 1
NHỮNG CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA LUẬN ÁN
8

1.1
Quan điểm nghiên cứu về cấu trúc nghĩa của câu
8

1.1.1
Về nghĩa của câu
8

1.1.2
Về cấu trúc nghĩa của câu
9

1.2
Quan điểm về vai nghĩa của các tham thể trong cấu trúc
nghĩa biểu hiện của câu

13

1.2.1
Nhận xét chung
13

1.2.2
Cách phân loại vai nghĩa
17
1.3
Quan điểm nghiên cứu của luận án
29
1.4
Tình hình nghiên cứu cấu trúc nghĩa biểu hiện của câu với vị từ trao/tặng
34
1.5
Tiểu kết
41


iv
CHƢƠNG 2
CÁC LỚP NGHĨA VÀ VAI NGHĨA CỦA BA DIỄN TỐ
TRONG CẤU TRÚC NGHĨA BIỂU HIỆN
CỦA CÂU VỚI VỊ TỪ TRAO/TẶNG




43
2.1
Dẫn nhập
43
2.2
Các lớp nghĩa
49

2.2.1
Lớp nghĩa kiểm soát - sở hữu (control - possession)
49

2.2.2
Lớp nghĩa không gian - động (spatial - dynamic)
54

2.2.3
Lớp nghĩa lợi ích (human interest)
58

2.2.4
Lớp nghĩa quyền lực (power)
60
2.3
Cấu trúc nghĩa biểu hiện cơ sở của câu với vị từ trao/tặng
72

2.3.1

Diễn tố thứ nhất
72

2.3.2
Diễn tố thứ hai
77

2.3.3
Diễn tố thứ ba
83
2.4
Tiểu kết
85



CHƢƠNG 3
CẤU TRÚC NGHĨA BIỂU HIỆN RÚT GỌN
VÀ MỞ RỘNG CỦA CÂU VỚI VỊ TỪ TRAO/TẶNG


87
3.1
Dẫn nhập
87
3.2
Cấu trúc nghĩa biểu hiện của câu với số lượng diễn tố ít hơn 3
92

3.2.1

Trường hợp chỉ có một diễn tố
92

3.2.2
Trường hợp chỉ có hai diễn tố
93
3.3
Cấu trúc nghĩa biểu hiện của câu với số lượng tham thể nhiều hơn 3
95

3.3.1
Chu tố Mặc định
95

3.3.2
Hai Chu tố Mặc định khác: Hướng và Đích (Direction and Goal)
103
3.4
Cấu trúc nghĩa biểu hiện của câu với vị từ trao/tặng và với một số vị từ
khác: So sánh về chu tố mặc định

106

3.4.1
So sánh vị từ trao/tặng với vị từ mua (buy)
106

v

3.4.2

So sánh vị từ trao/tặng với vị từ đào (dig)
112

3.4.3
So sánh vị từ trao/tặng với vị từ nhảy (jump)
113
3.5
Tiểu kết
115



CHƢƠNG 4
SỰ THỂ HIỆN CẤU TRÚC NGHĨA BIỂU HIỆN TRÊN
CẤU TRÚC CÚ PHÁP CỦA CÂU VỚI VỊ TỪ
TRAO/TẶNG



118
4.1
Dẫn nhập
118
4.2
Trật tự tham thể trong câu với ≤ 3 diễn tố
125

4.2.1
Khi Tác thể được chọn làm Vật được định vị (Trajector - TR)
125


4.2.2
Khi Tiếp thể được chọn làm Vật được định vị
138

4.2.3
Khi Đối thể được chọn làm Vật được định vị
142
4.3
Trật tự tham thể trong câu với diễn tố và chu tố mặc định
144
4.4
Sự mở rộng nghĩa của give trong tiếng Anh và cho trong tiếng Việt
148

4.4.1
Sự cho phép (permission)
149

4.4.2
Gây khiến / Tạo điều kiện (cause / enablement)
151

4.4.3
Sự xuất hiện (emergence)
153

4.4.4
Tạo tác (effective)
156


4.4.5
Tầm mức (extent)
157

4.4.6
Mục đích (purpose)
159
4.5
Tiểu kết
162



KẾT LUẬN
164
CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

172

TÀI LIỆU THAM KHẢO

172

PHỤ LỤC

184

1

MỞ ĐẦU
0.1 LÝ DO LỰA CHỌN ĐỀ TÀI
Trong vài thập kỷ cuối thế kỷ 20, một số khuynh hướng ngôn ngữ học
hậu cấu trúc luận (post-structuralism) đã cố gắng khắc phục những giới hạn
của lôgíc học để tập trung nhiều hơn vào mặt chức năng và nội dung của ngôn
ngữ. Việc nghiên cứu cấu trúc nghĩa của câu là một trong những khuynh
hướng mới đó với nhiều đóng góp có giá trị cho ngôn ngữ học hiện đại. Theo
những quan niệm gần đây về cấu trúc nghĩa của câu, vị từ đóng vai trò trung
tâm, chi phối các thành tố nghĩa xung quanh nó. Ngữ trị - khả năng kết hợp
của vị từ có vai trò quyết định tới cấu trúc nghĩa của câu: nó quy định phải có
bao nhiêu thành tố nghĩa xung quanh vị từ và những thành tố nghĩa đó là gì,
có tư cách, quan hệ, vị thế như thế nào đối với vị từ, và chúng được tổ chức
như thế nào trong cấu trúc nghĩa của câu. Ngữ trị của vị từ càng lớn thì cấu
trúc nghĩa của câu càng phức tạp. Do vậy, vị từ đa trị là một đối tượng cần
nghiên cứu, khảo sát toàn diện, kỹ lưỡng để hiểu biết sâu sắc hơn về cấu trúc
nghĩa của câu.
Vị từ mang ý nghĩa trao/tặng là một trong số các nhóm từ vựng cơ bản
của ngôn ngữ. Chúng nằm trong số những yếu tố ngôn ngữ được tiếp thu và
sử dụng sớm nhất ở trẻ em, và được coi là một trong những „viên gạch‟ đầu
tiên để xây dựng nên các đơn vị ngữ nghĩa khác. Chúng có số lượng phong
phú, thể hiện nhiều hoàn cảnh, tính chất, cách thức của sự tình trao/tặng,
nhiều mối quan hệ liên nhân khác nhau giữa các đối tượng tham gia sự tình
trao/tặng. Sự đa dạng về nghĩa của vị từ, số lượng tham thể thể hiện các đối
tượng tham gia sự tình trao/tặng, vai nghĩa, tư cách, quan hệ, đặc trưng, v.v.,
của các tham thể đó trong cấu trúc nghĩa của câu với vị từ mang ý nghĩa
trao/tặng giúp cho nhóm vị từ này có tính đại diện cao cho các vị từ đa trị.

