Tải bản đầy đủ (.pdf) (234 trang)

Sự hình thành hệ thống thể loại tự sự nghệ thuật trong tiến trình hiện đại hóa văn học Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.27 MB, 234 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN


PHẠM XUÂN THẠCH

SỰ HÌNH THÀNH HỆ THỐNG THỂ LOẠI
TỰ SỰ NGHỆ THUẬT TRONG TIẾN TRÌNH
HIỆN ĐẠI HÓA VĂN HỌC VIỆT NAM
NHỮNG NĂM ĐẦU THẾ KỶ XX

LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC

HÀ NỘI - 2008


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN


PHẠM XUÂN THẠCH

SỰ HÌNH THÀNH HỆ THỐNG THỂ LOẠI
TỰ SỰ NGHỆ THUẬT TRONG TIẾN
TRÌNH HIỆN ĐẠI HÓA VĂN HỌC VIỆT
NAM NHỮNG NĂM ĐẦU THẾ KỶ XX
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số
: 62.22.34.01

LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. GS. TS. Lê Văn Lân
2. PGS.TS. Trần Ngọc Vương

HÀ NỘI - 2008


MỤC LỤC
A. PHẦN MỞ ĐẦU

4

1. Lý do chọn đề tài

4

2. Lịch sử vấn đề

7

3. Nhiệm vụ của đề tài

15

4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài

16

5. Phƣơng pháp nghiên cứu


17

6. Đóng góp của luận án

20

7. Cấu trúc của luận án

20

B. PHẦN NỘI DUNG

22

Chƣơng 1: Những tiền đề hiện đại hóa tự sự

22

1.1. Những tiền đề văn hóa xã hội

23

1.1.1. Đơ thị và đời sống đô thị

23

1.1.2. Những thiết chế văn hóa và các hoạt động văn hóa

25


1.1.2.1. Báo chí và xuất bản

25

1.1.2.2. Nhà trƣờng Pháp - Việt và mơ hình giáo dục hiện đại
kiểu phƣơng Tây

27

1.1.2.3. Dịch thuật

30

1.1.2.4. Những lựa chọn ngơn ngữ

31

1.1.3. Những vận động văn hóa và tinh thần thời đại

33

1.2. Những vận động nội sinh của văn học

38

1.2.1. Truyền thống văn xuôi và tƣ duy tự sự; sự vận động
của văn học trƣớc thế kỷ XX

38


1.2.2. Sự hình thành của trƣờng văn học
Những tiếng nói trong trƣờng văn học

46

1.2.2.1. Sự hình thành của trƣờng văn học ở Việt Nam

46

1.2.2.2. Những tiếng nói trong trƣờng văn học

50

1.2.2.2.1 Độc giả và tinh hoa của độc giả - giới phê bình

51


1.2.2.2.2 Giới nhà văn

52

Tiểu kết

58

Chƣơng 2. Diễn tiến quá trình hiện đại hóa
tự sự trong giai đoạn giao thời

60


2.1. Quá trình hình thành một quan niệm thể loại
đặc trƣng của giai đoạn

60

2.1.1. Quan niệm về văn chƣơng và vị thế
của thể văn tự sự trong tổng thể văn chƣơng

61

2.1.2. Hình dung và những cách định danh thể loại

65

2.1.3. Những giá trị đặc thù của tự sự trong giai đoạn giao thời

72

2.1.3.1. Mối quan hệ giữa kể và tả trong tự sự nghệ thuật

73

2.1.3.2. Mối quan hệ giữa nghệ thuật và luân lý

73

2.1.3.3. Tự sự và những giá trị xã hội

76


2.2. Một phát triển đầy đứt đoạn

79

2.2.1. Giai đoạn cuối thế kỷ XIX –
Những ngƣời đi tiên phong

84

2.2.2. Hai thập niên đầu của thế kỷ XX Làn sóng thứ nhất những ngƣời viết tiểu thuyết quốc ngữ

90

2.2.3. Những năm 1920 và làn sóng thứ hai
những ngƣời viết tiểu thuyết

96

Tiểu kết

107

Chƣơng 3. Những khuynh hƣớng hiện đại hóa
cấu trúc hình thức thể loại

108

3.1. Tự sự ngắn - Một không gian mơ hồ


110

3.1.1. Giữa hƣ cấu và phi hƣ cấu

112

3.1.2.Tiểu thuyết và đoản thiên, hai cơ cấu ln có sự thẩm thấu

114

3.1.3. Những dạng thức đoản thiên chủ yếu

115

3.2. Những cấu trúc hình thức của truyện kể

118

3.2.1. Ngƣời kể chuyện và điểm nhìn

119

2


3.2.1.1. Ngƣời kể chuyện

119

3.2.1.1.1. Giới thuyết về ngƣời kể chuyện


119

3.2.1.1.2. Các hình thức ngƣời kể chuyện và trần thuật
Việt Nam trƣớc năm 1932

121

3.2.1.2. Điểm nhìn trong trần thuật Việt Nam trƣớc năm 1932

125

3.2.2. Các yếu tố cấu thành hành vi kể. Tác động của ngƣời kể
và điểm nhìn đối với hành vi trần thuật

130

3.2.2.1. Sự miêu tả

131

3.2.2.2. Phân tích tâm lý. Sự hiện diện của tƣ duy phân tíchvà tƣ duy duy lý 136
3.2.2.3. Khi con ngƣời tự thể hiện. Lời gián tiếp tự do

140

3.2.3. Thời gian và cấu trúc truyện kể

142


3.2.3.1. Độ dài thời gian tính và tốc độ trần thuật

143

3.2.3.2. Phá vỡ trật tự của thời gian. Đảo thuật

146

3.2.4. Các mơ hình trần thuật

147

Tiểu kết

149

Chƣơng 4. Ngơn ngữ, tự sự và ý thức hệ

151

4.1. Từ vựng, ý thức hệ và cái nhìn thế giới

152

4.1.1. Độ phong phú từ vựng

152

4.1.2. Từ vựng, ý thức hệ và những giá trị văn hóa


157

4.2. Cú pháp - Cuộc xung đột giữa các giá trị

166

4.3. Diễn ngôn; ngữ nghĩa và cấu trúc hệ thống nhân vật

173

4.3.1 Cơ chế tạo nghĩa của diễn ngôn

174

4.3.2 Ngữ nghĩa, mơ hình hành động và cấu trúc
ngữ nghĩa của hệ thống nhân vật

180

Tiểu kết

190

C. PHẦN KẾT LUẬN

192

DANH MỤC CƠNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ

198


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

199

PHỤ LỤC

208

3


A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Cho đến nay, việc hình dung về lịch sử văn học Việt Nam với hai thời đại
lớn bao gồm văn học Hán - Nơm thời trung đại theo mơ hình văn học Trung Quốc
và văn học quốc ngữ hiện đại theo mô hình văn học thế giới là điều đã đƣợc thừa
nhận một cách rộng rãi trong giới nghiên cứu văn học. Từ cách hình dung đó, đặt ra
cho những ngƣời nghiên cứu lịch sử văn học dân tộc những vấn đề hết sức cơ bản.
Trƣớc hết, đó là vấn đề tính quy luật của quá trình chuyển đổi hệ hình diễn ra trong
lịch sử văn học Việt Nam. Liệu quá trình hiện đại hóa văn học dân tộc là sản phẩm
của một sự cƣỡng bức văn hóa từ bên ngồi hay là kết quả của một sự phát triển nội
tại? Nói cách khác, mơ hình văn học hiện đại nhƣ đã đƣợc định hình trong những
năm 30 của thế kỷ XX liệu có phải là một bƣớc phát triển tất yếu mà nếu khơng có
những tác động của cuộc tiếp xúc với phƣơng Tây, nền văn học dân tộc với những
sự phát triển có tính nội tại của nó cũng sẽ vận động đến? Bên cạnh đó là vấn đề về
sự đứt gãy giữa hai thời đại lớn của văn học dân tộc. Liệu quá trình thay thế chữ
Hán và chữ Nơm bằng chữ quốc ngữ có gây ra một sự đứt gãy văn hóa giữa con
ngƣời hiện đại và di sản văn hóa truyền thống? Văn học hiện đại liệu có phải chỉ là
một sự du nhập và bản địa hóa văn học châu Âu - nghĩa là một sự rời bỏ quá khứ

văn học - hay là một sự phát triển tất yếu trên cơ sở những vận động của văn học
dân tộc trong giai đoạn hậu kỳ của thời trung đại? Để trả lời đƣợc những câu hỏi
đó, tất yếu phải quay trở về với giai đoạn diễn ra quá trình chuyển đổi hệ hình của
văn học, giai đoạn giao thời kéo dài trong ba thập niên đầu thế kỷ XX.
Theo quan điểm của chúng tơi, có một giai đoạn đặc biệt nằm giữa hai thời
đại lớn của văn học dân tộc. Đƣợc định hƣớng từ các nghiên cứu sử văn học của
Giáo sƣ Trần Đình Hƣợu, chúng tơi hình dung giai đoạn này kéo dài trong khoảng
ba thập niên đầu tiên của thế kỷ XX, tính từ năm 1904 - 1905, khi cuộc cách mạng
văn hóa lớn của lịch sử Việt Nam bắt đầu diễn ra trong các phong trào Duy tân cho
đến 1932, thời điểm Phan Khơi cơng bố bài thơ Tình già mở đầu cho phong trào

