Tải bản đầy đủ (.pdf) (180 trang)

So sánh việc thể hiện xã hội trong Kim Vân Kiều truyện (Thanh Tâm Tài Nhân) và Truyện Kiều (Nguyễn Du[145248]

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.26 MB, 180 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN


PHẠM THỊ HỒNG


SO SÁNH VIỆC THỂ HIỆN XÃ HỘI TRONG KIM
VÂN KIỀU TRUYỆN (THANH TÂM TÀI NHÂN)
VÀ TRUYỆN KIỀU (NGUYỄN DU)


LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
MÃ SỐ: 60 22 34



NGƯỜI HƯỚNG DẪN: PGS. TS. TRẦN NHO THÌN



HÀ NỘI: 2009
MỤC LỤC

TRANG
MỞ ĐẦU……………………………………………………………………………
1

CHƯƠNG 1. SỰ HÌNH THÀNH VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA TẦNG LỚP DOANH
NHÂN VIỆT NAM TRONG KẾT CẤU XÃ HỘI- GIAI CẤP THỜI KỲ ĐỔI
MỚI……………………………………………………………………….


1. 1.1 Sự hình thành tầng lớp doanh nhân Việt Nam……………… ……
1.1.1 Quan niệm về tầng lớp doanh nhân Việt Nam……………………



10
10
10
1.1.2 Quá trình và cơ sở hình thành tầng lớp doanh nhân Việt Nam thời
kỳ đổi mới…………………………………………………………………………
18
1.2 Đặc điểm của tầng lớp doanh nhân Việt Nam thời kỳ đổi mới…
28
1.2.1 Đặc điểm về số lượng và chất lượng của tầng lớp doanh nhân Việt
Nam………………………………………………………………………
28
1.2.2 Đặc điểm về cơ cấu của tầng lớp doanh nhân Việt Nam
39
1.2.3 Đặc điểm về vị trí của tầng lớp doanh nhân Việt Nam trong kết
cấu xã hội- giai cấp…………………………………………… …………….
45
CHƯƠNG 2. VAI TRÒ VÀ XU HƯỚNG BIẾN ĐỔI CỦA TẦNG LỚP
DOANH NHÂN VIỆT NAM TRONG KẾT CẤU XÃ HỘI- GIAI CẤP THỜI
KỲ ĐỔI MỚI…………………………………………………………
52
2.1 Vai trò của tầng lớp doanh nhân Việt Nam trong kết cấu xã hội-
giai cấp thời kỳ đổi mới…………………………………
53
2.1.1 Vai trò của tầng lớp doanh nhân Việt Nam trong mối quan hệ với
giai cấp công

nhân………………………………………………………
53
2.1.2 Vai trò của tầng lớp doanh nhân Việt Nam trong mối quan hệ với
giai cấp nông dân…………………… …………………………………….
63
2.1.3 Vai trò của tầng lớp doanh nhân Việt Nam trong mối quan hệ với
đội ngũ trí thức……………………………………………………………
71
2.1.4 Vai trò của tầng lớp doanh nhân Việt Nam trong mối quan hệ với
đội ngũ cán bộ công chức…………………………………………………….
80
2.1.5 Vai trò của tầng lớp doanh nhân Việt Nam trong mối quan hệ nội
bộ………………………………………………………………………………….
88
2.2 Xu hướng biến đổi của tầng lớp doanh nhân Việt Nam trong kết
cấu xã hội- giai cấp thời kỳ đổi mới…………………………………
92
2.2.1 Xu hướng phát triển về số lượng, chất lượng và biến đổi về cơ cấu
của tầng lớp doanh nhân Việt Nam……………………………………
92
2.2.2 Xu hướng liên kết của tầng lớp doanh nhân Việt Nam trong kết cấu
xã hội- giai cấp ………………………………………………………………….
96
2.2.3 Xu hướng quan hệ lợi ích của tầng lớp doanh nhân Việt Nam trong
kết cấu xã hội- giai
cấp………………… ……………………………
102
CHƯƠNG 3. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA
TẦNG LỚP DOANH NHÂN VIỆT NAM TRONG KẾT CẤU XÃ HỘI- GIAI
CẤP THỜI KỲ ĐỔI MỚI………………………………………………

112
3.1 Quan điểm phát huy vai trò của tầng lớp doanh nhân Việt Nam
trong kết cấu xã hội- giai cấp thời kỳ đổi mới……………………
112
3.1.1 Phát huy vai trò của tầng lớp doanh nhân Việt Nam gắn với phát
huy sức mạnh của khối liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp
nông dân và đội ngũ trí
thức…………… ………………………………
112
3.1.2 Phát huy vai trò của tầng lớp doanh nhân Việt Nam phù hợp với
chiến lược phát triển kinh tế- xã hội của đất nước…………………
117
3.1.3 Phát huy vai trò của tầng lớp doanh nhân Việt Nam là nhiệm vụ
chung của các giai cấp, tầng lớp trong kết cấu xã hội- giai cấp, nhưng
trước hết phải từ sự nỗ lực của chính tầng lớp doanh nhân……………
123
3.2 Giải pháp phát huy vai trò của tầng lớp doanh nhân Việt Nam
trong kết cấu xã hội- giai cấp thời kỳ đổi mới………………
129
3.2.1 Nhóm giải pháp nâng cao nhận thức của các giai cấp, tầng lớp
trong kết cấu xã hội- giai cấp xã hội về tầng lớp doanh nhân Việt Nam
129
3.2.2 Nhóm giải pháp tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tầng
lớp doanh nhân Việt Nam trong kết cấu xã hội- giai
cấp……………………
138
3.2.3 Nhóm giải pháp hoàn thiện hệ thống chính sách pháp luật của Nhà
nước trong điều chỉnh quan hệ giữa tầng lớp doanh nhân Việt Nam với
các giai cấp, tầng lớp của kết cấu xã hội- giai cấp……… …………
144

3.2.4 Nhóm giải pháp phát huy trách nhiệm của những tổ chức chính
trị- xã hội và nghề nghiệp đại diện cho các giai cấp, tầng lớp trong kết
cấu xã hội- giai cấp đối với tầng lớp doanh nhân Việt
Nam
154
KẾT LUẬN………………………………………………………………………
159
Danh mục công trình khoa học đã công bố có liên quan đến luận án
161
Danh mục tài liệu tham khảo…………………………………………
163



