Tải bản đầy đủ (.pdf) (147 trang)

Nguyễn Phi Khanh và sự chuyển tiếp về mặt loại hình tác giả trong văn học Việt Nam thời vãn Trần sang Hồ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.77 MB, 147 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA VĂN HỌC



ĐỖ THU HIỀN





N
N
G
G
U
U
Y
Y


N
N


P
P
H
H


I
I


K
K
H
H
A
A
N
N
H
H




V
V
À
À


S
S





C
C
H
H
U
U
Y
Y


N
N


T
T
I
I


P
P


V
V





M
M


T
T


L
L
O
O


I
I


H
H
Ì
Ì
N
N
H
H


T
T

Á
Á
C
C


G
G
I
I




T
T
R
R
O
O
N
N
G
G


V
V
Ă
Ă

N
N


H
H


C
C


V
V
I
I


T
T


N
N
A
A
M
M



T
T
H
H


I
I


V
V
Ã
Ã
N
N


T
T
R
R


N
N


S
S

A
A
N
N
G
G


H
H







Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 50433


LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN



Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS. TRẦN NGỌC VƯƠNG






Hà Nội – 2004

Nguyễn Phi Khanh và sự chuyển tiếp về mặt loại hình tác giả
- 1 -

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài………………………………………………………
2. Đốitƣợng và phạm vi nghiên cứu………………………………………
3. Mụcđích và nhiệm vụ nghiên cứu……………………………………
4. Phƣơngpháp nghiên cứu…………………………………………………
5. Lịch sử vấn đề nghiên cứu……………………………………………….
6. Cái mới của luận văn…………………………………………………
7. Kết cấu của luận văn…………………………………………………….
4

4
7
8
9
10
14
14

NỘI DUNG


Chƣơng 1: Động hình của các lực lƣợng xã hội và chủ thể văn hoá
trong xã hội Việt Nam thời Vãn Trần sang Hồ…………….




15

1.1. Từ Phật giáo sang Nho giáo, định hướng vận động cơ bản của xã
hộiViệt Nam từ Trần sang Hồ………………………………………
1.1.1. Buổiđầu dựng nƣớc và kiếm tìm mô hình chính trị………………
1.1.2. Tìnhthế “Tam giáo tịnh hành” trong thời Lý- Trần:………………
1.1.3. Lựa chọn Nho giáo…………………………………………………

15
15
18
22
1.1.3.1.Xu thế tất yếu……………………………………………………………
1.1.3.2.Quá trình vận động……………………………………………………
22
27
1.2. Sự vận động của các loại hình nhân cách tiêu biểu thời Vãn Trần sang Hồ
34
1.2.1.Hƣớng vận động của loại hình nhân cách nhà sƣ và quý tộc………
34
1.2.1.1.Thiền sư- những nhà trí thức đầu tiên của thời độc lập……………
1.2.1.2. Quý tộc nhà Trần và những kết cục…………………………………
34
37

Nguyễn Phi Khanh và sự chuyển tiếp về mặt loại hình tác giả
- 2 -
1.2.2. Sự khẳng định vị trí và xu hƣớng vận động của loại hình nhân cách nhà nho
41
1.2.2.1.Hiện tượng nho sĩ tham chính…………………………………………
1.2.2.2.Sự trưởng thành về số lượng và các cuộc đấu tranh giành địa vị….
1.2.2.3. Sự xuất hiện danh nho…………………………………………………

41
44
47
Chƣơng 2: Nguyễn Phi Khanh - trƣờng hợp tiêu biểu của loại hình
tác giả nhà nho thời Vãn Trần sang Hồ…………………

41

2.1. Loại hình tác giả và văn chương nhà Nho thời Trần-
Hồ…………
52
2.1.1. Loại hình tác giả nhà nho thế kỷ XIII- XIV………………
52
2.1.1.1.Sự đột biến về số lượng……………………………………………… …
2.1.1.2. Một số thuộc tính nổi bật “mang tính thời đại”……………………
2.1.1.3.Ảnh hưởng Phật- Đạo và học phong Đông A……………………
52
57
60
2.1.2. Văn chƣơng nhà nho giai đoạn Trần- Hồ…………………………
2.1.2.1. Định hình ở bước đầu những đặc trưng của văn chương Nho giáo
2.1.2.2.Tiếp tục truyền thống văn chương Đông A. …………………………

2.1.2.3. Ảnh hưởng Phật giáo, Lão- Trang……………………………………
2.2. Nguyễn Phi Khanh và bi kịch của nhà nho nửa cuối thế kỷ XIV
61
61
66
70
71
2.2.1. Tiểu sử Nguyễn Phi Khanh………………………………………….
2.2.2. “Ƣu quốc chính tu ngô bối sự”- Kẻ sĩ của tƣơng lai và mối quan hệ
vớiTrần Nguyên Đán………………………………………… …
2.2.3. “Thế lộ phong đào, ngã diệc châu”- Bi kịch cá nhân trong bi kịch
thời đại - Mối quan hệ với Hồ Quý Ly và vƣơng triều
Hồ………….

71

73

82
Chƣơng 3: Thơ văn Nguyễn Phi Khanh- sự định hình của văn học
nhà nho thời Vãn Trần sang Hồ……………………………

89

3.1. Quan niệm nghệ thuật……………………………………………
90
Nguyễn Phi Khanh và sự chuyển tiếp về mặt loại hình tác giả
- 3 -
3.2. Cảm hứng chủ đạo…………………………………………………
94

3.2.1. Khát vọng trí quân trạch dân………………………………………
3.2.2. Xã hội lý tƣởng……………………………………………………
3.2.3. Tâm sự u uất ………………………………………………………
3.2.4. Tình cảnh ẩn dật……………………………………………………
96
99
102
106
3.3. Hình tượng trung tâm………………………………………………
109
3.3.1. Hình tƣợng nhà nho đang tự khẳng định……………………………
3.3.2. Hình tƣợng Trần Nguyên Đán………………………………………
3.3.3.Hình tƣợng vị thánh quân trong mộng tƣởng ……………………….
109
115
118
3.4.Hệ thống thể loại và ngôn ngữ văn học……………………………
120
3.4.1.Thể loại……………………………………………………………
3.4.2. Ngôn ngữ văn học…………………………………………………
120
123

KẾT LUẬN
127

TÀI LIỆU THAM KHẢO

132






Nguyễn Phi Khanh và sự chuyển tiếp về mặt loại hình tác giả
- 4 -
MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
1.1. Nghiên cứu tác giả- chủ thể sáng tạo theo khuynh hƣớng loại hình
học có thể đƣợc coi là một trong những chìa khoá giải mã nhiều vấn đề của lịch
sử văn học. Nó sẽ góp phần đƣa chúng ta đến với một cái nhìn có tính hệ thống
về quy luật vận động và phát triển của các nền văn học. Việc tìm hiểu loại hình
tác giả nhà nho, loại hình tác giả có vai trò quan trọng nhất trong nền văn học
trung đại Việt Nam, là rất cần thiết đối với công tác nghiên cứu văn học sử.
Trong phạm vi luận văn này, chúng tôi có ý định tìm hiểu loại hình tác giả nhà
nho tại một thời điểm đặc biệt của nó trong lịch sử, khi tác giả nhà nho bắt đầu
chiếm lĩnh văn đàn, thế kỷ XIV.
Thế kỷ XIV là một trong những giai đoạn vẫn đƣợc coi là ít thành tựu
của lịch sử văn học Việt Nam. Đó là giai đoạn dƣờng nhƣ không có tác giả, tác
phẩm nổi bật, cũng không có những hiện tƣợng văn chƣơng đáng lƣu ý. Nằm
giữa hai thời kỳ có dấu ấn đặc trƣng là thế kỷ XIII và thế kỷ XV, văn học thế
kỷ XIV thƣờng chỉ đƣợc lƣớt qua trong các cuốn văn học sử nhƣ một gạch nối
mờ nhạt. Thế nhƣng, rất dễ nhận thấy là, dƣới vẻ ngoài quá tĩnh lặng đó, ở giai
đoạn này đã âm thầm diễn ra một trong những sự kiện quan trọng nhất của văn
học trung đại, đó là sự chuyển đổi về mặt loại hình tác giả. Nhà nho trở
thành loại hình tác giả chính yếu, thay thế cho nhà sƣ và quý tộc- võ tƣớng
thời Lý- Trần. Đây là sự khẳng định một loại hình tác giả sẽ chiếm lĩnh
văn đàn cho đến hết lịch sử văn học trung đại, có thể đƣợc coi là một bƣớc
ngoặt hình thành nên văn chƣơng nhà nho ở Việt Nam. Nhƣ vậy là, tác giả