4


Thơ mới. Đây chính là quãng thời gian diễn ra quá trình chuyển đổi hệ hình của
văn học dân tộc.
Trong con mắt của ngƣời nghiên cứu, văn học Việt Nam ba mƣơi năm đầu
thế kỷ XX giống nhƣ một phòng thí nghiệm khổng lồ. Ngƣời viết văn và ngƣời làm
văn học trong giai đoạn này cùng chia sẻ một ý thức: họ đang tham dự vào việc
kiến tạo cho một cái gì cịn chƣa hình thành, một thực tế chƣa từng tồn tại. Đó cũng
là một giai đoạn đặc biệt phong phú về thành phần công chúng và ngƣời sáng tác
văn học và chính sự đa dạng của đội ngũ tác giả và công chúng đã dẫn đến sự đa
dạng của những khuynh hƣớng hiện đại hóa văn học. Nhƣ các tác giả của giáo trình
Văn học Việt Nam giai đoạn giao thời 1900-1930 đã chứng minh, có cả hai khuynh
hƣớng cùng đồng thời diễn ra: đổi mới văn học truyền thống và lặng lẽ du nhập,
bản địa hóa kiểu mẫu văn học thế giới. Cả hai khuynh hƣớng đều có những đại diện
xuất sắc. Việc đồng thời tồn tại nhiều nhóm tác giả và cơng chúng với nguồn gốc
văn hóa khác nhau khiến cho khơng một khuynh hƣớng nào có thể phát triển một
cách thuần nhất. Sự pha trộn và sự thỏa hiệp trở thành khuynh hƣớng chung của
toàn bộ đời sống văn học, nhƣ chính cái khẩu hiệu văn hóa đƣợc tơn lên tiên phong

trong giai đoạn này: “Điều hòa tân cựu - Thổ nạp Âu Á”.
Trong một cảm hứng chung chuẩn bị cho một cái gì cịn chƣa định hình, một
cái mới chƣa từng có, hàng loạt công việc đã đƣợc khởi sự. Ngƣời ta bắt tay vào
chuẩn hóa và làm mới tiếng Việt. Cảm hứng kiến tạo cái mới kết hợp với tinh thần
dân tộc đã hình thành một tâm lý phổ biến trong tồn bộ giới trí thức về việc “tổng
kiểm kê” lại tồn bộ di sản văn chƣơng quá khứ. Song song với công việc đó, dịch
thuật đƣợc đề cao nhƣ một thứ “quốc sách”. Dịch thuật đã dẫn đến sự đồng hiện
của nhiều truyền thống văn học trong một giai đoạn ngắn, từ văn học Việt Nam đến
văn học thế giới, phƣơng Đông và phƣơng Tây, từ những giá trị cổ điển nhất đến
những giá trị có tính thị trƣờng nhất.
Một hiện tƣợng đặc biệt có ý nghĩa của giai đoạn này là sự hình thành của
trƣờng văn học (le champ littéraire) theo ngôn ngữ của xã hội học nghệ thuật hiện
đại. Văn học bắt đầu tách khỏi sự lệ thuộc vào những hình thái ý thức xã hội khác

5


để trở thành một lĩnh vực có tính tự trị tƣơng đối với những quy luật nội tại của
chính nó. Thị trƣờng văn học tồn tại vừa nhƣ một thứ bà đỡ (cũng giống nhƣ báo
chí và các nhà xuất bản) cho sự tự trị của văn học nhƣng đồng thời cũng áp đặt quy
luật thép của nó lên đời sống văn chƣơng. Song song với khuynh hƣớng thị trƣờng
hóa văn chƣơng là khuynh hƣớng bảo vệ những giá trị có tính tinh hoa của văn học.
Diễn ngơn của những ngƣời nhƣ Phạm Quỳnh, Huỳnh Thúc Kháng, Ngô Đức Kế...
biểu hiện rất rõ khuynh hƣớng này và đồng thời, nó cịn đƣợc thể hiện qua hàng
loạt cơng trình sƣu tầm, dịch thuật, khảo cứu của nhiều nhà nghiên cứu có uy tín
lúc bấy giờ.
Nhƣ vậy, ba muơi năm đầu thế kỷ XX hiện lên nhƣ là một giai đoạn đặc biệt
hấp dẫn đối với ngƣời viết văn học sử. Tính hấp dẫn ở đây không phải chỉ thể hiện
ở sự tập hợp với mật độ cao “những con voi trắng” - theo ẩn dụ của H.R.Jauss
trong cơng trình Lịch sử văn học như là sự khiêu khích đối với khoa học văn học những tác giả lớn của nền văn học. Quan trọng hơn, nó đƣợc tạo nên bởi sự độc đáo

của các hiện tƣợng văn học và sự phong phú của các vấn đề văn học sử. Từ góc
nhìn lịch sử văn học, chúng tôi đặc biệt quan tâm đến giai đoạn này trong một tâm
thế chung là khôi phục lại một mắt xích cịn thiếu của lịch sử dân tộc, ngõ hầu trả
lời câu hỏi về sự phát triển liên tục của tiến trình văn học. Đi sâu tìm hiểu giai đoạn
văn học này, chúng tơi đặc biệt chú ý tới một bộ phận tác phẩm có sức sống đặc
biệt: các tự sự đƣợc ngƣời đƣơng thời định danh bằng những tên gọi liên quan đến
“tiểu thuyết”.
Những biến đổi của văn học Việt Nam trong ba mƣơi năm đầu thế kỷ XX
diễn ra đều khắp trên tất cả các thể loại. Thế nhƣng, trong tƣơng quan các thể loại,
hiếm có bộ phận văn chƣơng nào hội đủ tƣ cách đại diện cho những biến đổi của
văn chƣơng trên tiến trình hiện đại hóa nhƣ các thể văn tự sự. Nếu so sánh với
những giai đoạn trƣớc đó, có thể khẳng định chƣa bao giờ trong lịch sử văn học dân
tộc lại có một sự phát triển mạnh mẽ đến vậy của các thể văn tự sự. Chỉ trong
khoảng ba mƣơi năm, bộ phận văn học này đã để lại một số lƣợng văn bản hết sức
phong phú. Nó thu hút đƣợc một đội ngũ sáng tác hết sức đa dạng. Nó là sản phẩm

6


của nhiều khuynh hƣớng tìm tịi và thể nghiệm khác nhau và nó nằm ở trung tâm
các mối quan tâm của xã hội. Nói một cách hình tƣợng, từ vùng biên của nền văn
học, từ thân phận còi cọc trong suốt tiến trình phát triển lịch sử, các thể văn tự sự
đã bƣớc thẳng vào trung tâm của đời sống văn học và có một sự đột biến về chất.
Vậy, liệu có chăng một mối liên hệ giữa sự phát triển đột biến đó và những vận
động mang tính hiện đại hóa của đời sống văn hóa nói chung và văn học nói riêng?
Chọn các sự vận động của các thể văn tự sự bằng chữ quốc ngữ trong ba mƣơi năm
đầu thế kỷ làm đối tƣợng khảo sát của luận án với tiêu đề Sự hình thành hệ thống
thể loại tự sự nghệ thuật trong tiến trình hiện đại hóa văn học Việt Nam những
năm đầu thế kỷ XX chúng tơi hy vọng có thể trả lời đƣợc những câu hỏi trên.
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ

Vấn đề mà chúng tôi khảo sát - tự sự bằng chữ quốc ngữ xuất bản công khai
ở Việt Nam trong ba thập niên đầu thế kỷ XX - đã đƣợc đề cập đến từ khá sớm, có
thể nói, ngay từ giai đoạn khởi đầu của khoa nghiên cứu lịch sử văn học ở Việt
Nam nghĩa là từ cơng trình nghiên cứu văn học sử đầu tiên Việt Nam văn học sử
yếu của Dƣơng Quảng Hàm (1943). Điều đó cũng đồng nghĩa với việc nó đã đƣợc
giới nghiên cứu, ở những mức độ khác nhau, đề cập đến trong suốt hơn sáu mƣơi
năm qua ở Việt Nam. Trong tiến trình hơn nửa thế kỷ đó, cơng trình quan trọng
nhất có ý nghĩa quyết định nhƣ là một dấu mốc đánh dấu bƣớc phát triển về chất
của lịch sử nghiên cứu chính là bộ giáo trình văn học sử Văn học Việt Nam giai
đoạn giao thời của hai tác giả Trần Đình Hƣợu và Lê Chí Dũng đƣợc khởi thảo từ
năm 1974 và xuất bản lần đầu năm 1988. Trong hình dung về lịch sử vấn đề của
chúng tôi, đây sẽ đƣợc coi nhƣ một mốc quan trọng.
2.1. Ngay từ trƣớc năm 1945, khi những cơng trình văn học sử đầu tiên do
ngƣời Việt Nam tiến hành đƣợc khởi thảo, ý thức về sự tồn tại của một giai đoạn
bình minh của văn học quốc ngữ đã sớm xuất hiện. Có thể đọc đƣợc điều này trong
cuốn sử văn học đầu tiên Việt Nam văn học sử yếu của Dƣơng Quảng Hàm, các
cơng trình phê bình văn học của Vũ Ngọc Phan, Lê Thanh, Kiều Thanh Quế hay
trong những mảnh hồi ức của các nhà văn nhƣ Thạch Lam. Đáng kể nhất trong

7


những cơng trình này là các cuốn của Dƣơng Quảng Hàm (Việt Nam văn học sử
yếu) và Vũ Ngọc Phan (Nhà văn hiện đại). Việt Nam văn học sử yếu là một cuốn
văn học sử bao gồm hai phần: khái quát về văn chƣơng Việt Nam (văn học bình
dân, các thể loại, các nguồn ảnh hƣởng của Trung Quốc và của Pháp) và lịch sử văn
chƣơng Việt Nam tính từ thời Lý Trần cho đến Tự lực văn đoàn. Trong số 46
chƣơng của cuốn sách, có 7 chƣơng dành cho văn học đƣơng đại nghĩa là từ đầu thế
kỷ XX cho đến Tự lực văn đoàn. Trong 7 chƣơng này, ông khảo sát một cách khái
quát sự ra đời của nền văn học hiện đại bằng chữ quốc ngữ của ngƣời Việt từ

những nguồn ảnh hƣởng nƣớc ngoài, sự ra đời của ngơn ngữ văn học mới, những
hình thức phơi thai của nền quốc văn, các thể văn quốc ngữ buổi đầu, một số dịch
giả (Nguyễn Văn Vĩnh), học giả (Phạm Quỳnh) và một số nhà thơ (Nguyễn Khắc
Hiếu, Đông Hồ, Trần Tuấn Khải). Đóng góp lớn nhất của Dƣơng Quảng Hàm qua
cơng trình này chính là đã xác nhận sự tồn tại của một giai đoạn lịch sử văn học và
vạch ra một số hƣớng nghiên cứu hứa hẹn (nghiên cứu văn học so sánh, mối quan
hệ giữa văn học và ngôn ngữ, nghiên cứu thể loại…) cho những nhà nghiên cứu
tiếp theo.
Cùng với Việt Nam văn học sử yếu thì Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan
cũng là một cơng trình lớn có đề cập đến văn học Việt Nam trong giai đoạn sơ
khởi. Trong cơng trình này, tác giả không định dựng một thông sử mang tính khái
quát về văn học Việt Nam mà hƣớng đến việc xây dựng lại diện mạo một giai đoạn
văn chƣơng qua tập hợp phê bình các tác giả/ nhóm tác giả tiêu biểu. Trong số 4
phần chính của cuốn sách thì 2 phần đầu đƣợc dành cho văn học Việt Nam trong
giai đoạn sơ khởi. Trong 2 phần này, tác giả đã khảo sát một tập hợp tác giả phong
phú từ Trƣơng Vĩnh Ký, ngƣời tiên phong đặt nền móng cho văn học mới bằng chữ
quốc ngữ, các nhà văn thuộc nhóm Đơng Dương tạp chí (Nguyễn Văn Vĩnh, Phan
Kế Bính, Nguyễn Đỗ Mục), nhóm Nam Phong tạp chí (Phạm Quỳnh, Nguyễn Bá
Học, Phạm Duy Tốn, Nguyễn Hữu Tiến, Nguyễn Trọng Thuật, Lâm Tấn Phác,
Tƣơng Phố), các nhà biên khảo (Trần Trọng Kim, Bùi Kỷ, Lê Dƣ, Phan Khôi,
Nguyễn Quang Oánh…), các thi gia (Nguyễn Khắc Hiếu, Đoàn Nhƣ Khuê, Dƣơng

8


Bá Trạc, Trần Tuấn Khải) cho đến những tiểu thuyết gia (Hoàng Ngọc Phách, Hồ
Biểu Chánh). Trong một tập hợp phong phú tác gia nhƣ trên chỉ có hai tác giả đƣợc
khảo sát nhƣ là những nhà văn viết tiểu thuyết đích thực (Hồng Ngọc Phách, Hồ
Biểu Chánh), ngồi ra, một số những tác phẩm khác cũng đƣợc nhắc đến nhƣ Quả
dưa đỏ của Nguyễn Trọng Thuật hay những truyện ngắn kiểu mới của Phạm Duy

Tốn. Rõ ràng, Vũ Ngọc Phan khi viết Nhà văn hiện đại đã có một ý thức rất rõ
trong việc cố gắng tái hiện lại những khuynh hƣớng vận động chính của văn học
trong giai đoạn sơ khởi (thơng qua việc khảo sát những nhóm tác giả có ảnh hƣởng
lớn) cũng nhƣ xem xét mối tƣơng quan giữa các bộ phận cấu thành nên đời sống
văn học (tự sự, thơ, khảo cứu…). So với công trình của Dƣơng Quảng Hàm, hình
dung của Vũ Ngọc Phan về văn học Việt Nam giai đoạn giao thời nói chung và bộ
phận văn xi tự sự nói riêng đã có bƣớc phát triển theo chiều sâu. Đó chính là giá
trị khơng thể phủ nhận đƣợc của bộ sách.
Ngồi hai cơng trình nói trên, có thể tìm thấy dấu vết của văn học Việt Nam
giai đoạn giao thời nói chung và các sáng tác tự sự nói riêng trong những cơng trình
phê bình khảo luận của một số tác giả nhƣ Phê bình và cảo luận của Thiếu Sơn,
Cuộc phỏng vấn các nhà văn của Lê Thanh, Cuộc tiến hóa văn học Việt Nam của
Kiều Thanh Quế, Dưới mắt tôi của Trƣơng Chính, Theo dịng của Thạch Lam...
Những tác phẩm này ít hay nhiều đều cung cấp cho chúng ta những thơng tin có giá
trị nhất định về văn học Việt Nam giai đoạn sơ khởi. Tuy nhiên, các công trình này
đều có chung một số nhƣợc điểm nhất định:
Thứ nhất, tập hợp tƣ liệu của các tác giả, mặc dù đề cập đến một giai đoạn
văn học rất gần với họ nhƣng hầu hết đều là thiếu đầy đủ. Khiếm khuyết lớn nhất
trong cái nhìn này là quan điểm tạm gọi “lấy miền Bắc làm trung tâm” nghĩa là chỉ
tập trung chủ yếu vào các tác giả văn học miền Bắc.
Thứ hai, bị giới hạn bởi thời điểm lịch sử nên cơ sở phƣơng pháp luận của
những cơng trình nói trên chủ yếu là dựa trên mơ hình ngữ văn học truyền thống
kết hợp với những cảm thụ suy nghĩ chủ quan.