1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cùng với sự ra đời và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa là sự xuất hiện và phát triển nhanh chóng của tầng lớp DNVN.
Không chỉ có tiềm năng về kinh tế, mà cùng với sức mạnh về trí tuệ và bản
lĩnh của mình, DNVN đang có sự đóng góp ngày càng tích cực vào quá trình
phát triển kinh tế- xã hội của đất nước. Một bộ phận doanh nhân có khả năng
thích ứng với sự biến động của đời sống xã hội, tạo thêm được nhiều ngành
nghề, thu hút được hàng triệu lao động, đạt được nhiều thành tựu trong hoạt
động sản xuất kinh doanh. Nhiều doanh nhân đã có trách nhiệm với cộng
đồng, bước đầu tự giác và sáng tạo trong hợp tác với nhau cũng như liên kết
với các giai tầng xã hội khác nhằm củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết
toàn dân tộc, mở rộng quan hệ hợp tác trong nước và quốc tế, góp phần ổn
định chính trị- xã hội. Thành viên của tầng lớp này xuất thân từ hầu hết các

giai tầng xã hội và đang tồn tại trong mọi ngành nghề sản xuất kinh doanh ở
nước ta
Trong bối cảnh hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu,
DNVN đã và đang bộc lộ không ít nhược điểm. Số lượng doanh nhân ít và
chất lượng còn hạn chế so với lực lượng doanh nhân ở nhiều quốc gia trong
khu vực và trên thế giới. Không nhiều doanh nhân được đào tạo bài bản,
chuyên nghiệp. Tính cộng đồng của DNVN chưa cao. Một số doanh nhân có
những hành vi phạm pháp (như trốn thuế, gian lận thương mại, cạnh tranh
không lành mạnh, ngược đãi, bóc lột cũng như đối xử bất bình đẳng với công
nhân ). Nhìn chung, DNVN còn chưa tích cực, chủ động hợp tác với các giai
tầng khác trong xã hội để củng cố, mở rộng và phát triển hoạt động sản xuất
kinh doanh cũng như nhằm thúc đẩy tất cả các giai tầng xã hội cùng phát
2

triển Việc xây dựng một tầng lớp DNVN lớn mạnh được đặt ra cấp thiết cho
đất nước trên con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá
IX) chỉ rõ: "Coi trọng vai trò của các doanh nhân trong phát triển kinh tế- xã
hội". Ở thời điểm đó, doanh nhân được Đảng ta xếp vị trí thứ tám trong kết
cấu giai tầng xã hội. Đến Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng,
doanh nhân được đưa lên vị trí thứ tư (chỉ sau công nhân, nông dân và trí
thức). Sự sắp xếp thứ tự các giai tầng xã hội trong Văn kiện của Đảng cũng
chỉ mang tính tương đối. Tuy nhiên, việc Đảng ta đưa doanh nhân lại gần hơn
với vị trí của giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức cũng
phần nào chứng tỏ rằng, tầng lớp DNVN đang trở thành một trong những lực
lượng có vai trò quan trọng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa. Kinh tế- xã hội nước ta có thể tiến triển mạnh mẽ và vững chắc
trong thời gian qua, một phần do Đảng đã tạo được sự liên kết giữa tầng lớp
DNVN với các giai tầng trong kết cấu xã hội- giai cấp.
Trong quá trình tồn tại và phát triển của tầng lớp DNVN, còn hàng loạt

vấn đề có tính thời sự đang đặt ra: Doanh nhân là ai? Vị trí và vai trò của tầng
lớp này trong kết cấu xã hội - giai cấp ở nước ta thời kỳ đổi mới? DNVN là
tầng lớp hay là giai cấp, họ có phải là tư sản như những nhà tư sản ở các nước
tư bản không? Nếu là tầng lớp thì DNVN có thể phát triển thành giai cấp
không? Trong xu thế toàn cầu hoá, sự liên kết, hợp tác của tầng lớp DNVN
với các giai tầng khác trong kết cấu xã hội- giai cấp ở nước ta cũng như với
các đối tác trên thế giới sẽ diễn ra theo xu hướng nào? Vai trò lãnh đạo của
Đảng và các tổ chức xã hội đối với tầng lớp DNVN được thể hiện ra sao?
Làm thế nào để phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của tầng lớp
doanh nhân trong kết cấu xã hội- giai cấp ? Tất cả những câu hỏi trên đều
3

đang rất cần câu trả lời thoả đáng nhằm góp phần làm sáng tỏ chiến lược cũng
như con đường phát triển kinh tế- xã hội của Việt Nam.
Để giải quyết những vấn đề cấp thiết trên, phải nhìn nhận đúng đắn về
vị trí và vai trò của các giai tầng trong kết cấu xã hội- giai cấp nước ta, ở đó,
tầng lớp doanh nhân- một tầng lớp xã hội mới, đang vận động và phát triển
mạnh mẽ trong nền kinh tế nhiều thành phần. Phải nêu lên những ưu điểm của
tầng lớp DNVN và tìm cách phát huy những ưu điểm đó. Thẳng thắn chỉ ra
những hạn chế trong quá trình tồn tại và phát triển của tầng lớp xã hội này và
đưa ra giải pháp khắc phục những hạn chế ấy, để tầng lớp DNVN thực sự là
một thành tố hữu cơ trong kết cấu xã hội- giai cấp.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Khoảng gần một thập kỷ trở lại đây, không ít công trình khoa học đã đề
cập đến một số khía cạnh liên quan đến đề tài. Tiêu biểu là những công trình
có tính chuyên khảo sau:
Dưới góc độ triết học, những nghiên cứu về kết cấu xã hội- giai cấp đã
được đặt ra khá sâu sắc. Luận án tiến sĩ triết học của Quản Văn Trung: “Sự
biến đổi của cơ cấu xã hội- giai cấp ở Việt Nam trong quá trình phát triển
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa” (Hà

Nội, 1999) đã phân tích thực trạng từng giai cấp, tầng lớp xã hội, chỉ ra những
đặc trưng, xu hướng biến đổi của cơ cấu xã hội- giai cấp ở nước ta thời kỳ đổi
mới. Công trình cho thấy, cơ cấu xã hội- giai cấp ở Việt Nam đã và đang biến
động khá mạnh mẽ. Sự biến động mạnh mẽ đó còn được thể hiện trong bản
thân mỗi giai tầng xã hội, trong đó có tầng lớp doanh nhân.
Nghiên cứu kết cấu xã hội- giai cấp dưới góc độ tiếp cận của xã hội
học, công trình: "Cơ cấu xã hội và phân tầng xã hội" của Nguyễn Đình Tấn,
NXB Lý luận chính trị (Hà Nội, 2005) đã trình bày những nội dung cơ bản về
cơ cấu xã hội và phân tầng xã hội, đồng thời đưa ra những phân tích thực tiễn
4

về cơ cấu xã hội và phân tầng xã hội ở Việt Nam, những dự báo xu hướng
biến đổi và một số kiến nghị lên các cấp lãnh đạo, quản lý nhằm nhận diện
đúng đắn những biến đổi thực tế về cơ cấu xã hội và phân tầng xã hội, qua đó
có thêm cơ sở khoa học để hoạch định đường lối, đề ra các chính sách đúng
đắn
Bên cạnh những nghiên cứu về thực trạng và xu hướng biến đổi của kết
cấu xã hội- giai cấp ở nước ta là những nghiên cứu về sự tồn tại và phát triển
của thành phần kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa- cơ sở kinh tế của sự hình thành và phát triển tầng lớp DNVN. Với
hướng nghiên cứu này, nổi bật là các công trình khoa học sau:
“Phát triển kinh tế tư nhân định hướng xã hội chủ nghĩa” của Trần
Ngọc Bút, NXB. Chính trị Quốc gia (Hà Nội, 2002). Công trình đã đề cập đến
cơ sở lý luận và thực tiễn phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam và tình hình
phát triển kinh tế tư nhân hiện nay cũng như xu hướng phát triển kinh tế tư
nhân ở nước ta thời gian tới.
Khi đề cập đến vị trí, vai trò của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế nhiều
thành phần; vấn đề quản lý nhà nước đối với kinh tế tư nhân; thực trạng kinh
tế tư nhân ở nước ta và phương hướng phát triển kinh tế tư nhân trong tình
hình mới công trình khoa học: “Kinh tế tư nhân và quản lý nhà nước đối với

