Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Chất thơ trong tiểu thuyết viết về chiến tranh thời kỳ đổi mới qua 3 tác phẩm Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh), Khúc bi tráng cuối cùng (Chu Lai), Tàn đen đốm đ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.12 MB, 92 trang )

1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN




NGUYỄN THỊ THANH PHƢƠNG




CHẤT THƠ TRONG TIỂU THUYẾT VIẾT VỀ CHIẾN
TRANH THỜI KỲ ĐỔI MỚI QUA 3 TÁC PHẨM:
NỖI BUỒN CHIẾN TRANH (BẢO NINH)
KHÚC BI TRÁNG CUỐI CÙNG (CHU LAI)
TÀN ĐEN ĐỐM ĐỎ (PHẠM NGỌC TIẾN)


LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM







Hà Nội-2014
2



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN




NGUYỄN THỊ THANH PHƢƠNG




CHẤT THƠ TRONG TIỂU THUYẾT VIẾT VỀ CHIẾN
TRANH THỜI KỲ ĐỔI MỚI QUA 3 TÁC PHẨM:
NỖI BUỒN CHIẾN TRANH (BẢO NINH)
KHÚC BI TRÁNG CUỐI CÙNG (CHU LAI)
TÀN ĐEN ĐỐM ĐỎ (PHẠM NGỌC TIẾN)

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60.22.01.21




Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Lê Dục Tú




Hà Nội-2014

3

LỜI CẢM ƠN


Luận văn đƣợc hoàn thành tại Khoa Văn học – Trƣờng Đại học Khoa học
xã hội và nhân văn. Em xin bày tỏ lời tri ân sâu sắc tới PGS. TS Lê Dục Tú,
ngƣời đã hƣớng dẫn em thực hiện luận văn này bằng một tinh thần khoa học
nhiệt thành và nghiêm túc.
Em xin gửi lời cảm ơn tới các thầy, cô giáo trong khoa Văn học,
trƣờng Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội
đã giảng dạy em, trang bị cho em những nền tảng kiến thức bổ ích, giúp đỡ
em trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu thực hiện đề tài.
Và xin cám ơn sự động viên, quan tâm giúp đỡ của những ngƣời thân
trong gia đình, bạn bè và đồng nghiệp trong suốt thời gian qua.
Với trình độ và kiến văn còn hạn chế của ngƣời viết, luận văn chắc
chắn không tránh khỏi khiếm khuyết. Tác giả luận văn mong muốn sẽ nhận
đƣợc những nhận xét, góp ý của các thầy cô, các nhà nghiên cứu và những
ngƣời có quan tâm đến vấn đề đƣợc thực hiện trong luận văn. Xin trân
trọng cảm ơn!
Hà Nội,10 .tháng 7 .năm 2014
Tác giả luận văn


Nguyễn Thị Thanh Phương

4

MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU 6

1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI 6
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ 7
3. ĐỐI TƢỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU 15
4. MỤC ĐÍCH, Ý NGHĨA LUẬN VĂN 16
5. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 16
6. CẤU TRÚC LUẬN VĂN 17
CHƢƠNG 1: CHẤT THƠ VÀ CHẤT THƠ TRONG VĂN XUÔI 18
1.1. Chất thơ và vai trò của chất thơ trong văn xuôi 18
1.1.1. Chất thơ 18
1.1.2. Phân biệt chất thơ, chất trữ tình 21
1.2. Vai trò của chất thơ trong văn xuôi 22
1.3. Chất thơ trong tiểu thuyết 23
1.3.1. Từ những tiền đề lý luận của tiểu thuyết 23
1.3.2. Đến biểu hiện của chất thơ trong tiểu thuyết 26
1.3.2.1. Biểu hiện về nội dung 26
1.3.2.2. Biểu hiện về hình thức nghệ thuật 29
CHƢƠNG 2: BỨC TRANH HIỆN THỰC ĐẬM CHẤT THƠ TRONG
NỖI BUỒN CHIẾN TRANH, KHÚC BI TRÁNG CUỐI CÙNG, TÀN
ĐEN ĐỐM ĐỎ 31
2.1. Bức tranh thiên nhiên trữ tình, thơ mộng 31
2.1.1. Vẻ đẹp huyền bí, hoang dại của núi rừng 33
2.1.2. Vẻ đẹp thơ mộng của Hà thành 35
2.2. Chất thơ từ những giấc mơ 38
2.2.1. Quan niệm về giấc mơ 38
2.2.2. Chất thơ biểu hiện từ giấc mơ 40
2.3. Chất thơ từ vẻ đẹp của ngƣời phụ nữ 47
5

2.3.1. Vẻ đẹp trong trắng tinh khôi 48
2.3.2. Tình yêu trinh nguyên, nồng cháy 49

2.4. Chất thơ từ vẻ đẹp của ngƣời lính 53
2.4.1. Tình yêu ngƣời lính 53
2.4.2. Tình đồng đội 58
CHƢƠNG 3: NHỮNG PHƢƠNG THỨC BIỂU HIỆN CỦA CHẤT
THƠ QUA NỖI BUỒN CHIẾN TRANH, KHÚC BI TRÁNG CUỐI
CÙNG, TÀN ĐEN ĐỐM ĐỎ 63
3.1. Ngôn ngữ giàu hình ảnh và nhịp điệu 63
3.1.1. Ngôn ngữ giàu hình ảnh 63
3.1.2. Ngôn ngữ giàu nhạc tính 70
3.2. Giọng điệu trữ tình 75
3.2.1. Vài nét về giọng điệu 75
3.2.2. Giọng điệu trữ tình 76
KẾT LUẬN 83
6

PHẦN MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Suốt ba mƣơi năm kháng chiến chống ngoại xâm, tiểu thuyết viết về
chiến tranh đã góp phần quan trọng vào việc hình thành diện mạo nền văn
học dân tộc. Sau 1975, trên tinh thần đổi mới tƣ duy nghệ thuật, tiểu thuyết
về chiến tranh vẫn tiếp tục phát triển và góp phần không nhỏ vào sự đổi
mới thể loại tiểu thuyết ở Việt Nam.
Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh), Khúc bi tráng cuối cùng (Chu Lai),
Tàn đen đốm đỏ (Phạm Ngọc Tiến) thực sự là ba tác phẩm mang đến cho
ngƣời đọc cái nhìn mới về hiện thực chiến tranh và cuộc sống của ngƣời
lính thời hậu chiến, bổ khuyết những khoảng trống mà tiểu thuyết viết về
chiến tranh giai đoạn trƣớc 1975 chƣa có điều kiện khám phá. Đây cũng
chính là một đóng góp quan trọng của ba tác giả kể trên trong hành trình
cách tân nghệ thuật tiểu thuyết.
Ngoài những cách tân trên một số phƣơng diện thì theo ngƣời viết vẻ