2
Mặc dù những vấn đề này đã được một số nhà ngôn ngữ học quan tâm nghiên
cứu, song cũng còn nhiều điểm cần được tiếp tục giải quyết một cách thấu đáo

và thỏa đáng hơn nữa. Do vậy, về mặt lý luận, việc nghiên cứu nhóm vị từ
này sẽ giúp giải quyết một số vấn đề về cấu trúc nghĩa của câu có vị ngữ là vị
từ đa trị với những quan niệm mới, phương pháp tiếp cận mới, nhờ vào những
thành tựu, tiến bộ mới của ngôn ngữ học hiện đại cuối thế kỷ 20, đầu thế kỷ
21. Đồng thời, việc nghiên cứu, so sánh vị từ mang ý nghĩa trao/tặng ở các
ngôn ngữ khác nhau cũng sẽ giúp phát hiện được nhiều điều thú vị về ngôn
ngữ và văn hóa của các cộng đồng sử dụng những ngôn ngữ ấy, cụ thể là tiếng
Anh và tiếng Việt trong luận án này.
Về thực tiễn, cấu trúc cú pháp của câu có vị ngữ là vị từ mang ý nghĩa
trao/tặng có nhiều thành phần phức tạp, gây không ít khó khăn, dẫn tới nhiều
lỗi phổ biến, thường gặp ở người Việt học tiếng Anh, nhất là lỗi về trật tự từ,
giới từ và cải biến chủ động - bị động. Một trong những căn nguyên gây lỗi
là do cấu trúc nghĩa của câu, đặc biệt là những tương đồng, khác biệt giữa các
ngôn ngữ về cấu trúc nghĩa của câu với những vị từ này chưa được hiểu một
cách tường tận, rõ ràng. Cần phải nghiên cứu nhóm vị từ này để có những
phương thức, biện pháp giúp người nước ngoài học tiếng Việt hay người Việt
học tiếng Anh nhận thức rõ được chúng và khắc phục được những khó khăn
trên. Đó là lý do thực tiễn thu hút sự quan tâm nghiên cứu của chúng tôi
trong luận án này.
0.2 ĐỐI TƢỢNG, NHIỆM VỤ, PHƢƠNG PHÁP VÀ TƢ LIỆU NGHIÊN
CỨU
0.2.1 Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là cấu trúc nghĩa biểu hiện của câu
có vị ngữ là vị từ đa trị mang ý nghĩa trao/tặng trong tiếng Việt và tiếng Anh

3
(từ đây trở đi được diễn đạt gọn là câu với vị từ trao/tặng). Tiêu biểu có thể
kể đến các vị từ: cho, gửi, đưa, cung cấp, biếu, tặng, hiến, nhường, phú, thí,
phát, ban, give, present, hand, endow, bestow, confer, offer, , v.v Tuy nhiên,
một số vị từ có nhiều điểm tương đồng với vị từ mang ý nghĩa trao/tặng cũng

được thảo luận nhằm làm rõ và kiểm chứng những luận điểm luận án đưa ra
(danh sách vị từ – xin xem Phụ lục).
Cách tiếp cận được lựa chọn để nghiên cứu là từ sự tình tới hình thức
thể hiện: sự tình là như nhau, tức là nội dung như nhau, song cần tìm hiểu
xem trong tiếng Việt và tiếng Anh sự tình đó được nhìn nhận như thế nào,
diễn giải, mô tả ra sao; cách mô tả đó được thể hiện bằng hình thức nào, với
những vị từ nào, với những tham thể nào, vai nghĩa của những tham thể đó là
gì, vị thế, tư cách của chúng như thế nào. Nội dung, ngữ nghĩa là cái tiên
quyết, quy định ngữ pháp cho nên phải đi từ ngữ nghĩa đến ngữ pháp chứ
không phải ngược lại. Do vậy, lõi sự tình của câu được tập trung nghiên cứu
và lấy làm xuất phát điểm để khảo sát, phân tích.
0.2.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ những vấn đề lý luận và thực tiễn đặt ra trên đây, luận án tập trung
thực hiện những nhiệm vụ sau:
 Điểm lại những giải thuyết về cấu trúc nghĩa của câu, nhất là cấu trúc
nghĩa biểu hiện của câu có vị ngữ là vị từ đa trị, tiêu biểu là vị từ mang ý
nghĩa trao/tặng;
 Làm rõ các lớp nghĩa trong cấu trúc nghĩa biểu hiện của câu với vị từ
trao/tặng và vai nghĩa cũng như đặc trưng của các tham thể trong cấu trúc
nghĩa biểu hiện của câu ở các lớp nghĩa đó. Đây cũng là một phương
pháp cần thiết giúp xác định đúng đắn, rõ ràng những vai nghĩa mà các