nhà nho đã tức vị ở phƣơng diện văn chƣơng trƣớc khi nho sĩ đạt sự ƣu thắng
trên chính trƣờng và Nho giáo có đƣợc địa vị độc tôn trong xã hội. Những điều
Nguyễn Phi Khanh và sự chuyển tiếp về mặt loại hình tác giả
- 5 -
kiện lý luận và thực tiễn nào đã quy định sự chuyển đổi đó? Và trên thực tế,
quá trình chuyển tiếp của các loại hình tác giả đã diễn ra nhƣ thế nào? Loại
hình tác giả nhà nho đã đƣợc hình thành nhƣ thế nào? Diện mạo của loại hình
tác giả nhà nho ở giai đoạn giao thời này có đặc điểm gì đáng lƣu ý, có những
điểm chung cơ bản và những đặc trƣng gì so với nhà nho những giai đoạn sau?
Sự chuyển đổi của loại hình tác giả có ý nghĩa nhƣ thế nào đối với sự phát triển
của văn học giai đoạn này, đặt trong tổng thể quá trình vận động của văn học
mƣời thế kỷ nói chung? Chúng tôi cho rằng đây là một trong những vấn đề mấu
chốt có ý nghĩa lý luận để giải quyết những khúc mắc cũng nhƣ nhận diện quy
luật phát triển của văn học Việt Nam trung đại.
Về mặt lịch sử, đây là một trong những thời kỳ có nhiều biến động bậc
nhất của lịch sử trung đại Việt Nam. Ở đó đã diễn ra sự suy tàn dẫn đến sụp đổ
của một trong những vƣơng triều đƣợc tôn vinh nhất trong lịch sử Việt Nam là
nhà Trần, sự kiện đoạt ngôi của Hồ Quý Ly đƣa nhà Hồ, một trong những triều
đại bị kết án nhiều nhất lên cầm quyền. Nhà Hồ tồn tại chỉ đƣợc dăm năm ngắn
ngủi, để đất nƣớc rơi trở lại vào tay đế quốc phƣơng Bắc, lần đầu tiên và cũng là
duy nhất trong thời tự chủ, sau mấy trăm năm tồn tại và phát triển rực rỡ của
nƣớc Đại Việt. Đó là một trong những thất bại cay đắng nhất của lịch sử dân tộc.
Nhƣng sự sôi động của giai đoạn này còn diễn ra ở một phƣơng diện
quan trọng hơn, có tác động sâu sắc và lâu dài hơn đối với con đƣờng phát
triển, diện mạo văn hoá cũng nhƣ vận mệnh của đất nƣớc. Các nhà nghiên cứu
xƣa nay vẫn thừa nhận rằng, thời Trần sang Hồ là giai đoạn ở Việt Nam đã diễn
ra một quá trình chuyển đổi từ Phật giáo sang Nho giáo trên quy mô hệ tƣ
tƣởng chủ đạo chi phối mọi mặt đời sống xã hội. Đây là một trong những bƣớc
ngoặt quan trọng nhất trong lịch sử trung đại Việt Nam, là bƣớc tiến dứt khoát
cuối cùng của Việt Nam về phía vùng văn hoá Đông Á. Nho giáo đã đƣợc du

nhập vào Việt Nam từ đầu thời Bắc thuộc, nhƣng xu thế Nho giáo hoá này mới
có cơ sở để bắt đầu từ đời Lý, diễn ra âm thầm, chậm chạp sang ở đời Trần, và
Nguyễn Phi Khanh và sự chuyển tiếp về mặt loại hình tác giả
- 6 -
trở nên thực sự quyết liệt, mạnh mẽ vào thời Vãn Trần sang Hồ, nửa cuối thế
kỷ XIV. Sau cuộc xâm lƣợc của nhà Minh, Nho giáo càng đƣợc củng cố thêm
bằng nhiều con đƣờng và ở nhiều phƣơng diện. Sang đến thế kỷ XV, với triều
đại Lê Thánh Tông, Nho giáo sẽ bƣớc lên địa vị hệ tƣ tƣởng độc tôn. Vị trí này
đƣợc giữ mãi cho đến tận ngày chế độ quân chủ ở Việt Nam kết thúc. Dĩ nhiên,
ảnh hƣởng của Nho giáo đến xã hội Việt Nam đến đó chƣa phải là đã chấm dứt.
Sự du nhập và phổ biến của Nho giáo vào Việt Nam đến mức độ nhất
định đã hình thành nên một tầng lớp mới- tầng lớp nho sĩ. Không phải đến thế
kỷ XIV ở Việt Nam mới xuất hiện nho sĩ, nhƣng phải đến thời điểm này, một
tầng lớp nhà nho đông đảo, bắt đầu có địa vị đáng kể trong xã hội mới thực sự
định hình. Nhƣng sự phát triển về mặt số lƣợng của nhà nho đã đi trƣớc mức độ
thành đạt của họ. Tại đây đã có một cuộc đấu tranh giành giật địa vị xã hội giữa
nho sĩ với nhà sƣ và nhất là với quý tộc. Nhà nho từng bƣớc đã thay thế nhà sƣ
của thời Lý và quý tộc- võ tƣớng của thời Trần để trở thành nhân vật trí thức
chính của đất nƣớc.
Tất cả những vấn đề trên có liên quan nhƣ thế nào tới sự chuyển tiếp của
loại hình tác giả trong văn học thời kỳ này?
Sự chuyển tiếp của loại hình tác giả có thể coi là đã khởi đầu từ thế kỷ
XIII. Nhƣng chúng tôi chọn mốc thời điểm Vãn Trần sang Hồ, nghĩa là nửa
cuối thế kỷ XIV vì chỉ đến lúc này, sự chuyển tiếp nói trên mới thực sự diễn ra
ráo riết, sự định hình của loại hình nhà nho đã đạt đến độ tiêu biểu cho một giai
đoạn. Trong bối cảnh đầy ba động của lịch sử, mọi mâu thuẫn cũng nhƣ các đặc
điểm cũng có cơ hội phát lộ hết mức.
1.2. Nhƣng với giới hạn của một luận văn thạc sĩ, chúng tôi sẽ không khảo
sát toàn bộ các tác giả của thời kỳ này, mà chỉ chọn một tác giả mà chúng tôi cho
là tiêu biểu để nghiên cứu. Đó là Nguyễn Phi Khanh. Dĩ nhiên định hƣớng

