Tải bản đầy đủ (.pdf) (119 trang)

Sự giao thoa giữa thơ và văn xuôi trong truyện ngắn và tản văn của Nguyễn Quang Thiều

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.61 MB, 119 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN




LÊ THU HÀ



SỰ GIAO THOA GIỮA THƠ VÀ VĂN XUÔI
TRONG TRUYỆN NGẮN VÀ TẢN VĂN CỦA
NGUYỄN QUANG THIỀU


LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 34


Người hướng dẫn khoa học: TS. Phạm Xuân Thạch



Hà Nội – 2013

1
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 3
1. Lý do chọn đề tài 3


2. Lịch sử vấn đề 4
3. Mục đích, ý nghĩa của đề tài: 12
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: 13
5. Phương pháp nghiên cứu 13
6. Cấu trúc của luận văn 14
NỘI DUNG 15
Chương 1: TIỀN ĐỀ LÝ THUYẾT VÀ TIỀN ĐỀ THỰC TIỄN 15
1.1. Tiền đề lý thuyết 15
1.1.1. Hiện tượng giao thoa thể loại trong văn học 15
1.1.2 Sự giao thoa giữa thơ và văn xuôi 20
1.2. Tiền đề thực tiễn 26
1.2.1 Sự giao thoa thể loại - một đặc điểm của văn học đương đại 26
1.2.2. Chân dung Nguyễn Quang Thiều trong dòng chảy chung của văn
học đương đại. 31
Chương 2: SỰ GIAO THOA GIỮA THƠ VÀ VĂN XUÔI TRONG
TRUYỆN NGẮN NGUYỄN QUANG THIỀU 36
2.1. Những xúc cảm trữ tình trên trang văn 36
2.1.1.Chất thơ của cuộc sống thường nhật 37
2.1.2.Chất thơ của tâm hồn 45
2.1.3.Chất thơ từ bức tranh thiên nhiên 49
2.2. Những biểu tượng nghệ thuật đặc sắc 52
2.2.1. Biểu tượng dòng sông 54
2.2.2 Biểu tượng vầng trăng 64
2.2.3. Trẻ em - biểu tượng về sự sống, sự trong sáng 72

2
2.3. Nghệ thuật tự sự phi cốt truyện 76
2.3.1.Tính chất phi cốt truyện hóa. 76
2.3.2. Tạo dựng tình huống truyện 79
Chương 3: SỰ GIAO THOA GIỮA THƠ VÀ VĂN XUÔI TRONG

TẢN VĂN NGUYỄN QUANG THIỀU 85
3.1. Cái tôi trữ tình 86
3.1.1. Cái tôi trăn trở về sự suy kiệt của thế gian trong thời đại công
nghiệp hóa, đô thị hóa 88
3.1.2. Cái tôi hồi tưởng nặng lòng với kí ức tuổi thơ 95
3.2. Giọng điệu trữ tình 99
3.2.1. Giọng giáo huấn sắc lẹm 100
3.2.2. Giọng trò chuyện tâm tình 102
3.3. Ngôn ngữ giàu hình ảnh, nhịp điệu 104
3.3.1. Ngôn ngữ giàu hình ảnh 104
3.3.2. Ngôn ngữ giàu nhịp điệu 107
KẾT LUẬN 111
TÀI LIỆU THAM KHẢO 113

3
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Từ sau Đại hội Đảng lần thứ VI, xã hội Việt Nam có những biến
chuyển mạnh mẽ trên nhiều phương diện. Nền kinh tế thị trường, xu thế
“toàn cầu hóa” và sự bùng nổ thông tin đã tạo nên diện mạo mới cho một
xã hội hiện đại, dân chủ. Cùng với những thay đổi cơ giới là sự chuyển
biến sâu xa trong thế giới nội cảm, trong cách nghĩ, lối sống và tư tưởng cá
nhân, trong tâm thức văn hóa cộng đồng. Sự rộng mở của một thế giới đa
chiều kích còn dẫn đến những biến đổi quan trọng trong thế giới quan, nhân
sinh quan của người cầm bút. Văn học giai đoạn này đã trải qua những
chấn động mạnh mẽ với những cuộc lột xác trong tư duy và trong cách thức
biểu đạt thế giới. Đổi mới, cách tân trở thành khát vọng tự thân thôi thúc
người nghệ sĩ tìm tòi, sáng tạo. Không chỉ mở rộng biên độ phản ánh, khám
phá hiện thực ở bề sâu, các nhà văn còn nỗ lực phá vỡ các khuôn mẫu nghệ
thuật truyền thống. Một trong những nỗ lực ấy là việc xóa nhòa ranh giới

loại hình, thể loại. Văn học du nhập vào trong nó cách biểu đạt của các
môn nghệ thuật khác như: hội họa, kiến trúc, điện ảnh… nhằm tạo ấn tượng
mạnh cho độc giả. Không ít chuẩn mực chặt chẽ của thể loại cũng bị nhiều
người viết “ngang nhiên” phá bỏ để tạo dựng một thế giới nghệ thuật mang
đậm dấu ấn cá nhân và biểu lộ sức sáng tạo dồi dào của mình.
Là một tác giả không thể không nhắc đến của văn học đương đại,
Nguyễn Quang Thiều được biết đến như một hiện tượng văn học phức tạp.
Gây sóng gió trên thi đàn với tập thơ Sự mất ngủ của lửa xuất bản năm
1992, từ đó đến nay, những thi phẩm của anh luôn được người đọc và giới
nghiên cứu, phê bình quan tâm đánh giá rất sôi nổi. Nói đến Nguyễn Quang
Thiều người ta vẫn thường nói đến phương diện người viết thơ, gần như bỏ
quên phương diện người viết văn xuôi, mặc dù cây bút này đã từng cho ra

4
mắt đến 14 tập văn xuôi gồm đủ các thể loại: Truyện ngắn, tản văn, tiểu
thuyết… Và điều đáng nói là, văn xuôi của Nguyễn Quang Thiều cũng thể
hiện rất rõ ý thức tìm tòi, đổi mới về mặt thể loại. Chính vì vậy, chúng tôi
lựa chọn đề tài Sự giao thoa giữa thơ và văn xuôi trong truyện ngắn và tản
văn của Nguyễn Quang Thiều với hy vọng khám phá một cách toàn diện
thế giới nghệ thuật mà nhà thơ, nhà văn này đã dày công xây đắp.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Những công trình, bài viết nghiên cứu về sự tương tác giữa các thể
loại văn học.
Kể từ khi lý luận về thi pháp học thể loại lên ngôi, các công trình
nghiên cứu chuyên sâu về các thể loại xuất hiện rất nhiều. Ở mỗi công
trình, các nhà nghiên cứu đã lưu ý đến hiện tượng giao thoa, tương tác giữa
các thể loại văn học. Tuy nhiên, dường như chưa có công trình cụ thể nào
tập trung nghiên cứu một cách sâu sắc vấn đề này.
Công trình đầu tiên không thể không nhắc đến, đó là các chuyên luận
của M. Bakhtin: Lí luận và thi pháp tiểu thuyết; Những vấn đề thi pháp

