Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

Đánh giá hiện trạng và hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp phục vụ định hướng quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp bền vững tại huyện Từ Liêm, thành phố Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.68 MB, 83 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN




NGUYỄN MINH HUY



ĐÁNH GIÁ HIỆN TRẠNG VÀ HIỆU QUẢ
SỬ DỤNG ĐẤT NÔNG NGHIỆP PHỤC VỤ ĐỊNH HƢỚNG
QUY HOẠCH SỬ DỤNG ĐẤT NÔNG NGHIỆP BỀN VỮNG TẠI
HUYỆN TỪ LIÊM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI




Chuyên ngành: Quản lý đất đai
Mã số: 60850103


LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS TRẤN VĂN TUẤN








HÀ NỘI - 2013


1
MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Đất đai là tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt,
là thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống, là địa bàn phân bố các
khu dân cư, xây dựng các công trình kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh quốc
phòng,… là nguồn vốn, nguồn nội lực trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước hiện nay. Nhưng đất đai là nguồn tài nguyên có hạn, việc sử dụng
nguồn tài nguyên này vào việc phát triển kinh tế - xã hội của từng địa phương và
cả nước một cách khoa học và đạt hiệu quả cao là vô cùng quan trọng và có ý
nghĩa to lớn.
Trong những năm gần đây, việc khai thác sử dụng đất đai tại nhiều địa
phương ở nước ta ngày càng có hiệu quả. Tuy nhiên tại nhiều khu vực, nhất là
các khu vực ven đô thị, thực trạng sử dụng đất đang đặt ra nhiều vấn đề cần giải
quyết. Do yêu cầu của quá trình đô thị hóa, phát triển công nghiệp, dịch vụ, xây
dựng cơ sở hạ tầng, một diện tích lớn đất nông nghiệp đã và đang chuyển sang
các mục đích phi nông nghiệp. Mặt khác với vai trò là khu vực ven đô, diện tích
đất nông nghiệp cần được quy hoạch sử dụng có hiệu quả cao nhằm cung cấp
lương thực, rau quả cho nội thành và cải thiện môi trường sinh thái đô thị.
Huyện Từ Liêm là một huyện có quỹ đất nông nghiệp khá lớn, Trước đây,
người dân trong huyện chủ yếu sinh sống bằng việc sản xuất nông nghiệp với
các loại đặc sản như Bưởi Diễn, cam Canh, quất Đông Ngạc, hoa Tây Tựu. Tuy
nhiên, đến năm 2012 toàn huyện chỉ còn 2672,73ha đất nông nghiệp. Trong đó,
diện tích cấy lúa chỉ còn gần 740ha, hơn 370ha cây ăn quả, diện tích rau màu là
457ha, diện tích trồng hoa là lớn nhất, lên tới 1.012ha.
Xuất phát từ những vấn đề trên, để nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông

nghiệp, tận dụng được tiềm lực sẵn có, học viên xin chọn đề tài “Đánh giá hiện
trạng và hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp phục vụ định hướng quy hoạch sử
dụng đất nông nghiệp bền vững tại huyện Từ Liêm, thành phố Hà Nội”.
2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU

2
- Làm rõ thực trạng sử dụng và đánh giá hiệu quả kinh tế, xã hội, môi
trường trong sử dụng đất nông nghiệp huyện Từ Liêm
- Đề xuất định hướng sử dụng bền vững đất nông nghiệp huyện Từ Liêm,
thành phố Hà Nội đến 2020.
3. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
- Tìm hiểu, nghiên cứu tổng quan về cơ sở lý luận sử dụng bền vững đất
nông nghiệp khu vực đô thị.
- Điều tra, thu thập tài liệu, số liệu, bản đồ có liên quan đến địa bàn nghiên
cứu.
- Phân tích hiện trạng sử dụng đất của huyện Từ Liêm năm 2012 và biến
động sử dụng đất nông nghiệp của huyện giai đoạn 2005 - 2012
- Đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp (hiệu quả kinh tế, xã hội, môi
trường của các loại hình sử dụng đất nông nghiệp chính) huyện Từ Liêm, thành
phố Hà Nội
- Đề xuất định hướng sử dụng bền vững đất nông nghiệp huyện Từ Liêm,
thành phố Hà Nội đến 2020 theo hướng phát triển nông nghiệp đô thị sinh thái.
4. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
4.1. Phƣơng pháp điều tra, thu thập tài liệu, số liệu:
Thu thập các tài liệu, số liệu về điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội; các số
liệu thống kê về diện tích đất nông nghiệp để phục vụ cho việc đánh giá hiện
trạng và biến động sử dụng đất nông nghiệp huyện Từ Liêm.
4.2. Phƣơng pháp thống kê, so sánh:
Để phân tích đưa ra kết luận, đề tài có tiến hành thống kê, so sánh số liệu
qua các năm để thấy được sự biến động, thay đổi sử dụng đất nông nghiệp.


3
4.3. Phƣơng pháp phân tích, tổng hợp:
Từ số liệu thu thập được và hiện trạng, hiệu quả sử dụng đất tiến hành
phân tích làm rõ những tồn tại, những điểm chưa hợp lý trong sử dụng đất nông
nghiệp huyện Từ Liêm.
4.4. Phƣơng pháp điều tra nhanh nông thôn:
Sử dụng phiếu điều tra các hộ dân (51 hộ) trên địa bàn huyện Từ Liêm về
hiệu quả các loại hình sử dụng đất nông nghiệp (điều tra các hộ đại diện, điển
hình cho từng loại hình sử dụng đất).
4.5. Phƣơng pháp chuyên gia:
Tham khảo, lấy ý kiến của cơ quan chuyên môn, cán bộ địa phương về
định hướng sử dụng đất nông nghiệp
4.6. Cơ sở tài liệu chủ yếu phục vụ nghiên cứu đề tài:
- Luật Đất đai năm 2003.
- Nghị quyết số 26/NQ-TW ngày 05/8/2008 Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp
hành Trung ương khoá X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn.
- Phạm Văn Khôi. Phát triển nông nghiệp ngoại thành Hà Nội theo hướng
nông nghiệp sinh thái. NXB Nông nghiệp, 2004.
- Lê Quý Đôn. Cơ sở khoa học để phát triển nông nghiệp theo hướng
nông nghiệp đô thị sinh thái và hiện đại hóa nông thôn Hà Nội giai đoạn 2006 –
2010, Báo cáo đề tài nghiên cứu khoa học. Hà Nội, 2005.
- Các báo cáo về tình hình thực hiện công tác quản lý đất đai, thực trạng
và định hướng phát triển kinh tế - xã hội của huyện Từ Liêm
- Các tài liệu, số liệu thống kê, kiểm kê đất đai của huyện Từ Liêm
- Các dự án quy hoạch và định hướng sử dụng đất của huyện Từ Liêm đến
2020.
- Các giáo trình, tài liệu liên quan đến vấn đề nghiên cứu.
5. CẤU TRÚC LUẬN VĂN:


4
- Mở đầu: nêu lên tính cấp thiết, mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài.
- Nội dung nghiên cứu
Chƣơng 1: Tổng quan nội dung nghiên cứu
Chƣơng 2: Phân tích hiện trạng và hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp
huyện Từ Liêm, thành phố Hà Nội
Chƣơng 3: Đề xuất định hướng sử dụng bền vững đất nông nghiệp huyện
Từ Liêm đến 2020
- Kết luận
- Tài liệu tham khảo
- Phụ lục.