nghiên cứu là để nhận diện một loại hình tác giả trong giai đoạn giao thời.
Nguyễn Phi Khanh và sự chuyển tiếp về mặt loại hình tác giả
- 7 -
Nguyễn Phi Khanh là một tác giả quan trọng của nửa cuối thế kỷ XIV.
Ở ông có nhiều điểm hội tụ những mâu thuẫn mà chúng tôi cho rằng có thể
đại diện cho những vấn đề lớn nhất của thời đại. Ông là một nho sĩ, thân
phụ của bậc đại nho tiêu biểu nhất của Việt Nam, Nguyễn Trãi; nhƣng ông
cũng lại là con rể của Trần Nguyên Đán, một đại quý tộc tôn thất nhà Trần. Đỗ
đạt dƣới triều Trần, nhƣng ông không đƣợc dùng cho đến tận khi nhà Trần diệt
vong, khoảng 26 năm; sang đời nhà Hồ, ông lập tức ra làm quan và đƣợc trọng
dụng. Con trai ông, Nguyễn Trãi cũng đỗ đại khoa và và làm quan dƣới triều
Hồ. Khi nhà Minh xâm lƣợc, ông bị bắt giải sang Trung Quốc cùng cha con Hồ
Quý Ly. Rõ ràng là có rất nhiều vấn đề khúc mắc trong cuộc đời cũng nhƣ tác
phẩm của Nguyễn Phi Khanh mà chúng tôi hy vọng có thể giải quyết bằng một
hƣớng tiếp cận loại hình học tác giả. Chúng tôi cũng cho rằng những kết quả
đạt đƣợc từ việc nghiên cứu một tác giả là Nguyễn Phi Khanh sẽ là bƣớc quan
trọng để phác thảo nên diện mạo chung của loại hình tác giả giai đoạn này.
Chính vì thế, chúng tôi chọn đề tài “Nguyễn Phi Khanh và sự chuyển
tiếp của loại hình tác giả trong văn học Việt Nam thời Vãn Trần sang Hồ”
cho luận văn của mình.
“Thời Vãn Trần sang Hồ” là một cách định danh mà chúng tôi dùng cho
giai đoạn khoảng nửa cuối thế kỷ XIV. Chúng tôi dùng cách gọi có tính quy
ƣớc này một phần lý do vì nó gợi mở cho thấy cả trạng thái vận động mang tính
lịch sử: nhà Trần suy vong (tính từ khi Trần Minh Tông qua đời, năm 1357),
nhà Hồ cƣớp ngôi (đến khi quân Minh xâm chiếm Đại Việt, năm 1407). Trong
luận văn, hai cách gọi này sẽ đƣợc dùng tƣơng đƣơng, thay thế nhau.
2. Đối tƣợng và phạm vi tƣ liệu nghiên cứu
Đối tƣợng của luận văn là Nguyễn Phi Khanh với tƣ cách là một loại
hình tác giả chứ không phải chỉ là một tác giả văn học đơn thuần. Chính vì thế,
Nguyễn Phi Khanh và sự chuyển tiếp về mặt loại hình tác giả

- 8 -
chúng tôi sẽ nhìn Nguyễn Phi Khanh từ sự tổng hợp của rất nhiều góc độ văn
hoá, tƣ tƣởng, chính trị, kinh tế, giai cấp… và tất nhiên, văn chƣơng, chứ không
phải chỉ duy nhất từ góc độ văn chƣơng. Chúng tôi sẽ khảo sát “hiện tƣợng
Nguyễn Phi Khanh” chứ không phải chỉ “văn chƣơng Nguyễn Phi Khanh”.
Đƣơng nhiên, cuối cùng thì văn chƣơng Nguyễn Phi Khanh vẫn là đối
tƣợng nghiên cứu quan trọng nhất, chiếm một dung lƣợng tƣơng đối lớn trong
luận văn.
Nghiên cứu về Nguyễn Phi Khanh, một tác giả mà tƣ liệu về ông còn lại
không nhiều, chúng tôi chủ yếu phải dựa vào các tƣ liệu sử, tác phẩm của ông
cũng nhƣ ngƣời thân và các tác giả cùng thời.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Chúng tôi hy vọng qua luận văn sẽ đạt đƣợc cái nhìn hệ thống về sự vận
động và phát triển của lịch sử tƣ tƣởng Việt Nam ở một giai đoạn đầy biến
động của đất nƣớc, giai đoạn Vãn Trần sang Hồ.
Cũng qua luận văn, chúng tôi muốn nhận diện rõ một tác giả là Nguyễn
Phi Khanh từ góc độ loại hình tác giả, đặt Nguyễn Phi Khanh vào bối cảnh
chung của loại hình tác giả nhà nho nửa cuối thế kỷ XIV. Chúng tôi cũng mong
muốn qua đó thấy đƣợc diện mạo của văn chƣơng nhà nho ở giai đoạn mới hình
thành.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu văn học, đặc biệt là văn học trung đại, một thời kỳ chƣa có
sự phân hoá rạch ròi giữa các hình thái ý thức xã hội, không thể tránh khỏi việc
nhìn đối tƣợng này trong tổng thể nguyên vẹn của nó. Vì vậy, xem xét văn học
bắt đầu từ việc khảo sát các đối tƣợng khác nhƣ lịch sử, tƣ tƣởng là một thao
tác cần phải có đối với ngƣời làm văn học sử. Với đề tài này, chúng tôi phải bắt
Nguyễn Phi Khanh và sự chuyển tiếp về mặt loại hình tác giả
- 9 -
đầu từ những vấn đề có vẻ quá rộng so với một luận văn về văn học, đó là các

vấn đề lịch sử- tƣ tƣởng, kinh tế- chính trị… của thế kỷ XIV trong cái nhìn hệ
thống từ thời lập quốc tới khi nhà Minh xâm lƣợc, thậm chí kéo dài đến tận thời
Lê Thánh Tông. Luận văn đặt ra nhiệm vụ phải mô tả cho đƣợc quá trình
chuyển từ Phật giáo sang Nho giáo cũng nhƣ chỉ ra những cơ sở chủ quan và
khách quan quy định nó.
Bên cạnh đó, tuy xác định là sẽ chỉ tập trung vào nghiên cứu một tác giả
có tính đại diện, nhƣng chúng tôi vẫn không tránh khỏi việc đặt tác giả đó vào
tổng thể loại hình tác giả nhà nho thời kỳ khởi đầu. Luận văn sẽ trình bày một
cách khái quát nhất diện mạo cũng nhƣ những đặc điểm tiêu biểu của loại hình
tác giả nhà nho và văn học nhà nho thế kỷ XIV. Chúng tôi tin rằng đây là
những thao tác cần phải có để đạt đƣợc một cái nhìn vừa cụ thể, sâu sắc lại vẫn
khách quan và toàn diện về đối tƣợng.
Đƣơng nhiên, luận văn sẽ tập trung vào nhiệm vụ trọng tâm là Nguyễn
Phi Khanh và tác phẩm của ông. Với con ngƣời Nguyễn Phi Khanh, chúng tôi
sẽ cố gắng lý giải những mâu thuẫn trong cuộc đời cũng nhƣ tƣ tƣởng của ông
đặt trong mối liên hệ với thời đại để tìm ra lôgic nội tại của vấn đề. Chúng tôi
đặc biệt coi trọng việc khảo sát tác phẩm của Nguyễn Phi Khanh về nhiều
phƣơng diện: quan niệm thẩm mỹ, cảm hứng chủ đạo, hình tƣợng trung tâm,
thể loại và ngôn ngữ văn học… Từ đó, chúng tôi hy vọng rút ra đƣợc những kết
luận có ý nghĩa về tác giả cũng nhƣ văn chƣơng nhà nho nửa cuối thế kỷ XIV.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Với luận văn này, chúng tôi sử dụng nhiều phƣơng pháp có tính chất tổng hợp.
Phƣơng pháp loại hình học đƣợc sử dụng xuyên suốt nhƣ một phƣơng
pháp cơ bản. Chúng tôi cũng luôn tiến hành so sánh, đối chiếu, chủ yếu là theo
Nguyễn Phi Khanh và sự chuyển tiếp về mặt loại hình tác giả
- 10 -
lịch đại trong suốt quá trình khảo sát đối tƣợng nhằm làm rõ những điểm chung
và đặc thù của loại hình tác giả nhà nho thế kỷ XIV.
Để làm rõ quá trình thay đổi của các hệ tƣ tƣởng cũng nhƣ các loại hình
tác giả, chúng tôi sử dụng phƣơng pháp mô tả.