Đoxtoiepxki. Đặc biệt, ngay từ năm 1941, trong bài viết Tiểu thuyết như
một thể loại văn học (in trong chuyên luận Lí luận và thi pháp tiểu thuyết),
tuy không dùng đến khái niệm tương tác thể loại nhưng M. Bakhtin đã đưa
ra những luận điểm quan trọng về một“cuộc đấu tranh sâu sắc hơn và
mang tính lịch sử hơn giữa các thể loại, sự biến thái và phát triển nòng cốt
thể loại của văn học” [4]. Ông đề cao vai trò của tiểu thuyết trong việc tác
động, khuấy đảo, tạo nên những quan hệ không hài hòa giữa các thể loại:
lấn át thể loại này, thu hút thể loại kia vào trong cấu trúc của mình, biện
giải lại và sắp xếp trọng tâm cho chúng. Tiểu thuyết xúc tác làm đổi mới tất
cả các thể loại khác. Do vậy, vào những thời đại tiểu thuyết thống ngự, tiểu
thuyết về nhiều phương diện, đã và đang báo trước sự phát triển của tương

5
lai của toàn bộ văn học. Trong công trình này, M. Bakhtin cũng nêu quan
điểm về tính uyển chuyển, linh hoạt, tính vượt rào và tính không quy phạm
của thể loại này.
Công trình tiếp theo có thể kể tới là Logic học về các thể loại văn
học của nhà nghiên cứu người Đức, Kate Hamburger do Vũ Hoàng Địch,
Trần Ngọc Vương dịch. Trong tác phẩm lý luận này, Kate Hamburger đã
đưa ra một cách phân chia thể loại văn học khác với cách phân chia truyền
thống với tiêu chí dựa trên một sự phân biệt các kiểu sử dụng hoặc kiểu
chức năng của ngôn ngữ. Theo đó, “việc sử dụng ngôn ngữ về mặt văn học
hoặc được dùng để kiến tạo những dạng hiện thực hư cấu hoàn toàn, và
một cách rất đặc thù, những nhân vật hoạt động không phải với tư cách là
những đối tượng của các lời phát ngôn, mà với tư cách chủ thể được ưu đãi
bằng sự tự tại (đó là trường hợp của hư cấu tự sự hoặc kịch), hoặc được
dùng để sản sinh ra những lời phát ngôn về hiện thực mà chức năng của
chúng không phải để truyền đạt, mà là để kiến tạo một kinh nghiệm từng
nếm trải không thể tách rời được với sự phát ngôn của nó, và nguồn gốc
của nó về bản chất là không thể xác định được, nghĩa là không thể gắn cho

một chủ thể hiện thực (nhà thơ) hoặc hư cấu (một người nói tưởng tượng):
đó là trường hợp của thơ trữ tình” [15, tr.11]. Như vậy, hai thể loại thuần
túy văn học lớn trong quan niệm của Kate Humburger là hư cấu và thơ trữ
tình. Ngoài việc phân biệt rõ sự khác nhau của hai thể loại này, trong phần
IV của cuốn sách, tác giả đã phát hiện ra những hình thức đặc biệt hoặc hỗn
hợp. Humburger đã chỉ ra trong loại ballade và trong thơ mono -
dramatique những sự len lỏi có thể gọi là đối xứng của hư cấu trong diện
trường của thơ trữ tình.
Những luận đề có tính chất cách tân một cách dũng cảm của Kate
Humberger trong cuốn sách Logic học về các thể loại văn học đã khiến

6
Gerard Genette phải thốt lên trong Lời tựa cuốn sách, cho rằng công trình
là “một trong những tượng đài nổi tiếng của thi học hiện đại, và chắc chắn
là một cuốn sách được bình luận rộng rãi nhất và được tranh luận hăng
say nhất kể từ khi được xuất bản lần đầu tiên vào năm 1957” [15, tr.5].
Ở Việt Nam, nghiên cứu văn học hiện đại Việt Nam từ phương diện
tương tác, giao thoa thể loại là một hướng nghiên cứu mới, được một số
công trình gần đây quan tâm.
Công trình Lý luận văn học (Phương Lựu chủ biên, Nhà xuất bản
Giáo dục, Hà Nội, 1997) chương Thể loại của tác phẩm văn học do Trần
Đình Sử phụ trách đã cho chúng tôi những tiền đề lý luận cần thiết để định
danh được các khái niệm cần thiết. Trần Đình Sử đề cập đến khái niệm thể
loại cũng như sự phân loại văn học: Thể loại vừa có những yếu tố ổn định,
truyền thống; lại vừa có các yếu tố vận động, đổi mới do sự phát triển văn
học và tài năng sáng tạo của nhà văn. Từ đặc trưng ấy, ngay trong việc
nghiên cứu thể loại, Trần Đình Sử đã đề xuất những điều kiện cần và đủ
của nhà nghiên cứu: Muốn nhận thức đặc điểm của một thể loại có giá trị,
người ta vừa phải có tri thức về các qui luật lặp lại của các thể loại, lại vừa
biết nhận ra tính độc đáo trong sự vận dụng sáng tạo thể loại của tác giả.

Đây là những tiền đề lý luận quan trong trong việc triển khai vấn đề. Muốn
nhận thức về sự giao thoa thể loại thì trước hết cần nắm được đặc trưng của
từng thể, cũng như từng loại; phải nhận chân cho được cái nòng cốt bất
biến của mỗi loại/ thể. Ngoài ra, có ý nghĩa rất lớn đó là bài viết: Đặc điểm
của truyện ngắn hiện đại. Trong bài viết này tác giả nêu rõ trong những đặc
điểm của truyện ngắn hiện đại có đến hai đặc điểm thể hiện sự thâm nhập
của các thể loại vào truyện ngắn: Truyện ngắn hiện đại gần với thơ và
truyện ngắn hiện đại gần với kịch. Luôn luôn tồn tại bên cạnh tiểu thuyết và
rất khó khu biệt rạch ròi về ranh giới thể loại với tiểu thuyết, đó chính là

7
truyện ngắn. Với quan niệm tương tác thể loại nằm trong chính đặc trưng
của loại thể, công trình Truyện ngắn - Lý luận tác gia và tác phẩm của Lê
Huy Bắc trong khi đề cập đến Truyện ngắn như một thể loại đã lưu tâm đến
những tác phẩm có sự giao thoa của hai thể loại trên. Bài viết cũng đề cập
đến sự ảnh hưởng qua lại giữa truyện ngắn và thơ.
Đề tài cấp bộ: Sự tương tác của các thể loại trong văn học Việt Nam
từ đầu thế kỷ XX đến 1945 do TS.Tôn Thất Dụng chủ nhiệm đề tài là công
trình đầu tiên đặt vấn đề diện mạo và đặc điểm văn học một giai đoạn từ
hướng nhìn tương tác thể loại. Qua bức tranh sinh động của đời sống tương
tác thể loại được chứng minh bằng nhiều cứ liệu tác giả, tác phẩm; các tác
giả đề tài giúp chúng ta có cái nhìn khái quát và sâu sắc hơn về diện mạo
văn học. Cùng với đề tài của Tôn Thất Dụng, qua bài viết: Sự tương tác
giữa các thể loại văn học và thể thơ văn xuôi trong thơ mới 1932 - 1945,
Nguyễn Phong Nam đã đi sâu xem xét sự giao thoa thể loại trong một
phong trào thơ có nhiều thành tựu. Ở đây, ông đã tập trung phân tích về sự
tác động của các thể loại đối với việc hình thành những thể thơ rất đa dạng
và đầy sáng tạo trong Thơ mới.
Dưới góc độ văn học sử còn có nhiều bài viết, trực tiếp hoặc gián
tiếp quan tâm đến vấn đề này. Từ những tiền đề lý luận của M. Bakhtin, Vũ