4
tham thể có thể đảm nhận, vai nghĩa nào là chính, vai nghĩa nào là phụ
trợ.
 Xác định tư cách của những thành tố nghĩa vẫn được gọi là Phi tham thể,
Chu tố, Cảnh huống hay Tham thể ngoại vi (Non-participants,
Circumstants or Peripheral participants) trong cấu trúc nghĩa biểu hiện của
câu với vị từ trao/tặng bởi vì chúng không hoàn toàn giống nhau.
 Tìm hiểu tác động của những yếu tố ngữ nghĩa tới cấu trúc cú pháp khiến

cho mỗi tham thể được đứng ở những vị trí nhất định, hoặc những trật tự
cú pháp của các thành phần câu ứng với các tham thể phản ánh những
khác biệt ngữ nghĩa nào.
 Phát hiện những tương đồng và khác biệt giữa tiếng Việt và tiếng Anh dẫn
tới những thuận lợi và khó khăn cho người học về loại câu có vị ngữ là vị
từ đa trị, nhất là vị từ mang ý nghĩa trao/tặng, và đề xuất cách khắc phục
những khó khăn ấy.
0.2.3 Phƣơng pháp và Tƣ liệu nghiên cứu
Trước hết, vì vị từ là trung tâm của câu nên bản chất ngữ nghĩa của vị
từ là căn cứ để phân tách các lớp nghĩa, xác định các tham thể, luận giải các
mối quan hệ nghĩa, xác định vai nghĩa của các tham thể, từ đó quy nạp, tổng
kết thành mô hình cấu trúc nghĩa mang tính khái quát cho loại câu với vị từ
trao/tặng. Trong quá trình nghiên cứu, dẫn liệu tiếng Việt và tiếng Anh được
khảo sát nhằm làm sáng tỏ các luận điểm và xác định những điểm tương đồng
và khác biệt giữa tiếng Anh và tiếng Việt về loại câu với vị từ trao/tặng.
Tư liệu được nghiên cứu là câu với vị từ trao/tặng và một số vị từ khác
có liên quan. Những tư liệu này được thu thập từ nhiều nguồn khác nhau, từ
văn viết „chuẩn‟ („standard‟ written register) tới ngôn ngữ nói hàng ngày,
ngôn ngữ báo chí (báo in và báo điện tử), một số tác phẩm văn học và ca khúc

5
tiêu biểu nhằm có được một cái nhìn tổng thể, toàn diện về các kết cấu
(constructions) sử dụng vị từ trao/tặng. Việc sử dụng công cụ tìm kiếm cực
kỳ hiệu quả và nhanh chóng trên Internet như Google đã cho phép thống kê
được một số lượng có thể nói là khổng lồ các trường hợp xuất hiện vị từ mang
ý nghĩa trao/tặng. Riêng cho trong tiếng Việt (cả với tư cách là vị từ và công
cụ từ) và give trong tiếng Anh, một lần tìm kiếm đã cho kết quả lần lượt là
10.500 và 23 x 10
8
trường hợp xuất hiện. Tuy nhiên, sau khi sàng lọc, khoảng

2000 trường hợp từ tất cả các nguồn nói trên được xem xét để chọn ra gần
700 trường hợp đưa vào phân loại, sắp xếp theo các tiêu chí cần thiết tạo điều
kiện cho việc phân tích, xử lý. Một số thao tác cần thiết như lược bỏ, thay
thế, đảo trật tự từ, cải biến bị động, v.v được sử dụng để kiểm chứng các
luận điểm về ngữ nghĩa thông qua các kết cấu hình thức mà những vị từ này
kiến tạo. Các số liệu được tính toán, thống kê, so sánh để cung cấp cứ liệu
định lượng cho các luận điểm, giải thuyết và kết luận trong nghiên cứu này.
Như vậy, các phương pháp phân tích thành tố (componential analysis),
phương pháp so sánh đối chiếu, kết hợp với các thủ pháp mô hình hóa, phân
tích định tính và định lượng, phân loại, thay thế và cải biến đã được sử dụng
để nghiên cứu trong luận án này.
0.3 Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN CỦA LUẬN ÁN
Về lý luận, các mô hình được xác lập và những tổng kết, phát hiện
trong luận án sẽ cung cấp một cái nhìn mới, toàn diện hơn về cấu trúc nghĩa
biểu hiện của câu có vị ngữ là vị từ đa trị, tiêu biểu là vị từ mang ý nghĩa
trao/tặng. Đặc biệt, các mô hình sẽ thể hiện sáng tỏ hơn các lớp nghĩa và sự
phân bố các vai nghĩa, từ đó có nhận thức rõ ràng hơn về các tham thể và vai
nghĩa của chúng trong cấu trúc nghĩa của câu, nhất là các kiểu mô hình phức
tạp. Luận án cũng góp phần làm sáng tỏ khả năng kết hợp của vị từ đa trị với
hoạt động của chúng trong thực tế.

6
Về thực tiễn, trong giảng dạy ngoại ngữ, luận án đóng góp một số ứng
dụng vào công tác giảng dạy, học tập cũng như dịch thuật liên quan tới câu có
vị ngữ là vị từ đa trị trong tiếng Anh và tiếng Việt, tiêu biểu là vị từ mang ý
nghĩa trao/tặng.
0.4 BỐ CỤC CỦA LUẬN ÁN
Ngoài hai phần mở đầu và kết luận, luận án chia làm 4 chương chính:

Chƣơng 1: Những cơ sở lý luận của luận án

Chương 1 trình bày một số quan điểm nghiên cứu của tác giả nước
ngoài và tác giả Việt Nam về cấu trúc nghĩa của câu, nhất là về cấu trúc nghĩa
biểu hiện của câu cũng như các tham thể trong cấu trúc nghĩa biểu hiện của
câu và vai nghĩa của chúng. Từ đó, những luận điểm cơ bản, thống nhất được
tổng kết làm cơ sở lý luận cho đề tài nghiên cứu. Đồng thời, chương 1 cũng
điểm lại những công trình nghiên cứu đã tiến hành có liên quan ít nhiều, trực
tiếp hoặc gián tiếp tới vị từ trao/tặng. Kết quả của những nghiên cứu đó là
những cơ sở, tiền đề quan trọng cho luận án này.

Chƣơng 2: Các lớp nghĩa và vai nghĩa của ba diễn tố trong cấu trúc
nghĩa biểu hiện của câu với vị từ trao/tặng
Chương 2 phân tách các lớp nghĩa trong cấu trúc nghĩa biểu hiện của
câu với vị từ trao/tặng, phân tích các đặc trưng của ba diễn tố ở các lớp nghĩa
đó và chỉ ra các vai nghĩa cũng như tư cách của chúng.

Chƣơng 3: Cấu trúc nghĩa biểu hiện rút gọn và mở rộng của câu với vị từ
trao/tặng
Chương 3 khảo sát các điều kiện ngữ nghĩa cho phép những tham thể
nhất định vắng mặt cũng như cho phép những chu tố nhất định tham gia vào

7
cấu trúc nghĩa biểu hiện của câu, góp phần rút gọn hoặc phát triển cấu trúc
nghĩa biểu hiện của câu. Qua đó, vị thế, tư cách của những chu tố đó trong
cấu trúc nghĩa biểu hiện của câu cũng được xác định.

