Tải bản đầy đủ (.pdf) (53 trang)

Bài giảng Xã hội học văn hóa - TS. Mai Thị Kim Thanh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (390.65 KB, 53 trang )


0


























M ỤC L ỤC

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI


TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

KHOA XÃ HỘI HỌC- BỘ MÔN NÔNG THÔN- ĐÔ THỊ






XÃ HỘI HỌC VĂN HOÁ
(SOCIOLOGY OF CULTURE)



NGƯỜI BIÊN SOẠN:TS. Mai Thị Kim Thanh




Hà nội - 2007


1
MỤC LỤC

Trang

BÀI 1

- Đối tượng, chức năng, nhiệm vụ nghiên cứu của XHH VH 3

I.Vị trí, vai trò của XHH văn hóa 3
II. Đối tượng nghiên cứu của XHH văn hóa 4
III. Mối quan hệ giữa XHH văn hóa với một số chuyên ngành XHH

8
IV. Mối quan hệ XHH văn hóa với một số ngành nghiên cứu VH 10
V. Chức năng và nhiệm vụ của XHH văn hóa 12
BÀI 2 -
Vài nét về sự hình thành và phát triển của XHH Văn hoá 15
BÀI 3- Một số lý thuyết trong nghiên cứu XHHVH 17
I. Lý thuyết của H. SPENCER 17
II. Lý thuyết của HERSKOVITS

17
III. Lý thuyết chức năng luận trong nghiên cứu văn hóa 18
IV. Lý thuyết tương tác biểu trưng

20
V. Lý thuyết Hành vi lựa chọn 22
VI. Lý thuyết chức năng- cấu trúc trong nghiên cứu văn hóa 23
Bài 4- Một số phương pháp tiếp cận trong nghiên cứu XHHVH 25
I. Tiếp cận cấu trúc- chức năng 25
II. Tiếp cận hệ thống 26
III. Tiếp cận sinh thái học 26
IV. Tiếp cận gán nhãn 26
Bài 5- Các thành tố của văn hoá 27
I. Giá trị- chuẩn mực 27
II. Biểu tượng 30
III. Ngôn ngữ 31
IV. Văn hóa dân gian 32

V. Văn hóa- nghệ thuật 33

2
VI. Lối sống 36
VII. Lễ hội 38
Bài 6- Văn hoá qua một số lĩnh vực hoạt động 41
I. Văn hóa trong sự phát triển kinh tế- xã hội 41
II. Văn hóa trong tín ngưỡng tôn giáo 42
III. Văn hóa trong giáo dục 43
IV. Văn hóa đóng vai trò vui chơi giải trí 44
V. Văn hóa đóng vai trò diều chỉnh các quan hệ xã hội 45
Bài 7
-
Một số hướng nghiên cứu cơ bản trong XHH văn hoá 47




















3
BÀI 1
ĐỐI TƯỢNG , CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU CỦA
XÃ HỘI HỌC VĂN HOÁ

Mục tiêu người học cần đạt được:
 Nắm được vị trí, vai trò XHH VH, quan hệ XHHVH với 1 số chuyên
ngành của XHH., một số ngành KHXH khác cũng nghiên cứu văn
hoá
 Nắm được đối tượng, các chức năng, nhiệm vụ của XHH VH
 Hiểu được vị trí, vai trò XHH VH, chức năng , nhiệm vụ của XHH
VH
 Phân biệt được đối tượng XHH VH và đối tượng KHXH khác cũng
nghiên cứu văn hoá
 Phân tích được quan hệ XHHVH và 1 số chuyên ngành của XHH.
 Phân tích được các chức năng, nhiệm vụ của XHH VH

I. VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA XHH VĂN HOÁ
Sự phát triển và tiến bộ của khoa học kĩ thuật ngày hôm nay đã giúp
con người có nhiều khả năng giải quyết những vấn đề mang tính toàn cầu
trong đời sống của mình, nhất là ở Việt Nam, từ sau đổi mới kinh tế (năm
1986). Con người ngày càng có nhiều cơ hội để tiếp xúc, giao lưu với văn
hoá hiện đại, với văn minh tiên tiến nhất của thế giới. Điều này khiến họ có
những thay đổi trong hành động , nhu cầu, lối sống, cách nghĩ theo chiều
hướng tích cực cũng như tiêu cực: kéo nhau ra đường cổ vũ, ủng hộ những
người mà mình coi là thần tượng, là biểu trưng cho sự phát triển văn hoá của
thể thao dân tộc, đến các tụ điểm câu lạc bộ vui chơi, giải trí để sinh hoạt, để

tụ tập nhau vừa ăn uống vừa làm ăn để tạo sự hợp tác, để thi đua, đắm chìm

4
vào các phương tiện điện tử (nhất là trẻ em), các chương trình trò chơi được
cài đặt trong máy vi tính và các đĩa CD, có nội dung xấu…ngày càng phổ
biến trong nhiều tụ điểm công cộng, quan hệ ứng xử giữa con người với
nhau dựa trên sự chi phối của đồng tiền, môi trường bị ô nhiễm nặng do sự
thiếu ý thức của con người tại những khu du lịch, khu công nghiệp, sự không
hiểu hoặc hiểu không cặn kẽ về văn hoá- nghệ thuật dân gian của chính dân
tộc mình, và nạn phá rừng nuôi tôm, săn bắt thú quý hiếm làm mất cân bằng
sinh thái trong thiên nhiên đang ngày càng phỏ biến…Tất cả những thực
trạng đó đều do khoa học hiện đại cùng với những hủ tục trong xã hội cũ
chưa hoàn toàn được xoá bỏ vô hình chung đã tạo ra đòi hỏi cần phải được
giải quyết
Xem xét những biến động xã hội trong bối cảnh thời đại nói chung, của
Việt Nam ngày nay nói riêng dưới góc độ xã hội học và XHH văn hoá cho
thấy: XHH văn hoá (cùng với các chuyên ngành khác của xã hội học như:
XHH gia đình, XHH nông thôn, XHH đô thị, XHH tôn giáo…) cũng sẽ
đóng vai trò không nhỏ trong việc tìm hiểu thực trạng (những giá trị xã hội,
giá trị kinh tế, giá trị phát triển trong các yếu tố văn hoá, sự vận hành của
văn hoá trong cuộc sống hiện tại và tương lai…), phân tích những nguyên
nhân, dự đoán, dự báo hàng loạt các vấn đề văn hoá nảy sinh trong đời sống
xã hội nhằm đáp ứng những mong đợi của xã hội, đưa ra những giải pháp và
có những khuyến nghị mang tính khả thi.
II. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU CỦA XHH VH
II.1. Quan niệm thông thường về văn hoá
Trong quan niệm thông thường, văn hoá được coi là những hành vi tuân
thủ những nguyên tắc hay quy phạm đạo đức, xã giao của các cá nhân một
cách tự nhiên, là cách xử lý những người vi phạm quy tắc một cách chính