kinh tế tư nhân ở nước ta hiện nay”- Hồ Văn Vĩnh (chủ biên), NXB. Chính trị
Quốc gia (Hà Nội, 2003) đã thể hiện khá sâu sắc những nội dung này.
Trong điều kiện toàn cầu hoá diễn ra mạnh mẽ như hiện nay, kinh tế tư
nhân ngày càng thể hiện rõ vai trò tích cực. Công trình: “Kinh tế tư nhân
trong giai đoạn toàn cầu hoá hiện nay”- Viện Thông tin Khoa học xã hội,
NXB. Khoa học Xã hội (Hà Nội, 2003) đã giới thiệu những nét khái quát về
khu vực kinh tế nhạy cảm này qua những nghiên cứu của nhiều chuyên gia
quốc tế. Trước hết, đó là những thay đổi trong nhận thức về phát triển kinh tế
5

tư nhân; những yếu tố tạo nên sự khác biệt giữa chế độ tư bản chủ nghĩa và
chế độ xã hội chủ nghĩa trong suốt nhiều thập kỷ qua. Công trình cũng tập
trung vào luận giải sự tồn tại tất yếu của sở hữu tư nhân trong giai đoạn phát
triển hiện nay: phân tích và đánh giá sự tiến triển đa dạng của nó ở cả phương
Tây và phương Đông
Công trình khoa học: "Đổi mới và phát triển kinh tế tư nhân ở Việt
Nam- Thực trạng và giải pháp” của Lê Khắc Triết, NXB. Lao động (Hà Nội,
2005) đã trình bày thực trạng của kinh tế tư nhân Việt Nam từ những năm
1986 đến nay và góp phần chỉ ra những nhân tố tích cực cùng những cản trở
tiêu cực và đề xuất những giải pháp cho sự đổi mới, phát triển kinh tế tư nhân
Việt Nam.
Cũng phải kể đến công trình khoa học: “Sở hữu tư nhân và kinh tế tư
nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” của Nguyễn
Thanh Tuyền, NXB. Chính trị Quốc gia (Hà Nội, 2006). Công trình này đề
cập đến vị trí, vai trò của sở hữu tư nhân, kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa; thực trạng sở hữu tư nhân và kinh tế tư
nhân trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam và phương hướng xã hội hoá kinh tế
tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Các công trình khoa học bàn về kinh tế tư nhân kể trên mặc dù đã thu
được nhiều kết quả quan trọng, nhưng việc bàn về chủ thể của thành phần

kinh tế tư nhân- tầng lớp doanh nhân với tư cách là một tầng lớp xã hội mới,
chưa được chú ý nhiều.
Nghiên cứu các vấn đề liên quan trực tiếp đến tầng lớp DNVN, có một
số công trình khoa học đáng chú ý: "Doanh nhân Việt Nam xưa và nay" Tập
1, Tập 2, Tập 3- Câu lạc bộ Doanh nghiệp Việt Nam, NXB. Thống kê (Hà
Nội, 2004); "Doanh nhân Việt Nam thời kỳ đổi mới"- Phòng Thương mại và
Công nghiệp Việt Nam, NXB. Chính trị Quốc gia (Hà Nội, 2003); “Hội thảo
6

Văn hoá doanh nghiệp, văn hoá doanh nhân trong quá trình hội nhập”- Báo
điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt
Nam tổ chức (Hà Nội, 2006); “Doanh nghiệp, doanh nhân trong kinh tế thị
trường” của Vũ Quốc Tuấn, NXB. Chính trị Quốc gia (Hà Nội, 2001);
“Doanh nhân viết”, NXB. Trẻ, Thời Báo kinh tế Sài Gòn, (Hà Nội, 2005).
Các công trình khoa học trên là của các tác giả trong nước từ nhiều chuyên
ngành khác nhau, ít nhiều đã bàn về vị trí, vai trò của tầng lớp doanh nhân với
tư cách là một tầng lớp xã hội mới ở Việt Nam trong công cuộc công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước và đưa ra một số phương hướng phát triển tầng lớp
doanh nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam thời gian tới. Tuy nhiên, các công trình khoa học này đều chưa đi sâu
nhìn nhận DNVN trong mối quan hệ chặt chẽ với các giai tầng xã hội.
Nguyễn Hồng Dung và các chuyên gia của PACE đã hoàn thành công
trình khoa học khá công phu: “Lương Văn Can xây dựng đạo kinh doanh cho
người Việt” và “Bạch Thái Bưởi khẳng định doanh tài nước Việt” do Tổ hợp
giáo dục PACE và NXB. Trẻ phát hành năm 2007. Đây là hai phần trong bộ
sách Đạo kinh doanh Việt Nam và thế giới. Hai công trình khoa học trên trình
bày lịch sử hình thành và phát triển nghề kinh doanh của nước ta với những
doanh nhân khởi đầu cho sự hình thành và phát triển của tầng lớp DNVN.
Cũng phải kể đến công trình khoa học do Lê Đăng Doanh làm chủ
biên: “Doanh nhân, doanh nghiệp và cải cách kinh tế” của, NXB. Trẻ. Thời

báo kinh tế (Sài Gòn, 2005). Công trình này là sản phẩm của nhiều nhà khoa
học khác nhau, đã trình bày lý luận chung về doanh nghiệp, DNVN, thực
trạng năng lực của đội ngũ doanh nhân nước ta, những yêu cầu, đòi hỏi đặt ra
cho đội ngũ doanh nhân và cách thức để doanh nghiệp, doanh nhân thành
công trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế Mặc dù vậy, do không hệ
thống và hoàn chỉnh nên công trình chưa mang tính chuyên khảo.
7

Trong khuôn khổ một luận văn thạc sỹ, chuyên ngành quản lý kinh tế,
đề tài: “Phát triển đội ngũ doanh nhân trên địa bàn Quận Cầu giấy Thành
phố Hà Nội” của Nguyễn Văn Thắng, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí
Minh (Hà Nội, 2006), đã tiến hành khảo sát đối tượng nghiên cứu ở quy mô
nhỏ, bước đầu nhìn nhận về tầng lớp doanh nhân và bản chất của khái niệm
doanh nhân, trình bày thực trạng và một số giải pháp nhằm phát triển đội ngũ
doanh nhân trên một phạm vi nhất định.
Cũng liên quan chặt chẽ đến đối tượng nghiên cứu của đề tài, công
trình khoa học: “Giám đốc doanh nghiệp tư nhân hoạt động trong kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay” của Nguyễn Thị
Kim Phương (chủ biên) (Hà Nội, 2004), đã phân tích thực trạng họat động của
chủ doanh nghiệp tư nhân và làm rõ một số yếu tố ảnh hưởng đến nhân cách
của giám đốc doanh nghiệp tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở nước ta, đồng thời đề xuất một số giải pháp nhằm quản lý,
giáo dục đào tạo đội ngũ này trong tình hình mới.
Hội thảo “Chiến lược quốc gia về phát triển doanh nghiệp và đội ngũ
doanh nhân Việt Nam” do VCCI tổ chức tháng 10/2006, đã bàn về tầm quan
trọng của việc xây dựng chiến lược phát triển hệ thống doanh nghiệp cũng
như đội ngũ DNVN trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế
Ngoài ra còn một số công trình khoa học khác liên quan đến hướng
nghiên cứu của đề tài đạt được một số thành quả nhất định…
Từ tình hình nghiên cứu kể trên, có thể thấy, việc nghiên cứu về đối

tượng của đề tài đã và đang được nhiều nhà khoa học quan tâm, khai thác từ
nhiều góc độ khác nhau, trong đó, triết học đã góp một phần tiếng nói của
mình. Tuy vậy, chưa tác giả nào đề cập một cách hệ thống đến vị trí, vai trò
và xu hướng biến đổi của tầng lớp DNVN trong kết cấu xã hội- giai cấp thời
kỳ đổi mới ở nước ta.
8