Chƣơng 4: Sự thể hiện cấu trúc nghĩa biểu hiện trên cấu trúc cú pháp
của câu với vị từ trao/tặng
Chương 4 tập trung phân tích một số nhân tố ngữ nghĩa tác động tới
cấu trúc cú pháp của câu với vị từ trao/tặng như nhân tố lớp nghĩa, góc nhìn,
quan hệ giữa vật được định vị (trajector) với mốc định vị (landmark), cận

cảnh – hậu cảnh (foreground – background), sự mở rộng nghĩa, v.v. Đây là
sự khảo sát mối quan hệ giữa cấu trúc nghĩa biểu hiện với cấu trúc cú pháp,
nghiên cứu sự ánh xạ (mapping) cấu trúc nghĩa biểu hiện lên cấu trúc cú pháp,
hay hình thức mã hóa các quan hệ ngữ nghĩa qua cấu trúc cú pháp nhằm kiểm
chứng lại những luận điểm về cấu trúc nghĩa biểu hiện của câu với vị từ
trao/tặng qua hình thức cú pháp mà chúng kiến tạo. Tuy nhiên đó là những
mối quan hệ hết sức phức tạp, liên quan tới nhiều vấn đề cú pháp. Do vậy,
luận án chỉ giới hạn phạm vi nghiên cứu vào các quan hệ ngữ nghĩa tác động
trực tiếp tới cú pháp mà thôi. Qua đó cách thức đánh dấu vai nghĩa, biện pháp
nhận diện các vai nghĩa được trình bày rõ ràng, thuận tiện hơn, khắc phục
những điểm nhầm lẫn, mơ hồ hay khó khăn trước đây.
Sau phần kết luận là danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.

8
CHƯƠNG 1
NHỮNG CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA LUẬN ÁN
1.1 QUAN ĐIỂM NGHIÊN CỨU VỀ CẤU TRÚC NGHĨA CỦA CÂU
Đã có nhiều nhà ngôn ngữ học đề cập tới cấu trúc nghĩa của câu từ
nhiều góc độ khác nhau, với những quan điểm khác nhau mà khuôn khổ của
luận án không cho phép thống kê hết được. Dưới đây là một số quan điểm
chính yếu, có ảnh hưởng trực tiếp tới quan điểm tiếp cận của luận án đối với
đề tài nghiên cứu. Nói chung, dù theo cấu trúc luận (structuralism) hay chức
năng luận (functionalism), lấy xuất phát điểm là từ ngữ pháp tới ngữ nghĩa
hay ngược lại, các tác giả đều cùng thống nhất ở những điểm sau:
1.1.1 Về nghĩa của câu
Thứ nhất, nghĩa của câu không đơn giản là một phép cộng nghĩa của
các từ ngữ trong câu mà là một cấu trúc có nhiều tầng. Các tầng nghĩa trong
câu phối hợp với nhau tạo ra cái nghĩa hành chức (nội dung thông báo) của
câu. Nghĩa chính là cái được truyền đạt trong lời nói. “Lớp nghĩa nghĩa học
là lớp nghĩa của sự tình được biểu thị và những vai trò tham gia cái sự tình

ấy” (Cao Xuân Hạo, 1992:8) hay nghĩa của câu là lõi sự tình mang nội dung
thông báo (Frawley, 1992).
Thứ hai, nội dung nghĩa của câu (và của ngôn ngữ) không chỉ là cái
phần phản ánh (biểu hiện, miêu tả) những mảng của thế giới hiện thực (hay
một thế giới nào khác ở bên ngoài ngôn ngữ) mà còn có những mặt khác
không kém phần quan trọng, thậm chí còn quan trọng hơn.

9
1.1.2 Về cấu trúc nghĩa của câu
Cấu trúc nghĩa là cấu trúc cơ sở của câu (Fillmore, 1968), quy định cấu
trúc ngữ pháp của câu. Cấu trúc nghĩa của câu bao gồm một động từ cộng với
một số danh ngữ có các quan hệ được “dán nhãn” (quan hệ cách) đặc biệt với
câu (Fillmore, 1968); nói cách khác, nghĩa của câu là lõi sự tình được thể hiện
bằng vị từ và các tham thể xung quanh nó, trong đó vị từ là trung tâm. Vị từ
là cái lõi xâu chuỗi, liên kết quan hệ giữa các tham thể với nhau để thể hiện
một sự tình nào đó. Đây là một trong những điểm chung trong quan điểm của
Chafe (1970), Frawley (1992), Nguyễn Thị Quy (1995), Nguyễn Văn Hiệp
(2002), Diệp Quang Ban (2004)
1
; v.v.
Ngữ trị của vị từ (gồm kết trị và diễn trị) - giá trị ngữ pháp thống nhất
từ các kết hợp có tính trật tự và các vai diễn có tính chức năng đặc trưng được
xác lập trong ngôn liệu bởi hình thức của những trật tự ngữ đoạn và chức vụ
cú pháp - quyết định số lượng các thành tố nghĩa cũng như thành tố cú pháp
xung quanh nó (Đinh Văn Đức, 2001).
Với tư cách là một đơn vị ngữ nghĩa, mỗi tham thể có một vị trí nhất
định trong cấu trúc ngữ nghĩa, tức là mỗi vị trí trong cấu trúc ngữ nghĩa ứng
với một đơn vị ngữ nghĩa nhất định. Tuy nhiên, trong một số ngôn ngữ thuộc
loại hình đa tổng hợp (polysynthetic), động từ có thể thu hút hoàn toàn danh
từ vào nó, có thể bao gồm trong căn tố của nó cả một số đơn vị ngữ nghĩa của

các danh từ khác nữa (Chafe, 1970). Quá trình này gọi là hiện tượng hợp nhất
- incorporation hay hiện tượng hoà đúc tham tố (argument fusion) (Pinker,

1
Trong công trình này, Diệp Quang Ban không dùng thuật ngữ “vị từ” mà gọi là vị tố (predicator), và coi vị
tố là trung tâm, hay đỉnh của câu. Sự sử dụng thuật ngữ khác nhau này không ảnh hưởng tới quan điểm
chung về vấn đề cái gì đóng vai trò trung tâm trong cấu trúc (cả cấu trúc ngữ nghĩa lẫn cấu trúc ngữ pháp)
của câu.