Tuấn Anh lại đi vào:Đời sống thể loại trong quá trình văn học đương đại.
Bài viết cung cấp một cái nhìn khái quát về đời sống thể loại trong văn học
sau 1975; đặc biệt, Vũ Tuấn Anh luôn lưu tâm đến phương diện giao thoa
thể loại. Ông đặc biệt đề cao góc nhìn thể loại. Theo ông, mỗi giai đoạn văn
học là 1 chỉnh thể thẩm mĩ thống nhất, trong đó có sự liên kết và tác động
lẫn nhau giữa các thể loại. Do vậy mà, cấu trúc thể loại của giai đoạn văn
học luôn có những nét khác biệt so với giai đoạn trước và sau nó. Do vậy,
Vũ Tuấn Anh đi đến một mệnh đề: Một phương diện quan trọng - nếu

8
không muốn nói là quan trọng hơn cả - để nhận thức một giai đoạn văn học
là khảo sát những biến đổi trên mặt bằng thể loại cũng như những biến thái
tinh vi bên trong đời sống của mỗi thể loại.
Trong tập tiểu luận, phê bình Văn học, thế giới mở, Nguyễn Thành
Thi đã dành riêng phần Một góc nhìn văn học quốc ngữ Việt Nam, vận
động và tương tác với dung lượng hơn 100 trang để tìm hiểu quá trình
tương tác thể loại trong cả tiến trình vận động của văn học quốc ngữ Việt
Nam từ cuối thế kỷ XIX đến nay. Từ đó, nhà nghiên cứu đưa ra những phác
thảo mang tính “lược đồ”, xem xét, điều chỉnh lại việc phân kỳ văn học
quốc ngữ Việt Nam từ góc nhìn thể loại và tương tác thể loại. Trong công
trình này, Nguyễn Thành Thi cũng có bài viết bàn về một mối tương tác cụ
thể: Mấy ghi nhận về tương tác tiểu thuyết - truyện ngắn và sự biến đổi
nòng cốt của hai thể loại này. Hướng nghiên cứu của Nguyễn Thành Thi
trong công trình này đã đặt ra nhiều vấn đề lý thú, gợi mở cho luận văn
nhiều tiền đề quan trọng.
Nhà nghiên cứu Bùi Việt Thắng có nhiều bài viết về truyện ngắn
hiện đại, trong cuốn Văn học Việt Nam thế kỷ XX, ông phụ trách phần
truyện ngắn. Ở đó, bên cạnh việc trình bày về diễn trình truyện ngắn Việt
Nam thế kỷ XX, tác giả có chú ý đến mối giao duyên thể loại. Đó là sự giao
duyên giữa tự sự và trữ tình để tạo nên dòng truyện ngắn trữ tình những

thập niên đầu thế kỷ, đó còn là sự hội ngộ của truyện và kí để tạo ra thể loại
truyện - kí trong văn học 1945 - 1975. Ngoài ra, dấu hiệu của giao thoa thể
loại, đặc biệt là giữa thơ và văn xuôi còn được khẳng định rải rác trong
nhiều bài viết như: Quan niệm về thể tài truyện ngắn trong văn học Việt
Nam sau 1975 của Phùng Ngọc Kiếm, Chất thơ trong ngôn ngữ tiểu thuyết
Việt Nam đương đại của Nguyễn Thị Ninh, Thơ văn xuôi và văn xuôi thơ
của Rosa Chacel…

9
Bên cạnh các cuốn sách quy tụ, tập hợp nhiều ý kiến là các luận án đi
sâu nghiên cứu về sự giao thoa, tương tác thể loại. Tiêu biểu là luận án Sự
tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay của Trần Viết
Thiện. Chọn hai thể loại chủ đạo của văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay là
tiểu thuyết và truyện ngắn, luận án đã cho thấy một bức tranh tương tác,
giao thoa thể loại với những chiều, những kiểu, những cấp độ tương tác
vừa phong phú vừa độc đáo. Từ đó, tác giả đi đến những khái quát quan
trọng về những tín hiệu mới của văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay. Có
thể nói, đây là công trình nghiên cứu trực diện và sâu sắc về vấn đề tương
tác thể loại trong văn học hiện đại. Luận án của Nguyễn Thị Bình quan tâm
đến: Những đổi mới của văn xuôi nghệ thuật Việt Nam sau 1975 - khảo sát
trên nét lớn, trong đó có một nét lớn quan trọng, đó là đổi mới về phương
diện thể loại. Luận án: Những đặc điểm của văn xuôi Việt Nam cuối những
năm 80 đầu những năm 90 của Hoàng Thị Hồng Hà lại đề cập đến những
đặc điểm của văn xuôi, trong đó có: Một quan niệm mới về con người,
những đổi mới về ngôn ngữ và giọng điệu. Tác giả cũng cho ta cái nhìn
sinh động về diện mạo văn xuôi trong những năm có nhiều đột phá của văn
học dân tộc.
2.2. Tình hình nghiên cứu, phê bình tác phẩm của Nguyễn Quang Thiều.
Từ sau khi tập thơ Sự mất ngủ của lửa được Hội nhà văn Việt Nam
trao giải thưởng vào năm 1993, tác phẩm của Nguyễn Quang Thiều được

giới phê bình chú ý và trở thành một hiện tượng văn học khá phức tạp. Có
thể thấy ba phản ứng khác nhau của người đọc đối với Nguyễn Quang
Thiều:
Thứ nhất là, khen ngợi và đánh giá cao sự cách tân của Nguyễn
Quang Thiều trong sáng tác văn học. Tiêu biểu cho thái độ này là các nhà
phê bình như: Nguyễn Đăng Điệp, Phạm Xuân Nguyên, Đông La, Chu Văn

10
Sơn, Đỗ Minh Tuấn… Đỗ Minh Tuấn cho rằng thơ Nguyễn Quang Thiều
“phát lộ tâm thức thời đại”. Nguyễn Đăng Điệp khẳng định: “Nguyễn
Quang Thiều là một thi sĩ viết thơ đang ở mức thể nghiệm đã để lại dấu ấn
của mình trong tiến trình đổi mới thơ ca, góp phần đưa thơ Việt Nam tiến
thêm một bước nữa trên con đường hiện đại” [12]. Phạm Xuân Nguyên
nhận ra “chất giọng lạ” trong thơ Nguyễn Quang Thiều: “Tôi gọi tập thơ
được giải của Thiều là khúc nhạc Thiều cất lên từ đồng quê, vọng lên từ
kiếp người với một giọng điệu rất hiện đại” [18]. Ngoài ra, ở Khoa Văn
học trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn Hà Nội, có một luận văn
thạc sĩ của Lê Thị Bích hợp nghiên cứu về thơ Nguyễn Quang Thiều với đề
tài: Tư duy thơ Nguyễn Quang Thiều qua các tập thơ từ 1990 đến 2000.
Đây có thể coi là công trình nghiên cứu dài hơi hiếm hoi về tác giả Nguyễn
Quang Thiều. Luận văn đã tìm hiểu tư duy thơ Nguyễn Quang Thiều qua
sự vận động và phát triển của cái tôi trữ tình, qua hệ thống biểu tượng và
ngôn ngữ thơ nhằm tìm ra những sáng tạo nghệ thuật độc đáo, đặc sắc của
nhà thơ này.
Thứ hai là, phê phán quyết liệt các thi phẩm của Nguyễn Quang
Thiều: Trần Mạnh Hảo trong bài viết: Sự mất ngủ của lửa hay bệnh ngủ
của thơ đã xem thơ Nguyễn Quang Thiều là “non kém về mặt nghệ thuật”,
thơ “tây giả cầy”, “thơ dịch xổi”… Trần Đăng Khoa một mặt thừa nhận
“Nguyễn Quang Thiều đã phá bỏ lối đi quen, mở ra con đường mới chưa
hề có” [28], mặt khác lại chê thơ Nguyễn Quang Thiều Tây quá “đặc sản