đẹp của chất thơ là một trong nét hấp dẫn, góp phần tạo nên thành công của
ba cuốn tiểu thuyết nêu trên. Theo khảo sát thống kê, chất thơ trong tiểu
thuyết đặc biệt tiểu thuyết viết về chiến tranh Việt Nam chƣa có nhiều công
trình nghiên cứu. Hầu hết, các bài viết chỉ dừng lại ở một số bài viết riêng
lẻ nói về tính chân thật, điểm mới trong đề tài chiến tranh sau chiến tranh.
Với lý do đó, ngƣời viết đã chọn Chất thơ trong tiểu thuyết viết về chiến
tranh thời kỳ đổi mới qua ba tác phẩm: Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh),
Khúc bi tráng cuối cùng (Chu Lai), Tàn đen đốm đỏ (Phạm Ngọc Tiến) làm
đề tài nghiên cứu cho luận văn.
. Với mong muốn khai thác tìm hiểu về chất thơ qua các vấn đề tiêu biểu
và đóng góp thêm cái nhìn mới sâu sắc hơn, ngƣời viết đã chọn Chất thơ
trong tiểu thuyết viết về chiến tranh thời kỳ đổi mới qua ba tác phẩm nói
trên làm đề tài nghiên cứu luận văn.
7

2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
Nghiên cứu chất thơ trong các tiểu thuyết về đề tài chiến tranh qua ba
tác phẩm , ngƣời viết nhận thấy cần có khái lƣợc lịch sử nghiên cứu bài
viết liên quan tới các tác phẩm này.
Nỗi buồn chiến tranh là một trong những cuốn tiểu thuyết tiêu biểu của
văn học Việt Nam đƣơng đại. Sau khi đƣợc trao Giải thƣởng của Hội nhà
văn (1991), cuốn tiểu thuyết này đã gây nên một làn sóng dƣ luận trong
giới nghiên cứu phê bình và bạn đọc. Có khá nhiều xu hƣớng bình luận
nghiên cứu khác nhau nhƣ: phê phán, phủ nhận, đánh giá dè dặt. Nhƣng
hầu hết xu hƣớng đều đánh giá cao cuốn tiểu thuyết trên nhiều phƣơng
diện, đƣợc coi là thành tựu xuất sắc của văn học thời kỳ đổi mới.
Trong bài viết: Nghĩ gì khi đọc tiểu thuyết Thân phận của tình yêu của
Đỗ Văn Khang ở Báo Văn Nghệ số 43 năm 1991 nhận xét: “Những đổi
mới nghệ thuật của Bảo Ninh nhƣ: cấu trúc trần thuật kép, tính chất đa
thanh, kỹ thuật dòng ý thức chỉ là việc làm thuần túy để đánh lừa bạn đọc”.

Trong bài Từ đâu đến Nỗi buồn chiến tranh của Trần Duy Châu (Tạp chí
Cộng sản số 10 năm 1994) nhấn mạnh: “Bảo Ninh đã tạo nên hình ảnh đảo
ngƣợc của hiện thực, chuyển đổi các giá trị, biến trắng thành đen, thay khúc
ca khải hoàn của dân tộc thành tiếng hát bi thƣơng ai điếu cho những kẻ lạc
loài”. [25, tr. 25].
Một xu hƣớng khác nữa là sự cổ vũ động viên nhƣng e dè và đều chung
câu hỏi: Liệu rằng cuốn tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh có bị dồn nén quá
nhiều chất bi không? Nguyễn Phan Hách trong cuộc thảo luận về tiểu
thuyết Thân phận của tình yêu (Báo Văn nghệ số 37 năm 1991) đã viết:
“Lùi ra xa, đứng cao hơn một chút thì thấy có thể thông cảm đƣợc với tác
phẩm này. Tôi chƣa hẳn tán thành hoàn toàn về nội dung, nhƣng cái đẹp,
cái tuyệt kĩ, văn chƣơng là văn chƣơng của cuốn sách đã át đi đƣợc những
e ngại khác ” [16, tr. 4]
8

Cũng trong cuộc thảo luận này, Vũ Quần Phƣơng nhận xét: “Nếu cái
đáng khen trong cuốn sách là chân thực trong tâm trạng, thì chỗ cần lƣu ý
tác giả cũng là tính chân thực cần có, trong khi dựng lại bối cảnh hậu
phƣơng miền Bắc và những trận đánh trả máy bay Mỹ. Bảo Ninh đã đánh
mất cái hào khí rất đẹp của năm tháng ấy, có thể nó ấu trĩ, nhƣng nó có cảm
giác tác giả có những điều không hài lòng nên có cái nhìn thiên kiến, có
chỗ cực đoan. Đọc những chi tiết khủng khiếp, đay nghiến, thấy tác giả ác,
ta chƣa thấy đƣợc nhân tố làm nên chiến thắng ở đây” [16, tr. 4]. Nhìn
chung, các ý kiến của các cây bút nhìn chiến tranh quá gần, thậm chí cảnh
giác với nguy cơ chiến tranh, e sợ tác giả rơi vào tình trạng giải thiêng cuộc
chiến tranh vệ quốc vĩ đại của dân tộc.
Xu hƣớng đánh giá cao đóng góp của Bảo Ninh trong sự phát triển của
tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, tiêu biểu có Nguyên Ngọc. Trong cuộc thảo
luận về tiểu thuyết Thân phận tình yêu (Báo Văn nghệ số 37 năm 1991),
ông khẳng định: “Cuốn sách Thân phận của tình yêu của Bảo Ninh là sự

nghiền ngẫm về chiến thắng, ý nghĩa và giá trị to lớn và dữ dội của chiến
thắng. Nó chỉ cho chúng ta biết rằng, chúng ta đã làm nên chiến công vĩ đại
thắng Mỹ với cái giá ghê gớm đến chừng nào. Một đặc sắc nữa của cuốn
sách này là tác giả viết với tƣ cách hoàn toàn của ngƣời trong cuộc, không
đứng ngoài, đứng trên nhìn ngắm mà đứng trong, thậm chí ở tận đáy của
cuộc chiến tranh. Anh viết về cuộc chiến tranh “của anh” gần nhƣ bằng tất
cả máu của anh. Về mặt nghệ thuật, đó là thành tựu cao nhất của văn học
đổi mới”. [50, tr. 5].
Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh mang lại một góc nhìn mới về chiến
tranh, bổ sung cho cách nhìn đã quen, là tiểu thuyết về cuộc chiến tranh ấy
(chiến tranh chống Mỹ) với tƣ cách là một cuộc chiến tranh. Tác giả đã
trừu tƣợng bớt đi cái phần mục đích, chiến công, nhân tố thắng lợi để chỉ
kể về cuộc chiến tranh với tất cả tính chất chiến tranh của nó. Văn học ta đã
9

nói nhiều đến tính chính nghĩa, tính anh hùng, tính cách mạng của cuộc
chiến tranh, nhƣng chƣa nói đƣợc gì đáng kể về tính tàn bạo, tính hủy diệt
bi thảm của nó, những tính chất không chỉ thể hiện ở cái chết nơi chiến
trận, mà còn mở rộng ra thành cái chết trong tâm hồn, tình yêu thành sự dở
dang. Có thể nói, tác giả lộn trái cuộc chiến tranh ra để ta đƣợc nhìn vào cái
phía trong bị che khuất, lấp một chỗ trống chƣa đƣợc lấp. Đây là tiểu thuyết
về nhà văn, về sự hình thành một kiểu nhà văn, dự báo những thay đổi đáng
kể của ý thức văn học. Không nghi ngờ gì, Bảo Ninh đã đóng góp đáng kể,
nhiều mặt cho tiểu thuyết Việt Nam hiện đại.
Đánh giá cái nhìn về hiện thực chiến tranh, cách viết về chiến tranh thời
hậu chiến, trong bài viết Nỗi buồn chiến tranh viết về chiến tranh thời hậu
chiến – Từ chủ nghĩa anh hùng đến nhu cầu đổi mới bút pháp, trích trong
cuốn Văn học Việt Nam sau 1975, Phạm Xuân Thạch đã đánh giá: “Trong
Nỗi buồn chiến tranh, Bảo Ninh đã xác lập một cái nhìn mới về hiện thực
lịch sử - hiện thực chiến tranh. Mới trong sự đối chiếu với văn học hiện