5
Chƣơng 1: TỔNG QUAN VỀ NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
1.1 Các khái niệm chung
1.1.1 Khái niệm về đất
Đất theo nghĩa thổ nhưỡng là vật thể thiên nhiên có cấu tạo độc lập
lâu đời, hình thành do kết quả của nhiều yếu tố: đá mẹ, động thực vật, khí
hậu, địa hình, thời gian. Giá trị tài nguyên đất được đánh giá bằng số lượng
diện tích (ha, km
2
) và độ phì nhiêu, màu mỡ.
Đất đai được nhìn nhận là một nhân tố sinh thái, với khái niệm này đất
đai bao gồm tất cả các thuộc tính sinh học và tự nhiên của bề mặt trái đất có
ảnh hưởng nhất định đến tiềm năng và hiện trạng sử dụng đất. Đất theo
nghĩa đất đai bao gồm: yếu tố khí hậu, địa hình, địa mạo, tính chất thổ
nhưỡng, thủy văn, thảm thực vật tự nhiên, động vật và những biết đổi của
đất do các hoạt động của con người. [32]
Về mặt đời sống – xã hội, đất đai là nguồn tài nguyên quốc gia vô

cùng quý giá, là tư liệu sản xuất không gì thay thế được của ngành sản xuất
nông nghiệp, lâm nghiệp, là thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường
sống, là địa bàn phân bổ khu dân cư, xây dựng cơ sở kinh tế, văn hóa và an
ninh quốc phòng. Nhưng đất đai là tài nguyên thiên nhiên có hạn về diện
tích, có vị trí cố định trong không gian [4]
1.1.2 Khái niệm về đất nông nghiệp:
Theo Từ điển điện từ mở wiki, Đất nông nghiệp đôi khi còn gọi là đất
canh tác hay đất trồng trọt là những vùng đất, khu vực thích hợp cho sản xuất,
canh tác nông nghiệp, bao gồm cả trồng trọt và chăn nuôi. Đây là một trong
những nguồn lực chính trong nông nghiệp.[35]
Theo luật Đất đai số 24-L/CTN ngày 14/07/1993, đất đai của Việt Nam
chia làm 06 loại:
+ Đất nông nghiệp;
+ Đất lâm nghiệp;
+ Đất khu dân cư nông thôn;

6
+ Đất đô thị;
+ Đất chuyên dùng;
+ Đất chưa sử dụng.
Đất nông nghiệp được định nghĩa tại Điều 42 như sau: Đất nông nghiệp là
đất được xác định chủ yếu để sử dụng vào sản xuất nông nghiệp như trồng trọt,
chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản hoặc nghiên cứu thí nghiệm về nông nghiệp [29].
Tuy nhiên việc phân chia này vừa dựa trên địa giới hành chính, vừa dựa
trên mục đích sử dụng, tạo nên sự đan xen, chồng chéo giữa các loại đất, gây
khó khăn cho công tác phân loại và quản lý đất đai.
Để khắc phục những hạn chế đó và để tạo điều kiện thuận lợi cho người
sử dụng đất thực hiện các quyền của mình trong việc sử dụng đất. Luật Đất đai
số 13/2003/QH11 ngày 26/11/2003 đã chia đất đai thành 03 nhóm chính với tiêu
chí phân loại duy nhất là mục đích sử dụng đất. Trên cơ sở đó, đất đai được chia

làm ba nhóm:
+ Nhóm đất nông nghiệp;
+ Nhóm đất phi nông nghiệp;
+ Nhóm đất chưa sử dụng. [30]
Theo Thông tư 08/2007/TT-BTNMT ngày 02/8/2007 của bộ Tài nguyên
và Môi trường, đất nông nghiệp là đất sử dụng vào mục đích sản xuất, nghiên
cứu, thí nghiệm về nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, làm muối và
mục đích bảo vệ, phát triển rừng; bao gồm đất sản xuất nông nghiệp, đất lâm
nghiệp, đất nuôi trồng thuỷ sản, đất làm muối và đất nông nghiệp khác. [6]
1.1.3 Khái niệm và đặc điểm nông nghiệp khu vực đô thị và ven đô:
1.1.3.1 Khái niệm:
Theo FAO, trong khi vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất, nông
nghiệp đô thị và ven đô được coi là các hoạt động nông nghiệp bên trong và
xung quanh thành phố, nơi bị cạnh tranh về các nguồn tài nguyên (đất, nước,
năng lượng, nhân công) để phục vụ cho các mục đích khác, nhằm phục vụ cho
nhu cầu của người dân đô thị.

7
Nông nghiệp đô thị là các khu vực nhỏ (các mảnh đất trống, các khu
vườn, bờ đất, ban công, container) trong thành phố được sử dụng để trồng cây
và chăn nuôi các loại vật nuôi cỡ nhỏ hoặc bò sữa phục vụ nhu cầu của bản thân
hoặc bán tại các khu chợ cóc.
Nông nghiệp ven đô là các trang trại nhỏ gần thành phố hoạt động bán
chuyên hoặc chuyên phục vụ kinh doanh trồng rau quả, nuôi gia súc gia cầm,
sản suất trứng và sữa. [33]
1.1.3.2 Đặc điểm:
- Ít cần đóng gói, bảo quản và vận chuyển thực phẩm,
- Cung cấp thức ăn giá rẻ cho người nghèo,
- Khả năng cung cấp các thực phẩm tươi mới và thực phẩm dễ bị hư
hỏng,