của thơ Thiều là cái giọng lơ lớ Tây” [28].
Thứ ba là, những tác giả trẻ chịu ảnh hưởng của thơ Nguyễn Quang
Thiều: Trong bài phỏng vấn Vi Thùy Linh mong một bữa tối với Nguyễn
Quang Thiều, nói về Nguyễn Quang Thiều, nhà thơ Vi Thùy Linh thừa
nhận: “Tôi nghĩ rằng đó là nhà thơ đáng đọc nhất của nền thơ ca đương

11
đại Việt Nam. Ông có từ trường rất mạnh. Tôi không chịu ảnh hưởng của
ông nhưng tôi biết có rất nhiều người làm thơ, không chỉ những người mới
vào nghề mà kể cả những người kỳ cựu, cũng chịu ảnh hưởng từ ông hay
bắt chước ông” [33]. Nhà thơ Dạ Thảo Phương khi trả lời phỏng vấn báo
vnexpress.net cũng không ngần ngại cho rằng: “Người có ảnh hưởng mạnh
nhất đến ý thức sáng tác của tôi là nhà thơ Nguyễn Quang Thiều”.
Về truyện ngắn của Nguyễn Quang Thiều: Có một số bài viết mang
tính tổng quát như: Truyện ngắn - Những vấn đề lý thuyết và thực tiễn thể
loại. Ở đây, nhà phê bình Bùi Việt Thắng đã nhận định: “Về khía cạnh thi
pháp, truyện ngắn 1986 - 2000 đã trở nên phong phú về hình thức, phong
cách và bút pháp…Hình thức đa dạng “có truyền kỳ hiện đại “Bến trần
gian” (Lưu Sơn Minh), “Hai người đàn bà xóm Trại” (Nguyễn Quang
Thiều)”. Trong bài “Những thành tựu của truyện ngắn sau 1975”, PGS.TS
Nguyễn Bích Thu cũng khẳng định Nguyễn Quang Thiều cùng với nhiều
nhà văn khác như Tạ Duy Anh, Y Ban, Nguyễn Quang Thân, Nguyễn Thị
Thu Huệ… đã tạo nên một diện mạo mới cho truyện ngắn thời kì đổi mới.
Lê Thị Hường trong bài viết: Các kiểu kết thúc của truyện ngắn hôm nay
(Tạp chí văn học, số 4 -1995) cũng đã khảo sát và đánh giá kết thúc của
truyện ngắn Mùa hoa cải bên sông của Nguyễn Quang Thiều: “Cách kết
thúc của Nguyễn Quang Thiều tiêu biểu cho kiểu kết thúc của truyện ngắn
hôm nay và là mô hình kết thúc phổ biến”. Nguyễn Khắc Viện cũng đã đọc
và phân tích truyện ngắn Gió dại trong tập truyện Người đàn bà tóc trắng
của Nguyễn Quang Thiều và ông nhận định: “Chỉ qua một truyện ngắn mà

tác giả đã nêu lên bao nhiêu vấn đề tâm lý đi sâu vào những manh mối
thầm kín nhất của tâm tư con người. Nguyễn Quang Thiều quả là nhà tâm
lý học xuất sắc” (Báo Văn nghệ). Thể loại tiểu luận và tản văn của Nguyễn

12
Quang Thiều, hiện chưa có công trình nghiên cứu, bài viết nào quan tâm,
đề cập đến.
Riêng về hướng nghiên cứu giao thoa thể loại trong các sáng tác của
Nguyễn Quang Thiều, chúng tôi nhận thấy chưa có công trình khoa học nào
đi sâu tìm hiểu. Tuy nhiên, ở bài viết giới thiệu cuốn sách Nguyễn Quang
Thiều, tác phẩm chọn lọc, Nguyễn Chí Hoan có một nhận định liên quan
khi cho rằng: “Sự truyền cảm đó được tạo lập bằng chất thơ - đặc điểm thứ
hai nổi bật ở những câu chuyện này, một đặc điểm khác thường ở chỗ nó
nổi trội hơn hẳn chất tự sự của văn truyện kể ở đây” [61, tr. 6].
Có thể thấy, việc nghiên cứu phê bình sự nghiệp văn học của Nguyễn
Quang Thiều chủ yếu tập chung vào mảng thơ ca với nhiều ý kiến trái
chiều. Những mảng sáng tác khác, đặc biệt là văn xuôi và sự giao thoa giữa
các thể loại trong sáng tác của Nguyễn Quang Thiều vẫn còn bỏ ngỏ. Các
công trình nghiên cứu dài hơi mang tính chất hàn lâm về tác giả này rất
hiếm hoi. Phần lớn bài viết chỉ mang tính chất phê bình, cảm nhận. Vì vậy,
trên cơ sở kế thừa những thành tựu đã có về lý luận giao thoa thể loại, luận
văn hy vọng sẽ đem đến một cái nhìn mới mẻ, toàn diện về các sáng tác
văn xuôi, đặc biệt là truyện ngắn và tản văn của Nguyễn Quang Thiều.
3. Mục đích, ý nghĩa của đề tài:
Từ tình hình nghiên cứu đã nêu trên, trong điều kiện tư liệu và khả
năng cho phép, chúng tôi xác định mục đích của đề tài là: Tìm hiểu những
biểu hiện cụ thể của sự giao thoa thể loại trong thơ và văn xuôi ở những tác
phẩm truyện ngắn và tản văn của Nguyễn Quang Thiều ở cả phương diện
tiếp cận và chiếm lĩnh hiện thực lẫn hình thức nghệ thuật. Từ đó thấy được
ý thức cách tân thể loại và những thành công của cây bút này, góp một

tiếng nói khách quan trong việc đánh giá vai trò, vị trí của Nguyễn Quang
Thiều trong nền văn chương đương đại.