thực xã hội chủ nghĩa trong chiến tranh và trƣớc 1986. Cái mới ở đây đƣợc
xác định không chỉ ở việc anh đƣa vào trong tác phẩm của mình những chất
liệu hiện thực chƣa từng có trong văn học chiến tranh (dẫu điều này cũng
có giá trị thẩm mỹ riêng) mà trƣớc hết thể hiện ở việc anh đã tìm đến một
phƣơng pháp tiếp cận hiện thực khác với phƣơng pháp điển hình hóa của
văn học hiện thực truyền thống. Anh không tiếp cận hiện thực thông qua
những nhân vật điển hình, hoặc mang tính phản ánh, hoặc mang tính lý
tƣởng (trong văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa sẽ là sự kết hợ cả hai yếu
tố này). Anh xây dựng và tô đậm tính cá biệt của số phận nhân vật” [54, tr.
248].
Nguyễn Đăng Điệp lại nhìn thấy sự mới mẻ trong cách viết và tiếp cận
hiện thực của Bảo Ninh qua bài viết: Kỹ thuật dòng ý thức qua Nỗi buồn
chiến tranh của Bảo Ninh. Theo ông, “Cho dù viết nhiều về chiến tranh
10

nhƣng xét đến cùng tinh huyết của Bảo Ninh kết tụ trong cuốn tiểu thuyết
để đời của ông: Thân phận tình yêu. Toàn bộ tác phẩm là niềm khắc khoải
không nguôi của một ngƣời lính bƣớc ra từ cuộc chiến khắc nghiệt ấy. Vì
thế, nó trung thực đến tận đáy. Và cũng vì thế mà khuôn mặt của chiến
tranh là một khuôn mặt nhàu nát với bao nỗi đau chồng chất. Tên gọi hợp
lý nhất cho nỗi đau ấy phải là Nỗi buồn chiến tranh. Bởi thế, đi liền và hòa
lẫn với nỗi buồn chiến tranh là thân phận cay đắng của tình yêu. Cả hai chủ
đề này xoắn kết với nhau. Nó tựa nhƣ hai mặt của một bản thể thống nhất.
Bị cuốn vào vòng xoáy nghiệt ngã của cuộc chiến, tình yêu cũng bị đày
đọa, bị đẩy tới bờ vực của sự hủy diệt.[11, tr. 399].
Trong công trình Thi pháp hiện đại, bài viết Thân phận tình yêu của
Bảo Ninh, Đỗ Đức Hiểu cũng đánh giá rất cao cuốn tiểu thuyết này: “Trong
văn học Việt Nam mấy chục năm nay, có thể Thân phận của tình yêu là
quyển tiểu thuyết hay về tình yêu, quyển tiểu thuyết tình yêu xót thƣơng
nhất trong tiểu thuyết hiện đại Việt Nam. Nỗi buồn chiến tranh thể hiện

một điểm nhìn mới về cuộc chiến tranh kéo dài ba mƣơi lăm năm, những
cảnh tả chiến tranh, những định nghĩa về chiến tranh la liệt trong tác phẩm.
Nỗi buồn chiến tranh và nỗi buồn tình yêu thấm vào nhau, hòa lẫn vào
nhau, da diết, xót xa, hủy diệt, đó là hai nhịp mạnh của tiểu thuyết”. [22, tr.
266].
Trong cuốn Phê bình văn học từ lý thuyết hiện đại, bài viết Thời gian
trong Thân phận của tình yêu, Đào Duy Hiệp nhận xét: Tiểu thuyết Thân
phận của tình yêu của Bảo Ninh là hồi ức về chiến tranh của một ngƣời
lính – nhà văn. Tính chất hồi ức đã chi phối giọng điệu, tạo ra kiểu thời
gian chồng chéo, đan cài vào nhau trong dòng chảy gần nhƣ dòng ý thức
triền miên suốt gần 350 trang sách” [20, tr. 267]
Trong cuốn Bàn về tiểu thuyết, với bài viết Những biến đổi trong cấu
trúc thể loại tiểu thuyết sau 1975, Bùi Việt Thắng nhấn mạnh tới vấn đề
11

“vai trò của ký ức đối với những thay đổi của cấu trúc tiểu thuyết, nó đƣợc
coi nhƣ một thành tố quan trọng dùng để tổ chức tác phẩm. Trong Thân
phận của tình yêu (1990) của Bảo Ninh, tỷ lệ quá khứ - hiện tại là ba trên
một. Ký ức chính là dòng hồi tƣởng “đi tìm thời gian đã mất” trong tâm lý
nhân vật, nối quá khứ với hiện tại. Lối kiến trúc tiểu thuyết kiểu lồng ghép
các “mảnh vỡ tâm trạng” khiến ngƣời đọc rất khó tiếp nhận theo lối truyền
thống. Kiểu kết cấu này giống nhứ kỹ thuật thiết kế các ngôi nhà ống,
ngƣời ta cố tạo ra những “giếng trời” – tức là những “khoảng trống”, dễ
nhận ra trong Thân phận tình yêu” [57, tr. 83].
Trong Thi pháp hiện đại, Đỗ Đức Hiểu đánh giá Thân phận tình yêu là
một hiện tƣợng ngôn từ lạ lùng, mang tính đa thanh, tính đối thoại, là tiểu
thuyết mở, nảy sinh từ trực giác, vô thức (không loại trừ ý thức và lý trí).
Đó là cuộc hành trình của những mộng du, tỉnh mê, huyền bí. Đi tìm thời
gian đã mất của Marce Proust là điểm gặp gỡ của Bảo Ninh với lý luận
hiện đại về văn học. [22, tr. 267]

Có thể nói, Thân phận tình yêu hay Nỗi buồn chiến tranh ngày càng
đƣợc đánh giá cao trong cái nhìn rộng rãi hơn cả về nội dụng, nghệ thuật.
Năm 2003, trả lời phỏng vấn trên Báo Sinh viên Việt Nam về văn học 10
năm qua, Nguyên Ngọc lại một lần nữa khẳng định: Từ Nỗi buồn chiến
tranh, chúng ta mới thực sự có tiểu thuyết hiện đại [48, tr. 9].
Khảo sát nghiên cứu cho thấy, chủ yếu là các công trình bài viết đánh
giá về cái nhìn của Bảo Ninh khi viết về chiến tranh, bút pháp nghệ thuật.
Cụ thể khi đề cập tới chất thơ thì chƣa có một công trình chuyên sâu. Chỉ
dừng lại ở những bài viết đối sánh nhỏ lẻ nhƣ: Trong cuốn Tự sự học – Một
số vấn đề lý luận và lịch sử (Phần 2), bài viết Tư duy thơ trong tiểu thuyết
Việt Nam đương đại, Nguyễn Thị Bình đã nhận định về những văn bản
đƣợc tạo lập theo nhãn quan thơ trong đó có Nỗi buồn chiến tranh. “Nhìn
sâu vào cách tạo lập văn bản sẽ nhận ra những đặc trƣng của tƣ duy thơ đã
12