10
1993). Do vậy, có thể có trường hợp một số đơn vị ngữ nghĩa, kể cả một số
tham thể, không xuất hiện trên cấu trúc bề mặt (s-structure).
Trong các thành tố nghĩa tham gia cấu trúc nghĩa của câu có những
thành tố bắt buộc và những thành tố tuỳ nghi. Những thành tố bắt buộc là
“những vai trò tất yếu được giả định sẵn trong nghĩa từ vựng của vị từ” (Cao
Xuân Hạo, 1992) hoặc “là những yếu tố tất yếu, bắt buộc phải có, bị quy định
bởi bản chất của vị từ trung tâm” (Nguyễn Thị Quy, 1995; Nguyễn Văn Hiệp,
2002). Những thành tố bắt buộc, tất yếu này được gọi bằng nhiều thuật ngữ
khác nhau như diễn tố (actants) (Cao Xuân Hạo, 1992), tham thể (Diệp
Quang Ban, 2004), hoặc “được biểu đạt bởi các từ hoặc các ngữ đoạn gọi
chung là các diễn tố cú pháp” (Nguyễn Thị Quy, 1995; Nguyễn Văn Hiệp,
2002). Còn những thành tố nghĩa không được giả định một cách tất nhiên
trong khung vị ngữ, làm thành cái cảnh trí xung quanh như điều kiện, thời
gian, không gian, cách thức, phương tiện, v.v. là những thành tố tuỳ nghi và
thường được gọi là chu tố (circumstant) (Cao Xuân Hạo, 1992), Cảnh huống
(Diệp Quang Ban, 2004), hoặc “được biểu đạt bởi các từ hoặc ngữ đoạn gọi
chung là các chu tố cú pháp” (Nguyễn Thị Quy, 1995; Nguyễn Văn Hiệp,
2002).
Khác với quan điểm của Fillmore (1968) cho rằng “mỗi quan hệ cách”
(case relation) (mỗi vai nghĩa hay quan hệ nghĩa - semantic relation - giữa

các thành tố nghĩa với vị từ) chỉ xuất hiện một lần trong một câu đơn, tức là
mỗi thành tố nghĩa chỉ đảm nhận một vai nghĩa, các tác giả sau Fillmore như
Chafe (1970), Frawley (1992), Cao Xuân Hạo (1992), Jackendoff (1995),
Diệp Quang Ban (2004), v.v. đều nhận thấy không có quan hệ tương liên một-
đối-một như vậy mà trong thực tế, một thành tố nghĩa có thể đồng thời đảm
nhận nhiều vai nghĩa khác nhau, tức là có nhiều quan hệ nghĩa khác nhau với
vị từ. Thành tố nghĩa đó có thể là thành tố bắt buộc hoặc tuỳ nghi đối với

11
từng vị từ nhất định, và ngay cả đối với một vị từ, đôi khi thành tố tuỳ nghi
cũng có thể hoạt động như thành tố bắt buộc hoặc thay thế cho thành tố bắt
buộc, như Diệp Quang Ban (2004:38) nhận định: “ có những trường hợp
yếu tố chỉ cảnh huống (chu tố) lại hoạt động như tham thể [trong] những
trường hợp đó chúng nằm trong sự thể và giữ một chức năng cú pháp nào đó
trong cấu trúc cơ sở của câu.”
Một cấu trúc ngữ nghĩa của ngôn ngữ này có thể không có tương đương
tuyệt đối trong một ngôn ngữ khác, mặc dù cùng mô tả một sự tình như nhau,
một “kịch cảnh” như nhau. Sự khác nhau đó thể hiện ở số lượng thành tố
nghĩa [bắt buộc] và vai nghĩa của chúng với động từ (Lý Toàn Thắng, 2002).
Một sự tình có thể được nhận thức và mô tả theo nhiều cách khác nhau, bằng
những đơn vị ngữ âm, ngữ pháp khác nhau, hoặc cùng một đơn vị ngữ âm,
ngữ pháp có thể thể hiện nhiều sự tình khác nhau hoặc nhiều phương diện
khác nhau của sự tình (Chafe, 1970). Nói cách khác, „các sự việc được diễn
đạt thông qua cách nhìn được xây dựng nên bởi con người, và được mã hoá
trong ngữ pháp của một ngôn ngữ cụ thể. Vì vậy, cùng một sự việc có thể
được nhìn nhận và diễn đạt theo những cách khác nhau: khác nhau giữa
những người nói khác nhau, đối với các ngôn ngữ khác nhau; và cũng khác
nhau ngay cả đối với cùng một người trong những lần nhìn nhận khác nhau,
khác nhau trong cùng một ngôn ngữ bởi những phương tiện diễn đạt khác
nhau mà ngôn ngữ đó cho phép” (Diệp Quang Ban, 2004:33). Các ngôn ngữ

có thể khác nhau ở những điểm như:
 “trong ngôn ngữ A, một sự tình được nhìn nhận như những quan hệ
không gian thì sang ngôn ngữ B nó lại được biểu thị bằng những quan
hệ khác;

12
 cùng một sự tình nhưng trong ngôn ngữ A nó được nhìn nhận như chỉ
gồm một sự kiện đơn nhất, còn sang ngôn ngữ B thì như hai sự kiện
ghép lại;
 cùng một sự tình nhưng trong hai ngôn ngữ A và B số lượng các yếu tố
của sự tình đó được biểu thị trong cấu trúc nghĩa của câu không bằng
nhau;
 cùng một yếu tố của sự tình nhưng trong hai ngôn ngữ A và B nó được
biểu hiện theo hai cách khác nhau” (Gak, trong Lý Toàn Thắng,
2002:87).
Do đó, khi nghiên cứu cấu trúc nghĩa của câu nói riêng và nghiên cứu
ngôn ngữ nói chung cần kết hợp cả hai hướng phổ quát luận và tương đối
luận, bởi ý nghĩa của ngôn ngữ „về bản chất là mang tính “dĩ nhân vi trung”
(anthropocentric) và “dĩ tộc vi trung” (ethnocentric) (Lý Toàn Thắng, 2002:
94).