Trong quá trình khảo sát, đặc biệt là với tác phẩm của Nguyễn Phi
Khanh, chúng tôi sử dụng thƣờng xuyên các phƣơng pháp phân tích, thống kê,
phân loại…
5. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Đây là một đề tài khá tổng hợp nên những công trình nghiên cứu có liên
quan rất đa dạng, có thể chia thành các loại sau:
5.1. Về lịch sử, văn hoá, chính trị, tư tưởng thế kỷ XIV: Các công trình
về lịch sử tƣ tƣởng Việt Nam nói chung và từng học thuyết nhƣ Nho giáo, Phật
giáo có đề cập đến thế kỷ XIV khá nhiều. Chúng ta có thể kể đến các công trình
chủ yếu sau:
 Nguyễn Tài Thƣ (Chủ biên). Lịch sử tư tưởng Việt Nam, Tập 1. NXB
Khoa học xã hội. Hà Nội, 1993.
 Nhiều tác giả. Một số vấn đề lý luận về lịch sử tư tưởng Việt Nam. Viện
Triết học- Uỷ ban Khoa học xã hội Việt Nam. Hà Nội, 1984.
 Nhiều tác giả. Nho giáo tại Việt Nam. NXB Khoa học xã hội. Hà Nội, 1994.
 Phan Đại Doãn (Chủ biên). Một số vấn đề về Nho giáo Việt Nam. NXB
Chính trị quốc gia. Hà Nội, 1998.
 Quang Đạm. Nho giáo xưa và nay. NXB Văn hoá- Thông tin. Hà Nội, 1994.
 Trần Đình Hƣợu. Đến hiện đại từ truyền thống. NXB Văn hoá- Thông
tin. Hà Nội, 1996.
Nguyễn Phi Khanh và sự chuyển tiếp về mặt loại hình tác giả
- 11 -
 Vũ Văn Vinh. Một số nội dung cơ bản của tư tưởng Nho giáo Việt
Nam thời Trần. Luận án tiến sĩ triết học. Viện Triết học. Hà Nội, 1999.
 Nguyễn Lang. Việt Nam Phật giáo sử luận. NXB Văn học. Hà Nội, 2000.
 Nguyễn Tài Thƣ (Chủ biên). Lịch sử Phật giáo Việt Nam. NXB Khoa
học xã hội. Hà Nội, 1988.
 Nhiều tác giả. Mấy vấn đề về Phật giáo và lịch sử tư tưởng Việt Nam.
Viện Triết học- Uỷ ban Khoa học xã hội Việt Nam. Hà Nội, 1986.
 Nhiều tác giả. Tìm hiểu xã hội Việt Nam thời Lý- Trần. NXB Khoa học

xã hội. Hà Nội, 1981.
Các công trình trên đều chỉ coi thế kỷ XIV là một chặng trong quá trình
khảo sát, chính vì thế, khả năng tập trung vào giai đoạn này không cao. Nhƣng
với mức độ đậm nhạt khác nhau, các tác giả nói chung đều nhìn nhận thời
Trần là giai đoạn có sự chuyển hƣớng từ Phật giáo sang Nho giáo trên lĩnh
vực tƣ tƣởng ở Việt Nam và sự chuyển hƣớng này đã có tác động toàn diện
tới xã hội. Trong đó, giáo sƣ Trần Đình Hƣợu đặc biệt coi trọng cuộc chuyển
giao Phật giáo- Nho giáo thế kỷ XIV- XV nhƣ một trong ba bƣớc ngoặt lớn
nhất của lịch sử Việt Nam, ngang hàng với cuộc tiếp xúc của văn hoá bản địa
và văn hoá Trung Quốc cũng nhƣ sự kiện Việt Nam gia nhập thế giới cận hiện
đại bằng sự va chạm với văn minh phƣơng Tây [47, 117]. Tuy vậy, chƣa có
công trình nào chú trọng mô tả từng bƣớc sự chuyển giao đó nhƣ một quá trình
với lôgic nội tại mà thƣờng chỉ trình bày dƣới dạng các hiện tƣợng. Nhìn
chung, ngoài số ít bài viết ra thì chƣa có một chuyên khảo nào dành riêng cho
bƣớc ngoặt có tính lịch sử này.
5.2. Về văn học nửa cuối thế kỷ XIV: Chặng này vốn đƣợc coi là không
có nhiều thành tựu, thậm chí là “hầu như tẻ nhạt” [106, 152] trong lịch sử văn
học trung đại. Chính vì thế, các bộ văn học sử quan trọng đều chỉ dành cho nó
một dung lƣợng rất khiêm tốn so với các giai đoạn khác. Thậm chí, “Việt Nam
Nguyễn Phi Khanh và sự chuyển tiếp về mặt loại hình tác giả
- 12 -
văn học sử giản ước tân biên” của Phạm Thế Ngũ, một bộ sử đƣợc viết theo
tiêu chí thể loại, trong phần “Thi văn” chữ Hán đã bỏ qua thế kỷ XIV- một thế
kỷ mà tác phẩm để lại đa phần là thi ca. Nghĩa là, văn chƣơng giai đoạn này đã
hoàn toàn vắng bóng trong công trình của Phạm Thế Ngũ.
Bên cạnh đó, không có chuyên khảo nào về các tác giả, tác phẩm hoặc
các vấn đề văn học của giai đoạn này, số lƣợng bài nghiên cứu cũng không
nhiều và thành quả chƣa đáng kể. Nói chung, các nhà nghiên cứu đều có xu
hƣớng cho rằng văn học nửa cuối thế kỷ XIV không có nhiều vấn đề để nhắc
tới. Nhƣng họ cũng đều thống nhất rằng, đã có một sự chuyển tiếp về mặt

loại hình tác giả trong văn học thời Vãn Trần- Hồ. Loại hình tác giả nhà nho
đã thay thế loại hình tác giả nhà sƣ thời Lý và loại hình tác giả võ tƣớng- quý
tộc thời Trần. Tuy thế, chƣa có công trình nghiên cứu nào đi sâu hơn những
nhận định đó để mô tả diện mạo của loại hình tác giả nhà nho, quá trình phát
triển cũng nhƣ sự thay thế của các loại hình tác giả giai đoạn này.
5.3. Về loại hình tác giả: Phƣơng pháp nghiên cứu theo loại hình học
mới xuất hiện ở Việt Nam chƣa lâu. Các công trình nghiên cứu loại hình học
tác giả chƣa nhiều. Có thể kể đến các bài viết của giáo sƣ Trần Đình Hƣợu về
Nguyễn Trãi, Nguyễn Khuyễn, Tản Đà… nghiên cứu các tác giả riêng lẻ theo
xu hƣớng loại hình. Trần Ngọc Vƣơng đã khái quát hoá các loại hình tác giả
nhà nho trong chuyên khảo “Loại hình học tác giả văn học- Nhà nho tài tử và
văn học Việt Nam”. Sau công trình này, đã có nhiều luận văn, luận án tiếp theo
nghiên cứu loại hình học.
5.4. Về Nguyễn Phi Khanh
Nguyễn Phi Khanh là một tác giả gần nhƣ chƣa đƣợc quan tâm nghiên
cứu độc lập. Ngƣời ta thƣờng chỉ nhắc đến Nguyễn Phi Khanh với tƣ cách thân
sinh ra vị anh hùng dân tộc, nhà thơ lớn Nguyễn Trãi mà ít nhớ ra rằng ông
cũng là một nhà thơ xuất sắc của thời Trần- Hồ. Bản thân tƣ liệu về Nguyễn Phi
Nguyễn Phi Khanh và sự chuyển tiếp về mặt loại hình tác giả
- 13 -
Khanh trong lịch sử cũng còn lại quá ít, và gần nhƣ tất cả đều lặp lại những dữ
kiện đã có trong “Đại Việt sử ký toàn thư”.
Nghiên cứu riêng về Nguyễn Phi Khanh cho đến nay chỉ có bài viết “Phi
Khanh và thơ Phi Khanh” của Đào Phƣơng Bình (Tạp chí Văn học, số 4,
1965) và “Lời giới thiệu” sách “Thơ văn Nguyễn Phi Khanh (tuyển)” (NXB
Văn học, Hà Nội, 1981) của Bùi Văn Nguyên. Đúng nhƣ tên gọi, bài viết của
Đào Phƣơng Bình đề cập đến cả khía cạnh con ngƣời và tác phẩm của Nguyễn
Phi Khanh. Trong tình hình chung của nghiên cứu phê bình giai đoạn đó, Đào
Phƣơng Bình cho rằng: “Những nhân tố tích cực trong văn chương Phi Khanh
là tinh thần yêu nước, biểu hiện cụ thể bằng lòng yêu thương nhân dân, lòng