chi phối từ quan niệm thể loại đến bút pháp tiểu thuyết. Thứ nhất là sự nổi
bật nhịp điệu. Cảm xúc trong thơ đƣợc mã hóa bằng nhịp điệu. Ở Việt
Nam, khái niệm “thơ ca” cũng cho thấy nhịp điệu có vai trò rất quan trọng
đối với sáng tác thơ. Văn xuôi tự giác về điều này muộn hơn nhiều và nhịp
điệu tiểu thuyết trong thời gian dài chủ yếu đƣợc nhìn nhƣ tốc độ trần thuật,
sự luân phiên thành phần động – tĩnh. Với Thiên sứ (Phạm Thị Hoài),
Chinatown (Thuận), Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh)… nhịp điệu nổi lên
nhƣ một cảm hứng sáng tạo, một sự “cố tình của bút pháp” và trở thành
một cơ chế tổ chức văn bản” [4, tr. 485]
Trong cuốn Thi pháp hiện đại, Đỗ Đức Hiểu có viết: “Chất thơ và
hƣơng thơm trong cuốn tiểu thuyết chủ yếu tỏa lên từ mối tình của Phƣơng,
từ thân thể và tâm hồn Phƣơng” [22, tr. 269].
Để tìm thấy một công trình nghiên cứu chuyên sâu về chất thơ trong Nỗi
buồn chiến tranh là điều ít ỏi, vì thế ngƣời viết hy vọng qua luận văn này
có thể tìm hiểu toàn diện vấn đề này trên phƣơng diện nội dung và nghệ

thuật.
* Khảo sát các công trình nghiên cứu tới chất thơ trong Khúc bi tráng
cuối cùng của Chu Lai
Thống kê cho thấy, hầu hết các bài nghiên cứu viết về Chu Lai cùng
những đóng góp của ông trên phƣơng diện nghệ thuật trong thi pháp tiểu
thuyết. Chƣa có bài báo, công trình nào đề cập tới chất thơ trong Khúc bi
tráng cuối cùng. Sau khi phân loại và đánh giá, ngƣời viết nhận thấy có các
vấn đề lớn đã đƣợc tìm hiểu nhƣ: Thứ nhất, Sự mở rộng và đi sâu vào đề tài
chiến tranh, ngƣời lính. Phần lớn, các sáng tác của Chu Lai, dù ít hay
nhiều, đều khai thác đề tài chiến tranh và ngƣời lính với cái nhìn sâu sắc,
đau đàu và nhân bản. Trong Tiểu thuyết đương đại, Bùi Việt Thắng nhận
xét: “Tiểu thuyết của Chu Lai giới thiệu nhiều vấn đề đáng quan tâm trên
đề tài chiến tranh với ý nghĩa nhƣ một đề tài lịch sử” [58, tr. 66]. Nguyễn
13

Hòa lại từ một tác phẩm cụ thể của Chu lai mà khẳng định những phát hiện
mới của nhà văn: “Với Khúc bi tráng cuối cùng, Chu Lai muốn thể hiện
cách nhìn của anh về chiến tranh qua những tình huống bi kịch để chiêm
nghiệm xem con ngƣời đã làm thế nào để vƣợt thoát ra khỏi những tình
huống bi kịch ấy” [58, tr.48]. Tiếp đó nữa là thành tựu về đề tài số phận
ngƣời lính thời hậu chiến, vấn đề đổi mới nghệ thuật của tiểu thuyết Chu
Lai.
Trong Những dấu hiệu đổi mới của văn xuôi sau 1975 qua hệ thống
môtíp chủ đề, Bích Thu cho rằng tiểu thuyết của Chu Lai “là sự truy đuổi
cuối cùng của quá khứ để tìm nguyên nhân cái ác vì chỉ có nhìn thẳng vào
quá khứ, con ngƣời mới tránh đƣợc thảm họa của cái ác, mới có thể trừng
phạt cái ác để thanh thản sống với hiện tại, hƣớng tới lẽ phải và điều thiện”
[61, tr. 8]
Trên Tạp chí Văn nghệ quân đội, tháng 2/ 1993, trong bài Một đề tài
không cạn kiệt, Bùi Việt Thắng đã viết: “Nhân vật Chu Lai đƣợc thể hiện

nhƣ những con ngƣời tâm linh. Họ sống bởi những ám ảnh của ảo giác, hối
thúc bởi sự sám hối, luôn tìm kiếm sự giải thoát. Đó là những con ngƣời trở
về sau chiến tranh bị mất thăng bằng, khó tìm đƣợc sự yên ổn trong tâm
hồn. Họ sống trong cảm giác không bình yên… đi vào ngõ ngách đời sống
tâm linh con ngƣời. Chu Lai làm ngƣời đọc bất ngờ vì những phám phá
nghệ thuật của mình. Nhân vật Chu Lai thƣờng tự soi mình, khám phá một
bản ngã hay là một con ngƣời trong con ngƣời [56, tr. 104]
Trong bài Cuộc tìm tòi về tiểu thuyết in ở Báo Văn Nghệ, số 26, năm
1993, Đỗ Văn Khang đề cập đến nghệ thuật đến nghệ thuật xây dựng nhân
vật trong tiểu thuyết Chu Lai: “Lối chạm khắc nhân vật trong Ăn mày dĩ
vãng cũng có nhiều đóng góp mới. Ngày trƣớc nhân vật thƣờng mang một
ý phổ quát, tức là có cái gì đó chung cho cả lớp ngƣời…, còn Hai Hùng của
Chu Lai có cùng số phận đƣợc miêu tả nhƣ một yếu tố cá biệt, độc nhất
14

nhƣng vẫn mang tính điển hình” [26, tr. 4]. Dù bƣớc đầu đã có một số công
trình nghiên cứu khá đầy đủ về tiểu thuyết Chu Lai nhƣ: Đề tài chiến tranh
trong tiểu thuyết Chu Lai (Phạm Thúy Hằng, Luận văn Thạc Sĩ, Đại học Sƣ
phạm Hà Nội, năm 2003), Thế giới nhân vật trong tiểu thuyết Chu Lai (Tạ
Thị Thanh Thùy, Luận văn Thạc Sĩ, Đại học Sƣ phạm Hà Nội, năm 2005.
Sự thể hiện hình tượng người lính thời hậu chiến trong tiểu thuyết Chu Lai
(Lê Thị Luyến, Luận văn Thạc sĩ, Đại học Vinh, năm 2006). Nhƣng xét
cách toàn diện, nghiên cứu về chất thơ trong tiểu thuyết của Chu Lai vẫn
còn thiếu cái nhìn cụ thể chi tiết, chỉ dừng ở các bài khái quát nhƣ:
Trên Tạp chí Nhà văn, số 8 năm 2006 với bài Nội lực của Chu Lai, Bùi
Việt Thắng đƣa ra những đánh giá mang tính bao quát toàn bộ các tác
phẩm thuộc thể loại tiểu thuyết của Chu Lai ở phƣơng diện nhân vật và
giọng điệu. Ông nhấn mạnh đến “những dấu son đỏ” nhƣ những cột mốc
ghi nhận lộ trình sáng tạo của Chu Lai là Ăn mày dĩ vãng (1992) và Khúc bi
tráng cuối cùng (2004) [55, tr. 6]