Như vậy, về cơ bản các tác giả đều thống nhất với nhau trong quan
niệm về nghĩa câu và cấu trúc nghĩa câu. Trong cấu trúc nghĩa đó, vị từ là
yếu tố quan trọng nhất quyết định số lượng, thành phần các đối tượng tham
gia trong cấu trúc cũng như quan hệ giữa các đối tượng này. Tuy nhiên, phải
khẳng định rằng các tham thể cũng có tác động trở lại đối với vị từ; chúng
quyết định lựa chọn vị từ nào để thể hiện vai trò của mình trong sự tình cũng
như liên kết các mối quan hệ giữa chúng với nhau. Đó là những mối quan hệ
qua lại chứ không phải chỉ là một chiều từ vị từ tới tham thể. Luận điểm này
sẽ được chứng minh trong các phần sau.


13
1.2 QUAN ĐIỂM VỀ VAI NGHĨA CỦA CÁC THAM THỂ TRONG CẤU
TRÚC NGHĨA BIỂU HIỆN CỦA CÂU
1.2.1 Nhận xét chung
Vấn đề vai nghĩa của các tham thể trong cấu trúc nghĩa biểu hiện của
câu là một vấn đề phức tạp và đã được khảo sát, nghiên cứu theo rất nhiều
quan điểm khác nhau. Fillmore (1968) đã đề nghị một danh sách các cách sâu
hay cách ngữ nghĩa (semantic cases) như sau:
 A – Agentive: người/vật (động vật) là chủ thể của hành động do vị từ biểu
thị;
 I – Instrumental: động lực hay vật thể (bất động vật) có quan hệ nhân quả với
hành động hay trạng thái do vị từ thể hiện, hoặc công cụ của hành động do vị
từ thể hiện;
 D – Dative: người/vật (động vật) chịu tác động của trạng thái hay hành động
do vị từ biểu thị;
 F – Factitive: đối tượng hoặc kết quả của hành động hay trạng thái do vị từ
biểu thị, hoặc được coi là bộ phận nghĩa của vị từ;
 L – Locative: địa điểm, vị trí hoặc định hướng không gian của trạng thái
hoặc hành động do vị từ biểu thị;
 O – Objective: cách trung hòa nhất, là bất cứ cái gì có thể do danh từ biểu
thị, đảm nhiệm vai trò gì là do ngữ nghĩa của chính vị từ, nói chung thường
là sự vật chịu tác động của trạng thái hay hành động do vị từ biểu thị
(Fillmore 1968: 24 – 25).
Tuy nhiên, Fillmore cũng chưa thoát khỏi được những giới hạn của cấu
trúc luận hình thức (formal structuralism) và ngữ pháp cải biến-tạo sinh, và
danh sách các cách ngữ nghĩa Fillmore đưa ra còn ít, hơi đơn giản hoá, chưa
thể bao quát một cách thấu đáo và toàn diện về các quan hệ cách mà các danh
ngữ có thể thể hiện, ví dụ như sự mơ hồ, thiếu phân định rõ ràng của Tân cách


14
(Objective Case) mà theo ông là “cách trung hòa nhất, là bất cứ cái gì có thể
do danh từ biểu thị” (Fillmore, 1968: 24-25).
Trên cơ sở danh sách của Fillmore, nhiều tác giả đã phát triển lên và gọi
“cách ngữ nghĩa” bằng những cái tên khác nhau như quan hệ nghĩa – thematic
relations (Gruber, 1976; Jackendoff, 1972), theta-roles (-roles) (Chomsky,
1981; Marantz, 1984), vai tham thể – participant roles (Allan 1986), vai nghĩa
– thematic roles (Dowty, 1991; Jackendoff, 1990), vai ngữ nghĩa – semantic
roles (Dillon, 1977; Givón, 1990) (theo thống kê của Frawley, 1992). Không
chỉ có vậy, từ thập kỷ 1970 của thế kỷ trước cho tới nay khá nhiều vai nghĩa
khác đã được đề xuất thêm (cả ở nước ngoài và ở Việt Nam) như:
 B – Benefactive: Đắc lợi thể trong hành động do vị từ biểu thị;
 C – Comitative: chỉ người hay vật có liên đới với chủ thể trong trạng
thái hay hành động do vị từ biểu thị;
 T – Time: thời điểm của trạng thái hay hành động do vị từ biểu thị;
 S – Source: chỉ điểm xuất phát của sự chuyển động do vị từ biểu thị;
 G – Goal: chỉ mục tiêu, đích của sự chuyển động do vị từ biểu thị;
 Dr – Direction: chỉ phương hướng của sự chuyển động do vị từ biểu
thị;
 E – Extent: chỉ tầm xa của sự chuyển động hay thời gian kéo dài của
một trạng thái hay hành động do vị từ biểu thị;
 Experiencer: nghiệm thể/ Người trải nghiệm;
 Undergoer: Kẻ trải qua quá trình;
 Manner: phương thức;
 Purpose: mục đích;
 Force: lực, sức mạnh của tự nhiên tác động đến một vật gây nên một
quá trình;

15
 Ứng thể: kẻ ứng xử;