yêu thiên nhiên đất nước, và khí phách kiên cường của ông khi đứng trước bè
lũ thống trị, tinh thần hiên ngang của ông trước bọn giặc ngoại xâm”, và ông
đã chủ yếu đi sâu phân tích những đặc điểm đó. Tuy nhiên, chính ông cũng
nhận thấy rằng, trong thơ Nguyễn Phi Khanh, “những bài nói về nhân dân
chưa phải là nhiều lắm, trong khi những bài nói về tâm sự ở ẩn của mình lại
khá nhiều; mặt khác, đôi khi ông lại sa chân vào cái “nhàn” mà không có lối
ra”, và cho đó là mặt hạn chế của Nguyễn Phi Khanh. Nhƣng nhìn chung, Đào
Phƣơng Bình đã đánh giá rất cao tác phẩm của Nguyễn Phi Khanh: “Có thể nói
Phi Khanh chính là một trong những ngôi sao sáng của bầu trời văn học Việt
Nam cổ đại”.
Bài viết của Bùi Văn Nguyên có tính tổng hợp và đề cập đến nhiều
phƣơng diện hơn. Nhƣng Bùi Văn Nguyên lại quá phụ thuộc vào những chi tiết
về tiểu sử, gia thế Nguyễn Phi Khanh mà ông mới tìm thấy qua gia phả một số
dòng họ. Ông đã dùng tác phẩm của Nguyễn Phi Khanh chủ yếu để minh hoạ
cho những phát hiện đó. Hơn nữa, bài viết này dù dài tới 17 trang thì cũng vẫn
chỉ có quy mô của một lời giới thiệu tuyển tập. Chính vì thế, những vấn đề đặt
ra ở đây chƣa nhiều và cũng chƣa vấn đề nào đƣợc giải quyết thấu đáo.
Nguyễn Phi Khanh và sự chuyển tiếp về mặt loại hình tác giả
- 14 -
Ngoài ra, trong các cuốn văn học sử, tên tuổi cũng nhƣ tác phẩm của
Nguyễn Phi Khanh vẫn đƣợc thoáng nhắc tới, chủ yếu ở khía cạnh một tiếng
thơ bất bình với hiện thực xã hội đƣơng thời, với triều đình phong kiến: “Văn
học Việt Nam (Thế kỷ X- nửa đầu thế kỷ XVIII)” (Đinh Gia Khánh, Bùi Duy
Tân, Mai Cao Chƣơng, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1997); “Giáo trình Văn học
Việt Nam thế kỷ X đến giữa thế kỷ XVIII” (Bùi Duy Tân, Đại học Huế, 1995);
“Văn học Việt Nam từ thế kỷ X đến giữa thế kỷ XVIII” (Bùi Văn Nguyên,
Nguyễn Sĩ Cẩn, Hoàng Ngọc Trì, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1989)…
Nhìn chung, những kết quả nghiên cứu đã có chƣa xứng đáng với
tầm cỡ một tác giả nhƣ Nguyễn Phi Khanh.
6. Cái mới của luận văn

Luận văn đã mô tả quá trình chuyển hƣớng từ Phật giáo sang Nho giáo
thời Lý- Trần- Hồ, đặc biệt tập trung vào giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIV, qua đó
làm rõ những cơ sở lý luận và thực tiễn đã quy định sự vận động này.
Quá trình hình thành, diện mạo của loại hình tác giả nhà nho và văn
chƣơng nhà nho thời Vãn Trần sang Hồ trong tƣơng quan so sánh với các giai
đoạn khác đã bƣớc đầu đƣợc phác hoạ trong luận văn. Chúng tôi đã cố gắng chỉ
ra những đặc trƣng cơ bản quy định loại hình cũng nhƣ những khác biệt có tính
chất thời đại của đối tƣợng. Đây là những nội dung chƣa hề có trong các công
trình khoa học trƣớc đó.
Lần đầu tiên, Nguyễn Phi Khanh, một trong những tác giả quan trọng
nhất của nửa cuối thế kỷ XIV đã đƣợc nghiên cứu một cách hệ thống. Cũng lần
đầu tiên, một nhà nho thuộc về những thế hệ đầu tiên của thời đại Nho giáo ở
Việt Nam đƣợc khảo sát theo hƣớng loại hình học tác giả.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết thúc, luận văn gồm có 3 chƣơng:
Nguyễn Phi Khanh và sự chuyển tiếp về mặt loại hình tác giả
- 15 -
 Chƣơng 1: Động hình của các lực lượng xã hội và chủ thể văn hoá
trong xã hội Việt Nam thời Vãn Trần sang Hồ
 Chƣơng 2: Nguyễn Phi Khanh - trường hợp tiêu biểu của loại hình tác
giả nhà nho thời Vãn Trần sang Hồ
 Chƣơng 3: Thơ văn Nguyễn Phi Khanh- sự định hình của văn học
nhà nho thời Vãn Trần sang Hồ

Nguyễn Phi Khanh và sự chuyển tiếp về mặt loại hình tác giả
- 16 -

CHƢƠNG I :
ĐỘNG HÌNH CỦA CÁC LỰC LƢỢNG XÃ HỘI
VÀ CHỦ THỂ VĂN HOÁ TRONG XÃ HỘI VIỆT NAM

THỜI VÃN TRẦN SANG HỒ


1.1. TỪ PHẬT GIÁO SANG NHO GIÁO, ĐỊNH HƢỚNG VẬN ĐỘNG CƠ
BẢN CỦA XÃ HỘI VIỆT NAM TỪ TRẦN SANG HỒ
1.1.1. Buổi đầu dựng nƣớc và kiếm tìm mô hình chính trị
Sau một ngàn năm Bắc thuộc với quá trình Hán hoá diễn ra nhƣ một xu
thế không thể cƣỡng lại đƣợc, Việt Nam đã chính thức là thành viên của vùng
văn hoá Đông Á. Nhƣng quá trình Hán hoá không phải đến năm 938 với sự
kiện Ngô Quyền toàn thắng trên sông Bạch Đằng là đã hoàn tất, mà còn kéo dài
gần nhƣ trong suốt thời trung đại Việt Nam, dĩ nhiên với tính chất và mức độ
đã khác rất xa so với buổi ban đầu.
Sau khi giành đƣợc độc lập, Việt Nam còn mất thêm một thời gian nữa
cho việc tạm thời ổn định đất nƣớc. Ngô Quyền ở ngôi đƣợc sáu năm, đến khi
ông qua đời (944), nhà Ngô mất vào tay họ Dƣơng, rồi loạn 12 sứ quân. Các sử
gia thời trung đại đặc biệt đánh giá cao Đinh Bộ Lĩnh chứ không phải Ngô
Quyền nhƣ các nhà làm sử cận hiện đại. Họ coi vua Đinh là mở đầu của phần
chính biên hay bản kỷ trong chính sử, có lẽ lý do chủ yếu vì ông ta là vị vua
đầu tiên của Việt Nam xƣng đế ở thời độc lập. Gần đây, có ý kiến lại muốn trả
vinh dự cho “ra đời một nhà nước có quy mô dân tộc, thống nhất được cả về
lãnh thổ hành chính lẫn quyền lực đối với mọi tầng lớp và mọi khu vực dân cư”
[70, 439] đầu tiên ở thế kỷ X trên mảnh đất Việt Nam này về với Đinh Bộ Lĩnh,
ngƣời đã có công dẹp loạn cát cứ 12 sứ quân, thống nhất đất nƣớc, quá trình mà
Nguyễn Phi Khanh và sự chuyển tiếp về mặt loại hình tác giả
- 17 -
lịch sử Trung Quốc phải mất hàng ngàn năm mới thực hiện đƣợc dƣới bàn tay
của vị hoàng đế đầu tiên Tần Thuỷ Hoàng.
Dù Ngô Quyền đã có công “nối lại chính thống” của “nước Đại Việt ta”
(lời Lê Văn Hƣu) [11, 148] thì công kiến thiết đất nƣớc của ông lại chƣa đƣợc
là bao. Đó không phải do lỗi của cá nhân mà đơn giản là những bƣớc phát triển