- Khả năng tái chế và tái sử dụng rác thải,
- Nguy hiểm về môi trường và sức khỏe từ các hoạt động trồng trọt và
chăn nuôi không đảm bảo,
- Gia tăng cạnh tranh về đất, nước, năng lượng, nhân công,
- Giảm khả năng hấp thu ô nhiễm của môi trường. [33]
1.1.4. Vấn đề sử dụng đất
Sử dụng đất liên quan đến chức năng hoặc mục đích của loại đất được
sử dụng. Việc sử dụng đất có thể được định nghĩa là: “Những hoạt động của
con người, liên quan trực tiếp tới đất, sử dụng nguồn tài nguyên đất hoặc có
tác động lên chúng”. [2]
Số liệu về quá trình và hình thái các hoạt động đầu tư (lao động, vốn,
nước, phân hóa học ), kết quả sản lượng (loại nông sản, thời gian, chu kỳ,
mùa vụ ) cho phép đánh giá chính xác việc sử dụng đất, việc phân tích tác
động môi trường và kinh tế, lập mô hình những ảnh hưởng của việc biến đổi
sử dụng hoặc việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất này sang mục đích sử
dụng đất khác.
Sử dụng đất đai có hiệu quả là hệ thống các biện pháp nhằm điều hoà

8
mối quan hệ người - đất trong tổ hợp với các nguồn tài nguyên khác và môi
trường. Căn cứ vào nhu cầu của thị trường, thực hiện đa dạng hoá cây trồng
vật nuôi trên cơ sở lựa chọn các sản phẩm có ưu thế ở từng địa phương, từ
đó nghiên cứu áp dụng công nghệ mới nhằm làm cho sản phẩm có tính cạnh
tranh cao, đó là một trong những điều kiện tiên quyết để phát triển được nền
nông nghiệp hướng về xuất khẩu có tính ổn định và bền vững đồng thời phát
huy tối đa công dụng của đất nhằm đạt tới hiệu quả kinh tế, xã hội, môi
trường cao nhất [15].
Phạm vi sử dụng đất, cơ cấu và phương thức sử dụng đất một mặt bị
chi phối bởi các điều kiện và quy luật sinh thái tự nhiên, mặt khác bị kiềm
chế bởi các điều kiện, quy luật kinh tế - xã hội và các yếu tố kỹ thuật. Vì

vậy, có thể khái quát một số điều kiện và nhân tố ảnh hưởng đến việc sử
dụng đất.
- Điều kiện tự nhiên:
Khi sử dụng đất đai, ngoài bề mặt không gian như diện tích trồng trọt,
mặt bằng xây dựng , cần chú ý đến việc thích ứng với điều kiện tự nhiên
và quy luật sinh thái tự nhiên của đất cũng như các yếu tố bao quanh mặt đất
như: yếu tố khí hậu, yếu tố địa hình, yếu tố thổ nhưỡng.
- Điều kiện kinh tế - xã hội:
Bao gồm các yếu tố như chế độ xã hội, dân số, lao động, thông tin, các
chính sách quản lý về môi trường, chính sách đất đai, yêu cầu về quốc
phòng, sức sản xuất, các điều kiện về công nghiệp, nông nghiệp, thương
nghiệp, giao thông, vận tải, sự phát triển khoa học kỹ thuật, trình độ quản lý,
sử dụng lao động, điều kiện và trang thiết bị vật chất cho công tác phát triển
nguồn nhân lực, đưa khoa học kỹ thuật vào sản xuất.
- Yếu tố không gian:
Đây là một tính chất “đặc biệt” khi sử dụng đất do đất đai là sản phẩm
của tự nhiên, tồn tại ngoài ý chí và nhận thức của con người. Đất đai hạn chế
về số lượng, có vị trí cố định và là tư liệu sản xuất không thay thế được khi

9
tham gia vào hoạt động sản xuất của xã hội. [1]
1.1.5. Vấn đề quản lý đất đai
Quản lý đất đai bao gồm những chức năng, nhiệm vụ liên quan đến
việc xác lập và thực thi các quy tắc cho việc quản lý, sử dụng và phát triển
đất đai cùng với những lợi nhuận thu được từ đất (thông qua việc chuyển
nhượng quyền sử dụng đất, cho thuê đất hoặc thu thuế) và giải quyết những
tranh chấp có liên quan đến quyền sở hữu và quyền sử dụng đất.
Quản lý đất đai là quá trình điều tra mô tả những tài liệu chi tiết về
thửa đất, xác định hoặc điều chỉnh các quyền và các thuộc tính khác của đất,
lưu giữ, cập nhật và cung cấp những thông tin liên quan về sở hữu, giá trị,

sử dụng đất và các nguồn thông tin khác liên quan đến thị trường bất động
sản. Quản lý đất đai liên quan đến cả hai đối tượng đó là đất công và đất tư
bao gồm cả các hoạt động đo đạc, đăng ký đất đai, định giá đất, giám sát và
quản lý sử dụng đất đai, cơ sở hạ tầng cho công tác quản lý.
Nhà nước phải đóng vai trò chính trong việc hình thành chính sách đất
đai và các nguyên tắc của hệ thống quản lý đất đai bao gồm: pháp luật đất
đai và pháp luật liên quan đến đất đai. Đối với công tác quản lý đất đai, nhà
nước xác định một số nội dung chủ yếu: sự phối hợp giữa các cơ quan nhà
nước; tập trung và phân cấp quản lý; vị trí của cơ quan đăng ký đất đai; vai
trò của lĩnh vực công và tư nhân; quản lý các tài liệu địa chính; quản lý các
tổ chức địa chính; quản lý nguồn nhân lực; nghiên cứu; giáo dục và đào tạo;
trợ giúp về chuyên gia tư vấn và kỹ thuật; hợp tác quốc tế.
1.2 Vai trò của đô thị hóa đối với việc sử dụng đất nông nghiệp
Đất đai là nguồn tài nguyên có hạn, trong khi nhu cầu của con người về các
sản phẩm lấy từ đất ngày càng tăng. Tại các khu vực đô thị và ven đô, đất nông
nghiệp ngày càng thu hẹp do bị trưng dụng, thu hồi để chuyển mục đích sang
các mục đích sử dụng khác. Việc này đã dẫn đến nhiều ảnh hưởng xấu như vấn
đề tăng dân số cơ học, đi kèm với đó là vấn đề nhà ở và quản lý trật tự an toàn
xã hội ở đô thị; sự phân hoá giàu nghèo càng ngày sâu sắc; sự quá tải của hệ