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
Mục đích: Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về tầng
lớp DNVN trong kết cấu xã hội- giai cấp ở nước ta thời kỳ đổi mới, nêu lên
những quan điểm cơ bản và giải pháp thiết thực để phát huy hơn nữa vai trò
của tầng lớp này ở nước ta hiện nay.
Để đạt được mục đích đặt ra, luận án cần giải quyết những nhiệm vụ
chủ yếu sau:
Thứ nhất, xác định nội dung khái niệm tầng lớp DNVN và những đặc
điểm cơ bản của tầng lớp DNVN; trình bày cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn
của sự hình thành, phát triển tầng lớp DNVN.
Thứ hai, phân tích vị trí, vai trò và xu hướng biến đổi của tầng lớp
DNVN trong kết cấu xã hội- giai cấp thời kỳ đổi mới.
Thứ ba, đề xuất và luận giải một số quan điểm và giải pháp nhằm phát
huy vai trò của tầng lớp DNVN trong kết cấu xã hội- giai cấp hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận án
Về đối tượng nghiên cứu: Tìm hiểu về tầng lớp DNVN đặt trong mối
quan hệ với các giai cấp và tầng lớp khác của kết cấu xã hội- giai cấp nước ta.
Về phạm vi nghiên cứu: DNVN là khái niệm được hiểu theo nghĩa rộng
và nghĩa hẹp, nhưng trong khuôn khổ luận án, chỉ nhìn nhận tầng lớp này theo
nghĩa hẹp, nghĩa là chủ yếu nghiên cứu bộ phận doanh nhân trong khu vực
kinh tế tư nhân ở nước ta hay bộ phận doanh nhân mới (mới hình thành trong
quá trình đổi mới đất nước từ năm 1986 đến nay). Do chưa tìm được từ ngữ
thích hợp ngắn gọn để gọi tên bộ phận doanh nhân này nên tác giả tạm gọi tắt

là tầng lớp doanh nhân Việt Nam và viết tắt là DNVN.
Hiện nay, có một bộ phận DNVN ở nước ngoài (hoạt động sản xuất
kinh doanh ở nước ngoài), nhưng do không có điều kiện nghiên cứu, nên tác
giả chưa xem xét bộ phận doanh nhân này.
9

5. Cơ sở lý luận, phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
của luận án
Về cơ sở lý luận: Trên cơ sở chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Về phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu: Trên cơ sở phương
pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Tác giả sử dụng tổng hợp các
phương pháp nghiên cứu cụ thể, trong đó chủ yếu là phương pháp kết hợp
lôgíc- lịch sử và tiếp cận liên ngành khoa học.
6. Đóng góp về mặt khoa học của luận án
Làm rõ khái niệm và đặc điểm của tầng lớp DNVN.
Đánh giá vị trí, vai trò và xu hướng biến đổi của tầng lớp DNVN trong
mối quan hệ với các giai tầng ở kết cấu xã hội- giai cấp nước ta thời kỳ đổi
mới dưới góc độ triết học.
Đưa ra một số quan điểm và đề xuất các nhóm giải pháp khả thi nhằm
phát huy vai trò của tầng lớp DNVN trong kết cấu xã hội- giai cấp thời kỳ đổi mới
hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Về mặt lý luận: Góp phần làm luận cứ cho đường lối, chính sách của
Đảng và Nhà nước đối với doanh nhân cũng như giải quyết mối quan hệ giữa
các tầng lớp xã hội; làm tài liệu tham khảo cho nghiên cứu và giảng dạy
những vấn đề liên quan đến tầng lớp này.
Về mặt thực tiễn: Góp phần để các giai cấp và tầng lớp xã hội hiểu rõ
và thông cảm hơn với doanh nhân Việt Nam, qua đó điều chỉnh các mối quan
hệ xã hội tiến tới đồng thuận, cùng phát triển trong công cuộc đổi mới đất

nước.
8. Kết cấu của luận án
Luận án gồm: Mở đầu, 3 chương (7 tiết), Kết luận và Danh mục tài liệu
tham khảo.

10

CHƢƠNG I
SỰ HÌNH THÀNH VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA TẦNG LỚP DOANH NHÂN
VIỆT NAM TRONG KẾT CẤU XÃ HỘI- GIAI CẤP
THỜI KỲ ĐỔI MỚI

1.1 Sự hình thành tầng lớp doanh nhân Việt Nam
1.1.1 Quan niệm về tầng lớp doanh nhân Việt Nam
Từ “doanh nhân” theo tiếng Pháp, có nguồn gốc và nghĩa ban đầu là
người tổ chức về giải trí ca nhạc hoặc các hình thức giải trí khác. Từ điển
tiếng Anh (xuất bản năm 1879) cũng định nghĩa doanh nhân theo ý nghĩa
tương tự là giám đốc hoặc người quản lý một tổ chức ca nhạc công cộng có
năng khiếu trong lĩnh vực giải trí đặc biệt là khả năng trình diễn ca nhạc. Đầu
thế kỷ XVI, từ “doanh nhân” được áp dụng vào lĩnh vực quân sự, cụ thể là
những người được tuyển chọn cho những đội quân viễn chinh. Khái niệm này
cũng được mở rộng cho các hoạt động xây dựng dân dụng và xây dựng trong
quân sự ở thế kỷ XVII. Cho đến đầu thế kỷ XVIII, khái niệm doanh nhân sử
dụng trong lĩnh vực kinh tế. Như vậy, sự phát triển của khái niệm doanh nhân
kéo dài hơn bốn thế kỷ, được hiểu theo nhiều cách khác nhau.
Richard Cantillon- Người Ai- len sinh sống tại Pháp lần đầu tiên giới
thiệu thuật ngữ doanh nhân và hàm số chấp nhận rủi ro độc đáo trong kinh tế
học của ông ngay từ đầu thế kỷ XVIII. Ông ta định nghĩa doanh nhân là người
mua các yếu tố sản xuất với một giá cả nhất định để kết hợp chúng trong sản
xuất sản phẩm và bán với giá không chắc chắn trong tương lai. Ông miêu tả

rằng, một người chủ trang trại trả tiền theo hợp đồng đã ký cho người chủ đất
và người làm công theo một giá đã biết nhưng lại bán những sản phẩm theo
giá “không chắc chắn”. Ông nói thêm rằng, những nhà buôn cũng làm như
vậy bằng việc trả tiền trước và mong đợi thu về khoản tiền chưa được xác
định. Vì vậy, họ cũng được gọi là doanh nhân chấp nhận rủi ro.
11

