Chất Thơ Trong Tiểu Thuyết Võ Hiệp Kim Dung
Đưa thơ vào trong tiểu thuyết, cho tiểu thuyết có chất lãng mạn nhằm tạo thi
hứng cho cả người viết lẫn người đọc là đặc điểm cố hữu của 300 tiểu thuyết chương
hồi thời Minh - Thanh. Hồng Lâu Mộng của Tào Tuyết Cần có trên vài trăm bài thơ
và khi thực hiện phim Hồng Lâu Mộng, các nghệ sĩ Bắc Kinh đã biến những bài thơ
này thành nhạc từ - một dạng nhạc phủ - được hát lên, làm giàu thêm chất liệu nghệ
thuật cho tác phẩm điện ảnh. Nhà văn Kim Dung đã kế thừa phong cách đưa thơ vào
tác phẩm tiểu thuyết như các nhà văn tiền bối mặc dù tiểu thuyết chương hồi của ông
là tân văn tiểu thuyết. Ở chừng mực nào đó, Kim Dung là một nhà thơ thực sự; ông đã
viết cả vài trăm bài thơ, đặc biệt là thơ Thiền tông. Những bài thơ này chưa được in
ra; người đời chỉ biết ông là nhà văn chứ chưa hề hiểu được ông còn là một nhà thơ.
Chúng ta cũng lưu ý rằng ông nội Kim Dung đã từng làm tri huyện huyện Đơn
Dương, Triết Giang và là một nhà thơ khá nổi tiếng cuối đời Thanh với thi tập Hải
Ninh Sát Thị Sao Thị. Có lẽ âm vang của truyền thống tiểu thuyết Minh - Thanh, âm
vang của truyền thống gia đình đã khiến Kim Dung mạnh dạn đưa thơ vào tiểu thuyết
võ hiệp, làm cho những tác phẩm văn xuôi củ a ông mênh mang một màu thi ca lãng
mạn, trữ tình.
Có những tác phẩm của kim Dung lấy thơ làm nguồn cảm hứng chủ yếu. Đó là
trường hợp bộ Hiệp Khách Hành, gồm 12 quyển. Hiệp Khách Hành là tựa đề một bài
thơ dài của nhà thơ Lý Bạch, một trong Đường - Tống bát đại gia mà lịch sử văn học
Trung Quốc rất đỗi tự hào. Thơ Lý Bạch có nhiều thể tài: Diễm ca (ca ngợi cái đẹp),
Túy ca (viết trong lúc say), Biệt ca (viết lúc chia tay nhau), Biên tái ca (viết về cuộc
đời chinh chiến), Tình ca (ca ngợi tình yêu), Hành ca (ca ngợi chuyện giang hồ mạo
hiểm),... Hiệp Khách Hành là một bài thơ ngũ ngôn, thuộc thể Hành ca, ca ngợi Ngụy
Vô kỵ, tức Lăng Tín Quân, công tử của nước Ngụy và 2 hiệp khách - Hầu Doanh,
người giữ cửa Di Môn cùng Chu Hợi, anh hàng thịt. Hai người đã có công giúp Tín
Lăng Quân đưa quân sang cứu nước Triệu, bảo vệ Hàm Đan.
Triệu khách mạn hồ anh
Ngô câu sương tuyết minh
Ngân yên chiếu bạch mã
Táp nạp như lưu tinh...
Đi vào trong tiểu thuyết Kim Dung, cả bài thơ Hiệp Khách Hành vẫn được giữ
nguyên nhưng nó không còn là một bài thơ nữa. Nó chính là một pho võ công mà ai
có tấm lòng chân chất nhất, ít cơ tâm nhất mới nhận ra được. Con người đó là một
chàng trai không hề biết chữ: Thạch Phá Thiên tức Cẩu Tạp Chủng. Anh cóc cần bài
thơ nói lên ý nghĩa gì, câu thơ biểu đạt điều gì. Anh chỉ nhìn nét chữ. Ví dụ chữ Hành
gồm 6 nét thì anh khám phá ra sáu thế võ tương ứng với 6 nét đó chứ không cần biết
Hành là đi hay chạy. Anh cứ lẳng lặng khám phá tự dạng như thế cho đến chữ cuối
cùng và đắc thủ một môn thần công, điều mà có những người bỏ ra mấy chục năm
vẫn không khám phá được. Kim Dung gọi đó là lối trước ý. Lục Mạch Thần Kiếm
Truyện mênh mang một không khí lãng mạn, trữ tình của thơ. Đó là những câu thơ
của Kim Dung làm ra để ca ngợi hoa trà, một quốc hoa của nước Đại Lý:
Thanh quần ngọc diện như tương thức
Cửu nguyệt trà hoa mãn lộ khai
(Quần xanh, vóc ngọc tuồng quen mặt
Tháng chín, hoa trà rợp lối đi)
Hoặc:
Xuân câu thủy động trà hoa bạch
Hạ cốc vân sinh lệ tử hồng
(Giòng xuân nước gợn hoa trà trắng
Non hạ mây trôi trái vải hồng).