5
xác và tế nhị, là trình độ học vấn, những tri thức, sự thành thục, lão luyện mà
con người có được trong hoạt động nhận thức và các hoạt động xã hội.
II.2. Quan niệm các nhà xã hội Phương Đông, Phương Tây về văn hoá
II.2.1. Quan niệm của các xã hội Phương Tây
Ở Phương Tây, từ “văn hoá” bắt nguồn từ động từ tiếng Lating:
“Colo”, “Colere” sau chuyển thành “Cultura” có nghĩa là cày cấy, vun
trồng (
4
), sau này từ “Cultura” chuyển từ nghĩa đen là trồng trọt, làm đất
sang nghĩa bóng là vun trồng tinh thần, trí tuệ, cải thiện và nâng cao tập
quán, hành vi con người.
Trong xã hội phương Tây có ba khía cạnh căn bản được nhấn mạnh
trong các quan niệm về văn hoá:
+ Văn hoá với tư cách là sự phát triển của cá nhân trong xã hội
+ Văn hoá là cái đặc thù của mỗi xã hội với môi trường xã hội nhất
định
+ Văn hoá là cái có thể hoà hợp, đan xen, thâm nhập lẫn nhau giữa các
môi trường văn hoá khác nhau, giữa các vùng, các quốc gia khác nhau trên
qui mô khu vực và thế giới.
Quan niệm của Pháp
Trong từ điển hàn lâm của Pháp, năm 1752 đã chỉ ra rằng: văn hoá “là
nói về sự chăm sóc tới các nghệ thuật của tinh thần” (
5
). Các nhà khai sáng
Pháp (đại diện Mông-tét-xki-ơ (Montesquieu) đã coi sự phát triển của văn
hoá và tình trạng nhà nước là phụ thuộc vào điều kiện khí hậu, địa lý của
khu vực đó; còn Rút- xô (Rouseau) thì lại coi “Văn hoá’’ là hiện tượng xã
hội, tư hữu tài sản là nguồn gốc đồi bại về đạo đức…
Quan niệm của Đức

Ở Đức, từ “Văn hoá” được nhìn nhận đối lập với sự phát triển “tự
nhiên”. Nó thường biểu hiện ở một cá nhân, nhóm hay cộng đồng xã hội và

6
được dùng để nói về các công trình của trí tuệ, tới sự chi phối ngày càng lớn
của con người tới môi trường tự nhiên, môi trường xã hội và cả tới chính bản
thân mỗi người (tự giáo huấn mình để rồi phát triển hình thành cá tính
riêng).
Những quan niệm khác
E.B.Thai-lơ (E.B.Tylor) – ông tổ sáng lập “nhân học văn hoá” trong
cuốn “văn hoá nguyên thuỷ” (1871)(
8
) cũng đã dùng một chương để nói về
văn hoá và coi nó “là một toàn thể phức hợp bao gồm sự nhận thức, tín
ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, tuc lệ và tất cả những khả năng,
thực tiễn khác mà một người có được với tư cách là một thành viên trong
một xã hội”.
R.Linton cũng nhấn mạnh một trong những vấn đề chính của văn hoá
khi coi nó là một biểu hiện đặc thù của sự kế thừa xã hội.
Parsons không muốn đồng nhất văn hoá với sự mô tả về một môi
trường. Nó là sự điều chỉnh những tình cảm, những niềm tin. Nó tái hiện các
giá trị chung là bản chất của một hệ thống hành động gắn với một xã hội (
9)

II.2.2 Quan niệm của các xã hội phương Đông
Ở Phương Đông, từ “văn hoá” được tách ra thành 2 khái niệm riêng là
“Văn” và “hoá”. “Văn” là màu sắc, đường nét giao nhau, là lễ nghĩa, là sự
giáo dục bằng đạo đức, là những cái tốt đẹp của cuộc sống đã được đúc kết
lại ở dạng ký hiệu biểu tượng. “Hoá” là sự cải biến hoá sinh (là quy luật của
tạo hoá sinh sôi nảy nở, là sự hoá dục, là sự giao thoa của hai sự vật dẫn tới

một hoặc cả hai sự vật biến đổi, là đem những điều đã đúc kết được đó hoá
thân trở lại cuộc sống. Như vậy, từ “Văn hoá” được dùng để chỉ một quá
trình gồm hai giai đoạn: xuất phát từ kinh nghiệm sống và quy luật tự nhiên
để trở thành cái văn của con người (nhân văn) và giai đoạn hai là đem cái
“nhân văn” ấy hoá thành cuộc sống (nhân văn hoá thành thiên hạ)” (
11
)

7
II.3. Văn hoá với tư cách là đối tượng nghiên cứu của XHH
Từ lúc sơ khai cho tới nay, các nhà Xã hội học đã luôn nhấn mạnh vào
sự cần thiết phải giải thích đời sống xã hội một cách khoa học và vì thế hăn
hoá hay nói đúng hơn là những thành tố của văn hoá như: tôn giáo, đạo đức,
giáo dục… đã trở thành đối tượng của Xã hội học thông qua các công trình
nổi tiếng của các nhà sáng lập ra bộ môn khoa học này như: E.Durkheim, M.
Werber, M.Mauss… Có người, nhấn mạnh “văn hóa” vào phương diện giá
trị, có người nhấn vào mô hình các thể chế xã hội, vào nếp sống xã hội, vào
phương thức ứng xử, vảo kết quả của hoạt động người, vào hoạt động sáng
tạo trong lịch sử, vào sự thích ứng của con người với môi trường tự nhiên,
vào miêu tả và vào phương diện chức năng của văn hoá. Như vậy, có thể
nhận thấy “văn hoá” (dưới góc độ Xã hội học) có những điểm cơ bản như
sau:
- Là một trong những măt cơ bản của đời sống xã hội
- Là một hệ thống hình thái biểu hiện giá trị của một xã hội, là cấu trúc-
chức năng xã hội, kỹ thuật, thể chế, các hệ tư tưởng… được hình thành
trong quá trình hoạt động sáng tạo của con người, được bảo tồn và
truyển lại cho các thế hệ sau.
- Là khuôn mẫu chuẩn mực qui định các hành vi xã hội. Mỗi cá nhân
muốn trở thành con người xã hội phải tiếp thu, tuân thủ theo các chuẩn
mực đó.( Về phương diện này có thể coi văn hoá của xã hội là mục tiêu

của quá trình xã hội hoá cá nhân và nhóm)
Với cách nhìn văn hoá như vậy nên XHH Văn hoá chính là một lĩnh vực tri
thức Xã hội học ứng dụng nghiên cứu các vấn để sản xuất tinh thần, xây
dựng và truyền bá giá trị tinh thần. Nói cách khác, nó nghiên cứu sự vận
hành xã hội của văn hoá trong xã hội phân tầng (
21
) và đối tượng nghiên cứu
của XHH văn hoá được thể hiện trên hai bình diện:

8
- Cấu trúc- chức năng xã hội của những hình thái biểu thị giá trị xã hội-
bình diện tĩnh.
- Quá trình xã hội của hoạt động sản xuất, phân phối, bảo quản, tiêu thụ
các hình thái biểu thị giá trị xã hội ấy và mối quan hệ biện chứng giữa
các khâu với nhau-bình diện động (
22
)
III. Mối quan hệ giữa XHHVH với một số chuyên ngành trong hệ
thóng các chuyên ngành của XHH
III.1 Mối quan hệ giữa XHH văn hoá và XHH đại cương
XHH văn hoá có nhiệm vụ kiểm chứng các giả thuyết khoa học, phát
hiện những quy luật đặc thù nảy sinh, chi phối các quan hệ xã hội dưới chiều
cạnh văn hoá. Vì thế lý luận XHH văn hoá chính là cầu nối gắn lý luận XHH
đại cương với nghiên cứu Xã hội học các hoạt động của đời sống xã hội dưới
khía cạnh văn hoá. Với sự giúp đỡ của hệ thống khái niệm lý luận Xã hội
học văn hoá mà ta thực hiện được bước chuyển các khái niệm ở mức độ lý
luận XHH đại cương sang khái niệm thao tác và từ cơ sở đó cho phép ta thu
thập được các thông tin thực nghiệm.
III.2. Mối quan hệ giữa Xã hội học văn hoá với Xã hội học nông
thôn và Xã hội học đô thị.

Việc nghiên cứu các thành tố văn hoá, cấu trúc văn hoá của XHH văn
hoá, nhất là sự hình thành và chi phối của hệ giá trị - chuẩn mực văn hoá đối
với hành động của con ngừơi nông thôn, đô thị…không thể không liên quan
tới những nghiên cứu về cách thức tổ chức môi trường sống con ngừơi đô
thị, tới lối sống, tới cung cách quản lý đô thị, tới vấn đề môi sinh… của
XHH đô thị và những hệ thống giá trị của gia đình nông thôn, cung cách ứng
xử, quan hệ gia đình, cộng đồng làng xã, họ tộc…của XHH nông thôn. Ở
đây văn hoá đã điều tiết, ảnh hưởng đến các hoạt động của chủ thể xã hội (

9
các nhóm, các cộng đồng xã hội…) và vùng nông thôn, đô thị trở thành
khách thể nghiên cứu đặc thù về văn hoá cho XHH văn hoá.
Sự gắn bó chặt chẽ giữa XHH văn hoá và XHH nông thôn, XHH đô thị
còn thể hiện ở chỗ các lĩnh vực nghiên cứu này đều nghiên cứu lối sống của
cá nhân, nhóm xã hội
III.3. Mối quan hệ giữa XHH văn hoá với XHH gia đình
Sự gắn bó chặt chẽ giữa Xã hội học văn hoá và Xã hội học gia đình
thể hiện ở chỗ cả hai lĩnh vực nghiên cứu này đều nghiên cứu tác động của
văn hoá với những mặt tích cực và hạn chế của nó tới cá nhân và các nhóm
xã hội trong các tổ chức của nó (gia đình và cộng đồng )
III.4. Mối quan hệ giữa XHH văn hoá với XHH pháp luật
XHH văn hoá và XHH Pháp luật đều chú ý đến hệ giá trị, chuẩn mực
được chuyển hoá vào trong các văn bản pháp lý trong lĩnh vực luật pháp và
trong hoạt động sống của mỗi cá nhân, nhóm xã hội. Nhưng khác với XHH
Pháp luật, XHH văn hoá chú ý đến những giá trị, chuẩn mực được chuyển
vào trong các quy ước thông qua các lề thói, phép tắc đó đã được thực thi
trong xã hội ra sao? Hệ giá trị- chuẩn mực nào của truyền thống đã được
người dân trong cộng đồng hiện nay còn lưu giữ và đang thực thi trong xã
hội? Tác động xã hội của nó tới hoạt động sống của mọi người dân trong
cộng đồng ra sao? Trong khi XHH pháp luật xem xét tác động của luật

pháp tới đời sống xã hội như thế nào? Có nghĩa xem xét sự đánh giá của
cộng đồng đối với sự tuân thủ những chuẩn mực xã hội của cộng đồng, vai
trò của luật sư, toà án tới các vấn đề liên quan tới an ninh, tội phạm ra sao?
Các quan hệ pháp lý và các quy luật đã chi phối các hành vi xã hội trong lĩnh
vực pháp luật ra sao?
Bên cạnh những chuyên ngành đã nói ở trên, Xã hội học văn hoá cũng
còn có những quan hệ với các chuyên ngành Xã hội học khác nữa như: Xã

10
hội học giáo dục, Xã hội học y tế-sức khoẻ, Xã hội học cộng đồng, Xã hội
học tôn giáo… Có thể nói Xã hội học văn hoá như một chuyên ngành Xã hội
học tổng hợp mà trong đó có thể chứa đựng mọi khía cạnh của những đối
tượng nghiên cứu của các chuyên ngành Xã hội học khác nhau trong hệ
thống khoa học Xã hội học. Nó là một chuyên ngành Xã hội học đặc thù vừa
mang tính bao quát chung, vừa có những nét khác biệt với những nét đặc thù
riêng do chính đối tượng nghiên cứu của nó tạo nên.
IV. Mối quan hệ giữa XHH văn hoá với một số ngành KHXH khác
cùng nghiên cứu văn hoá.
IV.1 Quan hệ giữa XHH văn hoá với Triết học văn hoá.
Triết học văn hoá nghiên cứu văn hoá dựa trên 4 hướng tiếp cận: tiếp cận giá
trị học, tiếp cận hoạt động, tiếp cận nhân cách và tiếp cận ký hiệu học. Như
vậy, Triết học văn hoá nghiên cứu văn hoá trong chính sự chuyển động và
phát triển của đời sống xã hội nhằm nhận thức cái “bản thể” của nó. Nó đi
vào bể sâu tìm những mối liên hệ có tính bản chất giữa các sự kiện, từ đó
cho phép ta biết được một dân tộc sống ở đâu, ăn như thế nào, từ đó có thể
nói được dân tộc đó suy nghĩ và ứng xử ra sao và do đó có thể giúp người
đọc có thể suy nghĩ và lý giải các tư liệu văn hoá mà người đó bắt gặp.
Trong quan hệ giữa XHH văn hoá, Triết học văn hoá có ý nghĩa thế giới
quan, phương pháp luận cho XHH văn hoá. Nó cung cấp cho XHH văn hoá
những lý luận khái quát nhất từ bản chất sâu xa nhất của đời sống văn hoá.