Tựu chung lại đã có những đánh giá tƣơng đối hoàn chỉnh về tiểu thuyết
Chu Lai cũng nhƣ những vấn đề xoay quanh việc viết văn của tác giả này.
Nó cũng chỉ mới giới hạn ở một phạm vi của một tác phẩm cụ thể nào đó.
Chƣa có công trình nghiên cứu về chất thơ trong Khúc bi tráng cuối cùng.
Sau khi khảo sát, ngƣời viết phát hiện đây là hƣớng đi mới cho đề tài.
* Khảo sát các công trình nghiên cứu tới chất thơ trong Tàn đen đốm đỏ
của Phạm Ngọc Tiến
Các bài viết về tác phẩm Tàn đen đốm đỏ không nhiểu. Có một số bài
viết chủ yếu nói tới tiểu sử, đời tƣ của Phạm Ngọc Tiến ví nhƣ: Phạm Ngọc
Tiến và những chuyện thật như đùa trên trang vietnamnet, xuất bản ngày
22/5/2011, Phạm Ngọc Tiến: Đọc Quyền Sư trên trang thông tin của
Nguyễn Trọng Tạo, Chân dung Phạm Ngọc Tiến trên trang batinh.com,
Nhà văn Phạm Ngọc Tiến: Quyết không sống nhạt trên trang báo Công an
15

nhân dân, Biên kịch phim chính luận Phạm Ngọc Tiến: Đã cưỡi lên lưng hổ
thì làm sao xuống được trên trang phaply.net.vn. Nổi bật duy nhất có một
bài đề cập đến chất thơ trong sáng tác của Phạm Ngọc Tiến nói chung. Đó
là bài Nhà văn Phạm Ngọc tiến: Chất thợ, chất lính, chất văn xuất bản trên
báo Tiền Phong. Bài viết nói về những nét bình dị gần gũi trong cuộc sống
của tác giả với một số câu chuyện đời tƣ. Mặt khác, bài viết nói về bản chất
nội tại con ngƣời Phạm Ngọc Tiến. Ông khởi đầu văn chƣơng bằng một
loạt những giải thƣởng. Ở bên trong con ngƣời lúc nào cũng ồn ã, nôn
nóng, nồng nhiệt và chân thật đến thái quá, chất thợ, chất lính lấn át hết cả
mọi ứng xử tạo nên cái dễ gần suồng sã và tin tƣởng ấy, là một tâm hồn
nhạy cảm, cả nghĩ. “Ông viết nhƣ là tự giãi bày cái phần sâu kín bên trong
con ngƣời mình, thành thử cái chất thợ, chất lính không còn là gam chủ lực.
Hình ảnh ngƣời lính trở nên mềm mại tinh tế hơn cái anh lính có nguồn gốc
thợ điện đời thƣờng. Văn Phạm Ngọc Tiến không màu mè ƣớt át, nhƣng
cũng không thô tháp vụng về” [14]. Bài viết còn đề cập tới một thế mạnh

riêng khác nữa của Phạm Ngọc Tiến: “Biên tập kịch bản nhƣ làm thợ” [14].
Tuy nhiên, ngƣời viết nhận thấy chƣa có bài viết cụ thể nào nói về chất thơ
trong Tàn đen đốm đỏ của Phạm Ngọc Tiến. Chính vì vậy, khai thác chất
thơ trong sáng tác của ông, ngƣời viết hy vọng sẽ đóng góp một phần nào
những phát hiện mới về giá trị nội dung và nghệ thuật của tiểu thuyết theo
phƣơng diện chất thơ.
3. ĐỐI TƢỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU
* Đối tƣợng
Chất thơ trong tiểu thuyết viết về đề tài chiến tranh thời kỳ đổi mới qua
ba tác phẩm Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh), Khúc bi tráng cuối cùng
(Chu Lai), Tàn đen đốm đỏ (Phạm Ngọc Tiến)


16

* Phạm vi nghiên cứu
Tiểu thuyết viết về chiến tranh thời kỳ đổi mới có hàng trăm cuốn sách
đƣợc xuất bản. Tuy nhiên trong khuôn khổ luận văn thạc sĩ, ngƣời viết chỉ
khai thác chất thơ qua:
Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh)
Khúc bi tráng cuối cùng (Chu Lai)
Tàn đen đốm đỏ (Phạm Ngọc Tiến)
4. MỤC ĐÍCH, Ý NGHĨA LUẬN VĂN
Triển khai đề tài này, ngƣời viết cố gắng phát hiện và chỉ rõ nội dung,
hình thức biểu hiện của chất thơ trong ba tiểu thuyết viết về đề tài chiến
tranh trên các phƣơng diện cụ thể tƣơng ứng.
5. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để thực hiện mục đích nghiên cứu đã đề ra, ngƣời viết sử dụng kết hợp
các phƣơng pháp nghiên cứu sau:
- Phƣơng pháp thống kê, phân tích tổng hợp: Phƣơng pháp thống

kê giúp ngƣời viết khảo sát, tìm hiểu tần số xuất hiện, sự biểu hiện của
những yếu tố có ý nghĩa quyết định, từ đó chỉ ra đƣợc chất thơ trong tiểu
thuyết viết về chiến tranh thời kỳ đổi mới.
- Phƣơng pháp tiếp cận thi pháp học: Phƣơng pháp này giúp ngƣời
viết khảo sát, phân tích các phƣơng diện nghệ thuật biểu đạt nội dung nhƣ
giọng điệu một cách hệ thống.
- Phƣơng pháp cấu trúc: Phân tích tác phẩm nhƣ một hệ thống các
yếu tố, từ đó thấy đƣợc chức năng và mối quan hệ giữa các yếu tố ấy với
nhau. Phƣơng pháp này có vai trò quan trọng làm rõ đƣợc những đặc trƣng
về nghệ thuật (ngôn ngữ, giọng điệu ) gắn kết với việc biểu đạt nội dung
nhƣ thế nào.
- Phƣơng pháp so sánh: Phƣơng pháp so sánh đƣợc vận dụng để
làm sáng rõ những yếu tố kế thừa cũng nhƣ cách tân về nghệ thuật, nội
17

dung biểu hiện chất thơ
6. CẤU TRÚC LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu và kết luận, tài liệu tham khảo, nội dung gồm 3
chƣơng:
Chƣơng 1: Chất thơ và chất thơ trong văn xuôi
Chƣơng 2: Bức tranh hiện thực đậm chất thơ trong Nỗi buồn chiến
tranh, Khúc bi tráng cuối cùng, Tàn đen đốm đỏ
Chƣơng 3: Những phƣơng thức biểu hiện của chất thơ qua Nỗi
buồn chiến tranh, Khúc bi tráng cuối cùng, Tàn đen đốm đỏ




