Frank H. Knight- Người sáng lập trường phái kinh tế học Chicago đã
mô tả doanh nhân là một nhóm người được chuyên môn hoá mà gánh lấy
những điều không chắc chắn. Khái niệm không chắc chắn được định nghĩa
như là rủi ro mà không thể bảo đảm và không thể tính toán được. Vì vậy, ông
ta rút ra một điểm khác biệt giữa rủi ro thông thường và điều không chắc
chắn. Một rủi ro có thể được giảm thiểu thông qua các nguyên tắc bảo đảm,
nơi mà sự phân bố kết quả của một nhóm đã được biết. Ngược lại, điều không
chắc chắn là những rủi ro không tính toán được. Người doanh nhân, cũng theo
ý kiến của Knight, là người làm việc trong lĩnh vực kinh tế mà thực hiện các
trách nhiệm về điều không chắc chắn mà tự nó không có bảo đảm, không
được cấp vốn và trả lương.
Jean Baptiste Say- Nhà kinh tế người Pháp đã phát triển khái niệm về
doanh nhân hơn một chút mà đã tồn tại suốt hai thế kỷ. Ông quan niệm:
“Chính doanh nhân là người phán đoán những nhu cầu và nhất là những
phương tiện; vì vậy đức tính chủ yếu của người đó là đầu óc phán đoán. Về
phương diện cá nhân, người đó có thể không cần đến sự am hiểu của mình
bằng cách sử dụng một cách đúng đắn sự am hiểu của những người khác;
người đó có thể tránh không tự mình bắt tay vào việc bằng cách sử dụng bàn
tay của người khác; nhưng người đó không thể thiếu đầu óc phán đoán; bởi vì
nếu như vây, người đó có thể tiêu tốn rất nhiều để làm ra những cái chẳng có
giá trị gì" [Theo 88, 19]. Theo định nghĩa này, Jean Baptiste Say đã gắn khái
niệm doanh nhân với các chức năng điều phối, tổ chức và giám sát.
Joseph A. Schumpeter- Nhà kinh tế người Áo, lần đầu tiên vào năm

1934, đã gắn vai trò cốt lõi của “cải cách” cho doanh nhân trong tác phẩm
chính của mình là “Lý thuyết về Phát triển kinh tế”. Schumpeter đã coi phát
triển kinh tế như là sự thay đổi năng động riêng biệt là do doanh nhân mang
đến bằng cách xây dựng các kết hợp mới về các yếu tố sản xuất (như: cải
12

cách, đổi mới). Ông cũng làm rõ sự khác nhau giữa nhà phát minh và nhà cải
cách. Một nhà phát minh là người khám phá các phương pháp mới và vật liệu
mới. Nhưng đối với nhà cải cách thì tận dụng các phát minh mới và khám
phá mới để tạo ra những sự kết hợp mới.
H.N. Casson- Nhà kinh tế người Pháp đã ghiên cứu toàn diện hơn về
doanh nhân. Ông nêu ra 2 phương pháp định nghĩa doanh nhân: Theo chức
năng và theo hình thức biểu thị hay còn gọi là địa vị pháp lý. Phương pháp
định nghĩa theo chức năng chỉ ra chức năng nhất định và những ai thực hiện
chức năng này sẽ được coi là doanh nhân. Phương pháp xác định theo hình
thức biểu thị đưa ra sự mô tả cách nhận ra doanh nhân theo cách mà anh ta
được thừa nhận. Không giống như định nghĩa theo chức năng, định nghĩa theo
hình thức biểu thị mô tả doanh nhân theo địa vị của anh ta có thể là về pháp lý
hoặc xác định theo quan hệ hợp đồng với các bên khác, địa vị của anh ta trong
xã hội.
Hai phương pháp tiếp cận của H.N. Casson về doanh nhân đã được sử
dụng làm cơ sở để hiểu về doanh nhân một cách khách quan. Redlich đã tìm
cách mô tả các chức năng nhất định cuả doanh nhân và không phải của doanh
nhân. Ông chia chức năng doanh nhân làm 3 phần: 1. Nhà tư bản: Người cung
cấp tư bản (vốn) và các nguồn lực không phải là con người; 2. Nhà quản lý:
Người giám sát và điều phối các hoạt động sản xuất; 3. Doanh nhân: Người
lập kế hoạch, người ra quyết định cuối cùng trong doanh nghiệp sản xuất. ở
đây doanh nhân được hiểu là người tham gia riêng vào quá trình sản xuất. Vai
trò chịu trách nhiệm rủi ro tài chính, tổ chức nguồn lực và chịu trách nhiệm về
các hoạt động quản lý được coi không phải là vai trò doanh nhân. Khái niệm

doanh nhân gắn liền với ba thành phần là: chấp nhận rủi ro, tổ chức và cải
cách. Một doanh nhân có thể được xác định như là một người đang cố gắng
tạo ra những giá trị mới, tổ chức sản xuất và chấp nhận các rủi ro mạo hiểm
13

và xử lý các yếu tố không chắc chắn mang tính kinh tế liên quan đến doanh
nghiệp.
Ở Việt Nam, giáo sư Hoàng Phê quan niệm rằng, doanh nhân là “người
làm nghề kinh doanh” [75, 218]. Bách khoa toàn thư tiếng Việt định nghĩa:
"Doanh nhân được hiểu là những người chủ chốt trong việc quản trị, điều
hành một doanh nghiệp. Đó có thể là những người đại diện cho các cổ đông,
cho các chủ sở hữu (thành viên Hội đồng Thành viên, Hội đồng Quản trị, Ban
Kiểm soát) hoặc trực tiếp điều hành các doanh nghiệp (thành viên Ban Giám
đốc). Theo nghĩa rộng thì doanh nhân là những người có vị trí trong một
doanh nghiệp và làm công việc quản trị trong doanh nghiệp" [110].
Có quan điểm cho rằng, doanh nhân là người làm nghề kinh doanh
(buôn bán) có nghĩa là kinh doanh đồng nhất với thương nghiệp và doanh
nhân đồng nhất với thương nhân. Thực tế thì, kinh doanh là khái niệm có nội
dung rộng hơn thương nghiệp và doanh nhân là khái niệm có nội hàm rộng
hơn thương nhân. Chữ doanh cũng có nghĩa là quản lý, còn kinh doanh là
quản lý kinh tế.
Điều 4, Luật Doanh nghiệp năm 2005 giải thích: “Kinh doanh là việc
thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư,
từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm
mục đích sinh lợi” [57, 22]. Pháp luật thuế hiện hành ở nước ta quy hệ thống
các hoạt động kinh doanh trong xã hội vào sáu ngành lớn: sản xuất, thương
nghiệp, ngành ăn uống, dịch vụ, xây dựng và vận tải. Kinh doanh là khái niệm
bao trùm cả ba lĩnh vực là sản xuất hàng hoá, buôn bán và dịch vụ. Doanh
nhân hay nhà kinh doanh là đối tượng tham gia một hoặc nhiều ngành hoạt
động nói trên trong nền kinh tế nhằm mục đích cơ bản là tìm kiếm lợi nhuận.