IV.2 Quan hệ giữa Xã hội học văn hoá với Dân tộc học văn hoá.
Dân tộc học văn hoá là khoa học nghiên cứu văn hoá và xã hội các tộc
người (thường là ở các xã hội bán khai, hay nói rộng ra là các xã hộ cổ
truyền). Nó quan tâm đến văn hoá trong cách thức ăn, mặc, ở, tổ chức xã
hội, phương thức sống và lao động, các sinh hoạt và sáng tạo tinh thần của
các dân tộc, các quốc gia khác nhau. Nhưng không phân tích khái quát bản

11
chất văn hoá của những yếu tố đó theo trục không gian (chiều ngang) và thời
gian. Nói cách khác, Dân tộc học văn hoá nghiên cứu các văn hoá khác nhau
trong sự thống nhất của cấp độ phân tích lý thuyết chung và kinh nghiệm cụ
thể.
Trong quan hệ với Dân tộc học ( trong đó có dân tộc học văn hoá), Xã
hội học (trong đó có XHH văn hoá), cũng thâu nhận và hoàn thiện bộ máy
khái niệm của mình từ nhiều khái niệm, phương pháp của Dân tộc học như:
thể chế, dân tộc, các hệ thống xã hội, cơ cấu xã hội, biểu tượng, chuẩn mực,
giá trị, phương pháp quan sát, phương pháp phỏng vấn sâu, điền dã…
IV.3. Quan hệ giữa XHH văn hoá với Nhân học văn hoá
Nhân học văn hoá (cùng với nhân học xã hội) là một trong hai nhánh của
Nhân học (Anthropology). Nhân học văn hoá nghiên cứu các hiện tượng văn
hoá từ những không gian và thời gian xã hội khác nhau để đi đến một kết
luận chung về cấu trúc và chức năng của một hay những hình thái thể chế
nào đó (thông qua việc nghiên cứu các hệ thống thân tộc, sự tương tác giữa
ngôn ngữ và văn hoá, những đặc điểm của ăn uống, các hệ thống kinh tế, sự
phân tầng xã hội, ý nghĩa của tôn giáo và nghệ thuật trong các cộng đồng
văn hoá-tộc người). Nó có nhiệm vụ tìm tòi những quy luật chung của sự
vận hành và phát triển xã hội và văn hoá. Phương pháp luận nghiên cứu là
xem xét các sự kiện văn hoá trong mối tương quan với chủ thể của chúng
cùng phương pháp chủ đạo là tham dự và tái dựng mô hình. Trong quan hệ
với XHH văn hóa, Nhân học văn hoá tiếp thu hệ khái niệm của Xã hội học

(trong đó có XHH văn hoá) để làm công cụ cho quá trình khái quát hoá, tổng
hợp của mình, nhất là 3 vấn đề: cơ cấu, chức năng và thể chế- những vấn đề
cơ bản của Xã hội học (
25
) và ngược lại, về phía mình, các nhà XHH văn hoá
cũng vay mượn của nhân học khá nhiều khái niệm và kỹ thuật trong việc
tiếp cận, phân tích văn hoá. Mối quan hệ này khăng khít tới mức có lúc

12
những lý thuyết của hai ngành khoa học này tràn vào một cách khó tách biệt
(
26
), nhất là ngày nay, khi giữa chúng ta lại có những môi quan tâm và cách
tiếp cận gần nhau. Nhiều nhà Nhân học văn hoá đã không chỉ nghiên cứu
các xã hội nguyên thuỷ, mà còn nghiên cứu cả các xã hội hiện đại, cho dù
chúng xuất phát từ những truyền thống khác nhau và có những thành tựu
không giống nhau.
V. Chức năng và nhiệm vụ của Xã hội học văn hoá
V.1. Chức năng của Xã hội học văn hoá
V.1.1 Chức năng nhận thức
Cung cấp những tri thức Xã hội học cơ bản về những quy luật, vận
động, phát triển của các hiện tượng, sự kiện các quá trình…của văn hoá
đang hàng ngày xảy ra xung quanh chúng ta để từ đó tạo cơ sở khách quan
cho việc nhận biết đúng bản chất của nó.
Góp phần hệ thống những hiểu biết của con người về văn hoá
Giúp chúng ta nhận thức được vai trò của văn hoá trong vận hành của
các cá nhân, nhóm, các thiết chế xã hội và trong toàn bộ xã hội phân tầng.
Giúp nhận thức sâu hơn về sự phát triển tương lai của văn hóa, xã hội.
V.1.2 Chức năng thực tiễn, dự báo
Thông qua chức năng nhận thức xã hội học văn hoá giúp các nhà quản

lí có thể đưa ra những quyết định đúng đắn, sáng suốt hướng chúng đí theo
đúng với yêu cầu khách quan của sự phát triển.
Các tài liệu thực nghiệm của các cuộc nghiên cứu XHH văn hoá là
những phương tiện hữu ích để kiểm nghiệm các hoạt động thực tiễn và hoạt
động quản lý văn hoá của con người.
Xã hội học văn hoá góp phần vào việc nghiên cứu, cải thiện chính công
việc quản lý văn hoá, cơ quan quản lý văn hoá, cũng như các phương pháp
quản lý văn hoá.