13
Đạt được những mục đích trên, luận văn sẽ có ý nghĩa như một tư
liệu tham khảo để những độc giả quan tâm đến sự nghiệp văn học của
Nguyễn Quang Thiều có thể sử dụng để hiểu rõ hơn những nét đặc sắc
trong mảng sáng tác văn xuôi của Nguyễn Quang Thiều.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của chúng tôi trong luận văn này là các tác
phẩm văn xuôi của Nguyễn Quang Thiều từ 1990 đến nay, giới hạn tác
phẩm văn xuôi trong khuôn khổ truyện ngắn và tản văn. Về truyện ngắn,
tác phẩm của Nguyễn Quang Thiều đã được in đi in lại và tuyển chọn trong
nhiều tập truyện của các nhà xuất bản. Mới đây, năm 2011, Nhà xuất bản
Phụ nữ đã tập hợp phần lớn truyện ngắn của Nguyễn Quang Thiều để in
trong cuốn: Nguyễn Quang Thiều, tác phẩm chọn lọc. Luận văn sẽ tập
trung tìm hiểu 30 truyện ngắn được chọn lọc trong cuốn sách này, ngoài ra
cũng không quên khảo sát thêm một số truyện khác được in trong các tập
truyện đã xuất bản trước đây. Về tản văn, các tác phẩm của Nguyễn Quang
Thiều được in rải rác trên các báo, tạp chí điện tử… nhưng vào năm 2012
đã được tuyển in thành cuốn sách mang tiêu đề Có một kẻ rời bỏ thành phố
. 28 tản văn trong cuốn này sẽ là cơ sở để luận văn tìm hiểu sự giao thoa
giữa thơ và văn xuôi trong tản văn của Nguyễn Quang Thiều. Ngoài ra, bộ
phận thơ của Nguyễn Quang Thiều cũng được luận văn xem xét trong thế
so sánh với truyện ngắn và tản văn để thấy được sự thống nhất trong nội
dung và phong cách của cây bút này.
5. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu thể loại và giao thoa thể loại trong sáng tác của một tác
giả văn học, đề tài trước hết ứng dụng phương pháp loại hình nhằm phân
loại các loại/ thể làm cơ sở cho việc nhận thức sự giao thoa thể loại. Theo

đó, phương pháp loại hình được sử dụng nhằm xác định các yếu tố thuộc về

14
nòng cốt bất biến của các loại/ thể. Ngoài ra, luận văn còn vận dụng lý luận
thi pháp thể loại để làm tiền đề tìm hiểu sự giao thoa giữa các thể loại trong
sáng tác của Nguyễn Quang Thiều. Các thao tác phân tích tác phẩm, so
sánh đối chiếu được luận văn sử dụng để đi sâu tìm hiểu những biểu hiện
cụ thể của sự giao thoa thể loại trong các sáng tác của Nguyễn Quang
Thiều - một đặc điểm thể hiện rõ sự tìm tòi, nét độc đáo của tác giả này
trong dòng chảy xô bồ, phức tạp của văn học hiện đại.
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, cấu trúc của luận văn gồm ba
chương:
- Chương 1: Tiền đề lý thuyết và thực tiễn
- Chương 2: Sự giao thoa giữa thơ và văn xuôi trong truyện ngắn của
Nguyễn Quang Thiều.
- Chương 3: Sự giao thoa giữa thơ và văn xuôi trong tản văn của
Nguyễn Quang Thiều.









15
NỘI DUNG
Chương 1: TIỀN ĐỀ LÝ THUYẾT VÀ TIỀN ĐỀ THỰC TIỄN

1.1. Tiền đề lý thuyết
1.1.1. Hiện tượng giao thoa thể loại trong văn học
 Cơ sở của hiện tượng giao thoa thể loại:
Thể loại văn học được hiểu là một hiện tượng loại hình của sáng tác
và giao tiếp văn học, hình thành trên cơ sở sự lặp lại có quy luật của các
yếu tố tác phẩm. Trong giáo trình Lý luận văn học (Phương Lựu chủ biên),
Trần Đình Sử khẳng định: “Thể loại thể hiện một giới hạn tiếp xúc với đời
sống, một cách tiếp cận, một góc nhìn, một trường quan sát, một quan niệm
đời sống, đồng thời cũng là nguyên tắc xây dựng thế giới nghệ thuật” [34].
Nhiều nhà nghiên cứu cũng thống nhất về khái niệm thể loại như một hình
thức chỉnh thể có tính quy luật của loại hình.
Sự phân loại văn học là bước đầu tiên để nhận thức các qui luật thể
loại. Khi phân chia thể loại (hay thể tài) tác phẩm văn học, người ta thường
căn cứ vào ba tiêu chí chủ yếu: 1, tố chất thẩm mĩ chủ đạo; 2, giọng điệu;
3, dung lượng và cấu trúc chung của tác phẩm [54]. Một tổng hòa các tiêu
chí như vậy làm nên “nòng cốt” (hay mô hình) thể loại. Các nhà lý luận bậc
thầy từ Aristotle cho đến Boileau đều xuất phát từ ba phương thức phản
ánh hiện thực mà phân chia toàn bộ tác phẩm văn học thành ba loại: Tự sự,
trữ tình, kịch. Trong quá trình phát triển của đời sống văn học nói chung và
đời sống cụ thể của văn học Việt Nam nói riêng đã sản sinh ra các “thể” ,
các “tiểu loại” phong phú mà những cách phân loại trước đó tỏ ra bất cập,
thiếu khả năng bao quát. Trong công trình Lý luận văn học, Trần Đình Sử
đã khắc phục những nhược điểm trên bằng cách chia một cách qui ước
thành năm loại. Ngoài ba loại theo cách “chia ba”, bổ sung vào hai loại mới
là: Ký và văn chính luận. Đó là nấc thang đầu tiên để tiến đến việc phân

16
chia thể hoặc thể loại tác phẩm. Các nhà nghiên cứu thống nhất chia loại ra
các “thể” và xem “thể” như là một thể loại. Yếu tố ổn định, truyền thống
cho ta những tiêu chí để phân biệt cái cốt lõi bất biến của từng loại thể:

Tác phẩm trữ tình khác tác phẩm tự sự, tiểu thuyết khác truyện ngắn, Đó
là cơ sở đầu tiên của vấn đề giao thoa.
Trên cơ sở tiếp cận vấn đề thể loại như trên, để thống nhất trong cách
dùng thuật ngữ, việc gọi tên chính xác và logic các hiện tượng / kiểu / loại /
cấp độ giao thoa, chúng tôi nêu lên ở đây một số giới thuyết cụ thể. Luận
văn chọn cách phân chia thể loại thành hai cấp độ. Trên bình diện phương
thức phản ánh, luân văn sử dụng khái niệm loại/ loại hình. Trên bình diện
hình thái tác phẩm, luận văn sử dụng khái niệm loại/ thể; trong đó, khái
niệm “thể loại” được dùng phổ biến trong nhiều trường hợp, khái niệm
“thể” được dùng trong những trường hợp đề cập đến những tiểu loại cụ thể.
Rõ ràng, thể loại có tính “nòng cốt”, vận động theo quy luật nhưng
điều chúng ta lưu tâm hơn là “Bản chất của sáng tạo nghệ thuật là tính độc
đáo không lặp lại. Sự vận động cuộc sống cũng luôn luôn sản sinh và làm
biến động các giới hạn phản ánh, đổi mới các kênh giao tiếp và làm cho
chúng tác động vào nhau, đan bện vào nhau trong các tác phẩm nghệ thuật
độc đáo” [34]. Trần Đình Sử khẳng định sự phân chia thể loại rõ ràng là
“vấn đề có tính thứ hai” , “vấn đề có tính thứ nhất” vẫn là hình thức tồn
tại phong phú và độc đáo của chỉnh thể tác phẩm: “nghệ sĩ lớn thường tiếp
thu các truyền thống thể loại khác nhau, tạo ra các hình thức thể loại
mới”. Nguyễn Thành Thi cũng nói đến cái “nhìn sang”, sự hút hương nhụy
một các đầy khôn ngoan trong tính chất của giao thoa thể loại. Do vậy mà,
muốn nhận thức đặc điểm của một thể loại có giá trị, người ta vừa phải có
tri thức về các quy luật lặp lại của các thể loại, lại vừa phải biết nhận ra tính
độc đáo trong sự vận động sáng tạo thể loại của tác giả. Có thể nói, thể loại

17
vừa có các yếu tố ổn định, truyền thống; lại vừa có các yếu tố vận động, đổi
mới do sự phát triển văn học và tài năng sáng tạo của nhà văn. Tính hai mặt
của một vấn đề nằm sâu trong bản chất thể loại chính là xuất phát điểm của
vấn đề tương tác.