10
thống cơ sở hạ tầng; vấn đề an toàn về lương thực, thực phẩm; vấn đề cảnh quan
đô thị và ô nhiễm môi trường… Một thực tế hiện nay của quá trình đô thị hóa ở
nước ta là chỉ chú trọng đô thị hóa theo chiều rộng mà ít dựa vào động lực nội
tại – chiều sâu. Đô thị hóa trong điều kiện nền tảng như vậy càng làm cho các
khó khăn nội tại như trên của các đô thị thêm phần sâu sắc và khó giải quyết.
Việc phát triển nông nghiệp đô thị thực sự là một trong những thành phần rất
quan trọng trong việc đảm bảo phát triển nhanh và bền vững cho các đô thị của
Việt Nam hiện nay.
Công nghiệp hóa là trung tâm và đô thị hóa là yếu tố cơ bản của quá trình

hiện đại hóa. Các học giả nhận thấy rất ít quốc gia có thể đạt mức GDP đầu
người là 10 000 USD trước khi đô thị hóa đạt mức 60%. Việt Nam chắc cũng sẽ
như vậy.
Vì đô thị hóa thường gắn với tăng trưởng kinh tế và tăng thu cho ngân sách
nên nhiều chính quyền địa phương nước ta muốn đẩy nhanh đô thị hóa hơn nữa,
nâng loại đô thị hiện có, chuyển thị trấn, đôi khi là cả huyện (như Chí Linh)
thành thị xã, thậm chí muốn chuyển cả tỉnh (như Bắc Ninh) hoặc tách đô thị lớn
(như Đà Lạt, Vinh) thành thành phố trực thuộc Trung ương. Đến tháng 12/2012,
cả nước có 765 đô thị. Quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống đô thị Việt Nam
(phê duyệt năm 2009) dự kiến đến năm 2025 cả nước sẽ có khoảng 1000 đô thị
với 52 triệu người, đưa tỷ lệ đô thị hóa lên 50%. [20]
Trong quá trình đô thị hóa, việc tăng dân số đô thị đều đi đôi với tăng diện
tích đất đô thị, tức là nhiều diện tích đất nông nghiệp và đất chưa sử dụng sẽ
được chuyển đổi thành đất đô thị. Nếu đô thị ở giữa vùng trồng lúa thì chắc chắn
diện tích đất trồng lúa và trồng rau vùng ven nội sẽ giảm đi, dù có được bảo vệ
bằng cách nào đi nữa. Đấy là chưa kể đến hiện tượng đô thị hóa không chính
thức diễn ra theo dạng nhánh cây, cùng với các nhà máy lan tỏa dọc các quốc lộ,
vừa chiếm dụng vừa làm ô nhiễm khá nhiều đất nông nghiệp, đồng thời gây trở
ngại cho giao thông khu vực.
Không những thế, để phục vụ nhu cầu của dân đô thị, nhiều diện tích đất

11
lúa ngoại thành đã phải nhường chỗ cho các trung tâm giải trí (như Thiên đường
Bảo Sơn) hay sân gôn (như ở Vân trì, Hà Nội), thể hiện thế lực đáng nể của thị
trường bất động sản.
Nông nghiệp đô thị là hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ bên trong
hoặc bên cạnh đô thị, nó gắn chặt với hệ thống kinh tế - xã hội của đô thị, chịu
sự tác động bỏi quy hoạch, kế hoạch, chính sách và nhu cầu của đô thị. Do đó,
để phát triển nông nghiệp đô thị một cách bền vững cần thực hiện các giải pháp
chủ yếu sau:

- Trước hết phải rà soát quy hoạch và có kế hoạch sử dụng một cách hợp lý,
hài hòa; chuyển đổi những vùng đất năng suất, hiệu quả thấp sang các ngành
nghề mang lại giá trị sử dụng đất cao hơn; Không phát triển công nghiệp những
vùng đất màu mỡ, có lợi thế cho sản xuất nông nghiệp.
Song song với với công tác quy hoạch, phải có kế hoạch sử dụng đất theo
hướng tập trung, chuyên canh cần có chính sách đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng,
xây dựng các mô hình trình diễn sản xuất công nghệ cao, xây dựng trung tâm
giao dịch, chợ đầu mối, tăng cường các hoạt động xúc tiến thương mại, quảng bá
sản phẩm. Áp dụng các chính sách ưu đãi về sử dụng đất, vốn, thu hút đầu tư
công nghệ cao.
- Đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, công nghệ cao, công
nghệ mới; trước hết là nghiên cứu tạo chọn giống, nhân giống, quy trình sản
xuất thương phẩm, quy trình thu hoạch, xử lý, bảo quản, vận chuyển sản phẩm
… Đây là khâu then chốt, có tính chất quyết định đến tốc độ, chất lượng và hiệu
quả của quá trình chuyển đổi từ nông nghiệp truyền thống sang nông nghiệp đô
thị. Hệ thống và tổ chức khuyến nông đóng vai trò quan trọng trong việc chuyển
giao tiến bộ kỹ thuật thông qua các cơ sở thực nghiệm, các điểm trình diễn, các
chương trình hội thảo, huấn luyện kỹ năng thực hành…
Vì vậy, mục tiêu sử dụng đất nông nghiệp đô thị là nâng cao hiệu quả sử
dụng đất trên cơ sở cân nhắc các mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội và môi
trường, tận dụng tối đa lợi thế về điều kiện sinh thái để tạo nên các sản phẩm

12
mang tính đặc trưng. Đất nông nghiệp cần được sử dụng đạt 4 mục tiêu: đó là
nâng giá trị sử dụng đất nông nghiệp; tăng thu nhập cho người lao động; nâng
cao sức cạnh tranh cho các sản phẩm trong điều kiện hội nhập; ngoài ra nông
nghiệp đô thị còn nhắm đến mục tiêu là tạo môi trường sản xuất, kinh doanh,
dịch vụ thân thiện với con người, với xã hội.
1.3 Quan điểm sử dụng bền vững đất nông nghiệp khu vực đô thị
1.3.1 Sử dụng bền vững đất nông nghiệp nói chung