13
Xã hội học văn hoá còn đóng vai trò quan trọng trong việc dự đoán, dự
báo sự phát triển văn hoá của một xã hội thông qua các nghiên cứu thực
nghiệm cung cấp.
V.1.3 Chức năng giáo dục
Cung cấp tri thức để trang bị cho các cá nhân, nhóm xã hội cách nhìn
nhân, đánh giá những giá trị chân thực của cuộc sống. Thông qua đó giúp
các cá nhân, nhóm, cộng đồng xã hội, đặc biệt các nhà tổ chức, quản lý có
những tri thức phù hợp với tính chất và nhiệm vụ của một xã hội cụ thể
nhằm thoả mãn nhu cầu tồn tại,phát triển văn hoá của xã hội đó và có những
phương sách, định hướng trong việc giáo dục, trồng người (dưỡng dục nhân
cách).
XHH văn hoá còn giúp mỗi cá nhân trong cộng đồng nhận thức đựơc vị
trí, địa vị, vai trò của mình trong hoạt động phát triển nền văn hoá dân tộc.
XHH văn hoá còn đánh thức những phẩm chất tốt đẹp của mỗi cá nhân,
cộng đồng xã hội trong việc định hướng cho họ sống đúng với những giá trị-
chuẩn mực mà chính họ đã xây dựng nên.
V.2. Nhiệm vụ của Xã hội học văn hoá
V.2.1. Nhiệm vụ nghiên cứu lý luận
Nhiệm vụ hàng đầu của Xã hội học văn hoá là hình thành và phát triển
công tác nghiên cứu lý luận và phương pháp luận để vừa củng cố bộ máy

khái niệm, vừa tìm tòi và tích luỹ tri thức nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển
kinh tế xã hội mới-xã hội của sự tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ.
V.2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu ứng dụng.
V.2.2.1 Nghiên cứu các dạng thức hoạt động của văn hoá, quản lý văn hoá .
Thường xuyên tìm hiểu và nắm bắt kịp thời về những các dạng thức
hoạt động (hiện tượng, sự kiện) của văn hoá và quản lý văn hoá đang diễn ra
trong xã hội. Để từ đó có những điểu chỉnh kịp thời.

14
V.2.2.2. Lý giải các dạng thức hoạt động của văn hoá, quản lý văn hoá.
Phân loại các hiện tượng, sự kiện theo các tính chất và mức độ của nó,
tìm ra những đặc trưng, bản chất của văn hoá, những hiện tượng văn hoá
mới nảy sinh trong đời sống xã hội, trong tiến trình đổi mới cùng với những
nguyên nhân xuất hiện của nó, những tác động của nó tới các cá nhân, nhóm,
các thể chế xã hội và đề xuất các giải pháp khả thi nhằm thúc đầy sự phát
triển văn hoá và các hình thức hoạt động của chúng.
V.2.2.3. Xem xét các yếu tố trong cấu trúc của văn hoá và đặt nó cùng
với các dạng thức hoạt động của văn hoá trong mối liên hệ với các cơ cấu
và thiết chế xã hội trong các bối cảnh lịch sử cụ thể.
Tìm hiểu và nhìn nhận văn hoá như là tổ hợp, tích hợp nội dung của
nhiều lĩnh vực, của mọi hiện tượng đa dạng và phong phú trong hệ thống xã
hội, nhất là mối liên hệ chặt chẽ giữa văn hoá và xã hội.
V.2.2.4. Chỉ ra được những cơ sở để phát triển văn hoá.
Nắm vững thực trạng sự vận hành của văn hoá trong đời sống xã hội,
tìm ra những vấn đề còn tồn đọng trong quá trình vận hành, chỉ ra những cơ
sở, xu hướng tất yếu của văn hoá mà nền văn hoá của xã hội sẽ phải trải qua
trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước
Câu hỏi:
1. Trình bày đối tượng nghiên cứu của xã hội học văn hoá
2. Trình bày mối quan hệ giữa xã hội học văn hoá với một số ngành

KHXH khác cũng nghiên cứu về văn hoá.
3. Một giả thuyết khoa học cho rằng: nội dung nghiên cứu của
XHHVH gắn liền với những biến đổi trong đời sống xã hội của con
người (trong lối sống, vui chơi giải trí, thưởng thức văn hóa nghệ
thuật… ) giả thuyết đó đúng hay sai? Hãy chứng minh?


15
BÀI 2
VÀI NÉT VỀ SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA
XÃ HỘI HỌC VĂN HOÁ

Mục tiêu người học cần đạt được:
 Nhớ được một số sự kiện dẫn tới sự hình thành của XHH VH
 Hiểu được lý do căn bản dẫn đến sự ra đời và phát triển của XHHVH
 Phân tích được tính tất yếu và ý nghĩa cơ bản của sự ra đời XHHVH

Ngay từ khi ra đời, các nhà Xã hội học tiền bối sáng lập ra môn khoa
học này đã chú ý tới những thành tố của văn hoá như: tôn giáo, giáo dục, đạo
đức… thông qua các công trình nổi tiếng: “ Các hình thái cơ bản của đời
sống tôn giáo” (E.Durkheim), “Đạo đức tin lành và tinh thần chủ nghĩa tư
bản”(Marx Weber), “khảo sát về quà tặng”(M.Mauss)…Tuy nhiên, phải tới
giữa những năm bảy mươi, Xã hội học văn hoá mới bắt đầu đựơc hình thành
và khẳng định sự tồn tại độc lập của nó bên cạnh các ngành khác của Xã hội
học…Phải đến năm 1985 quá trình này mới hoàn thành và cũng chỉ gần đây
thôi, vào đầu những năm 90 này, Xã hội học văn hoá mới thực sự cho thấy
tầm vóc những biến đổi của nó, buộc các ngành còn lại của bộ môn Xã hội
học phải thừa nhận nó như một ngành Xã hội học chuyên biệt.
Sự chậm trễ được chú ý của Xã hội học văn hoá trong ngành Xã hội
học là do cách mà nó được định vị trong các lý thuyết Xã hội học kinh điển.

Mặc dù các nghiên cứu lịch sử của Max Weber về ảnh hưởng của tôn giáo
tới các thiết chế xã hội và kinh tế rất có ảnh hưởng trong Xã hội học, nhưng
lại tác động trước hết tới Xã hội học VH qua sự ưu tiên cho XHH tôn giáo
Sự thừa nhận của giới Xã hội học với chuyên ngành Xã hội học văn
hoá vào đầu những năm 1990 chủ yếu là ở Mỹ, song nó vẫn chưa được coi là