9


2.2. Sau năm 1945, cuộc chiến tranh Pháp - Việt diễn ra từ các năm 1946
đến 1954 đã gây ra một sự đứt đoạn trong các hoạt động nghiên cứu văn học nói
chung. Từ sau năm 1954, q trình chia cắt đất nƣớc một mặt gây ra những tác

động nhất định đến việc tiến hành các cơng trình nghiên cứu văn học nhƣng mặt
khác cũng tạo nên một tiền đề ổn định tƣơng đối cho sự phát triển của bộ mơn.
Chính vì vậy nên từ năm 1954 cho đến thời điểm cơng trình của Trần Đình Hƣợu,
Lê Chí Dũng đƣợc xuất bản, một số bộ văn học sử đã đƣợc xây dựng. Có thể kể
đến các bộ Lược thảo lịch sử văn học Việt Nam của nhóm Lê Q Đơn, Lược sử
văn học Việt Nam của Ban Văn Sử Địa, Giáo trình lịch sử văn học Việt Nam của
Trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội I ở miền Bắc Việt Nam và Việt Nam văn học sử
trích yếu của Nghiêm Toản, Việt Nam văn học sử giản ước tân biên của Phạm Thế
Ngũ, Văn học Việt Nam của Phạm Văn Diêu, Bảng lược đồ văn học Việt Nam của
Thanh Lãng, Lược sử văn học Việt Nam của Thế Phong ở miền Nam Việt Nam.
Trong số những cơng trình nói trên, chúng tôi đặc biệt đánh giá cao hai bộ văn học
sử của Phạm Thế Ngũ và Thanh Lãng. Sự thành cơng của hai cơng trình này có
đƣợc trƣớc hết là nhờ việc chúng đƣợc xây dựng nên từ những tập hợp tƣ liệu
phong phú, tƣơng đối toàn diện và vƣợt lên đƣợc những định kiến chính trị vốn rất
mạnh trong giai đoạn chiến tranh chia cắt đất nƣớc.
Cơng trình của Phạm Thế Ngũ là một tổng thể gồm 3 tập trong đó phần thứ
ba là dành cho văn học hiện đại (đƣợc tính từ 1862 đến 1945). Viết cơng trình này,
Phạm Thế Ngũ chủ yếu dựa trên mơ hình của ngữ văn học cổ điển nghĩa là phân
chia lịch sử văn học theo trục thời gian. Văn học hiện đại đƣợc Phạm Thế Ngũ hình
dung gồm 3 giai đoạn: 1862 - 1907; 1907 - 1932; và 1932 - 1945. Tính độc đáo của
cơng trình này đƣợc thể hiện trong cả ba phần nói trên nhƣng ở đây, chúng tơi chỉ
bàn đến những phần viết về văn học Việt Nam trong giai đoạn 1907 - 1932. Phần
này bao gồm 5 chƣơng lớn: Khái quát về giai đoạn 1907 - 1932; Nguyễn Văn Vĩnh
- Đơng Dương tạp chí; Phạm Quỳnh - Nam phong tạp chí; Cơng việc biên khảo và
phê bình; Sự hình thành tiểu thuyết mới; Thơ và các nhà làm thơ trƣớc 1932. Bố
cục nói trên chứng tỏ ngƣời viết có một hình dung tồn diện về văn học Việt Nam

10



ba thập niên đầu thế kỷ XX và trên thực tế, trong mỗi phần ơng đều có những luận
điểm nhìn chung là xác đáng, điển hình nhƣ việc nhấn mạnh vai trị của báo chí và
dịch thuật đối với sự ra đời của nền văn học mới. Riêng phần viết về sự hình thành
của tiểu thuyết mới, mặc dù xây dựng trên một tập hợp tƣ liệu khó có thể nói là đầy
đủ nhƣng cách hình dung của Phạm Thế Ngũ là chính xác. Sự ra đời của tiểu thuyết
mới đƣợc hình dung với hai nguồn ảnh hƣởng chính: truyền thống truyện Nơm và
tiểu thuyết dịch. Ơng đã miêu tả đƣợc những quan hệ đa dạng giữa các bộ phận ký
sự, đoản thiên và trƣờng thiên tiểu thuyết, các bộ phận tiểu thuyết ở Bắc Kỳ (với
hai đại diện là Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách và Quả dưa đỏ của Nguyễn Trọng
Thuật), và Nam Kỳ (với đại diện là Hồ Biểu Chánh). Những nhận xét sơ khởi về
các yếu tính của tiểu thuyết Nam Kỳ (tính chất đạo lý, tính hiện thực, sự giản dị về
kỹ thuật) cũng đáng đƣợc quan tâm. Từ những lý do trên, có thể khẳng định mặc dù
những hạn chế về phƣơng pháp luận chƣa cho phép Phạm Thế Ngũ đi sâu vào các
vấn đề liên quan đến bản chất nội tại của tự sự, đến mối quan hệ giữa tự sự và bối
cảnh xã hội - văn hóa đƣơng thời (vấn đề của xã hội học văn học) hoặc mối quan hệ
giữa sự hình thành của tự sự hiện đại và những nguồn ảnh hƣởng đa dạng truyền
thống và hiện đại, phƣơng Đông và phƣơng Tây (vấn đề của văn học so sánh)
nhƣng cơng trình của Phạm Thế Ngũ vẫn là một cơng trình mà bất cứ ai tìm hiểu
các vấn đề của văn học Việt Nam giai đoạn giao thời đều phải tham chiếu.
Nếu nhƣ cơng trình của Phạm Thế Ngũ là một cơng trình tƣơng đối bảo thủ
về phƣơng pháp luận thì cơng trình của Thanh Lãng lại có một sự mới mẻ đến mức
độc đáo. Nếu nhƣ các nhà nghiên cứu văn học sử từ Dƣơng Quảng Hàm đến Phạm
Thế Ngũ đều chịu ảnh hƣởng của mơ hình nghiên cứu lịch sử văn học của Gustave
Lanson(1) thì cơng trình của Phạm Thế Ngũ lại mang dấu ấn của một mô hình khác:
mơ hình của Albert Thibaudet. Thanh Lãng khơng phân chia lịch sử phát triển của
văn chƣơng theo các giai đoạn giống nhƣ trong thông sử mà dựa trên sự xuất hiện
của các thế hệ nhà văn (tính bằng thời điểm hoạt động xã hội và nghệ thuật chủ yếu

(1)


Gustave Lanson (1857 - 1934) nhà nghiên cứu lịch sử văn học ngƣời Pháp.

11


của nhà văn). Đây là một khái niệm có tính xã hội học rất rõ và đó cũng chính là
đóng góp lớn nhất của cơng trình của Thanh Lãng. Nếu sử dụng khái niệm “trƣờng
văn học” của P. Bourdieu thì có thể nói Thanh Lãng đã đi sâu mơ tả đƣợc một loạt
vấn đề đặc thù của trƣờng văn học mà nổi bật là các cuộc tranh luận văn chƣơng.
Từ góc nhìn về trƣờng văn học những quan điểm đó cho phép dựng lại những
“position” - những tiếng nói quyền uy và uy tín làm chủ trƣờng văn học - mặt khác,
chính những tiếng nói quyền uy ấy cũng phản ánh chuẩn thẩm mỹ của một thời đại
- cái mà mỹ học tiếp nhận gọi là “tầm tiếp nhận” (horizon d’attent) riêng của một
thời. Đây là những dữ kiện không thể thiếu đƣợc khi nghiên cứu mối quan hệ giữa
thể loại và mơi trƣờng xã hội - văn hóa - thẩm mỹ mà nó sinh thành. Ở một bình
diện khác, với một sự un bác hiếm có, cơng trình của Thanh Lãng cũng cung cấp
những định hƣớng nghiên cứu văn học so sánh cần thiết khi ơng nói về mối quan hệ
giữa sự hình thành của tự sự hiện đại và những nguồn ảnh hƣởng từ văn học nƣớc
ngồi.
2.3. Cơng trình Văn học Việt Nam giai đoạn giao thời 1900 - 1930 của hai
tác giả Trần Đình Hƣợu và Lê Chí Dũng có một vị trí đặc biệt trong lịch sử nghiên
cứu văn học Việt Nam giai đoạn giao thời. Mặc dù đƣợc viết từ thập niên 1970 của
thế kỷ XX nhƣng có thể nói, một trong những giá trị lớn của cơng trình chính là
tính hiện đại và tính đúng đắn về mặt phƣơng pháp luận. Trƣớc hết, cần phải khẳng
định đây là một cơng trình mang cảm hứng xã hội học hết sức rõ nét. Tuy nhiên,
khác với mơ hình xã hội học lúc bấy giờ xuất phát từ một định kiến về hiện thực,
sau đó đi tìm hình chiếu của định kiến đó trong tác phẩm văn học và đánh giá tác
phẩm dựa trên độ chênh với định kiến thì cơng trình Văn học Việt Nam giai đoạn
giao thời 1900 - 1930 lại đƣợc xây dựng trên một mơ hình khác hẳn. Đó chính là
mối tƣơng quan về ý thức hệ giữa tác phẩm và xã hội thông qua một loạt những