Theo FAO (1992), phát triển nông nghiệp bền vững là quá trình quản lý
và bảo tồn sự thay đổi về tổ chức, kỹ thuật và thể chế cho nông nghiệp phát triển
nhằm đảm bảo thỏa mãn nhu cầu ngày càng tăng của con người về nông phẩm
và dịch vụ vừa đáp ứng nhu cầu của mai sau. [31]
Mục đích của nông nghiệp bền vững là kiến tạo một hệ thống bền vững về
sinh thái, có tiềm lực về kinh tế, có khả năng thỏa mãn những nhu cầu của con
người mà không hủy diệt đất đai, không làm ô nhiễm môi trường. Hội nghị
thượng đỉnh về phát triển bền vững năm 2002 tại Johannesburg đã khẳng định
phát triển Nông nghiệp và Nông thôn bền vững là quá trình đa chiều bao gồm:
(i) tính bền vững của chuỗi lương thực (từ người sản xuất đến tiêu thụ, liên quan
trực tiếp đến cung cấp đầu vào, chế biến và thị trường); (ii) tính bền vững trong
sử dụng tài nguyên đất và nước về không gian và thời gian; (iii) khả năng tương
tác thương mại trong tiến trình phát triển nông nông nghiệp và nông thôn để
đảm bảo cuộc sống đủ, an ninh lương thực trong vùng và giữa các vùng. [5]
1.3.2 Sử dụng đất nông nghiệp khu vực ven đô thị theo hướng phát triển
nông nghiệp đô thị sinh thái – kinh nghiệm của một số nước trên thế giới và
thực tiễn ở nước ta.
Cu Ba đã phát triển mạnh mẽ nông nghiệp đô thị để cung ứng thực phẩm
tươi sống tại chỗ cho cư dân đô thị, nhờ đó thủ đô Lahabana đã tự túc được đến
90% thực phẩm. Năm 2008 có hơn 20 vạn thị dân Cu Ba làm việc trong ngành
nông nghiệp đô thị sử dụng 140 km2 đất đô thị. Chương trình nông nghiệp đô
thị của Cuba là một thành công ấn tượng. Các nông trại, trong đó nhiều nông trại

13
nhỏ hiện là nguồn cung cấp phần lớn lượng rau cho Cuba. Các nông trại này
cũng cung cấp khoảng 300.000 việc làm trên toàn Cuba với lương khá cao và
làm thay đổi thói quen ăn uống ở một quốc gia vốn quen với chế độ ăn có gạo và
đậu cùng các sản phẩm đóng hộp từ Đông Âu. GS Catherine Murphy, một nhà
xã hội học đã có hàng chục năm nghiên cứu về các nông trại ở Lahabana nhận
xét: “Đây là một mô hình thú vị nếu xét rằng Cuba là quốc gia có gần 80% dân

số sống ở đô thị. Điều này chứng tỏ các thành phố có thể tự sản xuất lương thực
mà vẫn đảm bảo các lợi ích xã hội và môi trường”.
Tại Mumbai (Ấn Độ) là một trong các thành phố có mật độ dân cao nhất
thế giới, 48.215 người/km2. Trong bối cảnh thiếu đất, hiếm nước, đông người
nghèo, Tiến sĩ Doshi đưa ra phương pháp làm vườn hữu cơ quy mô nhỏ trên ban
công, thậm chí treo trên tường, trên cơ sở dùng bã mía trộn đất đựng trong túi
nhựa hay trong các loại hộp, ống, lốp xe, để hộ dân có rau ăn tại gia và tăng thu
nhập. Theo cách thức của ông, hộ gia đình có thể tự túc được 5kg rau quả mỗi
ngày trong 300 ngày của năm.
Ở Trung Quốc, nông nghiệp đô thị đóng vai trò quan trọng trong việc
nâng cao khả năng thích nghi của các thành phố, giải quyết rất tốt các vấn đề do
đô thị hóa quá nhanh gây ra cho các đô thị. Điều này sẽ được chứng minh qua ví
dụ ở thủ đô Bắc Kinh và thành phố Thượng Hải. Nông nghiệp ven đô đóng vai
trò quan trọng trong việc cung cấp nguồn lương thực sạch cho những người dân
ở thủ đô Bắc Kinh. Trong năm 2010, tỷ lệ rau cung cấp cho thành phố Bắc Kinh
là 55% và Thượng Hải là 50%. Do khoảng cách vận chuyển ngắn cũng làm giảm
chi phí sản xuất lương thực. Đồng thời, giảm vận chuyển sẽ làm giảm phát thải
CO2. Khi có thảm họa, việc tự cung cấp lương thực sạch rất quan trọng. Những
không gian mở ở đô thị như đất nông nghiệp có thể được sử dụng làm nơi cấp
cứu như điểm định cư tạm thời. Năm 2003, dịch SARS ở Bắc Kinh, các bệnh
viện được đặt tạm thời tại những vùng ven đô, nơi mà các bệnh nhân được cung
cấp thực phẩm sạch và an toàn. Năm 2008, sau thảm họa động đất ở Tứ Xuyên,
hầu hết các lều tạm được dựng lên trong phạm vi rộng ở những khu đất nông

14
nghiệp ven đô. Các sản phẩm từ nấm được sản xuất ở quận Fangshan, Bắc Kinh
chiếm 56% tổng sản lượng nấm của thành phố. Quá trình sản xuất gồm tái chế
chất thải nông nghiệp và đem lại lợi nhuận cho những người nông dân. Năm
2007, ở làng Miaoergang, lợi nhuận thu được từ sản xuất nấm trong một năm là
10,44 triệu nhân dân tệ và thu nhập trên đầu người ở quận đạt 10 595 nhân dân

tệ, tương đương 1552 USD, trong khi thu nhập trung bình hàng năm theo đầu
người ở khu vực ngoại ô Bắc Kinh là 9559 nhân dân tệ, tương đương 1400
USD.Trong năm 2005, có khoảng 3,6 triệu người dân di cư ở Bắc Kinh. Trong
số những người dân này, hơn 600000 (17%) người được tham gia vào các hoạt
động liên quan đến nông nghiệp đô thị. Các công việc này đã thu hút nhiều
những dân di cư, họ là những nông dân có kinh nghiệm và bằng việc sử dụng
các kỹ thuật tiên tiến như nhà kính, họ có thể kiếm nhiều tiền hơn, góp phần
nâng cao thu nhập cho gia đình của họ ở nông thôn. [14]
Tại Nhật, tỷ lệ cơ giới hóa được áp dụng trên 25%, hầu hết phục vụ công
đoạn cày xới, chăm sóc cho nguồn đất được giàu dinh dưỡng, phù hợp với thổ
nhưỡng để trồng các chủng loại rau củ thích hợp cho vùng đất này như các loại
rau cải, bắp cải và cà chua. Công nghệ cũng được áp dụng ở công đoạn “tưới
tắm” cho cây. Còn những phần việc khác như gieo giống, đặc biệt là thu hoạch,
phải luôn thực hiện thủ công. Vì những khâu này rất cần đến kiến thức, kinh
nghiệm và sự tỷ mẩn của nhà nông.
Tuy nhiên, điểm khác biệt quan trọng trong ứng dụng công nghệ sản xuất
nông sản sạch của Nhật chính là hệ thống tiếp nhận, thông báo để xử lý thông
tin. Hệ thống này đã được khách tham quan - ngay cả giới chuyên gia trong lĩnh
vực nông nghiệp của nhiều nước tiên tiến trên thế giới - đánh giá cao.