Đó là những câu thơ do chính Kim Dung làm ra nhưng được gắn vào cho những nhân
vật của mình, để các nhân vật tỏ tình trước tình nhân. Thí dụ Trấn Nam vương gia
Đoàn Chính Thuần, một con người phong tình rất mực, thường "nói" với các tình
nhân Vương phu nhân và Tu la đao Tần Hồng Miên. Với Vương phu nhân, một người
rất yêu hoa, Đoàn Chính Thuần đọc:
Dưới khóm mẫu đơn đành bỏ mạng
Chết làm quỷ sứ cũng oai phong
Với Tần Hồng Miên, một người chuyên phóng Tu la đao, Đoàn Chính Thuần chỉ
"biên tập" hai chữ mẫu đơn:
Dưới lưỡi Tu la đành bỏ mạng
Chết làm quỷ sứ cũng oai phong
Thi ca, từ phú không thể tách rời với thi pháp. Trong những ngày sống chung
với Nguyễn Tinh Trúc, Đoàn Chính Thuần đã chép tặng bà này bài Sầm Viên Xuân,
một bài từ danh tiếng:
Sóng thu dường điểm mực
Tóc phượng rủ bên tai
Dung nhan tuấn nhã
Vẻ thiên nhiên càng ngắm càng tươi
Cách hoa nhìn bóng dáng
Vằng vặc ánh sao thưa
Ngồi tựa lan can ngắm
Mặt hồ gươm phẳng lặng như tờ ...
Bao giờ quên được
Hình ảnh lúc chia phôi
Khăn là ướt đẫm
Ly biệt đôi đàng dòng lệ rơi.
Đoàn Chính Thuần là một vương gia phong nhã, có riêng một thư pháp. Chính nhờ
đó, Tiêu Phong đã đối chiếu nét chữ trên bài từ với nét chữ của một nhân vật ẩn danh
được gọi là "Thủ lĩnh đại ca" trong lá thư viết về truyện giết cha ông ngoài Nhạn Môn
Quan và biết Đoàn Chính Thuần không phải là người chủ mưu vụ giết cha mình.
Thơ luôn gắn liền với tình yêu, đặc biệt là những mối tình dang dở. Gần như Kim
Dung tôn trọng triệt để mô thức đó... Trong Tiếu Ngạo Giang Hồ Ký, Lệnh Hồ Xung
và Nhạc Linh San thương yêu nhau. Rồi một người thứ ba - Lâm Bình Chi - hiện ra
và Nhạc Linh San say mê Lâm Bình Chi, phụ rẫy mối tình của Lệnh Hồ Xung. Nàng
lấy Lâm Bình Chi khi Lâm Bình Chi đã thự thiến bộ phân sinh dục (dẫn đao tự cung)
để luyện Tịch Tà kiếm phổ. Biết chồng mình không còn là đàn ông nữa, Nhạc Linh
San đau đớn nhớ thương chàng Lệnh Hồ Xung. Cô đã đề lên trên tấm vải một bài thơ
của danh sĩ Lý Thương ẩn, mượn thơ người để biểu đạt tâm trạng của mình:
Nhớ xưa luyến ái Hàn công tử
Xương trắng thành tro hận chửa tan.
Ngày Nhạc Linh San chết đi, Lệnh Hồ Xung trở về núi Hoa Sơn. Anh vào căn
phòng riêng của Nhạc Linh San và đọc được hai câu thơ ấy, biết được tâm trạng Nhạc
Linh San và cảm thấy thương yêu cô gái bất hạnh hơn bao giờ hết.
Cũng trong Tiếu Ngạo Giang Hồ Ký, ta đọc được những câu thơ bình dân khá nổi
tiếng của người Trung Hoa. Gần như bọn giang hồ hào sĩ thường lấy những câu thơ
nầy làm câu cửa miệng, đọc lên trong những tình huống thích hợp. Thí dụ khi chia tay
nhau họ đọc:
Thanh sơn bích thủy
Hậu hội hữu kỳ
(Non xanh trơ đó
Nước biếc vẫn đây
Còn ngày gặp gỡ)
Hay khi khuyên ai xuống tay giết một người, họ thường đọc hai câu thơ:
Tiểu lượng phi quân tử
Vô độc bất trượng phu
(Lượng nhỏ chẳng thành người quân tử
Không độc sao nên đấng trượng phu)
Những câu thơ thông tục, đặt đúng vào vị trí trong văn cảnh, đã làm tác phẩm tăng
thêm chất văn học.