quan hệ phức tạp về nguồn gốc học vấn, xuất thân văn hóa và hành trình xã hội của
nhà văn (điều này đƣợc thể hiện đặc biệt xuất sắc trong những nghiên cứu về Tản
Đà và Phan Bội Châu). Điểm thành công lớn nhất của công trình là chỉ ra đƣợc
những ngả đƣờng phức tạp trên của q trình hiện đại hóa văn học ở Việt Nam đầu

12


thế kỷ: hiện đại hóa, cách tân văn học truyền thống và du nhập, bản địa hóa mơ
hình văn học phƣơng Tây, những giới hạn của từng ngả đƣờng cũng nhƣ sự đan
xen, thẩm thấu, quy định lẫn nhau giữa những ngả đƣờng. Tính đúng đắn về
phƣơng pháp luận của cơng trình cũng thể hiện ở việc ngƣời nghiên cứu đã đặt vấn
đề tiếp cận một giai đoạn văn học vừa trong tính liên tục của tiến trình văn học từ
văn học trung đại đến những giai đoạn hiện đại tiếp theo; vừa trong mối quan hệ
với những nền văn học lớn trên thế giới cả trong quan hệ đối chiếu lẫn trong quan
hệ giao tiếp ảnh hƣởng. Điều cần nhấn mạnh là trong khi nghiên cứu những quan
hệ giao tiếp, ảnh hƣởng, các tác giả đã đặc biệt nhấn mạnh vai trò của chủ thể tiếp
nhận, một tƣ tƣởng có giá trị cho đến ngày nay.
2.4. Từ khi hai cơng trình của Trần Đình Hƣợu và Lê Chí Dũng đƣợc xuất
bản cho đến nay, tình hình nghiên cứu văn học Việt Nam trong giai đoạn giao thời
nói chung và các thể văn tự sự nói riêng đã có thêm những bƣớc phát triển quan
trọng. Bắt đầu từ 1986, rất nhiều những định kiến và cấm kị trong nhận thức về quá
khứ đã từng bƣớc bắt đầu đƣợc dỡ bỏ. Nó mở đƣờng cho giới nghiên cứu có đƣợc
một cái nhìn khách quan hơn về quá khứ. Nhiều mảng tƣ liệu văn học sử cịn khiếm
khuyết đã đƣợc khơi phục mà một trong những mảng tƣ liệu quan trọng nhất là liên
quan đến văn học miền Nam. Trong việc này, cần ghi nhận công lao của các học
giả và nhà nghiên cứu miền Nam. Cơng trình đầu tiên có cơng trong việc khôi phục
lại vị thế của một vùng văn học chính là Địa chí văn hóa thành phố Hồ Chí Minh
(tập II), của nhóm tác giả Trần Văn Giàu, Trần Bạch Đằng, Nguyễn Cơng Bình.
Tiếp theo đó là việc xuất bản và tái bản hàng loạt cơng trình của nhà nghiên cứu

Bằng Giang. Trong số những cơng trình của ông viết từ trƣớc năm 1975 đƣợc tái
bản, công trình quan trọng nhất chính là cuốn Văn học quốc ngữ ở Nam Kỳ 1865 1930. Gần nhƣ đƣợc tái bản đồng thời với những cơng trình của Bằng Giang chính
là cơng trình của nhà nghiên cứu Bùi Đức Tịnh: Những bước đầu của báo chí, tiểu
thuyết và Thơ mới. Đồng thời với những cơng trình khảo cứu nói trên, hàng loạt tác
phẩm văn chƣơng miền Nam trƣớc năm 1945 đã đƣợc tái bản, từ cuốn tiểu thuyết
đầu tiên bằng chữ quốc ngữ Truyện thầy Lazarô Phiền cho đến những tiểu thuyết

13


của Hồ Biểu Chánh và Bửu Đình. Trong những năm vừa qua, một cơng trình sƣu
tầm, phục chế tồn bộ di sản văn học quốc ngữ ở Nam Kỳ trƣớc năm 1945 đã đƣợc
khoa Ngữ văn - Báo chí trƣờng Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn thuộc Đại
học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh tiến hành và đến năm 2006, cơng trình này
đã hồn tất. Đó là chƣa kể đến việc trong các Tổng tập văn học, văn học miền Nam
bắt đầu đƣợc khôi phục và tái bản. Tất cả những điều đó đã làm cho giới nghiên
cứu có một hình dung đầy đủ hơn về văn học quốc ngữ ở Nam Kỳ, một thực thể
không thể tách rời của văn học dân tộc.
Song song với hoạt động sƣu tầm, khảo cứu là những nghiên cứu về bản
chất, đặc điểm cũng nhƣ những quy luật vận động của thể văn tự sự ở Nam Kỳ hồi
đầu thế kỷ XX. Có thể kể đến bốn luận án tiến sĩ liên quan đến đề tài này:
- Tôn Thất Dụng, Sự hình thành và vận động của thể loại tiểu thuyết văn
xuôi tiếng Việt ở Nam Bộ giai đoạn cuối thế kỷ XIX đến năm 1932, Luận án tiến sĩ,
Trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội, 1993.
- Cao Xuân Mỹ, Q trình hiện đại hóa tiểu thuyết Việt Nam từ cuối thế kỷ
XIX đến đầu thế kỷ XX, Luận án tiến sĩ, Trƣờng Đại học Sƣ phạm TP. Hồ Chí
Minh, 2001.
- Nguyễn Thanh Sơn, Truyện ngắn Việt Nam từ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế
kỷ XX, Luận án tiến sĩ, Trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội, 2001.
- Lê Ngọc Thúy, Đóng góp của văn học quốc ngữ ở Nam Bộ cuối thế kỷ XIX

đầu thế kỷ XX vào tiến trình hiện đại hóa văn học Việt Nam, Luận án tiến sĩ,
Trƣờng Đại học Sƣ phạm TP. Hồ Chí Minh, 2002.
Đó là chƣa kể tới một số lƣợng lớn luận văn thạc sĩ ở các cơ sở đào tạo khác
nhau từ Nam đến Bắc. Đây là những nỗ lực đáng trân trọng của giới nghiên cứu để
hƣớng tới một cái nhìn tồn diện và chính xác hơn về văn học dân tộc.
Bên cạnh những đóng góp quan trọng của các cơng trình nói trên, việc
nghiên cứu văn học Việt Nam giai đoạn giao thời nói chung và văn xi tự sự nói
riêng vẫn cịn có một số vấn đề tồn tại. Trƣớc hết, có thể thấy tồn bộ các cơng
trình này đều đƣợc xây dựng trên một sự hình dung về văn học sử lấy phƣơng pháp