của lịch sử có điều kiện cần là sự chín muồi của nhiều yếu tố nội tại. Tình hình
xã hội lúc này chƣa ổn định đủ cho việc nghĩ đến chuyện lâu dài. Lời bàn của
Ngô Sĩ Liên: “Nhà Tiền Ngô nổi lên được, không những là chỉ có công chiến
thắng mà thôi, việc đặt trăm quan, chế định triều nghi phẩm phục, có thể thấy
được quy mô của đế vương. Thế mà ở ngôi chưa được lâu, chưa thấy hiệu quả
trị bình, đáng tiếc thay!” [11, 148] có lẽ chỉ nên coi nhƣ lời tán của ngƣời chép
sử sau đó đến vài trăm năm, lại luôn ở tâm thế muốn khẳng định rằng nƣớc ta
đã có văn hiến từ rất lâu mà thôi. Dù sao, các vị vua Ngô- Đinh- Tiền Lê cũng
đã bƣớc đầu xây dựng thiết chế xã hội theo mô hình Trung Quốc nhƣ một tất
yếu. Tất cả đều đã có sẵn, bao gồm cả di sản thời Bắc thuộc để lại cùng một mô
hình đã đạt đến độ hoàn chỉnh bên Trung Quốc. Trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể
nhƣ vậy thì cũng khó mƣờng tƣợng ra một con đƣờng nào khác thế.
Nhƣng vấn đề là các vị vua Ngô- Đinh- Tiền Lê có lẽ cũng mới chỉ áp
dụng mô hình thiết chế xã hội của Trung Quốc ở hình thức sơ khai, tối giản và
phiến diện nhất mà thôi. Họ điều hành đất nƣớc phần lớn theo kiểu ngẫu hứng,
kinh nghiệm chủ nghĩa, hoàn toàn không dựa vào bất cứ điểm tựa tƣ tƣởng nào.
Kiểu hành xử cũng nhƣ cai trị xã hội của họ, dƣới con mắt khắt khe của các sử
thần- nhà nho sau này, là mang đầy những khiếm khuyết không thể tha thứ
đƣợc, là vi phạm hàng loạt những nguyên tắc của đạo lý, những điển chƣơng
chế độ của Nho giáo: “Các đế vương nổi dậy, không bao giờ là không do ở
trời. Song bực thánh nhân không cậy là chịu mệnh ở trời mà lại càng làm hết
phận sự của mình. Khi việc đã thành rồi, càng lo nghĩ mà phòng bị: sửa việc lễ
nhạc hình chính là để phòng giữ lòng người; đặt nhiều lần cửa và đánh hiệu
Nguyễn Phi Khanh và sự chuyển tiếp về mặt loại hình tác giả
- 18 -
canh, là để giữ kẻ gian phi. Vì rằng lòng dục không cùng, việc đời không bến,
không thể không phòng bị trước, thế là nghĩ xa về sau để mưu cho con cháu
chính là ở đó” [11, 158]. Đó chính là lời bàn của Ngô Sĩ Liên về cái chết của
Đinh Tiên Hoàng. Rõ ràng là triều đình thời này còn quá hoang sơ, dƣờng nhƣ
chỉ mới thoát khỏi bóng dáng của tổ chức công xã thị tộc chƣa đƣợc bao lâu,

việc hành thích nhà vua đơn giản và dễ dàng đến mức khó tin. Điều nhà viết sử
này chê trách Đinh Tiên Hoàng nhất chính là chuyện không làm đúng “phận
sự”, “sửa lễ nhạc hình chính”. Chƣa nói đến ông vua nổi tiếng bạo ngƣợc nhƣ
Kiệt- Trụ là Lê Ngoạ Triều với các trò giết ngƣời man rợ, ngay cả các ông vua
sáng nghiệp cũng nuôi hổ dữ, đặt vạc dầu, xử phạt tàn bạo. Bạo lực thật sự vẫn
có sức mạnh chƣa thay thế nổi trong thời loạn. Nhƣng cũng phải nói lại rằng đó
là giải pháp khó tránh khỏi để đƣa một xã hội còn chƣa thoát khỏi trạng thái
hỗn loạn nhƣ thế vào quy củ. Có thể thấy là các vị vua thời này chƣa phải là
mẫu hình các vị đế vƣơng của Nho giáo.
Năm 1009, Lý Công Uẩn lên ngôi, lập ra triều Lý, lần lƣợt dời đô về
Thăng Long, đặt quốc hiệu là Đại Việt, mở ra một “kỷ nguyên mới” cho đất
nƣớc. Đến đây, một hƣớng đi dài lâu cho nƣớc Đại Việt mới thực sự đƣợc mở
ra. Công cuộc xây dựng nƣớc Đại Việt đến đây mới có thể coi là thực sự bắt
đầu: “Triều Lý đã thiết lập quy mô của Đại Việt về nhiều phương diện: từ chủ
quyền lãnh thổ, mô hình chính trị, ngôi vua (kiến cực), định đô, định điển chế
hiến chương, các quan hệ đối ngoại với lân bang và đặc biệt là sự lựa chọn hệ
tư tưởng chủ đạo” [70, 347]. Lý Công Uẩn lên ngôi nhờ một biến cố cung đình
là kết quả của sự chuẩn bị, tính toán rất cao tay. Ngƣời đứng sau tất cả những
chuyện đó là một nhà sƣ- Vạn Hạnh thiền sƣ. Có thể nói, thế lực Phật giáo đã
có công trong sự ra đời của nhà Lý. Thực tế sau này, nhà Lý rất sùng bái Phật
giáo, nhƣng cũng là trong bối cảnh phồn thịnh chung của Phật giáo tại Việt
Nam bấy giờ. Thế nhƣng, thật đáng ngạc nhiên, chính đây cũng lại là mốc quan
trọng ghi nhận sự có mặt mang tính tất yếu của Nho giáo. Việc dời đô về Thăng
Nguyễn Phi Khanh và sự chuyển tiếp về mặt loại hình tác giả
- 19 -
Long không chỉ có ý nghĩa lớn lao về mặt chiến lƣợc mà nó cho thấy Lý Công
Uẩn đã không còn nhìn võ công và bạo lực nhƣ những yếu tố quan trọng nhất
của kẻ làm vua. Ông đã tiến gần hơn đến hình ảnh của một vị đế vƣơng kiểu
Nho giáo. “Thiên đô chiếu” đã phản ánh khát vọng trở thành một vị đế vƣơng
đích thực của Lý Công Uẩn: “Chỉ vì muốn đóng đô ở nơi trung tâm, mưu toan

nghiệp lớn, tự tính kế muôn đời cho con cháu; trên vâng mệnh trời, dưới theo ý
dân, nếu thấy thuận tiện thì thay đổi” [15, 230]. Ngoài việc Vạn Hạnh có bóng
dáng của một nhà nho quyền mƣu thì có nhiều lý do để nghi ngờ rằng nhân vật
quan trọng thứ hai trong vụ chính biến này, Đào Cam Mộc, cũng có liên quan
đến Nho giáo. Ông ta khuyên Lý Công Uẩn theo kiểu nhà nho: “Ông là người
công minh dung thứ, khoan hồng, nhân từ, lòng người phụ thuộc, Hiện nay
trăm họ khốn khổ, dân không chịu nổi, ông nhân thế lấy ân đức mà vỗ về, thì
người ta tất xô nhau kéo về như nước chảy chỗ thấp, ai có thể ngăn lại được?”
[11, 187]. Rõ ràng, trong hoàn cảnh Phật giáo đang thịnh hành nhƣ thế, sự xuất
hiện của Nho giáo chứng tỏ đây là một nhu cầu không thể thiếu đối với sự phát
triển của đất nƣớc. Sau này, trong việc cai trị, nhà Lý đã buộc phải sử dụng
Nho giáo nhƣ một công cụ hữu ích không thể thiếu.
Có thể thấy rằng, từ lực lƣợng cai trị là những võ tƣớng với võ công hiển
hách, thanh gƣơm yên ngựa đánh quân xâm lƣợc hay dẹp loạn đến khi là tầng
lớp trí thức có sự bảo trợ của Phật giáo và Nho giáo là cả một đoạn đƣờng mà
lịch sử đã phải đi qua. Đến đây, có thể nói rằng, đã có “sự thắng thế của một lực
lượng văn hoá cao hơn”, “của một cung cách cai trị kiểu phong kiến”[70, 347].
1.1.2. Tình thế “Tam giáo tịnh hành” trong thời Lý- Trần:
Hai triều đại Lý- Trần kéo dài tổng cộng gần 400 năm, vẫn đƣợc coi là
thời kỳ hoàng kim của nƣớc Đại Việt. Đây là giai đoạn phát triển rực rỡ về mọi
mặt kinh tế- xã hội của đất nƣớc, cũng là thời kỳ đặc biệt thịnh đạt của Phật
Nguyễn Phi Khanh và sự chuyển tiếp về mặt loại hình tác giả
- 20 -
giáo ở Việt Nam . Phật giáo đƣợc coi nhƣ là quốc giáo trong tinh thần khoan
hoà “tam giáo tịnh hành” của thời đại.
Phật giáo vào Việt Nam từ rất sớm, thậm chí có ý kiến còn cho rằng Phật
giáo đã từ Ấn Độ trực tiếp vào Việt Nam sớm hơn cả thời điểm Phật giáo vào
Trung Quốc. Đến khoảng thế kỷ II, Luy Lâu đã đƣợc coi là một trong ba trung
tâm Phật giáo lớn nhất của khắp vùng đất thuộc đế quốc Hán. Bằng con đƣờng
du nhập hoà bình, cùng hệ thống giáo lý linh hoạt có khả năng thích ứng với