18

CHƢƠNG 1: CHẤT THƠ VÀ CHẤT THƠ TRONG VĂN XUÔI
1.1. Chất thơ và vai trò của chất thơ trong văn xuôi
1.1.1. Chất thơ
Xác định chất thơ là một vấn đề rất khó. Đúng nhƣ lời nhận xét của
Nguyễn Tuân: “Định nghĩa về chất thơ cho thật chính xác và toàn thập tôi
thấy nó cũng khó nhƣ định nghĩa cho chất Uymua (kermous)”. Nhƣng khi
chúng ta đã quan niệm thơ không phải là một cái gì thần bí, siêu việt, thơ
gắn liền với cuộc sống, với tâm hồn con ngƣời và năng lực sáng tạo qua
ngƣời nghệ sĩ thì việc tìm hiểu chất thơ lại là cần thiết và có thể tiến hành
đƣợc trên những nét lớn dễ chấp nhận.
Hoài Nam từng viết: “Chất thơ của bài thơ nằm trong một cái đích rất mơ
hồ nhƣng lại rất cụ thể, nó mơ hồ ở chỗ nó tan biến vào từng câu thơ, nó chảy
ra bàng bạc trong từng tác phẩm nhƣng nó cụ thể ở chỗ nó tụ lại ở một điểm
ngời sáng nào đó làm cho cái bàng bạc trải rộng kia lấp lánh lên. “Điểm ngời
sáng” là nơi gặp gỡ của tất cả các câu thơ, ý thơ, là nơi ngã ba, ngã bảy toả đi

các câu thơ, đối với ngƣời làm thơ là nơi cảm xúc gặp gỡ, đối với ngƣời đọc
thơ là nơi cảm xúc toả đi. Ngƣời làm thơ mà không bắt nối các cảm xúc tinh
tế và trải rộng đi nhiều hƣớng của mình khi tụ lại một điểm thì ngƣời đọc thơ
cứ phải đuổi bắt chất thơ bàng bạc, chập chờn và phải sống trong trạng thái
chờ đợi vô vọng, phải chịu đựng một bƣớc hẫng hụt trong thi ca” [42, 9]
Theo các tác giả của cuốn Từ điển thuật ngữ văn học thì “Chất thơ là chỉ
những sáng tác văn học (bằng văn xuôi hoặc văn vần) giàu cảm xúc, nội
dung cô đọng, ngôn ngữ giàu hình ảnh và nhịp điệu [53, tr. 310]. Hà Minh
Đức cho rằng: “Chất thơ là một phẩm chất tổng hợp đƣợc tạo nên từ nhiều
nhân tố. Những nhân tố này cũng có thể có trong nội dung cấu tao của các
thể loại khác, nhƣng ở trong thơ đƣợc biểu hiện tập trung hơn và đƣợc hòa
hợp, liên kết một cách vững chắc để tạo nên những phẩm chất mới… Chất
thơ gắn liền với những rung động và những cảm xúc trực tiếp. Thơ là ở tấm
19

lòng nhƣng cũng chính là cuộc sống, thơ gắn liền với trí tƣởng tƣợng và
chất thơ cũng gắn liền với cái đẹp” [15, tr. 36]
Qua các ý kiến trên, chúng ta có thể rút ra một số khái quát về chất thơ
trên các phƣơng diện: loại hình, mỹ học, cảm hứng, ngôn ngữ:
Ở phương diện loại hình: Thơ gắn liền với phƣơng thức biểu hiện trữ
tình, nó dành ƣu thế cho cảm xúc của cái tôi trữ tình. Đối với chất thơ trong
văn xuôi cũng vậy. Chất thơ đó chính là tâm tình, là cảm xúc, cảm hứng
của tác giả và nhân vật. Nhƣ vậy, có nghĩa là có những đối tƣợng cái nên
thơ không đƣợc bộc lộ ra ở bên ngoài, nếu miêu tả theo cách sao chép và
mô phỏng tự nhiên thì khó có thể tạo ra chất thơ trong tác phẩm. Nhƣng
nếu phát hiện ra đƣợc một nét nào đó ẩn sâu trong bản chất của đối tƣợng
và cung cấp cho nó một hình ảnh đẹp, một sự giải thích, một sự tô điểm
giàu ý nghĩa thẩm mỹ và ý nghĩa xã hội thì chất thơ sẽ xuất hiện và thấm
sâu vào hình tƣợng.
Trên phương diện mỹ học: Chất thơ đƣợc xem là cái đẹp của tâm hồn,

của cuộc sống và cao hơn nữa nó còn nói về cuộc sống với một lý tƣởng
đẹp. Ngay khi thơ nói đến cái hùng, cái bi, cái cao cả, cái tầm thƣờng của
cuộc sống thì cũng nhìn những cái đó dƣới con mắt của cái đẹp mới có chất
thơ. Nếu nói ý thức và thiên hƣớng của mọi hoạt động sáng tạo của con
ngƣời theo quy luật của cái đẹp nhƣ Mác nói thì với thơ, ý thơ và cảm hứng
sáng tạo biểu hiện rõ rệt đặc tính này. Có 1 nhà thơ cho rằng: “Cái đẹp là
địa hạt hợp pháp của thơ ca”, Bôđơle xem thơ ca là: “Ƣớc mong của con
ngƣời vƣơn tới cái đẹp cao thƣợng”, Sile nhấn mạnh đến cái đẹp và năng
lực tạo cái đẹp ở trong thơ: “Thơ ca biến mọi vật thành đẹp, nó làm tăng vẻ
đẹp của những cái gì đẹp nhất, nó đem lại vẻ đẹp cho những cái gì xấu xí
nhất”. Mặc dù quan niệm đó của Sile có hơi quá song thực tế nói đến thơ là
nói đến cái đẹp, là sự phản ánh cái đẹp, làm đẹp lòng ngƣời, tâm hồn con
ngƣời và đó hẳn là một điều hiển nhiên của thơ.
20

Xét trên phương diện cảm hứng: Chất thơ gắn liền với cảm hứng bay
bổng lãng mạn, đó là trạng thái tình cảm mãnh liệt, say đắm xuyên suốt tác
phẩm nghệ thuật, gắn liền với một tƣ tƣởng xác định, một sự đánh giá nhất
định, gây tác động đến cảm xúc của những ngƣời tiếp nhận tác phẩm.
Trong Từ điển thuật ngữ văn học, có viết: “Bê-lin-xki coi cảm hứng chủ
đạo là điều kiện không thể thiếu của việc tạo ra những tác phẩm đích thực,
bởi nó biến sự chiếm lĩnh thuần tuý trí óc với tƣ tƣởng thành tình yêu đối
với tƣ tƣởng, một tình yêu mạnh mẽ, một khát vọng nhiệt thành” [56, tr.
45]. Chất thơ đối lập với cái dung tục, thấp kém, đê tiện trong một hiện
thực đầy phức tạp. Mặt khác, bản thân cái hiện thực đầy phức tạp, đầy xung
đột với những dục vọng muôn vẻ của con ngƣời lại là mảnh đất nuôi dƣỡng
cho chất thơ của cuộc sống, của tâm hồn con ngƣời cất cao lên, vƣợt lên
khỏi mặt đất “hiện thực” nghiệt ngã để khẳng định giá trị con ngƣời.
Nhƣ vậy, ở góc nhìn này chất thơ là một bình diện của hiện thực cuộc
sống, nó xuất hiện chính trong cuộc đấu tranh của con ngƣời trong hiện

thực vƣơn tới một hiện thực cao hơn. Cho nên, chất thơ không phải là một
phần chất tâm hồn con ngƣời từ trên trời rơi xuống mà nó là một phần máu
thịt của tâm hồn con ngƣời trong cuộc đấu tranh hiện thực chống lại các thế
lực thù địch với con ngƣời.
Phương diện ngôn ngữ: Thơ có tính nhạc. Trong dòng “phong cách trữ
tình” ngôn ngữ giàu tính nhạc vì bản thân nó giàu chất thơ. Chất thơ trong
thơ gắn với nhạc điệu, trong truyện, đặc biệt là truyện ngắn trữ tình, tính
nhạc dẫu không rõ ràng lắm nhƣng chính âm hƣởng, tiếng vang của nó lan
toả trong lòng ngƣời đọc lại chính là tiếng nhạc đậm đà, dịu dàng, nhẹ
nhàng và cũng lại ấn tƣợng.
Toàn bộ những phẩm chất trên hợp thành chất thơ trong đời sống văn
học. Nó là một phẩm chất tổng hợp đƣợc tạo nên từ nhiều nhân tố nhƣ cảm
xúc, cái đẹp, trí tƣởng tƣợng. Chất thơ thƣờng đƣợc dùng để chỉ những
21