14


sáng tác làm trung tâm. Những hạn chế của cách nhìn lịch sử văn học theo phƣơng
pháp sáng tác, thiết tƣởng không cần nhắc lại, chúng tôi chỉ muốn nhấn mạnh lại,
hệ thống phƣơng pháp sáng tác là hệ thống lý luận bắt nguồn từ thực tế văn học
phƣơng Tây, dẫu trong giai đoạn đầu thế kỷ XX, văn học Việt Nam bắt đầu quá
trình tiếp xúc, giao lƣu với văn học thế giới và chuyển dịch sang mơ hình văn học
thế giới thì đó cũng là một q trình giao lƣu và chuyển dịch trên một cơ tầng mƣời
thế kỷ văn học viết trung đại trong những điều kiện đặc thù của Việt Nam. Nếu nhƣ
trong giai đoạn 1932 - 1945, tiêu chí phƣơng pháp sáng tác cũng khơng cho phép
nhận chân diện mạo và những quy luật phát triển của văn học Việt Nam thì trong
giai đoạn 1900 - 1932, thời kỳ phôi thai của văn học hiện đại tiêu chí phƣơng pháp
sáng tác càng khơng thể đảm bảo cho một cái nhìn chính xác về đối tƣợng.
Trên một bình diện khác, một trong những cái bẫy mà ngƣời nghiên cứu văn
học trong giai đoạn giao thời dễ mắc phải, đó là sự ám ảnh của những hệ phân loại
hiện đại. Khi khảo sát tự sự Việt Nam trong giai đoạn giao thời, nhiều nhà nghiên
cứu thƣờng hay lấy những thể loại nòng cốt của văn chƣơng hiện đại nhƣ "truyện
ngắn", "tiểu thuyết", "kí" làm tiêu chí khu biệt giới hạn nghiên cứu của toàn luận án
cũng nhƣ những thao tác cụ thể của luận án. Điều này có thể có một giá trị nhất

định về thao tác nhƣng lại có những hạn chế nhất định khi mơ tả một thực thể cịn
đang trong giai đoạn phơi thai. Điều này sẽ đƣợc chứng minh trong những phần
tiếp theo của luận án.
Trên đây chính là một phác thảo tồn cảnh lịch sử nghiên cứu văn học Việt
Nam giai đoạn giao thời nói chung và tự sự nghệ thuật nói riêng kể từ cơng trình
lịch sử văn học đầu tiên của Dƣơng Quảng Hàm.
3. NHIỆM VỤ CỦA ĐỀ TÀI
Qua việc trình bày lịch sử vấn đề ở trên, có thể thấy, về mặt tƣ liệu, những
bộ phận tƣ liệu quan trọng nhất liên quan đến các thể văn tự sự bằng chữ quốc ngữ
trong ba thập niên đầu thế kỷ XX đều đã đƣợc khôi phục đầy đủ. Tất nhiên trong
nghiên cứu lịch sử, khó có thể khẳng định một điều gì tuyệt đối, tuy vậy, có thể
khẳng định trong nhiều năm nữa, với tình hình các nguồn tƣ liệu ở Việt Nam và

15


trên thế giới, khó có thể hy vọng những phát hiện tƣ liệu nào đó có thể làm đảo lộn
các khẳng định lý thuyết. Vấn đề quyết định, theo chúng tơi, chính là trên cơ sở sự
phát triển của các lý thuyết nghiên cứu văn học trong thế kỷ XX, kết hợp các
phƣơng pháp theo hƣớng liên ngành để xây dựng đƣợc một mơ hình có thể mơ tả
đƣợc những đặc điểm của quá trình hình thành và vận động của các thể văn tự sự
trong giai đoạn sơ khởi của văn học hiện đại. Đó cũng chính là mục tiêu nghiên cứu
của chúng tôi trong luận án này với tiêu đề: Sự hình thành hệ thống thế loại tự sự
nghệ thuật trong tiến trình hiện đại hóa văn học Việt Nam những năm đầu thế
kỉ XX. Thực hiện đề tài này, trên cơ sở kế thừa thành tựu nghiên cứu và những phát
hiện tƣ liệu của những nhà nghiên cứu đi trƣớc, chúng tôi muốn tiến hành một tiếp
cận có tính tổng thể đối với tự sự nghệ thuật bằng chữ quốc ngữ ở Việt Nam trong
giai đoạn giao thời. Câu hỏi trung tâm mà luận án sẽ phải trả lời là: (1). Với tƣ cách
một không gian thống nhất, q trình hiện đại hóa tự sự nghệ thuật ở Việt Nam
trong giai đoạn giao thời đã diễn ra nhƣ thế nào. Nói cách khác, nhiệm vụ đầu tiên

của luận án là mơ hình hóa lại tồn bộ diễn tiến q trình hiện đại hóa của tự sự
nghệ thuật ở Việt Nam trong giai đoạn giao thời. (2). Trong tổng thể đó, trình bày
những định hƣớng phân chia những tiểu loại tự sự mà sau này sẽ trở thành "truyện
ngắn" và "tiểu thuyết" của văn học nƣớc nhà trong những giai đoạn tiếp theo.
4. PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
Để giới hạn phạm vi nghiên cứu của luận án, trƣớc hết, cần phải minh định
một số khái niệm trong tiêu đề của luận án. Trƣớc hết, trong quan niệm của chúng
tơi, "sự hình thành hệ thống thể loại tự sự nghệ thuật" bao gồm hai nội dung: (1).
Sự hình thành tổng thể tồn bộ thể tự sự nghệ thuật nói chung và (2). Q trình
phân chia những thể tài nhỏ trong tổng thể thể loại đó. Quan niệm này sẽ đƣợc
chúng tơi qn triệt khi trình bày các nội dung của đề tài, từ vấn đề quan niệm nghệ
thuật đến các phƣơng diện thuộc về thực tiễn sáng tác của nhà văn. Thứ hai, khi đặt
"sự hình thành các thể văn tự sự nghệ thuật" trong bối cảnh "q trình hiện đại hóa
văn học Việt Nam" chúng tơi cũng hình dung nội dung của quá trình hình thành đó
đồng nghĩa với "q trình hiện đại hóa". Nói cách khác, "sự hình thành các thể văn

16


tự sự nghệ thuật trong q trình hiện đại hóa" chính là "q trình hiện đại hóa các
thể văn tự sự nghệ thuật" trong giai đoạn giao thời. Cái đƣợc gọi là "tự sự nghệ
thuật" ở đây đồng nghĩa với tự sự hƣ cấu. Trên thực tiễn sáng tác, nó thông nghĩa
với các tên gọi gắn với yếu tố "tiểu thuyết" (theo cách hiểu đƣơng thời). Một số
trƣờng hợp cá biệt khác sẽ đƣợc minh định rõ trong quá trình khảo sát. Điển hình
nhƣ việc Tản Đà định danh Giấc mộng con I, II của mình là "mộng ký" hay trƣờng
hợp các "ba đào ký" của Nguyễn Công Hoan trên An Nam tạp chí.
Về thời gian, khái niệm "những năm đầu thế kỷ XX" đƣợc sử dụng trong
tiêu đề cũng nhƣ trong luận án là đƣợc hiểu tƣơng đƣơng với khái niệm "giai đoạn
giao thời" mà Trần Đình Hƣợu đã sử dụng trong các cơng trình của ơng. Giai đoạn
lịch sử này đƣợc hình dung là bắt đầu từ mốc 1904 - 1905, thời điểm khi cuộc cách

mạng văn hóa lớn của lịch sử Việt Nam đƣợc bắt đầu với các phong trào Duy tân
và Đông du do nhà Nho chí sĩ lãnh đạo và kết thúc ở thời điểm 1932, khi Phan
Khơi cơng bố bài Tình già trên Phụ nữ tân văn khởi đầu cho phong trào Thơ mới.
Về cơ bản, đối tƣợng khảo sát của luận án này nằm trong quãng thời gian nói trên.
Tuy nhiên, do đặc điểm là sự phát triển không đồng thời của tiến trình hiện đại hóa
văn chƣơng ở Việt Nam nên, để có thể có đƣợc một hình dung đầy đủ về q trình
hiện đại hóa tự sự, bắt buộc chúng tơi phải đề cập đến một số hiện tƣợng văn
chƣơng cuối thế kỷ XIX mà điển hình là Truyện thầy Lazarơ Phiền của Nguyễn
Trọng Quản hoặc một số sáng tác của Trƣơng Vĩnh Ký.
Từ một phía khác, trong luận án này, chúng tôi cũng chỉ tập trung vào các
văn bản đƣợc viết bằng chữ quốc ngữ đƣợc xuất bản công khai ở Việt Nam trong
khoảng thời gian nói trên. Bộ phận văn học bằng chữ Hán hoặc lƣu hành ở nƣớc
ngoài không thuộc phạm vi đề cập của luận án này.
5. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Tiến hành luận án này, tham vọng của chúng tôi không phải là khai thác để
đƣa ra ánh sáng những khối tƣ liệu chƣa từng đƣợc biết đến đối với giới nghiên
cứu. Điều quan trọng đối với chúng tôi là cố gắng xây dựng một khung lý thuyết
khả dĩ có thể mơ tả đƣợc bản chất sự vận động của đối tƣợng. Nhƣ đã trình bày