14

Hiện nay ở nước ta, có nhiều khái niệm liên quan đến khái niệm doanh
nhân. Nhìn nhận dưới góc độ triết học, có thể thấy, nội dung của khái niệm
doanh nhân có sự tương đồng cũng như đan xen với một số khái niệm sau:
Thương nhân là từ Hán Việt, trong đó: thương là thương nghiệp, trao
đổi và mua bán hàng hoá và nhân là người. Như vây, thương nhân là khái
niệm chỉ một lớp người hoạt động trong lĩnh vực trao đổi, mua bán hàng hoá,
xúc tiến thương mại, đầu tư và cung ứng dịch vụ. Hoạt động của lớp người
này nhìn chung là tách khỏi hoạt động sản xuất. Luật Thương mại quy định:
“Thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân
hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh
doanh” [58, 9].
Người sử dụng lao động, trong Điều 6 Bộ luật lao động quy định:
“Người sử dụng lao động là doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân, nếu
là cá nhân thì ít nhất phải đủ 18 tuổi, có thuê mướn, sử dụng và trả công lao
động” [12, 7]. Người sử dụng lao động có thể là doanh nhân nếu họ là cá nhân
đủ 18 tuổi trở lên, được cấp giấy phép hành nghề kinh doanh theo Luật Doanh
nghiệp, có thuê mướn, sử dụng và trả công lao động theo quy định của pháp
luật
Chủ doanh nghiệp thường được hiểu là người đứng đầu doanh nghiệp,
tự bỏ vốn, thuê (hay huy động) các nguồn lực để thực hiện công việc sản xuất,
kinh doanh hay dịch vụ nhằm thu lợi nhuận.
Giám đốc doanh nghiệp là khái niệm không dùng để phân biệt tính
chất sở hữu. Giám đốc doanh nghiệp có thể hoạt động trong doanh nghiệp
thuộc khu vực kinh tế tư nhân hay doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế nhà
nước. Giám đốc doanh nghiệp có thể là chủ sở hữu doanh nghiệp hay là người
được chủ sở hữu doanh nghiệp uỷ quyền để hoạch định, quản lý, điều hành
15


một doanh nghiệp và chịu trách nhiệm trước doanh nghiệp, pháp luật, xã hội
về các quyết định trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
Người quản lý doanh nghiệp, trong Luật Doanh nghiệp năm 2005 quy
định phạm vi điều chỉnh của Luật là “người đứng đầu công ty trách nhiệm
hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân thuộc
mọi thành phần kinh tế” [57, 21]. “Người quản lý doanh nghiệp là chủ sở hữu,
giám đốc doanh nghiệp tư nhân, thành viên hợp danh công ty hợp danh, Chủ
tịch Hội đồng thành viên, Chủ tịch công ty, thành viên Hội đồng quản trị,
Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và các chức danh quản lý khác do Điều lệ
công ty quy định” [57, 24].
Trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khoá IX, Đảng ta đã chủ trương: "Đối với các nhà doanh nghiệp: Coi
trọng vai trò của các doanh nhân trong việc phát triển kinh tế- xã hội " [6,
41]. Như vậy, Đảng ta đã đồng nhất nhà doanh nghiệp với doanh nhân.
Những khái niệm: chủ doanh nghiệp, giám đốc doanh nghiệp và người
quản lý doanh nghiệp hay nhà doanh nghiệp là những khái niệm có nội dung
tương đồng với khái niệm doanh nhân (theo nghĩa rộng hoặc nghĩa hẹp).
Căn cứ vào những quan niệm trên, khái niệm DNVN có thể được nhìn
nhận theo nghĩa hẹp và nghĩa rộng.
Theo nghĩa hẹp, DNVN là khái niệm chỉ những người Việt Nam đứng
đầu các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân, đại diện cho doanh
nghiệp trước pháp luật, có khả năng lãnh đạo, quản lý và tham gia lãnh đạo,
quản lý doanh nghiệp.
Theo nghĩa rộng, DNVN là những người Việt Nam trong cơ cấu tổ
chức quản lý doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế; họ có thể là chủ sở
hữu (hay tham gia sở hữu, thậm chí không sở hữu) tư liệu sản xuất và do đó
16

quản lý (hay tham gia quản lý) sản xuất, phân phối (hay tham gia phân phối)
sản phẩm lao động.

Theo cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp, DNVN là những chủ thể người Việt
Nam, không nhất thiết phải tham gia sở hữu tư liệu sản xuất trong doanh
nghiệp, không nhất thiết phải trực tiếp phân phối sản phẩm lao động, nhưng
doanh nhân phải là người chịu trách nhiệm quản lý và điều hành doanh
nghiệp. Trên thực tế, nhiều doanh nhân không cần bỏ tiền ra thành lập doanh
nghiệp hay sở hữu cổ phần của doanh nghiệp, nhưng vẫn tham gia hiệu quả
vào nền kinh tế quốc dân dựa trên việc huy động tiền của xã hội.
Cần tránh đồng nhất tất cả cổ đông với doanh nhân, vì cổ đông có thể
chỉ là những người góp vốn vào công ty (chẳng hạn như bằng hình thức mua
cổ phiếu). Cổ đông không nhất thiết phải là người trực tiếp quản lý, điều hành
doanh nghiệp cũng như chưa chắc đã đứng trong cơ cấu tổ chức quản lý
doanh nghiệp. Cho dù là cổ đông lớn, có khả năng tổ chức, lãnh đạo doanh
nghiệp, nhưng không tham gia vào công tác tổ chức, lãnh đạo doanh nghiệp
với tư cách là thành viên trong cơ cấu tổ chức lãnh đạo doanh nghiệp, thì cũng
không được xem là doanh nhân.
Nói đến doanh nhân là nói đến một chủ thể đặt trong mối quan hệ biện
chứng với một cơ sở sản xuất, kinh doanh hay dịch vụ. Một trong những mối
quan hệ cơ bản ràng buộc doanh nhân với cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ
là quan hệ tổ chức, lãnh đạo. Như vậy, theo nghĩa rộng, những người đứng
trong cơ cấu tổ chức lãnh đạo, chịu trách nhiệm quản lý, lãnh đạo những
doanh nghiệp nhà nước cũng được coi là doanh nhân.
Vấn đề đặt ra là, gọi DNVN là tầng lớp hay giai cấp? Để làm rõ vấn đề
này, cần nhìn nhận lại hai khái niệm cơ bản: tầng lớp và giai cấp.
Cho đến nay, khái niệm “tầng lớp” chưa được nhiều nhà khoa học đề
cập đến cũng như chưa được định hình một cách rõ ràng . Theo Từ điển tiếng
17

Việt điện tử Vi.wiktionary.org, thì: “Tầng lớp là tập hợp những người thuộc
một hoặc nhiều giai cấp trong xã hội, có địa vị kinh tế, xã hội và những lợi ích
như nhau”.