15

Hình 1.1. Hệ thống đo nhiệt độ, gió, độ ẩm
Được thiết kế ngoài trời, ngay lối vào nông trại, thoạt nhìn, hệ thống này
chẳng có gì đặc biệt, giống cột antena (ăng-ten). Nhưng hệ thống có đầy đủ chức
năng như trạm dự báo thời tiết khi có thể thu thập, xử lý những thông số mang
yếu tố sống còn trong sản xuất nông nghiệp, như: đo độ gió, lượng mưa, theo
dõi nhiệt độ… của môi trường vùng trồng trọt. Những thông số này luôn được
cập nhật theo ngày, thậm chí ở thời điểm nhạy cảm của vụ mùa, hệ thống sẽ cập
nhật từng giờ nhằm giúp các chuyên gia kỹ thuật có thể nắm bắt chính xác, trao

đổi và có hướng xử lý cụ thể, kịp thời thích hợp, nhằm giảm tối đa nguy cơ gây
thất bát vụ mùa.
Nông dân Nhật đặt những cột ăng ten ngoài trời với các thiết bị camera
(dụng cụ hình tròn), đo độ ẩm, nhiệt độ (dụng cụ bên tay trái), lượng mưa (phía
bên phải)… để kiểm soát các điều kiện thời tiết trong quá trình trồng rau

16

Hình 1.2. Chi tiết một trạm xử lý số liệu[19]
Ở nước ta, năm 2007, tỷ trọng của nông nghiệp trong GDP của TP Hồ Chí
Minh là 0,9%, Hà Nội (cũ) 2,0%, Đà Nẵng 5,6%, Hải Phòng 11,0%, TP Cà Mau
11%, TP Lạng Sơn 5,2%, TP Quy Nhơn 8,3%, TP Thanh Hoá 4,5%, Hiện
tượng tỷ trọng thấp ngành nông nghiệp ở Việt Nam cũng phù hợp với qui luật
chung của thế giới: quá trình đô thị hóa càng phát triển thì tỷ trọng của nông
nghiệp trong GDP càng thấp và giảm xuống.
Tuy vậy, nông nghiệp vẫn là một nguồn thu nhập quan trọng cho một bộ
phận hộ gia đình, nhất là những hộ gia đình ở vùng ven đô và các gia đình nghèo
có điều kiện tiếp cận với các nguồn lực để phát triển nông nghiệp tại các đô thị.
Theo tính toán, nông nghiệp đô thị đã đáp ứng nhu cầu lương thực, thực phẩm
của một số đô thị như sau: nhu cầu lương thực: Hà Nội 33%, Hải Phòng 85%,
Đà Nẵng 23%, TP Hồ Chí Minh 10% và Cần Thơ 100%; nhu cầu rau, củ, quả
thực phầm: Hà Nội 55%, Hải Phòng 65%, Đà Nẵng 30%, TP Hồ Chí Minh 18%

17
và Cần Thơ 70%; nhu cầu thịt gia súc, gia cầm: Hà Nội 25%, Hải Phòng 60%,
Đà Nẵng 20%, TP Hồ Chí Minh 10% và Cần Thơ 70%; nhu cầu cá, tôm: Hà Nội
tự túc được 22%, Hải Phòng 70%, Đà Nẵng 100%, TP Hồ Chí Minh 45 % và
Cần Thơ 80% (bao gồm cả sản lưọng cá, tôm nước lợ, nước ngọt, nước mặn
nuôi trồng và đánh bắt được trên địa bàn). [24]
Nông nghiệp ở một số đô thị cũng đã tạo ra một số nông sản có giá trị

xuất khẩu: nghề nuôi tôm, cá sấu, cây cảnh, cá cảnh ở TP Hồ Chí Minh, nghề
trồng hoa ở TP Đà Lạt; nghề trồng chè ở TP Thái Nguyên, TX Tuyên Quang,
TX Bắc Cạn, TX Sông Công; nghề trồng cà phê, cao su, hồ tiêu ở ngoại ô các đô
thị ở Tây Nguyên; trồng cây ăn quả, nuôi tôm, cá ba sa ở các đô thị vùng đồng
bằng sông Cửu Long. So với khu vực nông thôn, trung bình năng suất cây trồng
ở khu vực ven đô có năng suất cao hơn 30-50% nhờ hệ thống hạ tầng nông
nghiệp phát triển.
Ngày 13/11/2010, Khoa Sinh - Môi trường, Trường Đại học Sư phạm Đà
Nẵng (Đại học Đà Nẵng) đã phối hợp với Công ty Tầm nhìn Sinh thái tổ chức
Hội thảo “Nông nghiệp sinh thái đô thị - giải pháp của tương lai”.
Tại Hội thảo, các nhà khoa học đã đưa ra các giải pháp cho nông nghiệp
sinh thái đô thị như: “Kỹ thuật thủy canh tĩnh - ưu điểm và sự thích hợp với các
hộ gia đình nội thành thành phố Đà Nẵng” của Thạc sĩ Đỗ Thị Trường; “Thủy
canh hồi lưu & Khí canh - giải pháp của nền nông nghiệp sinh thái đô thị” của
Tiến sĩ Võ Văn Minh; “Cây xanh trong kiến trúc đô thị hiện đại” của Thạc sĩ
Nguyễn Văn Khánh; “Cây cảnh thủy canh - sự lựa chọn của các hộ gia đình,
phòng khách và trường học thân thiện”; “Nuôi cấy mô tế bào thực vật - giải
pháp cung ứng giống cho nền nông nghiệp sinh thái đô thị” của Kỹ sư Trần
Quang Dần,…
Đây là một trong những kỹ thuật sản xuất nông nghiệp mới do các nhà
khoa học nghiên cứu trong nhiều năm qua để giải quyết những bức xúc của
ngành nông nghiệp bị thu hẹp do tốc độ đô thị hóa quá nhanh. Ngoài ra, nông
nghiệp đô thị không chỉ là nguồn tạo nên GDP (giá trị kinh tế thuần tuý) mà còn

18
tạo ra nhiều giá trị khác: sinh thái, môi trường, giáo dục, nghỉ dưỡng, tận dụng
thời gian rỗi
Sự kết hợp giữa nông nghiệp với du lịch, nghỉ dưỡng (còn gọi là loại hình
nông nghiệp du lịch và nông nghiệp nghỉ dướng) cũng là một hướng phát triển
đang được sử dụng, tuy nhiên vẫn mang tính cả thể tại các khu vự ven đô.