16
nội dung chính của Xã hội học. Trái ngược với Mỹ, các nhà Xã hội học Pháp
tuy ít chú ý tới sự hình thành một ngành khoa học riêng biệt về văn hoá,
song nơi đây lại có nhiều công trình nghiên cứu Xã hội học văn hoá đồ sộ.
Điều này cho thấy, các nhà Xã hội học văn hoá đã chịu ảnh hưởng tư tưởng
của các nhà XHH kinh điển khi tập trung vào việc nghiên cứu tôn giáo và
cấu trúc xã hội.
Trong những công trình nghiên cứu về Xã hội học văn hoá (từ đầu
những năm 1990), các nhà Xã hội học văn hoá đã phân chúng thành hai
mảng chính là: văn hoá ẩn và văn hoá hiện. Văn hoá ẩn là văn hoá không
được ghi lại và văn hoá hiện là văn hoá được ghi lại.
Ở Việt Nam, những nghiên cứu về văn hoá đã có từ năm 1938 với
cuốn “Việt Nam văn hoá sử cương” của Đào Duy Anh với quan niệm:
phong cách sống, được tiếp cận theo chiều lịch sử. Năm 1943, Nguyễn Văn
Huyên cũng có cuốn: “Văn minh An Nam” bàn tới khái niệm rộng: văn minh
Việt Nam trong tiến trình lịch sử. Những nghiên cứu về văn hoá dưới góc độ
Xã hội học chỉ thực sự có và phát triển ở Việt Nam từ sau năm 1975 khi
phân ban Xã hội học được hình thành Viện khoa học Xã hội (ở T.P Hồ Chí
Minh năm 1977), Uỷ ban KHXH Việt Nam (ở Hà nội năm 1978) và đặc biệt
là việc đưa XHH văn hoá vào trong giảng dạy với tư cách là một chuyên
ngành Xã hội học các Khoa tại một số trường Đại học lớn Việt Nam.
Từ cuối những năm 1990 đến nay, nhiều công trình nghiên cứu dưới
chiều cạnh văn hóa cũng đã được quan tâm và triển khai. Song chưa nhiều
Câu hỏi:

1. Những điều kiện dẫn tới sự ra đời và phát triển XHH Văn hóa trên TG
2. Vai trò các nhà XHH đầu tiên đối với sự ra đời, và phát triển XHH
VH?

17
BÀI 3
MỘT SỐ LÝ THUYẾT VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
CỦA XÃ HỘI HỌC VĂN HOÁ


Mục tiêu người học cần đạt được:
 Nhớ được một số lý thuyết căn bản trong XHHVH
 Hiểu được tầm quan trọng của các lý thuyết
 Có khả năng vận dụng lý thuyết vào trong nghiên cứu thực nghiệm.

I. LÝ THUYẾT CỦA H. SPENCER TRONG NGHIÊN CỨU VĂN
HÓA
Trong các nghiên cứu về văn hoá theo thuyết tiến hoá, H. Spencer
quan niệm các loại hình khác nhau của văn hoá là cơ thể “siêu hữu cơ”.
Các yếu tố văn hoá theo H. Spencer: có sự tồn tại của những bộ phận
chuyên biệt của xã hội, hoặc các thiết chế văn hoá như: gia đình, nghi lễ,
chính trị, nhà thờ, nghề nghiệp và thiết chế công nghiệp. Đây là những thiết
chế cơ bản của đời sống xã hội là: thiết chế gia đình và dòng họ, thiết chế
kinh tế, thiết chế tôn giáo, thiết chế chính trị
Theo ông, sự phát triển văn hoá (Phát triển về khối lượng và số lượng
các yếu tố thành phần của văn hoá) sẽ diễn ra theo xu hướng tích hợp và liên
kết vào trong một chỉnh thể nào đó. Các bộ phận cấu trúc này không giống
nhau và do thực hiện các chức năng theo chuyên môn hoá riêng mà chúng đã
đòi hỏi phải có một cơ chế phù hợp dưới dạng các tổ chức văn hoá.
Dù có những hạn chế trong nhìn nhận, song H.Spencer vẫn được xem

là ông tổ của trường phái chức năng trong nghiên cứu văn hoá.
II. THUYẾT TƯƠNG ĐỐI VĂN HÓA CỦA M.HERSKOVITS

18
Thuyết tương đối văn hóa là sự đánh giá văn hóa khác bằng tiêu chuẩn
của chính văn hóa đó chứ không phải dựa trên những giá trị, tiêu chuẩn của
văn hóa mình. Các bối cảnh xã hội khác nhau làm nảy sinh các giá trị và tiêu
chuẩn khác nhau. Nói cách khác đó là sự thừa nhận các giá trị văn hóa do
các cư dân khác đã và đang tạo ra.
+ Khía cạnh phương pháp luận: Đề cập phương thức nhận thức các văn
hóa trên cơ sở giá trị được thừa nhận ở một cư dân nào đó. Tham vọng hiểu
được văn hóa từ bên trong, nhận thức được ý nghĩa của các hoạt động của nó
thông qua các mong muốn, lý tưởng đang dược phổ biến trong văn hóa đó.
+ Khía cạnh triết học của thuyết tương đối văn hóa: là sự thừa nhận
nhiều con đường phát triển văn hóa, trong chủ nghĩa đa nguyên khi xem xet
một quá trình văn hóa lịch sử. Ông đưa ra ý tưởng về việc cần phải có thái
độ đúng đắn hơn đến việc tổ chức đời sống người trong các văn hóa khác
nhau và việc vận dụng các thành tựu của các cư dân khác nhau vào xã hôi
+ Khía cạnh thực tiễn: sự tôn đối với văn hóa của mỗi cư dân, phủ nhận
thái độ tự tôn, kiêu ngạo trước một nền văn hóa khác. Sự nhìn nhận và đánh
giá những hiện tượng văn hóa trong lịch sử và hiện đại là yếu tố cần cho sự
tồn tại của văn hóa. Đó là biểu hiện “logic của sự phát triển riêng biệt”.
Một khía cạnh thực tiễn khác đó là thái độ đới với các văn hóa cổ xưa.
Ưu điểm: Thuyết tương đối văn hóa khẳng định sự bình đẳng của tất cả các
kiểu văn hóa, phủ nhận sự phân biệt các hệ thống, giá trị văn hóa, hướng tới
chống lại cách giải thích sự phát triển văn hóa lịch sử lấy Châu Âu làm trung
tâm, nhấn mạnh tính độc đáo của văn hóa địa phương . Ngoài ra nó còn có ý
nghĩa phương pháp luận, đạo lý và thực tiên.
Hạn chế: Ông theo đuổi tính độc đáo và tính giá trị tự thân của những thiết
chế đã được tập đoàn người thừa nhận. Đồng thời cực lực phê phán quan

điểm lấy phương tây làm trung tâm nhưng không thay đổi bản chất của nó.