Trong tác phẩm Sáng kiến vĩ đại, V.I.Lênin định nghĩa : “Người ta gọi
giai cấp, những tập đoàn to lớn gồm những người khác nhau về địa vị của họ
trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử, khác nhau về quan
hệ của họ (thường thường thì những quan hệ này được pháp luật quy định và
thừa nhận) đối với những tư liệu sản xuất, về vai trò của họ trong tổ chức lao
động xã hội, và như vậy là khác nhau về cách thức hưởng thụ và về phần của
cải xã hội ít hoặc nhiều mà họ được hưởng. Giai cấp là những tập đoàn người
mà tập đoàn này có thể chiếm đoạt lao động của tập đoàn khác do chỗ các tập
đoàn đó có địa vị khác nhau trong một chế độ kinh tế xã hội nhất định” [50,
17-18]
Căn cứ vào định nghĩa tầng lớp và giai cấp ở trên, có thể thấy rằng,
DNVN hiện nay là một tầng lớp xã hội. Bởi vì: Thứ nhất, số lượng thành viên
trong tầng lớp xã hội này chưa đủ để trở thành “tập đoàn người to lớn”. Thứ
hai, giai cấp luôn tồn tại gắn liền với phương thức sản xuất nhất định trong
lịch sử, trong khi DNVN được nảy sinh và phát triển trong điều kiện nền kinh
tế quá độ lên chủ nghĩa xã hội- nền kinh tế không có phương thức sản xuất
thống trị. Với sự đang định hình của các phương thức sản xuất trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội, thì các giai tầng xã hội tương ứng với các
phương thức sản xuất đó cũng đang trong quá trình hình thành và phát triển.
Ở nước ta, khu vực kinh tế tư nhân mới có bước phát triển mạnh mẽ trong
thời kỳ đổi mới, chủ thể của khu vực kinh tế này cũng từ đó mà mới hình
thành, do vậy, không thể coi lực lượng này là một giai cấp xã hội.
Tầng lớp DNVN hiện nay được cấu thành từ các bộ phận chủ yếu như:
bộ phận doanh nhân trong khu vực kinh tế nhà nước, bộ phận doanh nhân
18

trong khu vực kinh tế tập thể và bộ phận doanh nhân trong khu vực kinh tế tư
nhân. Và như đã trình bày, DNVN theo nghĩa hẹp, nghĩa là bộ phận doanh
nhân trong khu vực kinh tế tư nhân, bao gồm: thành viên hội đồng quản trị
trong công ty cổ phần tư nhân; chủ sở hữu, chủ tịch, giám đốc hoặc tổng giám

đốc công ty trách nhiệm hữu hạn tư nhân; giám đốc doanh nghiệp tư nhân;
thành viên hợp danh của công ty hợp danh tư nhân. Bộ phận doanh nhân này
còn được gọi là doanh nhân mới (“mới” theo nghĩa mới tái hình thành gần
đây, trong thời kỳ đổi mới đất nước). Do chưa tìm được từ ngữ thích hợp
ngắn gọn để gọi tên bộ phận DNVN trong khu vực kinh tế tư nhân mới hình
thành này, nên tạm gọi tắt là tầng lớp doanh nhân Việt Nam và viết tắt là
DNVN. Đây là đối tượng chuyên bàn đến trong luận án.
1.1.2 Quá trình và cơ sở hình thành tầng lớp doanh nhân Việt Nam thời kỳ
đổi mới
Để hiểu rõ hơn về tầng lớp DNVN thời kỳ đổi mới đất nước, cần nhìn
lại đôi chút về quá khứ của tầng lớp này. Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, nói
chung vị thế của doanh nhân nước ta chưa được đánh giá đúng mức. Hiện
nay, vị thế của DNVN đã được nâng lên, không chỉ trong văn bản, nghị quyết
mà còn trong thực tiễn đời sống. Nhìn nhận DNVN với tư cách là một tầng
lớp xã hội có tính lịch sử để thấy sự hình thành và phát triển của nó là cần
thiết, tất yếu trong quá trình hoạch định chủ trương, đường lối, chính sách
của Đảng và Nhà nước.
Trong xã hội phong kiến ở nước ta, việc buôn bán không được xã hội
coi trọng. Nhà nước phong kiến với cơ chế “trọng nông ức thương” khiến cho
sự trao đổi hàng hóa khó phát triển, làm cho mọi mặt của đời sống mang đậm
tính chất tự cấp tự túc. Hệ tư tưởng phong kiến lại bị ảnh hưởng bởi quan
điểm của Nho giáo: coi thường chữ lợi, coi thương nhân là gian trá, ép thương
mại trở thành nghề xếp sau cùng trong xã hội (sĩ, nông, công, thương) đã
19

gián tiếp kìm hãm kinh tế hàng hóa, và do đó cản trở sự hình thành và phát
triển của tầng lớp DNVN.
Vào giữa thế kỷ XIX, khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, chủ nghĩa
tư bản với những đặc trưng của phương thức sản xuất mới, là một trong
những cơ sở hình thành tầng lớp DNVN. Thời kỳ này, kinh tế tư bản ngoại

quốc đã làm lung lay tính chất tự nhiên của nền kinh tế Việt Nam. Hệ quả là,
nền kinh tế hàng hóa ở nước ta phát triển, lực lượng công nhân làm thuê xuất
hiện ngày càng nhiều, có tác dụng kích thích sự phát triển khách quan của
thành phần kinh tế tư bản tư nhân Việt Nam. Sự phát triển của sản xuất hàng
hóa cùng với hoạt động thương mại sôi động đã thúc đẩy một số nhà sản xuất
công nghiệp nước ta ra đời. Tuy nhiên, hoạt động của họ còn nhỏ lẻ và rời
rạc.
Trong chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914- 1918), tận dụng cơ hội
khi thực dân Pháp đang tham gia vào cuộc chiến, DNVN đã tranh thủ mở
rộng sản xuất kinh doanh trong một số ngành nghề và nhanh chóng củng cố
tiềm lực kinh tế. Cũng từ đây, tầng lớp DNVN thực sự hình thành và phát
triển nhanh về số lượng, chất lượng và bắt đầu một quá trình tích lũy vốn, tri
thức, kinh nghiệm… để cạnh tranh với tư bản nước ngoài. Tuy nhiên, trong xã
hội thuộc địa, đội ngũ doanh nhân nước ta khó thoát khỏi sự lệ thuộc cả về
kinh tế và chính trị vào chủ nghĩa thực dân. Những doanh nhân tiêu biểu như
Lương Văn Can, Bạch Thái Bưởi, Nguyễn Sơn Hà đã không thể cạnh tranh
được với tư bản nước ngoài.
Như vậy, đã có một bộ phận DNVN được hình thành trong xã hội thuộc
địa (trước Cách mạng Tháng Tám- 1945 ), nhưng cả về số lượng và chất
lượng, còn nhiều hạn chế. Địa vị kinh tế cũng như chính trị của tầng lớp
DNVN chưa được khẳng định rõ ràng để tầng lớp này trở thành một lực lượng
chính trị- xã hội độc lập. Theo số liệu thống kê, toàn bộ lực lương nòng cốt
20

của tầng lớp tư sản dân tộc Việt Nam vào cuối những năm 20 của thế kỷ XX
chỉ vào khoảng 2000 người, chiếm 0,1% dân số cả nước.
Lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc, có một vị nguyên thủ quốc gia quan
tâm tới tầng lớp doanh nhân (thời điểm đó gọi là giới công thương). Chỉ sáu
tuần sau ngày độc lập, 13/10/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết một bức thư
gửi đến giới công thương để khích lệ tinh thần kinh doanh làm giàu cho Tổ