1.4. Vấn đề hiệu quả sử dụng đất và đánh giá hiệu quả sử dụng đất
Sử dụng các nguồn tài nguyên có hiệu quả cao trong sản xuất để đảm bảo
phát triển một nền nông nghiệp bền vững là xu thế tất yếu đối với các nuớc trên
thế giới.
Để làm rõ bản chất của hiệu quả cần phân định rõ sự khác nhau và mối liên
hệ giữa kết quả và hiệu quả. Kết quả, mà là kết quả hữu ích, là một đại lượng vật
chất tạo ra do mục đích của con người, được biểu hiện bằng những chỉ tiêu do
tính chất mâu thuẫn giữa nguồn tài nguyên hữu hạn với nhu cầu tăng lên của con
người mà ta phải xem xét kết quả đó đuợc tạo ra như thế nào? Chi phí bỏ ra là
bao nhiêu? Có đưa lại kết quả hữu ích hay không? Chính vì thế, khi đánh giá kết
quả hoạt động sản xuất không chỉ dừng lại ở việc đánh giá kết quả mà còn phải
đánh giá chất lượng công tác hoạt động sản xuất kinh doanh tạo ra sản phẩm đó
[15].
Đánh giá chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh là nội dung đánh giá
của hiệu quả. Trên phạm vi toàn xã hội, các chi phí bỏ ra để thu được kết quả
phải là chi phí lao động xã hội. Vì thế, bản chất của hiệu quả chính là hiệu quả
lao động xã hội và được xác định bằng tương quan so sánh giữa kết quả hữu ích
thu được với lượng hao phí lao động xã hội. Tiêu chuẩn của hiệu quả là sự tối đa
hoá kết quả và tối thiểu hoá chi phí trong điều kiện tài nguyên thiên nhiên hữu
hạn [34].
Sử dụng đất nông nghiệp có hiệu quả cao thông qua việc bố trí cơ cấu cây
trồng, vật nuôi là một trong những vấn đề bức xúc hiện nay của hầu hết các
nước trên thế giới. Nó không chỉ thu hút sự quan tâm của các nhà khoa học, các
nhà hoạch định chính sách, các nhà kinh doanh nông nghiệp mà còn là sự mong

19
muốn của nông dân, những người trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất nông
nghiệp [22].
Sử dụng đất đai có hiệu quả là hệ thống các biện pháp nhằm điều hoà mối
quan hệ người - đất trong tổ hợp với các nguồn tài nguyên khác và môi trường.

Căn cứ vào nhu cầu của thị trường, thực hiện đa dạng hoá cây trồng vật nuôi
trên cơ sở lựa chọn các sản phẩm có ưu thế ở từng địa phương, từ đó nghiên cứu
áp dụng công nghệ mới nhằm làm cho sản phẩm có tính cạnh tranh cao, đó là
một trong những điều kiện tiên quyết để phát triển được nền nông nghiệp hướng
về xuất khẩu có tính ổn định và bền vững đồng thời phát huy tối đa công dụng
của đất nhằm đạt tới hiệu quả kinh tế, xã hội, môi trường cao nhất [15].
* Các nội dung và nhiệm vụ sử dụng đất được thể hiện qua:
- Sử dụng hợp lý về không gian để hình thành hiệu quả kinh tế không gian
sử dụng đất.
- Phân phối hợp lý cơ cấu đất đai trên diện tích đất được sử dụng, hình
thành cơ cấu kinh tế sử dụng đất.
- Quy mô sử dụng đất cần có sự tập trung thích hợp hình thành quy mô
kinh tế sử dụng đất.
- Giữ mật độ sử dụng đất thích hợp hình thành việc sử dụng đất một cách
kinh tế, tập trung thâm canh.
- Hiệu quả phải được xem xét trên 3 mặt: hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã
hội, hiệu quả môi trường .
- Phải xem xét đến lợi ích trước mắt và lâu dài.
- Phải xem xét cả lợi ích riêng của người sử dụng đất và lợi ích chung của
cả cộng đồng.
- Phải xem xét giữa hiệu quả sử dụng đất và hiệu quả sử dụng các nguồn
lực khác.
- Đảm bảo sự phát triển thống nhất giữa các ngành.

20
Khi đánh giá hiệu quả sử dụng đất người ta thường đánh giá trên ba khía
cạnh: hiệu quả về mặt kinh tế sử dụng đất, hiệu quả về mặt xã hội và hiệu quả về
mặt môi trường [17].
* Hiệu quả kinh tế:
Hiệu quả là một phạm trù kinh tế phản ánh mặt chất lượng của các hoạt

động kinh tế. Mục đích của sản xuất và phát triển kinh tế, xã hội là đáp ứng nhu
cầu ngày càng tăng về vật chất và tinh thần của toàn xã hội, khi nguồn lực sản
xuất của xã hội ngày càng trở nên khan hiếm, việc nâng cao hiệu quả là một đòi
hỏi khách quan của mọi nền sản xuất xã hội [15].
Theo Các Mác thì quy luật kinh tế đầu tiên trên cơ sở sản xuất tổng thể là
quy luật tiết kiệm thời gian và phân phối một cách có kế hoạch thời gian lao
động theo các ngành sản xuất khác nhau. Trên cơ sở thực hiện vấn đề “tiết kiệm
và phân phối một cách hợp lý thời gian lao động (vật hoá và lao động sống) giữa
các ngành”. Theo quan điểm của C. Mác, đó là qui luật “tiết kiệm”, là “tăng
năng suất lao động xã hội”, hay đó là “tăng hiệu quả”. Ông cho rằng: “Nâng cao
năng suất lao động vượt quá nhu cầu cá nhân của người lao động là cơ sở của
hết thảy mọi xã hội”. Như vậy, theo quan điểm của Mác, tăng hiệu quả phải
được hiểu rộng và nó bao hàm cả việc tăng hiệu quả kinh tế và xã hội [18].
Các nhà khoa học kinh tế Samuel – Nordhuas cho rằng: “Hiệu quả có
nghĩa là không lãng phí. Nghiên cứu hiệu quả sản xuất phải xét đến chi phí cơ
hội, “Hiệu quả sản xuất diễn ra khi xã hội không thể tăng sản lượng một loại
hàng hoá này mà không cắt giảm sản lượng một loại hàng hoá khác. Mọi nền
kinh tế có hiệu quả nằm trên đường giới hạn khả năng năng suất của nó" [18].
Theo L.M Canirop:" Hiệu quả của sản xuất xã hội được tính toán và kế
hoạch hoá trên cơ sở những nguyên tắc chung đối với nền kinh tế quốc dân bằng
cách so sánh kết quả của sản xuất với chi phí hoặc nguồn lực đã sử dụng" [18].
Tác giả Đỗ Khắc Thịnh cho rằng: “Thông thường hiệu quả được hiểu như
một hiệu số giữa kết quả và chi phí, tuy nhiên trong thực tế đã có trường hợp
không thực hiện được phép trừ hoặc phép trừ không có ý nghĩa”. Do vậy, nói