mọi thành phần trong xã hội, “ở Giao Chỉ, Phật giáo đã chinh phục quần
chúng bình dị trước”, và đã “không gặp nhiều trở ngại như khi đi vào đất Hán.
Đạo Phật thấm vào văn minh Giao Châu tự nhiên và dễ dàng như nước thấm
vào lòng đất.” [57, 46]. Đó cũng là một nguyên do để Phật giáo bám rễ vào đất
này sâu bền đến nhƣ thế. Khi Nho giáo đƣợc đƣa vào Việt Nam sau đó không
lâu, Phật giáo đã có một vị thế khá vững chắc trong khi Nho giáo phải đợi rất
lâu sau đó mới dần len chân vào đƣợc.
Sang đến thời tự chủ, Phật giáo vẫn giữ đƣợc vị thế chủ đạo của mình
trong đời sống xã hội. Thân thế gắn liền với nhà chùa (xuất thân, nơi nuôi
dƣỡng, học hành), lên ngôi nhờ thế lực của Phật giáo, vị vua sáng nghiệp của
nhà Lý đã làm rất nhiều việc cho sự củng cố và mở mang địa vị của Phật giáo
trong nƣớc: “Lý Thái Tổ lên ngôi mới được 2 năm, Tôn Miếu chưa dựng, Xã
Tắc chưa lập mà trước đã dựng tám chùa ở phủ Thiên- đức, lại sửa chữa phủ
quán ở các lộ, và cấp độ điệp cho hơn nghìn người ở Kinh sư làm tăng, thế thì
tiêu phí của và sức dân về việc thổ mộc biết chừng nào mà kể? (…) Bậc vua
sáng nghiệp, tự mình cần kiệm còn lo con cháu ngày sau xa xỉ, mà Thái tổ để
phép cho con cháu như thế, cho nên đời sau mới xây tường cao ngất trời, tạc
cột chùa bằng đá, làm chùa thờ Phật lộng lẫy hơn cung điện của vua. Rồi
người dưới bắt chước, có kẻ huỷ thân thể, đổi lối mặc, bỏ sản nghiệp, trốn thân
thích, nhân dân quá nửa làm sãi, trong nước chỗ nào cũng có chùa, nguồn gốc
há không phải là đấy.” [11, 192].
Nguyễn Phi Khanh và sự chuyển tiếp về mặt loại hình tác giả
- 21 -
Không nói trong dân gian, ngay cả giữa chốn triều đình, Phật giáo vẫn
nắm giữ phần chủ đạo. Các vị vua và hoàng tộc đều sùng bái đạo Phật, vua nhà
Trần còn có nhiều ngƣời cuối đời xuất gia. Đó không phải chỉ là sự sùng bái
đơn thuần nhƣ đối với một thứ tôn giáo, các vị vua Trần còn là những ngƣời có
tri thức rất sâu rộng về đạo Phật, thực sự là những nhà Phật học uyên thâm,
thậm chí Trần Nhân Tông còn là vị tổ thứ nhất của thiền phái Trúc Lâm. Cùng
với sự trƣởng thành, trí thức hoá của tầng lớp quý tộc, từ Phật giáo trong dân

gian, đến nhà Trần, ở chốn triều đình đã hình thành một thứ Phật giáo cao cấp.
Đồng hành với văn hoá Hán, Nho giáo cũng vào Việt Nam từ rất sớm, ít
nhất là từ thế kỷ II. Sử chép rằng: “Nước ta được thông thi thư, tập lễ nhạc làm
một nước văn hiến là bắt đầu từ Sĩ vương” [11, 102]. Có nhiều lý do để tin
rằng Nho giáo vào Việt Nam là đồng hành với con đƣờng của kẻ xâm lƣợc,
bằng phƣơng thức cƣỡng bức, và sau đó nữa là theo bƣớc chân của ngƣời Hán
di cƣ, tỵ loạn. Và có một thực tế là Nho giáo ở thời Bắc thuộc đã không có vai
trò lớn trong đời sống xã hội, không vào đƣợc đến cuộc sống của dân chúng.
Điều này trong một thời gian dài đã đƣợc giải thích là hoàn toàn do tinh thần
chống Hán hoá của nhân dân ta. Nhƣng nếu công nhận điều đó thì lý giải nhƣ
thế nào về việc sau ngày độc lập, Nho giáo lại phát triển càng về sau càng mạnh
mẽ hơn trƣớc, thậm chí còn lên đến vị trí hệ tƣ tƣởng chính thống độc tôn, có
ảnh hƣởng sâu rộng đến mọi phƣơng diện của đời sống xã hội. Không thể đơn
giản cho rằng đó chỉ là kết quả ý chí của tầng lớp thống trị, vì lợi ích cá nhân,
dòng tộc cũng nhƣ giai cấp họ. Vấn đề phức tạp hơn thế nhiều. Giáo sƣ Trần
Đình Hƣợu nhận xét về chuyện này nhƣ sau: “Gói hành lý tinh thần mà các trí
thức người Hán mang vào vùng đất mới Giao Châu là hỗn tạp như vậy. Nhưng
liệu những thứ đó truyền bá được đến mức nào trong đám cư dân vốn giữ
nguyên tổ chức công xã với những phong tục, tín ngưỡng của mình?” [72,107].
Nho giáo về bản chất là một học thuyết chính trị- đạo đức. Cái khiến nó giành
đƣợc vị thế độc tôn ở Trung Quốc và các nƣớc thuộc vùng ảnh hƣởng trong
Nguyễn Phi Khanh và sự chuyển tiếp về mặt loại hình tác giả
- 22 -
suốt chiều dài hàng nghìn năm lịch sử chính là ở khả năng vƣợt trội về quản lý
xã hội, xây dựng một nhà nƣớc quân chủ tập quyền vững mạnh. Chính vì thế,
điều kiện phải có cho sự phát triển của Nho giáo ở Việt Nam chính là một “môi
trường chính trị cung đình cần thiết cho nó”[70, 349]. Rộng hơn thế, để Nho
giáo có cơ hội phát triển thì cần phải có một trình độ phát triển nhất định của cơ
sở xã hội để tƣơng hợp với khả năng đáp ứng của Nho giáo. Thời Bắc thuộc, xã
hội Việt Nam chƣa phát triển đến trình độ có thể dung nạp Nho giáo. Thực tế là