Thực tế đời sống văn học cho thấy mỗi một “nòng cốt thể loại” tồn
tại như những mô chuẩn nghệ thuật ít nhiều mang tính quy ước, chỉ có ý
nghĩa tương đối, và luôn có khả năng biến đổi. Vì vậy, nhà văn khi sáng tác
một thể loại nào đó, một mặt luôn tôn trọng, tuân thủ những mô chuẩn nghệ
thuật quy ước, mặt khác - ít hoặc nhiều luôn có nhu cầu thoát bỏ khỏi
những mô chuẩn quy ước ấy, bằng cách “nhìn sang” những thể loại xung
quanh, rút tỉa lấy tinh hoa của chúng, tổng hợp khinh nghiệm của hai hay
nhiều thể loại, tạo ra những tác phẩm “lệch chuẩn”. Nếu nhà văn thành
công, anh ta sẽ có những tác phẩm hay hơn, mới hơn; nếu chưa thành công
thì những thử nghiệm như vậy ít ra cũng là một gợi ý, một sự chuẩn bị cho
bước chuyển của những tác phẩm sau này. Chẳng hạn, đúc kết từ chính
thực tế sáng tác của mình, nhà văn Nguyễn Kiên cho rằng, truyện ngắn
trong khi phát triển, đã “nhìn sang” tiểu thuyết, bởi: “ Truyện ngắn, trong
suốt quá trình phát triển, luôn luôn đứng trước một thách thức: Phải làm
sao sức chứa và sức nặng vượt thoát ra ngoài cái khuôn khổ nhỏ bé mà
nghệ thuật khuôn nó vào. Lẽ dĩ nhiên truyện ngắn phải tự tìm tòi, đồng thời
nó cũng nhìn sang tiểu thuyết, được tiểu thuyết kích thích và dần dần nảy
nở một loại truyện ngắn tôi tạm gọi là truyện ngắn - triết lí”. Nhiều nhà
văn, nhà nghiên cứu văn học cũng cho rằng một thể loại, trong quá trình
hình thành, phát triển có thể tổng hợp vào nó đặc điểm hay ưu thế của một
vài thể, loại khác, chẳng hạn: “Kí là sự hợp nhất của truyện và nghiên
cứu” và trong kí, “vừa có những yếu tố của truyện, vừa có sự tham gia
trực tiếp của tư duy nghiên cứu”, hoặc: “Người viết tiểu thuyết có thể vận

18
dụng nhiều phương thức: tự sự, trữ tình, kịch ”; hoặc: “ ở một khía cạnh
nào đó, truyện ngắn gần với thơ. Ở một khía cạnh khác, truyện ngắn gần
với kịch ”. Cho nên, việc thoát bỏ mô hình thể loại, mang thêm vào tác
phẩm những yếu tố của thể loại khác sẽ góp phần điều chỉnh mô hình, nắn
lại nòng cốt thể loại của tác phẩm, tránh được sự xơ cứng, thúc đẩy sự vận

động, phát triển của các thể loại văn học.
Một cơ sở nữa của vấn đề giao thoa thể loại, đó là bối cảnh thời đại.
Mỗi nền văn học, qua những thời đại khác nhau hình thành hệ thống thể
loại khác nhau và hệ thống đó cũng biến đổi. Thể loại vừa là “cái trí nhớ
siêu cá nhân của nhân loại” nhưng đồng thời lại luôn được tái sinh, đổi
mới trong từng giai đoạn phát triển văn học, trong từng thể loại, trong từng
tác phẩm cụ thể, cá biệt. Tên gọi thể loại về nguyên tắc chỉ có một nhưng
đời sống thể loại thì phong phú, sinh động vô cùng. “Mỗi giai đoạn,mỗi
thời kỳ văn học là một chỉnh thể thẩm mỹ thống nhất trong đó có sự liên kết
và tác động lẫn nhau giữa các thể loại” [34]. Đặc điểm văn hóa - xã hội,
thị hiếu thẩm mỹ, trình độ nhận thức của mỗi thời đại thay đổi sẽ làm thay
đổi hệ thống thể loại và hệ quả là, thay đổi quan hệ giao thoa giữa các thể
loại trong chỉnh thể ấy.
Hiện tượng các thể loại “gần” nhau, “nhìn sang” nhau, “hợp nhất”
vào nhau, hay việc nhà văn vận dụng nhiều phương thức trong khi sáng tác
một tác phẩm, có thể gọi là giao thoa (hay tương tác) thể loại. Hiểu một
cách bao quát hơn, khái niệm giao thoa thể loại là sự thâm nhập, tác động,
ảnh hưởng lẫn nhau giữa hai hay nhiều thể loại của một hoặc nhiều hệ
thống thể loại khác nhau nhằm tạo nên sự vận động và phát triển của cấu
trúc thể loại văn học.
 Những biểu hiện của hiện tượng giao thoa thể loại:
Giao thoa thể loại là sự thể hiện tập trung những nỗ lực sáng tạo và
đổi mới của văn học. Do vậy, đây là hiện tượng hết sức sinh động, đa

19
chiều. Sự giao thoa không chỉ diễn ra trên chiều đồng đại - khép kín trong
phạm vi mỗi giai đoạn, mỗi thời kì văn học; mà còn diễn ra trên chiều lịch
đại với những dích dắc, quanh co, với những vòng xoáy trôn ốc phức tạp.
Xét về cấp độ, sự giao thoa thể loại cũng diễn ra trên nhiều cấp độ:
loại/loại, thể/loại, thể/thể, yếu tố/yếu tố,…