Thơ luôn gắn liền với kinh điển của các tôn giáo, bang hội. Trong kinh của Báo hỏa
giáo Ba Tư, có đến trên 100 bài thơ của Nga Mạc, đã được nhà thơ Quách Mạt Nhược
dịch ra bản Quan thoại. Kim Dung đã khéo léo sử dụng một bài thơ ngắn nói về số
phận con người, gắn bài thơ đó vào thân phận Tiểu Siêu, cô gái lai Ba Tư - Trung Hoa
trong ỷ Thiên Đồ Long Ký. Tiểu Siêu thương yêu Trương Vô Kỵ nhưng không hề nói
lên lòng thương yêu đó. Cô chỉ vẫn thường hát cho anh nghe:
Lai như lưu thủy hề, thệ như phong
Bất tri hà xứ lại hề, hà sở chung
Chỉ có 17 chữ nhưng bài thơ cực kỳ hàm súc. Tôi xin tạm dịch:
Chợt đến như dòng nước chảy
Rồi tàn như gió thoảng mau
Chẳng biết từ nơi nào đến
Và chẳng biết tàn nơi đâu
Cho đến khi Tiểu Siêu hôn Trương Vô Kỵ, từ biệt anh để trở về Ba Tư, Trương Vô
Kỵ mới khám phá ra ý nghĩa của tình yêu nằm trong lời kinh Bái hỏa giáo. Cuộc đời
con người ngắn ngủi thì tình yêu cũng thế; cũng Lai như lưu thủy hề, thệ như phong
và bất tri hà xứ lai hề, hà sở chung. Tôi cho đoạn Tiểu Siêu chia tay Trương Vô Kỵ
trên biển là đoạn hay nhất, giàu chất thơ nhất trong cả 11 pho tiểu thuyết đồ sộ của
Kim Dung.
Thơ chính là Đạo. Kim Dung muốn bạn đọc của mình nhận ra điều ấỵ. Ông đã để cho
những nhân vật của mình xuất khẩu thành thơ, ngôn từ đơn giản nhưng ý tứ - cái Đạo
bên trong - lại rất bao la, thâm diệu. Thí dụ như bài thơ của nhà sư Trí Quan đọc cho
kiều phong khi nghe Kiều Phong lên núi thiên thai, chùa Chỉ Quán, yết kiến ông và
hỏi tha (m gốc gác của mình . Tự thâm tâm, Kiều Phong rất xấu hổ, rất đau đớn vì
mình là người Khất Đan; mình không thuộc dân tộc Hán. Nhà sư Trí Quan đã giải
quyết mối ưu tư nội tại của Kiều Phong bằng một bài thơ mang chất thiền mênh
mông:
Khất Đan với Hán nhân
Bất luận giả hay chân
Ân oán cùng vinh nhục
Không hơn đám bụi trần
Kim Dung đã đẩy tiểu thuyết của mình đi đến bờ cõi bao la của triết học. Và tùy trình
độ nhận thức, cảm thụ; các nhân vật của ông ngộ hay không ngộ vấn đề. Tất nhiên,
bài thơ như thế này rất gần gũi với con người, không đến nỗi bí hiểm như những công
án của Thiền tông.
Trong 11 pho tiểu thuyết võ hiệp của Kim Dung, thơ Trung Hoa và thơ của Kim
Dung xuất hiện đều đặn. Nó trung hòa với tính chất sắt máu của cuộc đấu tranh chánh
- tà, thể hiện cái hồn của văn học tiểu thuyết chương hồi truyền thống. Nó kết hợp với
thư pháp (phép viết chữ), hình thành nên những pho võ công cho phán quan bút, kiếm
pháp, chưởng pháp. Nó làm nên tố chất lãng mạn cho tình yêu, chất triết lý cho tôn
giáo, chất trí tuệ cho đời sống. Đưa thơ vào truyện kiếm hiệp như ông quả là thủ pháp
của một nhà văn cao cường. Có thể nói, Kim Dung đã vượt xa những bậc tiền bối của
mình trong hệ tiểu thuyết chương hồi Minh Thanh. Điều này cũng rất dễ hiểu bởi Kim
Dung là một nhà thơ có tài và tài năng của ông thực sự phát triển rực rỡ khi người tình
Hạ Mộng ra đi khỏi vòng tay ông.