học thuyết này đã có một vị thế rất mờ nhạt bên cạnh Phật giáo trong suốt thời
kỳ này.
Khi đất nƣớc độc lập, tình hình đã có những thay đổi về chất. Yêu cầu
xây dựng một nhà nƣớc tập trung đã khiến Nho giáo bắt đầu dần có chỗ đứng
thực sự trong xã hội Việt Nam bất chấp vị thế sẵn có của Phật giáo. Lập nƣớc
năm 1009, đến năm 1070, nhà Lý cho lập Văn miếu, tạc tƣợng Chu công,
Khổng tử, Tứ phối, vẽ tƣợng Thất thập nhị hiền để tế lễ; năm 1076, lập Quốc tử
giám. Năm 1075, khoa thi đầu tiên minh kinh bác sĩ và thi nho học tam trƣờng
đƣợc tổ chức
(1)
. Nhƣng theo “Toàn thư” thì những khoa thi thời này vẫn chƣa
đƣợc tổ chức thành hệ thống và định kỳ, nội dung thi cử cũng chƣa phải chỉ có
Nho giáo, mục đích cũng rất đa dạng. Có thể thấy rằng nhà nƣớc sử dụng Nho
giáo nhƣ một thứ tri thức buộc phải có để quản lý xã hội, chứ chƣa thành hệ
thống, chƣa thực sự có tác động sâu xa đến toàn bộ đời sống đất nƣớc. Thế
nhƣng, những sự kiện này vẫn có ý nghĩa quan trọng nhƣ là xác nhận của nhà
nƣớc về sự hiện diện của Nho giáo ở Việt Nam.
Dần đến thời Trần, sự phân công phạm vi ứng dụng và ảnh hƣởng giữa
Phật và Nho trong triều đình trở nên rõ ràng và sâu sắc hơn, đồng nghĩa với sự
gia tăng vị thế của Nho giáo trong triều đình. Trần Thái Tông đã nói về chuyện


(1)
Phân tích những điểm mâu thuẫn về các sự kiện này giữa hai cuốn sử “Việt sử lược” và “Đại Việt
sử ký toàn thư” cũng nhƣ bối cảnh lịch sử Việt Nam và Trung Quốc lúc đó, A.Pôliacôp [80] và
K.Taylor [112] cho rằng những sự kiện trên đây thực tế phải diễn ra muộn hơn thế. Có thể đó chỉ là
những thêm thắt của các Nho sĩ đời sau.
Nguyễn Phi Khanh và sự chuyển tiếp về mặt loại hình tác giả
- 23 -
đó nhƣ sau: “Trẫm thầm nhủ: Phật không chia Nam Bắc, đều có thể tu mà tìm;

tính người có trí ngu, cùng nhờ giác ngộ mà thành đạt. Vì vậy, phương tiện dẫn
dụ đám người mê muội, con đường tắt sáng tỏ lẽ tử sinh, ấy là đại giáo của đức
Phật. Đặt mực thước cho hậu thế, làm khuôn mẫu cho tương lai, ấy là trách
nhiệm của tiên thánh” [16, 27-28]. Phật giáo giữ vai trò hƣớng dẫn đời sống
phần tinh thần của con ngƣời, trong khi Nho giáo nắm phần lo đời sống chính
trị cho quốc gia. Nhƣ vậy, Phật giáo đã dần đánh mất môi trƣờng chính trị của
nó. Đến thời Trần, gần nhƣ không còn hiện tƣợng giới tăng sƣ- từng là những
chính trị gia chuyên nghiệp đầu tiên của Việt Nam- tham chính nhƣ trƣớc nữa,
mặc dù họ vẫn là lớp ngƣời đƣợc kính trọng, tôn sùng.
Tính chất khoan dung đặc biệt của thời đại Lý- Trần đƣợc làm nên từ sự
lỏng lẻo ở mặt này nhƣng lại là phóng khoáng ở mặt khác của một thể chế xã
hội vẫn chƣa hoàn toàn thoát khỏi trạng thái đơn sơ của công xã thị tộc; bản
chất ôn hoà, khả năng chung sống hoà bình với các hệ tƣ tƣởng, tôn giáo khác
đƣợc đúc kết qua những trải nghiệm xƣơng máu ở nhiều quốc gia của Phật
giáo; việc chƣa phải mang trong mình gánh nặng những ràng buộc, ƣớc thúc
của Nho giáo; chất hào sảng, thƣợng võ của vƣơng tộc xuất thân vùng biển
sóng to gió lớn. Bên cạnh đó, với một nhà nƣớc còn khá non trẻ, mới bắt đầu
trên đƣờng kiếm tìm hƣớng đi lâu dài cho mình thì mọi phƣơng án đều có thể
đƣợc mở ra trƣớc mắt. Nhƣng trạng thái khoan hoà đó không thể kéo dài,
bản thân nó cũng chứa đựng quá nhiều mâu thuẫn buộc phải đi đến những
lựa chọn quyết liệt theo một xu thế mà lịch sử quy định.
1.1.3. Lựa chọn Nho giáo
1.1.3.1. Xu thế tất yếu
Thời Trần đã diễn ra một quá trình Nho giáo âm thầm nhƣng quyết liệt
tìm chỗ đứng trên vũ đài chính trị cũng nhƣ trong đời sống xã hội. Đối với Nho
Nguyễn Phi Khanh và sự chuyển tiếp về mặt loại hình tác giả
- 24 -
giáo, Việt Nam là môi trƣờng tiếp nhận chứ không phải nơi phát sinh, cho nên
không nhất định phải đi lại những bƣớc đƣờng nhƣ nó đã đi qua ở Trung Quốc.
Tuy thế, vẫn có những vấn đề có ý nghĩa lý luận mà chúng ta có thể rút ra đƣợc

từ việc nhìn lại cách mà Nho giáo đã tiếp cận ngai vàng ở Trung Quốc. Từ
Khổng Tử đến Hán Vũ Đế, Nho giáo phải mất hơn 400 năm để bƣớc lên địa vị
độc tôn. Quãng thời gian đó, Nho giáo đã phải nếm trải tất cả những đòn đánh
của số phận, mà khắc cốt ghi tâm nhất là cuộc đụng độ với Pháp gia thời Tần
Thuỷ Hoàng suýt dẫn đến diệt vong. Thậm chí đến tận Hán Cao Tổ, Nho giáo
vẫn phải nuốt thêm một nỗi nhục ở lần ra mắt đầu tiên. Vậy thì cái gì đã làm
cho tình hình thay đổi? Điều chúng ta nhận thấy ở đây là, phải chăng đến tận
thời Hán Vũ Đế, cơ sở xã hội Trung Quốc mới phát triển đến độ tƣơng thích
với khả năng ứng dụng của Nho giáo. Dĩ nhiên, Nho giáo lúc này so với thời
tiên Tần đã khác rất xa, nó đã kịp tự vũ trang bằng cách dùng trong chừng mực
nào đó những học thuyết khác để bổ khuyết cho bản thân, rõ rệt nhất là sự kết
hợp với Pháp gia làm thành công thức “nội Pháp ngoại Nho”. Nhƣng vấn đề ở
chỗ Nho gia là kẻ chiến thắng cuối cùng chứ không phải Pháp gia. Nho giáo là
học thuyết chống loạn cứu thế, chủ trƣơng duy trì trật tự xã hội bằng những
nguyên tắc đạo đức. Nó hoàn toàn không thích hợp với một xã hội hỗn loạn của
mƣu mô và bạo lực với những cuộc chiến tranh kiêm tính liên miên nhƣ thời
Khổng Tử. Nhƣng với một xã hội thời bình thì lại khác:“Vua Cao Tổ biết rằng
mình có thể ngồi trên mình ngựa mà lấy được thiên hạ, nhưng không thể ngồi
trên mình ngựa mà trị được thiên hạ” [54, 14]. Nho giáo đem lại cho kẻ làm
vua một quyền năng nhân danh cả cõi Trời và cõi Ngƣời. Mức độ ràng buộc mà
Nho giáo tạo dựng cho mối quan hệ giữa thiên tử và thần dân thì không thứ luật
pháp, bạo lực hay mƣu mô nào có thể so sánh đƣợc. Thực tế, chúng ta có thể
thấy, so với vụ cƣớp ngôi của nhà Trần thì cuộc chuyển giao quyền lực giữa
nhà Tiền Lê và nhà Lý diễn ra nhẹ nhàng hơn rất nhiều. Điều đó có phần tƣơng
ứng với sự gia tăng của yếu tố Nho giáo trong xã hội.

×