Giao thoa giữa loại với loại, loại với thể tạo ra những thể loại trung
gian, lưỡng hợp, mang đắc điểm “kép” của cả hai phương thức phản ánh
đời sống, hai hình thức kĩ thuật, chất liệu phản ánh đời sống vốn rất khác
biệt nhau. Ví dụ: Giao thoa giữa loại trữ tình và loại kịch tạo nên kịch thơ;
tương tác giữa loại tự sự với loại trữ tình tạo nên truyện thơ (hay thơ - tiểu
thuyết, như thể nghiệm của Trần Dần vào đầu những năm 60 của thế kỷ
XX); giao thoa giữa thể truyện ngắn và loại trữ tình tạo nên loại hình
truyện ngắn đậm chất trữ tình (như những truyện ngắn - trữ tình hóa của
Thạch Lam, Hồ Dzếnh, Thanh Tịnh, ); giao thoa giữa thể truyện ngắn
với loại kịch tạo nên loại hình truyện ngắn giàu kịch tính (như những
truyện ngắn - kịch hóa của Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, ).
Giao thoa giữa thể với thể cũng tạo ra những thể loại trung gian, tổng
hợp mang đặc điểm “kép” của hai nòng cốt hay mô hình thể loại. Ví dụ:
Tương tác giữa thể truyện ngắn với thể tiểu thuyết tạo nên truyện ngắn -
tiểu thuyết hóa, truyện ngắn viết dài hoặc tiểu thuyết viết ngắn; giao thoa
giữa truyện ngắn với các thể văn học “ngắn”, cực “ngắn” (chỉ gồm 56 chữ,
28 chữ, 20 chữ, như thơ thất ngôn bát cú, thất ngôn tứ tuyệt, lục ngôn tứ
tuyệt, ngũ ngôn tứ tuyệt, ) tạo nên những thể loại “mi-ni” (truyện ngắn
“mi-ni”: “truyện cực ngắn” một vài trăm chữ, hay “truyện rất ngắn” chừng trên
dưới một ngàn chữ, ; thơ “mi-ni”: Kiểu thơ “mi-ni” của Trần Dần, hoặc thơ
lục bát bốn dòng mà một số người làm thơ hiện đại vẫn thường sử dụng).
Giao thoa giữa các yếu tố thuộc nhóm thể loại sáng tác có hư cấu
(fiction) như tiểu thuyết, truyện ngắn, và các yếu tố thuộc nhóm thể loại

20
sáng tác không hư cấu (non fiction) như hồi kí, kí sự, nhật kí, ghi chép,
tạo nên các thể loại đan xen giữa các yếu tố hư cấu với yếu tố không hư cấu
(như truyện kí, tự truyện, tiểu thuyết tự thuật, ).
Xét về hình thức giao thoa, sự giao thoa thể loại có thể diễn ra theo
các hình thức chính: 1) hình thức tổng hợp thể loại (thể loại hòa nhập lám

một hoặc song song tồn tại); 2) hình thức “đổi ngôi”- “tiếp sức” giữa các
thể loại; 3) hình thức loại bỏ, thay thế thể loại Hình thức thứ nhất - rất
phổ biến - mang tính đồng đại; hình thức thứ hai - với một lộ trình ít nhiều
quanh co, ít phổ biến hơn - mang tính chất lịch đại. Hình thức thứ ba
thường diễn ra vào những thời điểm bước ngoặt mang tính cách mạng, thay
đổi phạm trù văn học của vận động thể loại.
1.1.2 Sự giao thoa giữa thơ và văn xuôi
1.1.2.1 Thơ - văn xuôi, cặp đối xứng đầy xung khắc.
Thơ và văn xuôi là những thể loại thuộc hai loại hình biểu đạt khác
nhau của văn học. Thơ (ở đây hiểu là thơ trữ tình) thuộc phương thức biểu
đạt trữ tình còn văn xuôi thuộc phương thức biểu đạt tự sự. Chính vì vậy,
những đặc trưng thể loại của chúng có nhiều điểm khác biệt, thậm chí theo
tác giả Đỗ Đức Hiểu trong công trình Thi pháp thể loại mối quan hệ giữa
thơ và văn xuôi còn là “mối quan hệ đối lập”.
Định nghĩa về thơ, cuốn Từ điển thuật ngữ văn học (do Lê Bá Hán,
Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi chủ biên) viết: Thơ được cho là “hình thái
văn học đầu tiên của loài người” và là:“Hình thức sáng tác văn học phản
ánh cuộc sống, thể hiện những tâm trạng, những cảm xúc mạnh mẽ bằng
ngôn ngữ hàm súc, giàu hình ảnh và nhất là có nhịp điệu” [16]. Cách định
nghĩa này khá thống nhất với cách định nghĩa của Từ điển văn học (bộ mới)
do nhóm tác giả Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Huệ Chi, Phùng Văn Tửu, Trần
Hữu Tá chủ biên, trong đó cho rằng thơ là “Hình thức sáng tác văn học

21
phản ánh cuộc sống với những cảm xúc chất chứa, cô đọng, những tâm
trạng dồi dào, những tưởng tượng mạnh mẽ, trong ngôn ngữ hàm súc, giàu
hình ảnh và nhất là có nhịp điệu”[39]. Ngoài ra, còn có nhiều nhận định
cho rằng: Thơ trữ tình là thuật ngữ chỉ chung các thể thơ thuộc loại trữ tình.
Trong đó, cảm xúc và suy tư của nhà thơ hoặc của nhân vật trữ tình trước
các hiện tượng đời sống được thực hiện một cách gián tiếp. Tính chất cá thể

hóa của cảm nghĩ và tính chất chủ quan hóa của sự thể hiện là dấu hiệu tiêu
biểu của thơ trữ tình.
Còn thuật ngữ văn xuôi được Từ điển thuật ngữ văn học giải thích:
“Văn xuôi trong nghĩa rộng chỉ loại văn đối lập với văn vần, và trong
nghĩa hẹp chỉ các tác phẩm văn phân biệt với kịch, thơ bao gồm một phạm vi
rộng từ tiểu thuyết, truyện vừa, truyện ngắn, kí, tiểu phẩm chính luận” [16].
Sự khác biệt giữa thơ và văn xuôi:
Về phương diện tiếp cận và chiếm lĩnh hiện thực: Nhóm tác giả Từ
điển văn học (bộ mới) cho rằng: Tác phẩm văn học nào cũng biểu hiện tư
tưởng tình cảm của con người trong cuộc sống, nhưng thơ trữ tình biểu
hiện tư tưởng tình cảm theo cách riêng. Ở tác phẩm văn xuôi tự sự, tác giả
dựng lên những bức tranh xã hội, trong đó các nhân vật có những đường đi
và số phận riêng. Ở thơ trữ tình có điều khác, thế giới bên trong của con
người: cảm xúc, tâm trạng, nỗi niềm, suy tư được trình bày trực tiếp và làm
thành nội dung chủ yếu của tác phẩm. Như vậy, biểu hiện trực tiếp thế giới
chủ quan của con người là cách phản ánh hiện thực một cách riêng biệt của
thơ trữ tình, còn ở văn xuôi tự sự, nhà văn tái hiện đời sống trong toàn bộ
tính khách quan của nó.
Về nguyên tắc tổ chức tác phẩm: Tư tưởng, tình cảm, tâm trạng, cảm
xúc trong thơ không thể hiện một cách bộc trực, trần trụi mà thường hòa
tan, biến hóa trong những hình tượng, biểu tượng nghệ thuật mới lạ, gợi