19
III. THUYẾT CHỨC NĂNG LUẬN TRONG NGHIÊN CỨU VĂN
HÓA
III.1. Chức năng luận B.Malinowski –phương pháp nghiên cứu văn hoá.
B.Malinowski khẳng định: bản chất khái niệm văn hoá không phải lúc
nào cũng đơn nghĩa. Khi thoả mãn các nhu cầu sinh vật của mình, con người
tìm kiếm thức ăn, xây dựng nhà ở v.v… và cải tạo môi trường xung quanh.
Lí thuyết nhu cầu là nền tảng trong lí thuyết về văn hoá của ông.
Theo ông, bất cứ văn hoá nào trong tiến trình phát triển của nó đều có
thể tạo ra một hệ thống cân bằng ổn định, trong đó mỗi bộ phận chỉnh thể
đều thực hiện chức năng của nó.
B.Malinowski cho rằng mọi hiện tượng văn hoá đều do những nhu
cầu của con người sinh ra. Ông chia các hiện tượng văn hóa ra thành các hệ
thống chính và tương ứng theo đó là hệ thống nhu cầu cần đáp ứng. Nhóm
nhu cầu tái sản xuất đời sống, nhu cầu phát triển và nhóm nhu cầu dẫn xuất.
Như vậy, quan niệm của B.Makinowski thiên nặng về ý nghĩa sinh vật học
trong đời sống con người mà không chú ý tới phẩm chất mới trong các nhu
cầu này với tư cách một tồn tại xã hội. Ông đã hiểu một cách quá đơn giản
mối liên hệ của những nhu cầu văn hóa này và vì thế đã chia nhỏ một cách
máy móc văn hoá ra thành từng đoạn và đem mỗi đoạn gắn với một nhu cầu
nhất định của bản tính sinh vật của con người. Ông cho rằng văn hoá là một
chỉnh thể, nhưng chính ông lại không nêu lên được tính thống nhất đó trong
chỉnh thể hoạt động của văn hoá với tính cách một hệ thống.
III.2. Lý thuyết A.Racliff Brown. Văn hoá như một tổng thể chức năng.
A.Racliff Brown chủ yếu nghiên cứu tổ chức chính trị của các nền văn
hoá khác nhau, những đặc điểm của hệ thống thân tộc và vai trò của chúng
trong các hệ thống xã hội, sự phân tích chức năng các cấu trúc cảu những


20
hình thành tín ngưỡng nguyên thuỷ…Ông thay khái niệm văn hoá bằng khái
niệm cấu trúc xã hội . Theo ông, khi tìm hiểu các loại hình văn hoá khác, có
lối sống xa lạ cần phải nghiên cứu văn hoá từ bên trong, phải có ý thức đối
với giá trị của các văn hoá,sự hiểu thấu và phân tích cá xã hội giản đơn cổ sơ
Những nghiên cứu của phái chức năng luận theo lối mới đã đẩy vấn đề
về số phận tương lai các nền văn hoá nguyên thuỷ, quản lý các nền văn hoá
khác về bản chất với văn hoá châu Âu (dựa trên cơ sở hiểu biết về cấu trúc
và ý nghĩa chức năng của các yếu tố văn hoá như những cơ chế toàn vẹn) là
một trong những thành quả quan trọng của sự phát triển chức năng luận.
Ý nghĩa của thuyết chức năng đối với Xã hội học văn hoá thể hiện ở
chỗ, bất cứ văn hoá nào cũng cần phải được nhìn nhận dưới cái nhìn thực
hiện các chức năng khác nhau của nó. Về phía chính mình, khái niệm văn
hoá thường đồng nhất với tổng thế các chức năng của nó được thực hiện. Sự
phân xuất ra các chức năng của văn hoá như một cơ chế toàn vẹn xác định ra
các chiều hướng trong nghiên cứu văn hoá, nó tạo ra một cấu trúc đẳng cấp,
bao gồm các tiều hệ thống chức năng của những cộng đồng văn hoá - tộc
người. Các tiểu hệ thống chức năng ấy trở thành đối tượng của sự phân tích
khoa học
IV. LÝ THUYẾT TƯƠNG TÁC BIỂU TRƯNG
Các tác giả nổi bật của thuyết tương tác biểu trưng là Charles Horton
Cooley (1863-1929), George Herbert Mead (1863-1931), Herbert Blumer
(1900-1987), Erving Goffman (1922-1982). Tên gọi của thuyết này là
“tương tác luận biểu trưng” do Blumer đưa ra năm 1937.
Luận điểm trung tâm của lí thuyết tương tác biểu trưng cho rằng, các cá
nhân trong quá trình tương tác qua lại với nhau không phản ứng đối với các
hành động trực tiếp của người khác, mà đọc và lí giải chúng, ở đây mỗi hành

21
đông được gắn cho một ý nghĩa nào đó, gọi là biểu tượng. để hiểu được các

biểu tượng cần phải nhập vai vào vị trí của người đó.
Lý thuyết tương tác “ba ngôi” của George Mead
Quan niệm về “cái tôi” là hạt nhân của lý thuyết tương tác biểu trưng
của Mead. Theo ông, “cái tôi” mà tâm lý học gọi là “bản ngã” thực chất là
một cấu trúc xã hội nảy sinh từ kinh nghiệm xã hội mà cá nhân đã trải qua
trong mối quan hệ “ba ngôi” của: (1) cá nhân với bản thân, (2) cá nhân với
người khác, (3) cá nhân với xã hội.
Có thể gọi lý thuyết tương tác của Mead là lý thuyết tương tác “ba
ngôi” với một nghĩa nữa là trong mối quan hệ với người khác, mỗi cá nhân
đều xuất hiện dưới ba hình thái, ba ngôi là: tôi, bản thân và tự mình. Một
cách tương ứng, ông cho rằng cấu trúc của cái tôi gồm ít nhất hai thành
phần: một là cái tôi chủ thể, hai là cái tôi khách thể mà ông gọi là hai pha,
thành phần thứ ba là cái tôi “tự mình”. Cái tôi này xuất hiện khi cái “tôi-chủ
thể” phân thân để tự nhìn nhận, xem xét và đánh giá chính bản thân nó. Cần
chú ý là cái “tôi tự mình” và “tôi chủ thể” đều nằm trong mối tương tác với
chính bản thân của cá nhân, do đó thuộc về một phe, một phía, đối lập với
cái tôi khách thể luôn nằm trong mối tương tác với người khác, hướng đến
người khác.
Trong mối quan hệ với xã hội, nhờ “cái tôi” con người có các khả năng
hành động quan trọng. Theo ông, trong quá trình phát triển của cá nhân đến
một lứa tuổi nhất định mới hình thành cấu trúc hai pha của “cái tôi”, đến
một giai đoạn nhất định cá nhân mới có khả năng tự phân đôi tức là tự mình
tách ra khỏi chính bản thân mình để nhìn nhận, phân tích, đánh giá về bản
thân mình. Như vậy, cái tôi là một loại cấu trúc xã hội đặc thù nảy sinh, phát
triển trong mối tương tác xã hội với người khác và với chính bản thân mình.