quốc. Tinh thần đó còn được đưa vào một chỉ thị của Trung ương Đảng (ngày
25/11/1945): “Mở lại các nhà máy do Nhật bỏ, khai thác cả mỏ, cho tư nhân
góp vào việc kinh doanh các nhà máy và mỏ ấy, khuyến khích giới công
thương mở hợp tác xã, mở các cổ phần tham gia kiến thiết lại nước nhà [28,
27-28].
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ (1954), miền Bắc đã hoàn toàn giải
phóng nhưng do chiến tranh tàn phá, kinh tế bị ảnh hưởng nặng nề và đi vào
giai đoạn suy thoái. Trước tình hình đó, Đảng ta đã chủ trương tận dụng mọi
nguồn lực để nhanh chóng khôi phục kinh tế; nhờ đó, kinh tế miền Bắc được
phục hồi nhanh chóng, kinh tế cá thể, tiểu chủ và tư bản tư doanh phát triển
khá mạnh mẽ. Sau ba năm khôi phục kinh tế, cả nước ta đã xuất hiện trên ba
nghìn cơ sở tư bản tư doanh, cá thể, tiểu chủ.
Bước vào thời kỳ xây dựng nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, sản xuất
hàng hoá không được công nhận là hình thức kinh tế phù hợp với con đường
xây dựng chủ nghĩa xã hội; khu vực kinh tế tư nhân bị coi là “phi xã hội chủ
nghĩa”, chủ doanh nghiệp tư nhân là đối tượng phải "cải tạo" Đảng, Nhà
nước ta đã đề ra chính sách quốc hữu hóa và tập thể hóa các cơ sở sản xuất
kinh doanh tư nhân, hạn chế tối đa sự hình thành và phát triển của tầng lớp
DNVN.
Từ cuối năm 1960, kết cấu kinh tế miền Bắc chỉ còn hai thành phần
kinh tế. Thành phần kinh tế cá thể tuy bị thu hẹp nhiều trong cơ chế kế hoạch
21

hóa tập trung, nhưng vẫn âm thầm tồn tại. Số lượng doanh nhân nước ta thời
điểm này nhìn chung không tăng, chỉ tồn tại trong khu vực kinh tế quốc doanh
và kinh tế hợp tác xã. Giám đốc doanh nghiệp nhà nước là doanh nhân- công
chức và phải hoạt động sản xuất kinh doanh theo sự điều hành tuyệt đối của
Nhà nước. Cũng trong thời điểm này, “trách nhiệm tập thể” là điều được nhắc
tới nhiều hơn “trách nhiệm cá nhân”, vai trò của doanh nhân trong hoạt động
sản xuất kinh doanh không thực sự được coi trọng.

Sau khi đất nước thống nhất, từ năm 1976, nước ta có khoảng 2000
doanh nghiệp, năm 1980 là 2540 doanh nghiệp, chủ yếu là doanh nghiệp nhà
nước. Trong lĩnh vực công thương nghiệp, với việc 1500 doanh nghiệp tư
nhân bị quốc hữu hoá và chuyển đổi thành 650 doanh nghiệp nhà nước, các
hoạt động của doanh nghiệp tư nhân gần như bị chặn lại. Chủ trương xây
dựng khu vực kinh tế công nghiệp theo mô hình kinh tế Liên Xô cùng với
chính sách tập thể hoá nông nghiệp đã khiến nền kinh tế ngày một suy thoái.
Trong kế hoạch 5 năm lần thứ 3 (1981-1985), Chính phủ đã ban hành
một loạt quyết định liên quan đến hệ thống doanh nghiệp quốc doanh. Những
chủ trương đó đã phát huy tác dụng không chỉ đối với khu vực doanh nghiệp
quốc doanh, mà còn ảnh hưởng đến cả khu vực doanh nghiệp tư nhân. Tuy
nhiên, bộ phận doanh nhân trong khu vực kinh tế tư nhân vẫn còn dè dặt trong
hoạt động sản xuất kinh doanh, do đó, sự đóng góp của họ vào nền kinh tế
quốc dân còn hạn chế.
Bước vào thời kỳ đổi mới, từ năm 1986, Việt Nam mới bắt đầu xoá bỏ
dần cơ chế bao cấp đối với các doanh nghiệp nhà nước. Đây là thời điểm đánh
dấu sự xuất hiện và tiến triển khá mạnh của tầng lớp DNVN.
Sự biến đổi của tầng lớp DNVN có tính chất bước ngoặt vào thập niên
90 của thế kỷ XX- giai đoạn đầu của quá trình đổi mới kinh tế. Việc cơ cấu lại
khu vực doanh nghiệp nhà nước, sự xuất hiện các nhà đầu tư nước ngoài theo
22

Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987, tiếp theo là sự ra đời của Luật Doanh
nghiệp tư nhân và Luật Công ty năm 1990, đã đưa tới sự hình thành một lực
lượng doanh nhân mới. Đây là thời điểm phát triển mạnh mẽ của tầng lớp
DNVN.
Như vậy, một thời gian dài trong lịch sử dân tộc Việt Nam, vì những
nguyên nhân khác nhau, nghề kinh doanh chưa có điều kiện phát triển. Điều
đó khiến chúng ta chưa có nền tảng, kinh nghiệm kinh doanh cũng như kiến
thức về quản lý kinh tế. Nhưng sự áp đặt hay những tác động chủ quan không

ngăn cản được xu thế phát triển khách quan của khu vực kinh tế tư nhân.
Trong những điều kiện khó khăn, kinh tế tư nhân cũng như chủ thể của nó vẫn
tồn tại và ngày càng khẳng định vị trí, vai trò của mình trong nền kinh tế. Khi
nói về sức sống của kinh tế tư nhân, Kornai Jánas- nhà kinh tế học nổi tiếng
người Hunggari nhận định: "Sức sống của khu vực kinh tế tư nhân được
chứng minh bằng thực tế rằng, ngay trong môi trường "đào thải" khắc nghiệt
mà nó vẫn hình thành và phát triển được Các đợt quốc hữu hoá, tập thể hoá
và tịch thu hầu như đã hoàn toàn tiêu diệt khu vực tư nhân, khởi xướng tư
nhân, sở hữu tư nhân. Thế mà, chỉ cần nới lỏng một vài trói buộc, và ngay lập
tức các hoạt động tư lại xuất hiện như nấm sau mưa" [Theo 15, 20].
Lớp doanh nhân ra đời sau Luật Doanh nghiệp năm 2000, Luật Doanh
nghiệp năm 2005, được coi là sản phẩm của thời kỳ hội nhập. Tầng lớp doanh
nhân mới, phần lớn là doanh nhân trẻ, năng động, sáng tạo, được đào tạo, bồi
dưỡng về kiến thức quản trị kinh doanh… đang và sẽ là một trong những
động lực không nhỏ cho sự phát triển kinh tế- xã hội nước ta.
Nếu năm 1991, tổng số doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân là
414 doanh nghiệp thì đến năm 1992 là 5.198 doanh nghiệp, đến năm 1997 là
25.202 doanh nghiệp. Tính đến cuối năm 2001, cả nước có 65.974 doanh
nghiệp. Từ khi Luật Doanh nghiệp có hiệu lực từ 1/1/2000 đến tháng 3/2002

×