 Cảm thể: người hoặc thực thể cảm giác, suy nghĩ hay mong muốn;
 Phát ngôn thể: người hoặc vật phát ra tín hiệu;
 v.v.
Các vai nghĩa được đánh dấu hoặc không đánh dấu theo nhiều phương
thức khác nhau, phổ biến nhất là bằng giới từ. Ví dụ, by - bởi cơ bản là đánh
dấu Tác thể (Agentive), with - bằng/với đánh dấu Công cụ (Instrumental),
giới từ zêrô đánh dấu Objective và Factitive, for – cho đánh dấu Đắc lợi thể,
v.v
Nói chung các tác giả đều thống nhất về định nghĩa các vai, song trong
thực tế đối với việc xác định tham thể nào đóng vai gì trong cấu trúc nghĩa
biểu hiện của câu thì họ lại có những quan điểm hết sức đa dạng. Ví dụ,
Radford (1988) cho rằng vai Đối thể và Thụ thể (Theme and Patient) chỉ là
các tên gọi khác nhau cho cùng một vai nghĩa, nhưng trong thực tế hai vai này
rất khác biệt. Vai Đối thể có thể thể hiện một thực thể chuyển động trong
không gian thực tế hay tưởng tượng dưới tác động của hành động mà vị từ thể
hiện, song không bị thay đổi về thể chất, ví dụ như the rock trong Fred threw
the rock – Fred ném hòn đá. Trong khi đó, vai Thụ thể là thực thể bị tác động
hay biến đổi dưới tác động của hành động mà vị từ thể hiện, ví dụ the rock
trong Fred shattered the rock – Fred đập vụn hòn đá.
Chafe (1970) khẳng định chỉ có một số danh từ nào đó mới có thể làm
Tác thể (Agent) của động từ. Khả năng này phụ thuộc vào đặc trưng ngữ
nghĩa của đối tượng: đó có phải là một đối tượng có năng lực (capacity), có
lực (force) để thực hiện một việc gì đó hay không, một đối tượng tự chủ, kiểm
soát được bản thân (control) hay không. Khái niệm Tác thể (Agent) này có
điểm trùng với khái niệm động vật tính (animate). Tuy nhiên, Chafe lại cho
rằng một số danh từ không có động vật tính mà cũng làm Tác thể, ví dụ:

16
The heat melted the butter
DA nhiệt làm chảy – PAST

2
DA bơ
Cái nóng (đã) làm chảy bơ / bơ chảy
The wind opened the door
DA gió mở - PAST DA cửa
Gió mở cửa / làm cửa mở
The ship destroyed the pier
DA tàu phá huỷ - PAST DA cầu tàu
Con tàu (đã) phá huỷ cầu tàu
Ở đây the heat, the wind, và the ship có năng lực để chúng có thể tiến hành
những hành động nhất định. Như vậy là ông chưa phân biệt giữa Tác thể
(Agent) và lực (Force). Đây là một điểm chưa thỏa đáng trong việc xác định
các vai nghĩa của Chafe.
Ngoài ra, Chafe cho rằng quan hệ giữa danh từ và vị từ trung tâm – mối
quan hệ giữ vai trò căn bản hơn bất kỳ những quan hệ nào khác - là quan hệ
giữa Thụ thể và Tác thể. Song có chỗ Chafe không phân biệt Thụ thể với Đối
thể (Theme), ví dụ ông tuyên bố “tickets và convertible trong Tom has the
tickets và Tom has / owns a convertible (Tôm có những tấm vé và Tôm có / sở
hữu một chiếc xe có thể bỏ mui) là Thụ thể (Patients)”. Ông gộp cả các vai
Nguồn (Source), Đích (Goal), Hướng (Direction) vào vai Vị trí (Location)
(Chafe, 1970:190). Đó là một điểm nữa chưa hợp lý trong quan niệm của
Chafe đối với các vai nghĩa.
Như vậy, sau Fillmore (1968), suốt hai thập kỷ 70, 80 cho tới đầu thập
kỷ 90, hàng loạt các vai nghĩa được đề xuất, với nhiều cách phân loại khác
nhau, xuất phát từ nhiều góc độ khác nhau. Sự phát triển phong phú danh sách
các vai nghĩa đã gây ra khá nhiều vấn đề phức tạp, một tham thể có khi được

2
DA = Definite Article, Mạo từ xác định, PAST - Yếu tố chỉ quá khứ


17
dán nhãn nhiều vai (theta label) khác nhau. Điều này dẫn tới sự chồng chéo
nhiều khi không cần thiết, và số lượng quá lớn, phân biệt quá chi tiết các vai
nghĩa làm cho danh sách vai nghĩa trở nên quá cồng kềnh, khó xử lý khi gặp
những trường hợp phức tạp. Chính vì vậy, vào đầu thập kỷ 90, nhiều nhà
nghiên cứu đã tập trung xử lý, phân loại các vai nghĩa theo những đặc trưng
có tính khái quát hơn cho các ngôn ngữ nói chung, để rồi căn cứ vào đó mỗi
ngôn ngữ cụ thể có sự phân biệt chi tiết hơn tùy theo đặc điểm cụ thể của từng
tiểu loại vai nghĩa trong những phạm trù lớn đó. Tiêu biểu cho những cố
gắng này là Frawley (1992), Van Valin (1993), Jackendoff (1995), Sowa
(1999) và gần đây nhất là Mylne (2000).
1.2.2 Cách phân loại vai nghĩa
1.2.2.1 Frawley (1992) đề xuất rằng trước hết các vai nghĩa được phân
thành các vai diễn tố và phi diễn tố (participant and non-participant roles).
Vai diễn tố là vai của những tham thể bắt buộc tham gia vào cấu trúc nghĩa
của câu, do vị từ đòi hỏi; vai diễn tố thường trả lời cho các câu hỏi “Ai làm gì
với ai?” Vai phi diễn tố là vai của các tham thể tùy nghi, do ngữ cảnh quy
định hơn là do vị từ. Chúng thường trả lời cho các câu hỏi “Tại sao? Ở đâu?
Khi nào? và Như thế nào? Các vai diễn tố bắt nguồn từ sự tương thích giữa
các đặc trưng của tham thể với đặc trưng của vị từ. Vai phi diễn tố còn được
gọi là vai chu tố (circumstantial roles hay circumstant). Trong các vai diễn tố
có hai loại chính: vai lớn (macroroles) và vai không gian (spatial roles). Vai
lớn (macroroles) bao hàm Người/vật thực hiện (actor) hay tiến hành (doer)
hành động do vị từ biểu thị, và Người tiếp nhận (recipient) hoặc chịu tác động
(undergoer) của hành động do vị từ biểu thị; vai không gian có đặc điểm của
cả hai loại vai người thực hiện và người tiếp nhận nên theo Frawley tốt nhất là
xét chúng theo quan điểm không gian. Các vai lớn này bao gồm các vai nhỏ,