22
Lý thuyết tương tác biểu trưng của Herbert Blumer
Theo Blumer, tương tác biểu trưng là khái niệm dùng để chỉ một đặc
trưng cơ bản của tương tác giữa người với người. Ông đưa ra mô hình tương

tác S-I-R. Qua mô hình này có thể thấy: mối tương tác giữa các cá nhân
được thực hiện thông qua cơ chế lý giải ý nghĩa cử chỉ, hành vi, hoạt động
của các bên tham gia. Quá trình này được gọi là tương tác biểu trưng.
Ông khẳng định tương tác xã hội là tương tác giữa các cá nhân, là
tương tác giữa người với người diễn ra trong những điều kiện của tình huống
xã hội nhất định. Trong đó hành động xã hội của các cá nhân là bộ phận cấu
thành của hành động cùng nhau. Mỗi cá nhân có một vị trí nhất định và thực
hiện những hành động tương ứng để cùng đóng góp vào hành động chung.
Tất cả những yếu tố đó tạo thành cấu trúc xã hội.
Các nghiên cứu theo phương tương tác biểu trưng, phương pháp định
tính bị nghi ngờ tính khoa học từ góc độ thực chứng luận. Blumer hiểu rõ
điều này, vì vậy, ông cho rằng cần thiết phải phân biệt và kết hợp yếu tố lý
thuyết và yếu tố quan sát, hai loại phương pháp luận định tính và định lượng.
Tóm lại, trong các lý thuyết xã hội học, thuyết tương tác biểu trưng gần
với hướng nghiên cứu xã hội học về con người hơn cả. Hàng loạt các khái
niệm cơ bản của xã hội học được xác định theo phương pháp tiếp cận tương
tác biểu trưng. Các tác giả của thuyết tương tác biểu trưng phát triển được
hàng loạt các phương pháp nghiên cứu định tính đang được các nhà xã hội
học tìm hiểu và áp dụng triệt để trong hoạt động chuyên môn nghề nghiệp.
V. THUYẾT HÀNH VI LỰA CHỌN
Thuyết lựa chọn duy lý dựa vào tiên đề cho rằng con người luôn hành
động một cách có chủ đích, có suy nghĩ để lựa chọn và sử dụng các nguồn
lực một cách duy lý nhằm đạt được kết quả tối đa với chi phí tối thiểu

23
Có rất nhiều quan điểm, trong lĩnh vực xã hội học văn hoá đóng góp của
James Samuel Coleman là quan trọng và có ý nghĩa hơn cả. Theo ông, đây
là thuyết duy nhất có khả năng tạo ra mô hình hoà hợp và sử dụng nó như cơ
sở cấp độ vi mô để lý giải hiện tương vĩ mô. Định hướng chọn lựa của ông:
+ “Hành động có mục đích của cá nhân hướng tới một mục tiêu; mục tiêu

đó (và do đó cả hành động) định hình bởi các giá trị hay các sở thích”.
+Các actor chọn lựa hành động của mình nhằm tôí đa hoá các lợi ích hay
sự thoả mãn các nhu cầu, mong muốn của họ.
Có hai thành tố trong lý thuyết của ông: Các actor và các tiềm năng
(khả năng mà chủ thể có và kiểm soát được)
+ Hệ thống tối thiểu 2 và chủ thể này kiểm soát tiềm năng chủ thể kia.
+Các chủ thể có mục đích thực hiện hành động tạo thành hệ thống hành
động. Chính cấu trúc này dẫn đến phụ thuộc nhau giữa 2 chủ thể hành động.
Lý thuyết của ông khá gần với thực tiễn song không phải lúc nào mọi
người cũng cư xử một cách hợp lý.vì thế tuy có những cống hiến có giá trị
đối với xã hội học,song nó cũng không tránh khỏi những thiếu sót, bị lên án.
VI. THUYẾT CHỨC NĂNG- CẤU TRÚC TRONG NGHIÊN CỨU VH
VI.1. Thuyết chức năng - cấu trúc của Talcott Parson
T.Parsons đã vận dụng phương pháp tiếp cân cấu trúc - chức năng để
nghiên cứu văn hoá hiện đại với lược đồ nổi tiếng AGIL như sau :
L I

Hệ thống văn hoá

Hệ thống xã hội

Hệ thống nhân cách

Thực thể hành vi

G A

24
Hệ thống văn hoá : kiểm soát những phương diện khác của xã hội. Nếu
giải thích thay đổi ở mức văn hoá, cần nhìn những biến đổi ở cấp độ văn

hoá.
Hệ thống xã hội : phải được cơ cấu thích hợp nhằm vận hành tương
thích với các hệ thống khác; phải luôn nhận được hỗ trợ từ hệ thống khác;
phải phù hợp nhu cầu cơ bản người hành động; phải khơi gợi được nhiều sự
tham gia các thành viên; phải kiểm soát được nguy cơ xung đột, những hành
vi gây rối loạn chức năng của hệ thống và phải có một ngôn ngữ chung trong
hệ thống.
Hệ thống nhân cách : Là một hệ thồng cá tính mang tính thụ động,
người hành động bị thúc đẩy, thống trị bởi các động năng, văn hoá bởi sự kết
hợp giữa chúng, Người hành động đã học hỏi tự giác, sự chủ quan hoá các
định hướng giá trị, sự tương đồng cho phù hợp vị trí họ nắm giữ trong xã
hội.
Thực thể hành vi : Thực thể hành vi dựa trên cơ chế di truyền.Tổ chức
của nó chịu ảnh hưởng bởi các tiến trình của điều kiện và sự học hỏi xảy ra
trong cuộc đời cá thể, vì thế nó là một hệ thống dư thừa và ít được quan tâm.
Như vậy Parsons đã xem xét xã hội như hệ thống toàn vẹn,để duy trì
tính ổn định của nó và đồng thời nhấn mạnh đến tiểu hệ thống chức năng
(gia đình, giáo dục, kinh tế ) Nhằm bảo đảm giữ gìn trạng thái cân bằng
trong tổng số tác động qua lại giữa chúng mà đối tượng trung tâm trong
công trình nghiên cứu của ông chính là sự nhất thể của nhân cách, hệ thống
xã hội và văn hoá.
VI.2. Thuyết chức năng- cấu trúc của Robert Merton
Merton đưa ra mô hình cấu trúc chức năng dựa trên những điều kiện,
tiền đề cơ bản : tính thống nhất của chức năng xã hội, chức năng phổ quát
luận và định đề tất yếu. Ông phân tích tương quan giữa văn hóa, cấu trúc với

×