17


trong những phần trên, đối tƣợng khảo sát của luận án là tồn tại lịch sử của một thể
loại văn học – một trong những vấn đề có tính bản chất nhất của văn học, một thực
thể có tính đa chiều kích.
Trƣớc hết, bản chất của thể loại là những ngun tắc. Nó là cái có tính siêu
cá nhân. Nó trở thành nguyên tắc khi nó có đƣợc sự đồng thuận mang tính cộng
đồng. Chính vì lý do đó, từ bản chất, thể loại là cái có tính xã hội. Thể loại trƣớc
hết là một tập hợp quy ƣớc trong một thời điểm lịch sử. Nó khơng chỉ quyết định
việc nhà văn phải viết tác phẩm nhƣ thế nào mà cịn quyết định việc ngƣời đọc tiếp

nhận, chờ đón tác phẩm nhƣ thế nào. Nó chính là một thành phần của cái mà mỹ
học tiếp nhận gọi là "ngƣỡng đợi" (horizon d'attent). Khơng những thế, ở một phía
khác lại phải nhận thấy với tƣ cách là một thành phần của đời sống văn học nói
chung, thể loại cũng là một sản phẩm bị chi phối bởi đời sống xã hội. Nó gắn liền
với những nhu cầu thẩm mỹ đặc thù của xã hội trong những giai đoạn lịch sử xác
định. Nó liên quan tới những thiết chế xã hội (nhƣ nhà trƣờng, báo chí, xuất bản) và
sự vận động của nó bị chi phối bởi những hoạt động văn hóa - xã hội (điển hình
nhƣ các hoạt động giao lƣu văn hóa).
Chiều kích thứ hai của thể loại là bản thân những nguyên tắc cấu thành nên
hình dung về thể loại trong một thời đại xác định. Trong ngôn ngữ học, F.de
Saussure đã xác định hai mặt cấu thành nên hiện tƣợng ngôn ngữ: Cái biểu đạt và
Cái đƣợc biểu đạt. Có thể lấy hình dung này quy chiếu cho hiện tƣợng thể loại.
Những nguyên tắc thể loại, cho đến cùng là hƣớng đến việc viết một tác phẩm cụ
thể. Tác phẩm ln ln hàm chứa trong nó hai mặt: nó viết một cái gì đấy và bằng
một cách nào đấy. Đó cũng chính là hai con đƣờng phát triển của nghiên cứu Tự sự
học hiện đại. Hoặc nó đi vào tìm hiểu Cái đƣợc kể - phƣơng diện ngữ nghĩa, Cái
đƣợc biểu đạt của tự sự hoặc nó đi sâu tìm hiểu cách thức mà câu chuyện (nịng cốt
của tự sự) đã đƣợc kể lại nhƣ thế nào. Ở đây, cũng cần phải bổ sung một bình diện
khác của tự sự, bình diện ngơn ngữ. Nhà văn sáng tạo ra một cốt truyện, anh ta bị
ám ảnh bởi các tƣ tƣởng, anh ta xây dựng các nhân vật và các biểu tƣợng (bình diện
cái đƣợc kể), anh ta sáng tạo nên một chiến lƣợc kể (tái hiện câu chuyện từ điểm

18


nhìn của ai, trần thuật theo trật tự tuyến tính hay khơng… - bình diện phƣơng thức
kể) nhƣng điểm cuối cùng, tất cả những điều đó phải hóa thân trong một ngơn ngữ.
Tất cả những điểm nói trên đã làm nên tính đa chiều kích của vấn đề thể
loại. Trong thực tế, những chiều kích này khơng tồn tại một cách độc lập mà xuyên
thấm nhau, quan hệ với nhau. Một mơ hình nghiên cứu lịch sử thể loại bắt buộc

phải tính đến tất cả những chiều kích này của đối tƣợng. Nói khác đi, tìm kiếm một
mơ hình những đặc điểm hiện đại hóa của tự sự bắt buộc phải tính đến những thơng
số nói trên.
Tính đặc thù của đối tƣợng nghiên cứu bắt buộc chúng tơi phải có một lựa
chọn có tính liên ngành về phƣơng pháp luận. Ở đây, khái niệm liên ngành đƣợc
hiểu nhƣ là sự phối hợp các lý thuyết nghiên cứu văn chƣơng khác nhau để giải
quyết một đối tƣợng. Ít nhất, trong phạm vi luận án này, chúng tơi chƣa có tham
vọng giải quyết các vấn đề của văn chƣơng trong mối tƣơng quan giữa khoa học
văn học và các khoa học xã hội khác. Để đạt đƣợc mục tiêu nghiên cứu mà chúng
tơi đã trình bày ở trên, trong luận án này, những phƣơng pháp mà chúng tôi vận
dụng bao gồm:
- Xã hội học văn chương. Cụ thể, chúng tôi sẽ vận dụng mơ hình về trƣờng
văn học (champs littéraire) của Pierre Bourdieu để mơ tả q trình hình thành đời
sống văn học với tƣ cách là một lĩnh vực sinh hoạt tinh thần có tính tự trị tƣơng đối
ở Việt Nam những thập niên đầu của thế kỷ XX. Từ một phía khác, khảo sát sự vận
động thể loại khơng thể bỏ qua mối quan hệ giữa thể loại, ngôn ngữ và ý thức hệ xã
hội. Điều này khiến chúng tôi, một cách bắt buộc, phải lựa chọn xã hội học văn bản
làm một trong những phƣơng pháp khảo sát của luận án.
- Những lý thuyết có tính hình thức về trần thuật, từ thi pháp học đến trần
thuật học. Nhƣ đã trình bày, một trong ba chiều kích cơ bản của tự sự là chiều kích
thẩm mỹ. Mỗi tự sự là một cấu trúc thẩm mỹ. Điều này khiến cho việc nghiên cứu
sự vận động của tự sự trong một giai đoạn lịch sử bắt buộc sẽ phải vận dụng những
cơng cụ của nghiên cứu hình thức từ thi pháp học đến trần thuật học để tái hiện lại
diện mạo có tính lịch sử của nhóm thể loại này.

19


Trên đây, chúng tơi chỉ trình bày một cách khái quát những định hƣớng lý
thuyết mà chúng tôi sẽ vận dụng trong luận án. Trong từng chƣơng của luận án,

chúng tơi sẽ trình bày một cách cụ thể định hƣớng lý thuyết và giới thuyết chính
xác những khái niệm đƣợc sử dụng trong chƣơng.
6. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN ÁN
Tiến hành thực hiện luận án tiến sĩ với đề tài Sự hình thành hệ thống thế
loại tự sự nghệ thuật trong tiến trình hiện đại hóa văn học Việt Nam những năm
đầu thế kỉ XX, chúng tơi xác định những đóng góp của luận án trên một số phƣơng
diện nhƣ sau:
Thứ nhất, với tƣ cách là một nghiên cứu lịch sử văn học, đóng góp của luận
án sẽ đƣợc thể hiện chủ yếu không phải ở việc đƣa ra ánh sáng một số mảng tƣ liệu
mới (dù trong luận án, có những tƣ liệu liên quan đến giảng dạy văn chƣơng trong
nhà trƣờng Pháp - Việt là những tƣ liệu lần đầu tiên đƣợc công bố ở Việt Nam) mà
ở việc mơ hình hóa lại tồn bộ q trình hiện đại hóa các thể văn tự sự ở Việt Nam.
Thứ hai, một trong những tham vọng của chúng tôi là bƣớc đầu áp dụng một
số lý thuyết văn chƣơng hiện đại hình thành ở phƣơng Tây trong giai đoạn nửa sau
thế kỷ XX vào nghiên cứu thực tiễn văn chƣơng Việt Nam. Trƣớc hết, đây là một
cố gắng trong việc làm mới nghiên cứu văn học sử bằng việc ứng dụng những lý
thuyết nghiên cứu văn chƣơng vào nghiên cứu lịch sử văn học. Bên cạnh đó, ứng
dụng lý thuyết nghiên cứu văn chƣơng phƣơng Tây vào nghiên cứu thực tiễn văn
học Việt Nam cũng đồng nghĩa với việc Việt hóa những lý thuyết này. Thành cơng
của cơng việc này có thể mở rộng ra việc nghiên cứu văn chƣơng Việt Nam trong
những giai đoạn tiếp theo, kể cả văn chƣơng đƣơng đại.
Với tƣ cách một đề tài nghiên cứu khoa học cơ bản, những kết quả của luận
án này có thể đƣợc ứng dụng giảng dạy văn chƣơng Việt Nam ở bậc đại học, cơng
việc chính của ngƣời viết luận án hiện nay.
7. CẤU TRÚC CỦA LUẬN ÁN
Luận án của chúng tơi đƣợc trình bày trong bốn chƣơng với cấu trúc nhƣ
sau:

20



CHƢƠNG I: NHỮNG TIỀN ĐỀ HIỆN ĐẠI HÓA TỰ SỰ
1.1. Những tiền đề văn hóa xã hội
1.2. Những vận động nội sinh của văn học
CHƢƠNG II: DIỄN TIẾN QUÁ TRÌNH HIỆN ĐẠI HÓA TỰ SỰ
TRONG GIAI ĐOẠN GIAO THỜI
2.1. Quá trình hình thành một quan niệm thể loại đặc trƣng của giai
đoạn
2.2. Một phát triển đầy đứt đoạn
CHƢƠNG III: NHỮNG KHUYNH HƢỚNG HIỆN ĐẠI HĨA
CẤU TRÚC HÌNH THỨC THỂ LOẠI
3.1. Tự sự ngắn - Một không gian mơ hồ
3. 2. Những cấu trúc hình thức của truyện kể
3.3. Đằng sau những kĩ thuật
CHƢƠNG IV: NGÔN NGỮ, TỰ SỰ VÀ Ý THỨC HỆ
4.1. Từ vựng, ý thức hệ và cái nhìn thế giới
4.2. Cú pháp - Cuộc xung đột giữa các giá trị
4.3. Diễn ngôn. Diễn ngôn ý thức hệ và diễn ngôn phê phán. Ngữ nghĩa.
Cấu trúc hệ thống nhân vật
4.4. Trần thuật và xã hội

21


B. PHẦN NỘI DUNG
CHƢƠNG 1: NHỮNG TIỀN ĐỀ HIỆN ĐẠI HÓA TỰ SỰ
Từ trƣớc đến nay, trong các nghiên cứu văn học sử trên thế giới và ở Việt
Nam, việc đặt các hiện tƣợng và tiến trình văn học vào trong mối quan hệ với văn
cảnh lịch sử, xã hội, văn hóa bao quanh nó gần nhƣ đã trở thành một u cầu có
tính bắt buộc. Vấn đề là ngƣời nghiên cứu phải tìm đƣợc đúng bản chất của mối

quan hệ này, tránh một lối giải thích có tính cơ học, quyết định luận giản đơn, một
chiều. Trƣớc thách thức đó, trong khn khổ của đề tài luận án, thay vì trình bày lại
tổng thể bức tranh chung về lịch sử, xã hội và văn hóa Việt Nam trong ba thập niên
đầu thế kỉ XX, chúng tôi sẽ chỉ giới hạn trong một số yếu tố cụ thể bao gồm: q
trình đơ thị hóa và đời sống đơ thị; sự hình thành của những thiết chế văn hóa hiện
đại (báo chí, nhà xuất bản, nhà trƣờng); những vận động văn hóa đặc thù của giai
đoạn giao thời (sự du nhập những khn mẫu văn hóa và văn học thế giới; q
trình nhận thức lại truyền thống; những lựa chọn ngơn ngữ và hệ quả của nó; sự
lúng túng trong việc giải quyết những mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại).
Ý thức về sự quy định của những yếu tố này đối với q trình hiện đại hóa văn
chƣơng Việt Nam đầu thế kỷ đã xuất hiện trong nhiều cơng trình văn học sử, từ
những cơng trình của Phạm Thế Ngũ, Thanh Lãng đến Trần Đình Hƣợu. Cơng việc
của chúng tôi thực chất là sự kế thừa, hệ thống hóa và đặc biệt đi sâu vào một số
thành tố còn chƣa đƣợc quan tâm đúng mức (sự xuất hiện của nền giáo dục kiểu
mới, quá trình nhận thức lại truyền thống). Đó chính là tiền đề thứ nhất của q
trình hiện đại hóa các thể văn tự sự nghệ thuật ở Việt Nam trong giai đoạn giao
thời.
Từ một góc nhìn khác, chúng tơi cũng khơng bỏ qua những vận động có tính
nội sinh của chính bản thân nền văn học. Tự sự là một bộ phận của nền văn học và
vì thế nên q trình hiện đại hóa của một bộ phận sáng tác này không thể tách rời

22


khỏi sự vận động chung của toàn bộ nền văn học. Chính vì vậy, ngồi những tác
động có tính ngoại sinh chúng tơi xác định những ngun nhân có tính nội sinh
quyết định quá trình vận động của bộ phận văn chƣơng này: quá trình tiềm tàng của
trạng thái hiện đại hóa của văn học Việt Nam trƣớc thế kỷ XX và sự hình thành
trƣờng văn học trong ba mƣơi năm đầu thế kỷ.
Đối tƣợng nghiên cứu của chúng tôi trong luận án này là một hiện tƣợng của

đời sống văn học những năm đầu thế kỷ XX: quá trình hiện đại hóa các thể văn tự
sự. Nếu nhƣ ở những chƣơng tiếp theo, chúng tôi sẽ từng bƣớc trả lời các câu hỏi
"nhƣ thế nào" và "ý nghĩa" của sự vận động thì trong chƣơng này, với những chủ
đề mà chúng tôi đã vạch ra ở trên, câu hỏi chính cần đƣợc đặt ra và giải quyết là
"tại sao".
1.1. Những tiền đề văn hóa xã hội
1.1.1. Đơ thị và đời sống đô thị
Nhƣ nhiều nhà nghiên cứu đã chứng minh, đơ thị và đời sống đơ thị có một
vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển của văn chƣơng, đặc biệt trong
bƣớc chuyển từ thời kỳ Trung đại sang thời Hiện đại. Trong lịch sử Việt Nam, đơ
thị đã đƣợc hình thành từ thời Trung đại trên cơ sở những trung tâm văn hố - hành
chính của nhà nƣớc phong kiến: kinh đô và những phủ lỵ ở địa phƣơng. Đến các
thế kỷ XVII - XVIII, cùng với sự phát triển của kinh tế hàng hóa, dù ở mức độ còn
hết sức sơ khai, sự phát triển của các đô thị đƣợc đẩy mạnh thêm một bƣớc. Đô thị
thời kỳ này là nơi tập trung những cơ quan hành chính văn hóa của triều đình
phong kiến, những phƣờng thợ thủ công và các cơ sở thƣơng mại dịch vụ, vui chơi
giải trí. Đồng thời, thành phần cƣ dân đô thị ngày càng phát triển phong phú (quý
tộc, quan lại, nho sĩ các dạng, thƣơng nhân, thợ thủ công, ca kỹ…) với lối sống
thƣờng là đi ra ngoài chuẩn mực của xã hội cổ truyền Khổng giáo. Tất nhiên, tính
chất trọng nơng của nền kinh tế cũng nhƣ nền tảng văn hóa – xã hội Nho giáo đặc
thù của Việt Nam đã không cho phép những đô thị nhƣ Thăng Long, Phố Hiến hay
Phú Xuân, Gia Định có thể phát triển đến mức trở thành những đơ thị lớn nhƣ ở
Nhật Bản, Trung Quốc hay các nƣớc phƣơng Tây. Dẫu vậy, nhƣ các nhà nghiên

23


×