18
trong đó vai Actor gồm 3 vai chủ đạo là Tác thể (Agent), Chủ thể (Author) và

Công cụ (Instrument); vai Recipient bao gồm Thụ thể (Patient), Đắc lợi thể
(Benefactive) và Nghiệm thể (Experiencer). Bình đẳng với các vai này là các
vai không gian (spatial roles) bao gồm Đối thể (Theme), Nguồn (Source) và
Đích (Goal). Ngoài 9 vai diễn tố này còn có nhiều vai diễn tố khác, song
chúng đều có thể xem xét theo các vai chính này. Các vai chu tố cơ bản mà
Frawley chú trọng phân tích bao gồm Địa điểm (hay Vị trí –
Locative/Location), Lý do (Reason) và Mục đích (Purpose), Cách thức
(Manner), Lộ trình (Path) và Thời gian (Time).
1.2.2.2 Van Valin (1993) lại có một cái nhìn hơi khác. Ông cho rằng có
hai bậc (tier) vai nghĩa. Trong lý thuyết Ngữ pháp Vai và Quy chiếu (Role
and Reference Grammar) của mình, ông chứng minh rằng việc phân vai của
vị từ không phải là tùy nghi, võ đoán. Từ đó, Van Valin đề xuất cách xây
dựng một chuỗi liên tục (continuum) để thể hiện các vai nghĩa, trong đó Tác
thể đứng ở một cực và Thụ thể ở cực bên kia, còn tất cả các quan hệ nghĩa
(thematic relations), tức là các vai nghĩa khác đứng ở các điểm khác nhau trên
chuỗi đó. Không có sự phân định rạch ròi tuyệt đối các vai, và không có số
lượng tuyệt đối là bao nhiêu vai cho tất cả mọi ngôn ngữ, mặc dù có những
loại vai nghĩa mang tính phổ quát. Cách phân loại của Van Valin được thể
hiện ở Hình 1:

Tác thể Người tác động Nghiệm thể Địa điểm Đối thể Thụ thể
(Effector)

Nguồn Lộ trình Đích Tiếp thể
Hình 1: Chuỗi vai nghĩa (Van Valin, 1993:41)

19
Vai Tác thể, tham thể khởi xướng sự tình một cách có chủ đích nằm ở cực bên
trái, còn Thụ thể, tham thể không khởi xướng sự tình, không chủ đích và bị
tác động tối đa nằm ở cực bên phải. Các vai nghĩa gần với Tác thể hơn được

xếp về phía bên trái, còn các vai nghĩa gần với Thụ thể hơn xếp về phía bên
phải. Cách xếp loại các vai nghĩa như thế này cho phép một độ linh hoạt cao,
phù hợp và thuận tiện để xếp các vai nghĩa tùy theo từng ngôn ngữ cụ thể,
theo các đặc điểm phân biệt cụ thể giữa các vai.
Bậc vai nghĩa thứ hai được gọi là vai lớn (macroroles), giống như cách
gọi của Frawley (1992), với hai vai lớn là Hành thể (Actor) và Bị thể
(Undergoer). Mỗi vai lớn này lại bao hàm nhiều quan hệ nghĩa cụ thể hơn.
Việc xếp chúng vào hai loại vai lớn này là do chúng có những hoạt động cú
pháp giống nhau. Ví dụ như Đối thể và Thụ thể có những chức năng ngữ
pháp giống nhau vì một số mục đích ngữ pháp nhất định. Tuy nhiên, cần thiết
phải phân biệt chúng vì lý do ngữ nghĩa và một số lý do khác nữa. Chẳng hạn
như Tác thể, Người tác động, Nghiệm thể hay Địa điểm có thể làm chủ ngữ
trong câu với vị từ chủ động, trong khi Thụ thể, Đối thể, Địa điểm hay
Nghiệm thể có thể làm tân ngữ trực tiếp (chúng tôi dùng thuật ngữ „tân ngữ‟
(object) để phân biệt với bổ ngữ, vì thực tế chủ ngữ cũng chỉ là một bổ ngữ
cho vị từ mà thôi). Trong câu bị động tiếng Anh, Thụ thể, Đối thể, Địa điểm
hay Nghiệm thể có thể làm chủ ngữ, trong khi Tác thể, Người tác động,
Nghiệm thể hoặc Địa điểm làm tân ngữ cho giới từ by (bởi). Căn cứ vào
những lý do này, Van Valin đề xuất Cấp hệ Hành thể - Bị thể (Actor –
Undergoer Hierarchy) như sau:





20
Actor Undergoer


Tác thể Người tác động Nghiệm thể Địa điểm Đối thể Thụ thể

(mũi tên chỉ sự tăng dần về mức độ được đánh dấu là Vai lớn (macroroles) của các
vai nghĩa)
Hình 2: Actor – Undergoer Hierarchy (Van Valin, 1993:44)

Cấp hệ này cũng thể hiện các quan hệ nghĩa tương tự như chuỗi vai
nghĩa ở Hình 1. Như vậy, mặc dù có khác nhau đôi chút, cả Frawley (1992)
và Van Valin (1993) đều có nhiều điểm chung khi phân các vai nghĩa theo
kiểu vai lớn như thế này.
Tuy nhiên, chúng tôi thấy Van Valin xếp Nguồn, Lộ trình, Đích và cả
Tiếp thể vào cùng một loại Địa điểm như Hình 1 không thể hiện được hết mọi
mối quan hệ tương ứng một cách rõ ràng giữa các vai, ví dụ như quan hệ giữa
Nguồn và Đích, Tác thể và Tiếp thể, đặc biệt là quan hệ giữa chúng trong cấu
trúc tham tố (argument structure), một cấp độ quan trọng trong các cấp độ cấu
trúc câu.

1.2.2.3 Tác giả thứ ba cần được đề cập là Jackendoff (1995). Để có thể
nhìn nhận rõ hơn các vai nghĩa, Jackendoff đề xuất cách tổ chức chúng thành
các bậc (tier) tương tự như Van Valin (1993). Tại bậc không gian (spatial
tier), các vai không gian được phân bổ, bao gồm các vai như Đối thể (Theme),
Đích (Goal), Nguồn (Source), Địa điểm (Location). Bậc không gian này cung
cấp các „tư liệu đầu vào‟ (input) cho bậc hành động (actional tier). Ở bậc hành
động, các vai phi không gian (non-spatial) được phân bổ, bao gồm Tác thể
(Agent), Nghiệm thể (Experiencer), Thụ thể (Patient), Đắc lợi thể

×