sáng tác văn học bộc lộ một cách trực tiếp, cô đọng cảm xúc chủ quan của
cá nhân trƣớc thế giới và nhân sinh, thể hiện sự kết tinh của cái đẹp qua
những hình tƣợng nghệ thuật đƣợc tạo dựng bằng ngôn ngữ chọn lọc, tạo
hình, giàu nhạc tính và biểu cảm.
1.1.2. Phân biệt chất thơ, chất trữ tình
Không ít ngƣời đồng nhất các khái niệm Chất thơ và chất trữ tình trên là
một. Ở đây, ngƣời viết cho rằng cần có sự phân xuất các khái niệm trên để
thấy rõ đặc trƣng của chất thơ trong mối tƣơng quan so sánh giữa chúng.
Trữ tình là một trong ba phƣơng thức cơ bản thể hiện đời sống, làm cơ
sở cho một loại tác phẩm văn học. Nếu tự sự thể hiện tƣ tƣởng, tình cảm
của tác giả bằng con đƣờng tái hiện một cách khách quan các hiện tƣợng
đời sống, thì trữ tình phản ánh đời sống bằng cách bộc lộ trực tiếp ý thức
của con ngƣời, nghĩa là con ngƣời tự cảm thấy mình qua những ấn tƣợng, ý
nghĩ, cảm xúc chủ quan của mình đối với thế giới và nhân sinh. Nhƣ vậy,
trữ tình là một nguyên tắc phản ánh đời sống bằng cái nhìn bên trong, cái

nhìn nội tâm, từ thế giới bên ngoài chuyển vào bên trong. Nói đến trữ tình
là nói đến cảm xúc, tâm trạng, tâm tƣ tình cảm, thế giới tinh thần của con
ngƣời. Với đặc trƣng cơ bản là bộc lộ tình cảm, trữ tình hƣớng đến khả
năng biểu cảm ở ngay tổ chức bên trong của ngôn ngữ, truyền cho nó sự
xúc động và tính chủ quan.
Chất trữ tình tạo nên những xúc cảm nghệ thuật. Nó thƣờng đƣợc sử
dụng để chỉ những sáng tác văn học bộc lộ trực tiếp ý nghĩ, cảm xúc chủ
quan của cá nhân đối với thế giới và nhân sinh thì chất thơ lại thƣờng đƣợc
sử dụng để chỉ những sáng tác văn học, không chỉ bộc lộ cảm xúc, ý nghĩ
của cá nhân đối với thế giới và nhân sinh mà còn thể hiện sự kết tinh của
cái đẹp qua những hình tƣợng nghệ thuật đƣợc tạo dựng bằng ngôn ngữ
giàu hình ảnh và nhạc điệu. Để tác phẩm văn chƣơng còn mãi trong lòng
22

ngƣời đọc cần có chất thơ. Chất thơ có thể ví nhƣ sự kéo dài chất trữ tình,
là “cái lõi” của chất trữ tình.
Trên đây, là những so sánh cơ bản để phân biệt chất trữ tình và chất thơ.
Sự phân biệt trên cũng chỉ là tƣơng đối. Nhƣng qua đó, ta có thêm cơ sở để
định giá về giá trị của tác phẩm văn học nói chung, và tiểu thuyết nói riêng
thông qua Chất thơ.
1.2. Vai trò của chất thơ trong văn xuôi
Thõ là hình thức sáng tác vãn học phản ánh cuộc sống, thể hiện những
tâm trạng, cảm xúc mạnh mẽ bằng ngôn ngữ hàm súc giàu hình ảnh và nhất
là có nhạc ðiệu. Thế giới chủ quan của con ngýời, cảm xúc, tâm trạng, ý
nghĩa ðýợc trình bày trực tiếp và làm thành nội dung chủ yếu của thõ. Ðặc
trýng cõ bản của thõ là thiên về biểu hiện cảm xúc, hàm súc cô ðọng, ngôn
ngữ có nhịp ðiệu. Chất thõ là ðiều kiện cõ bản của bài thõ. Không có chất
thõ thì nhất ðịnh không thể có thõ hay.
Cũng trên cõ sở này xuất hiện khái niệm “chất thõ” ðể chỉ những sáng
tác (bằng vãn vần hoặc vãn xuôi) giàu cảm xúc, nội dung cô ðọng, ngôn

ngữ giàu hình ảnh và nhịp ðiệu. Chất thơ trong văn xuôi chính là sự giao
thoa giữa thơ và văn xuôi.Tác phẩm văn xuôi có chất thơ nghĩa là tác giả
của tác phẩm ấy bằng phƣơng tiện nghệ thuật (ngôn ngữ giàu hình ảnh,
nhịp điệu…) để tạo nên những rung động thơ trong văn xuôi. Nếu nhƣ nhân
vật, cốt truyện là yếu tố cần để tạo nên cái khung sƣờn cho một tác phẩm
văn xuôi thì chất thơ là yếu tố đủ giúp cho tác phẩm tác động mạnh mẽ vào
tâm hồn ngƣời đọc, làm rung lên nơi đó những nhịp đập của cảm xúc.
Vãn xuôi luôn ðề cao tính khách quan của hiện thực ðời sống. Ðể tái
hiện ðời sống khách quan, vãn xuôi tập trung phản ánh ðời sống, con ngýời
qua biến cố, sự kiện xảy ra với nó, có tác dụng phõi bày những mặt nhất
ðịnh của bản chất con ngýời. Vì nền vãn học truyền thống của ta là một nền
vãn học vãn vần cho nên khi khắc họa hiện thực ðời sống, vãn xuôi viết
23

theo thể biền ngẫu, viết chen vào những ðoạn vãn vần, có nhạc ðiệu, tiết
tấu.
Có thể nói, ngôn ngữ dùng ðể biểu hiện chất thõ trýớc hết và chủ yếu
xuất hiện trong thõ. Nhà nghệ sĩ khi muốn biểu hiện chất thõ của tâm hồn
mình trong tác phẩm, họ thýờng sử dụng một loại ngôn từ ðặc biệt: nhạc
ðiệu, âm ðiệu, nhịp ðiệu, khi nhẹ nhàng, khi du dýõng, khi cao rộng thanh
thoát, khi lặng lẽ trầm ấm, khi hùng hồn vang dội. Từ ngữ ðýợc chọn lọc,
thýờng sử dụng thủ pháp mỹ lệ hoá lời thõ, lời vãn. Họ thích dùng ví von,
ẩn dụ và các phép tu từ làm ðẹp thế giới. Nghệ sĩ cũng thýờng dùng cả
ngôn ngữ thiên nhiên ðể diễn ðạt chất thõ của hiện thực con ngýời. Quan
trọng hõn là sự cộng hýởng nghệ thuật của tất cả các yếu tố ngôn từ kia.
Hiện týợng ðó trong thõ thì ðã rõ nhý một tất yếu nhýng ngay cả vãn xuôi,
những âm vần mang tính thõ của ngôn ngữ cũng xuất hiện và có khi trở
thành một phýõng diện của thi pháp ngôn ngữ trong một số hiện týợng vãn
xuôi nghệ thuật
1.3. Chất thơ trong tiểu thuyết