22
cho người đọc nhiều liên tưởng thú vị. Có được điều đó là nhờ tứ thơ. Tứ
thơ là điểm tựa cho kết cấu của bài thơ, mang cách nhìn, cách cảm, cách
nghĩ của nhà thơ. Trái lại, nét đặc thù của các tác phẩm văn xuôi như
truyện ngắn, tiểu thuyết là vai trò tổ chức của trần thuật: Nó thông báo về
các biến cố, các tình tiết như thông báo về một cái gì đó đã xảy ra và được
nhớ lại, đồng thời mô tả hoàn cảnh hành động và dáng nét các nhân vật,
nhiều khi còn có thêm cả những lời bàn luận. Hình thức tự sự dựa vào các

kiểu kết cấu cốt truyện khác nhau. Có kiểu triển khai rõ rệt tính biến động
của các sự kiện, lại có kiểu nhấn chìm dòng biến cố vào những đoạn mô tả,
thể hiện tâm lý hoặc bàn luận.
Về giọng điệu: Trong Thi pháp học, Đỗ Đức Hiểu cho rằng “Thơ là
độc bạch của nhà thơ (…); thơ chỉ có một giọng, giọng của nhà thơ, dù
giọng ấy có nhiều điệu, nhiều sắc thái, ngôn từ thơ là ngôn từ bên trong.
Trái lại, văn xuôi chứa đựng nhiều tiếng nói; nó đa âm, nó là văn bản hỗn
hợp những ngôn từ của nhiều tầng lớp người trong xã hội. Xen lẫn tiếng
nói tác giả là tiếng nói người kể chuyện, tiếng nói của các nhân vật, mỗi
nhân vật là một thế giới riêng biệt” [22].
Về ngôn ngữ: Khi viết “nhà thơ coi chữ như đồ vật chứ không coi
như những dấu hiệu”, J.P. Sartre trong công trình nghiên cứu: Văn học là
gì? đã đối lập hai lãnh vực thơ - văn xuôi: Thơ nằm cùng một phía với hội
họa, điêu khắc, âm nhạc. Bởi cách sử dụng chất liệu ngôn từ của nhà thơ
tương tự như họa sĩ dùng màu sắc, nhạc sĩ dùng âm thanh. Đó là coi các từ
là những sự vật - nó mang ý nghĩa tự thân, chứ không phải là các ký hiệu.
Tức là chữ trong thơ là thể hoàn bị. Còn văn xuôi, ngược lại là vương quốc
của các ký hiệu, và bản chất của văn xuôi vì thế là vị lợi.
Như vậy, có thể thấy, dù nhìn từ phương diện nào, thơ và văn xuôi
cũng là hai thể loại đối lập với nhau. Chúng là một cặp đối xứng đầy xung

23
khắc. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển, giữa hai thể loại này vẫn có
những sự giao thoa, thẩm thấu lẫn nhau.
1.2.2.2 Thơ và văn xuôi - Những biểu hiện giao thoa thể loại.
Bản chất của mối quan hệ giao thoa giữa thơ và văn xuôi là giao thoa
giữa thể với thể. Trong đó, luận văn chỉ chú ý đến chiều tương tác, ảnh
hưởng của thơ đối với văn xuôi (cụ thể là trong truyện ngắn và tản văn).
Sự giao thoa giữa thơ và văn xuôi là một mối giao duyên lịch đại.
Bởi trữ tình nói chung và thơ nói riêng là một dòng chảy mà nguồn mạch

của nó đã nằm rất sâu trong cội nguồn, trong tâm thức con người Việt Nam.
Chất trữ tình có lẽ đã được kết lắng thành trầm tích trong hằng số văn học
dân tộc. Mỗi con người, mỗi nhà văn Việt Nam do vậy, tự căn cốt đã tiềm
ẩn một nhà thơ trong mình. Tổng kết về thành tựu văn học viết Việt Nam
qua mười thế kỷ, Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh khái quát: Trong truyền
thống văn học Việt Nam loại hình trữ tình vẫn trội hơn tự sự, sự kết tinh
nghệ thuật thể hiện ở những tác phẩm cỡ nhỏ hơn là những tác phẩm cỡ
lớn. Đó là một thực tế đã được chứng minh bằng đời sống văn học. Chất trữ
tình, đặc biệt là thơ thâm nhập vào truyện ngắn, tản văn với sự đậm nhạt
khác nhau, với những kiểu dạng khác nhau tạo nên dấu ấn và hiệu ứng
thẩm mỹ đậm nét. Nhà nghiên cứu người Nga - Kuranop - cho rằng: Trong
nền văn học hôm nay, chúng ta chứng kiến sự xích lại gần nhau giữa thơ và
văn xuôi. Sự xích lại này lằm cho văn xuôi chúng ta thêm nồng ấm, run
rẩy, nhiều chất hội họa, cô đọng hơn trong những ẩn dụ thấm vào từng câu,
từng đoạn.
Những ảnh hưởng của thơ vào văn xuôi:
Cái tôi trữ tình: Sự tham gia của thơ vào cấu trúc truyện, trước hết
được thể hiện ở cái tôi tác giả. Đó không phải là cái tôi tự sự khách quan
mà là một hình tượng cái tôi độc đáo: Cái tôi cảm xúc, cái tôi cảm nghĩ, cái

24
tôi đầy suy tư. Chúng ta dễ nhận thấy cái tôi trữ tình của thơ qua một đặc
điểm nổi bật: Rất nhiều truyện ngắn trần thuật ở ngôi thứ nhất. Đặc biệt,
trong tản văn, cái tôi trữ tình luôn hiện diện một cách trực diện nhất. Trong
nhiều trường hợp, cái tôi ấy trùng khít với cái tôi tác giả. Ở những trường
hợp khác, tác giả gửi gắm góc nhìn này vào nhân vật. Chính điểm nhìn ấy
là khởi nguồn của dư vị trữ tình, tạo nên thế giới cảm xúc thấm đẫm trên
trang văn.
Thế giới của biểu tượng: Hình ảnh mang tính chất biểu tượng không
phải là đặc quyền của các thể loại trữ tình nhưng những biểu tượng có tính

ẩn dụ, có sức hàm nghĩa lớn chính là tố chất của thơ ca. Với dung lượng
nhỏ, thơ ca thường dụng công sáng tạo nên các hình ảnh biểu tượng có độ
nén, độ hàm súc cao. Trong thực tế, nhiều cây bút văn xuôi đã tận dụng ưu
thế này của thơ để xây dựng nên những biểu tượng đa nghĩa nhằm gia tăng
sức chuyển tải cho kích cỡ khiêm tốn của truyện ngắn. Tác giả không quan
tâm đến cốt truyện, nhân vật… mà tập trung cảm hứng cao độ cho các biểu
tượng, biểu tượng trong truyện lúc này có vai trò như cái tứ của thơ ca, xuất
hiện trở đi trở lại gợi lên những tầng ý nghĩa sâu xa của truyện. Nói cách
khác, ở những truyện ngắn này, tác giả gửi gắm, kí thác tư tưởng, tình cảm
của mình vào những biểu tượng, tạo được âm vang cho truyện. Biểu tượng
mang tính chất tượng trưng, mang ý nghĩa ẩn dụ cao đã tạo nên những mã
nghệ thuật độc đáo, thể hiện sự sáng tạo của người nghệ sĩ. Hình ảnh biểu
tượng trong truyện ngắn vừa có tính quy tụ lại vừa có sức lan tỏa. Đây là kỹ
thuật tương tác đòi hỏi khả năng sáng tạo, sự “cao tay” của người viết, nếu
thành công, tác phẩm vừa có sức nặng, vừa có âm hưởng, độ dư ba lớn, vẫy
gọi sự đồng sáng tạo mạnh mẽ đối với người đọc.
Sự thu hẹp, xóa nhòa cốt truyện: Sự tham gia của cái tôi trữ tình -
một thành tố quan trọng của thơ - vào văn xuôi đã tạo nên một đặc điểm

×