1.3.1. Từ những tiền đề lý luận của tiểu thuyết
Trong khuôn khổ của luận văn, ngƣời viết xin trình bày những vấn đề lý
luận tiểu thuyết làm nền cho việc tìm hiểu chất thơ trong tiểu thuyết viết về
chiến tranh.
Tiểu thuyết là một thể loại “còn rất trẻ và đang phát triển. Cái sƣờn thể
loại của tiểu thuyết vẫn chƣa hoàn chỉnh, chƣa cứng rắn lại và ta vẫn chƣa
hình dung hết đƣợc tất cả những khả năng tạo hình của nó. Tiểu thuyết là
một thể loại còn uyển chuyển, mềm dẻo và dƣờng nhƣ không bị đóng
khung trong những quy phạm chật hẹp nhƣ một số thể loại khác.
Bên cạnh đó, tiểu thuyết có tính “văn xuôi”, tính tổng hợp, đa phong
cách và đa thanh, trong tiểu thuyết có sự pha trộn, chuyển hóa lẫn nhau của
nhiều màu sắc thẩm mỹ: cái cao cả và thấp hèn, chất thơ và chất văn
24

xuôi… Tuy nhiên cũng có những lúc một màu sắc thẩm mỹ nào đó sẽ giữ
vai trò chủ đạo.
Tính đa thanh của tiểu thuyết hiện đại đƣợc biểu hiện rõ rệt trên phƣơng
diện ngôn ngữ. Trong văn chƣơng, cũng nhƣ trong cuộc sống, tính đối
thoại nội tại của ngôn từ biểu hiện thiên hình vạn trạng, nhƣng trong mỗi
loại hình văn học khác nhau nó có mặt ở mức độ khác nhau: theo Bakhtin,
ở thơ, nhất là thơ trữ tình thì ít, còn ở văn xuôi, đặc biệt văn tiểu thuyết thì
lại rất nhiều. Lời thơ về cơ bản là lời đơn thanh (một bè), trong tác phẩm
thơ chỉ có một tiếng nói trực tiếp và thuần khiết của nhà thơ nói cái tôi của
mình bằng ngôn ngữ của mình. Về phƣơng diện phong cách học, có thể ví
một bài thơ trữ tình với một bài hát diễn đơn không đệm hoặc một bản nhạc
độc tấu viết cho đàn dây. Văn xuôi nghệ thuật, nhất là văn tiểu thuyết thì
khác hẳn. Bakhtin ví một văn bản tiểu thuyết với bản tổng phổ một tác
phẩm giao hƣởng: ở đấy có rất nhiều bè, nhiều bộ với những cách đi bè,
phối khí phức tạp; ai không nắm vững đƣợc nghệ thuật đi bè, phối khí thì
có tài mấy cũng không viết đƣợc nhạc giao hƣởng và các thể loại âm nhạc

phức hợp khác. Nói nhƣ Bakhtin, ngƣời viết văn xuôi nào chỉ biết nói cái
tôi của mình bằng ngôn ngữ của mình, không biết nói cái của mình bằng
ngôn ngữ của ngƣời khác (trong đó có ngôn ngữ của nhân vật), không biết
đƣa vào và “phối khí” trong câu văn của mình những tiếng nói khác nhau ở
ngoài đời thì ngƣời ấy dù cố gắng thế nào cũng chỉ viết đƣợc những sáng
tác bề ngoài rất giống tiểu thuyết nhƣng không phải là tiểu thuyết.
Có thể thấy, ngôn ngữ tiểu thuyết hết sức phong phú, bên cạnh ngôn
ngữ trung tính, khách quan, trong tiểu thuyết còn có cả ngôn ngữ giàu chất
trữ tình, hùng hồn cảm động, hài hƣớc châm biếm… Tiểu thuyết từ bỏ tính
một phong cách của các thể loại sử thi, bi kịch… tạo nên tính tổng hợp về
phong cách và “thanh điệu”, thu hút nhiều thể loại khác vào cấu trúc nghệ
thuật của mình. Tiểu thuyết là một thể hỗn hợp thu hút đƣợc hết các thể
25

loại khác. Chúng ta có thể đem vào tiểu thuyết một hình thức nào đó của
văn xuôi cũng đƣợc: kịch, bút ký, truyện ngắn, truyện dài và thơ nữa, đem
từng chƣơng từng đoạn hoặc từng chữ để miêu tả một ý nghĩ, một hành
động nhân vật, hình thức nào tiểu thuyết cũng dung nạp đƣợc tất. Khả năng
tổng hợp của tiểu thuyết không chỉ thể hiện ở việc thu hút những thể loại
văn học khác mà còn ở việc sử dụng những thủ pháp của điện ảnh và âm
nhạc. Và khi sử dụng những thủ pháp của âm nhạc, tiểu thuyết sẽ gần với
thơ hơn trên phƣơng diện ngôn ngữ giàu nhạc tính. Thi trung hữu nhạc hay
nói cách khác tính nhạc làm nên chất thơ trong tiểu thuyết. Bên cạnh đó,
ngôn ngữ tiểu thuyết còn giàu tính tạo hình. Tính tạo hình làm ngôn ngữ
giàu hình ảnh, đây cũng là một đặc điểm quan trọng của ngôn ngữ thơ.
Ở cấp độ nhân vật, mỗi nhân vật là một tiếng nói, một chủ thể độc lập,
bình đẳng với tác giả. Điều đáng nhấn mạnh ở đây, không phải là những
đối thoại thông thƣờng mà là đối thoại về tƣ tƣởng, về ngữ nghĩa, về quan
điểm nằm trong chính phát ngôn của họ. Từ sau Đổi mới đến nay, đặc tính
đối thoại, đa âm trong ngôn ngữ và văn phong tiểu thuyết đã đƣợc gia tăng

một cách rõ rệt. Các tác phẩm Thời xa vắng (Lê Lựu), Ngược dòng nước lũ
(Ma Văn Kháng), Thiên sứ (Phạm Thị Hoài), Bến không chồng (Dƣơng
Hƣớng), Mảnh đất lắm người nhiều ma (Nguyễn Khắc Trƣờng), Nỗi buồn
chiến tranh (Bảo Ninh), Cơ hội của Chúa (Nguyễn Việt Hà), Chinatown
(Thuận), Ba người khác (Tô Hoài), Ngồi (Nguyễn Bình Phƣơng), Mười lẻ
một đêm (Hồ Anh Thái) cho thấy tiểu thuyết Việt Nam đã vƣợt qua một
chặng dài trên con đƣờng hiện đại hóa ngôn ngữ cũng nhƣ đa dạng hóa các
dạng thức diễn ngôn. Ở đó, có thể nhận ra những cuộc chất vấn, đối thoại,
tranh biện giữa tác giả và nhân vật, ngƣời kể chuyện và nhân vật, nhân vật
và bạn đọc trên một dòng tự sự bắt đầu bị lật xới, xáo trộn mạnh mẽ. Hay
nói cách khác, tiểu thuyết đã đi sâu khám phá tiếng nói nội tâm nhân vật.
Đó là một dấu hiệu nhận diện của chất thơ trong tiểu thuyết. Bởi tiếng nói

×