21
một cách linh hoạt hơn nên hiểu hiệu quả là một kết quả tốt phù hợp mong muốn
và hiệu quả có nghĩa là không lãng phí [21].
Tóm lại, có nhiều quan điểm khác nhau về hiệu quả kinh tế nhưng đều
thống nhất nhau ở bản chất của nó. Người sản xuất muốn thu được kết quả phải

bỏ ra những chi phí nhất định, những chi phí đó là nhân lực, vật lực, vốn,…So
sánh kết quả đạt được với chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó sẽ có hiệu quả
kinh tế. Tiêu chuẩn của hiệu quả là sự tối đa hoá kết quả với một lượng chi phí
định trước hoặc tối thiểu hoá chi phí để đạt được một kết quả nhất định.
Hiệu quả kinh tế là phạm trù chung nhất, nó liên quan trực tiếp tới sản
xuất nông nghiệp và tới tất cả các phạm trù và các quy luật kinh tế khác. Vì thế,
hiệu quả kinh tế phải đáp ứng được ba vấn đề:
Một là, mọi hoạt động của con người đều tuân theo quy luật “tiết kiệm
thời gian”, nó là động lực phát triển của lực lượng sản xuất, là điều kiện quyết
định phát triển văn minh xã hội và nâng cao đời sống con người qua mọi thời
đại.
Hai là, hiệu quả kinh tế phải được xem xét trên quan điểm của lý thuyết
hệ thống. Quan điểm của lý thuyết hệ thống cho rằng nền sản xuất xã hội là một
hệ thống các yếu tố sản xuất và các quan hệ vật chất hình thành giữa con người
với con người trong quá trình sản xuất Hệ thống là một tập hợp các phần tử có
quan hệ với nhau tạo nên một chỉnh thể thống nhất và luôn vận động. Theo
nguyên lí đó, khi nhiều phần tử kết hợp thành một hệ thống sẽ phát sinh nhiều
tính chất mới mà từng phần tử đều không có, tạo ra hiệu quả lớn hơn tổng hiệu
quả các phần tử riêng lẻ. Do vậy, việc tận dụng khai thác các điều kiện sẵn có,
hay giải quyết các mối quan hệ phù hợp giữa các bộ phận của một hệ thống với
yếu tố môi trường bên ngoài để đạt được khối lượng sản phẩm tối đa là mục tiêu
của từng hệ thống. Đó chính là mục tiêu đặt ra đối với mỗi vùng kinh tế, mỗi
chủ thể sản xuất trong mọi xã hội.
Ba là, hiệu quả kinh tế là một phạm trù phản ánh mặt chất lượng của các
hoạt động kinh tế bằng quá trình tăng cường các nguồn lực sẵn có phục vụ cho

22
lợi ích của con người. Do những nhu cầu vật chất của con người ngày càng tăng,
vì thế nâng cao hiệu quả kinh tế là một đòi hỏi khách quan của mọi nền sản xuất
xã hội.

Các nhà sản xuất và quản lý kinh tế cần phải nâng cao chất lượng các hoạt
động kinh tế nhằm đạt mục tiêu với một lượng tài nguyên nhất định tạo ra một
khối lượng sản phẩm lớn nhất hoặc tạo ra một khối lượng sản phẩm nhất định
với chi phí tài nguyên ít nhất.
Hiệu quả kinh tế được hiểu là mối tương quan so sánh giữa lượng kết quả
đạt được và lượng chi phí bỏ ra trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Kết quả
đạt được là phần giá trị thu được của sản phẩm đầu ra, lượng chi phí bỏ ra là
phần giá trị của các nguồn lực đầu vào. Mối tương quan đó cần xét cả về phần
so sánh tuyệt đối và tương đối cũng như xem xét mối quan hệ chặt chẽ giữa hai
đại lượng đó. Một phương án đúng hoặc một giải pháp kinh tế kỹ thuật có hiệu
quả kinh tế cao là đạt được tương quan tối ưu giữa kết quả thu được và chi phí
nguồn lực đầu tư.
Vì vậy, bản chất của phạm trù kinh tế sử dụng đất là: với một diện tích đất
đai nhất định sản xuất ra một khối lượng của cải vật chất nhiều nhất với một
lượng đầu tư chi phí về vật chất và lao động thấp nhất nhằm đáp ứng nhu cầu
ngày càng tăng về vật chất của xã hội.
* Hiệu quả xã hội
Hiệu quả xã hội là phạm trù có liên quan mật thiết với hiệu quả kinh tế và
thể hiện mục tiêu hoạt động kinh tế của con người, việc lượng hoá các chỉ tiêu
biểu hiện hiệu quả xã hội còn gặp nhiều khó khăn mà chủ yếu phản ánh bằng
các chỉ tiêu mang tính chất định tính như tạo công ăn việc làm cho lao động, xoá
đói giảm nghèo,định canh, định cư, công bằng xã hội, nâng cao mức sống của
toàn dân.
Trong sử dụng đất nông nghiệp, hiệu quả về mặt xã hội chủ yếu được xác
định bằng khả năng tạo việc làm trên một diện tích đất nông nghiệp [32]. Hiện

23
nay, việc đánh giá hiệu quả xã hội của các loại hình sử dụng đất nông nghiệp là
vấn đề đang được nhiều nhà khoa học quan tâm.
* Hiệu quả môi trường

Môi trường là một vấn đề mang tính toàn cầu, hiệu quả môi trường được
các nhà môi trường học rất quan tâm trong điều kiện hiện nay. Một hoạt động
sản xuất được coi là có hiệu quả khi hoạt động đó không gây tổn hại hay có
những tác động xấu đến môi trường như đất, nước, không khí và hệ sinh học, là
hiệu quả đạt được khi quá trình sản xuất kinh doanh diễn ra không làm cho môi
trường xấu đi mà ngược lại, quá trình sản xuất đó làm cho môi trường tốt hơn,
mang lại một môi trường xanh, sạch, đẹp hơn trước [13].
Trong sản xuất nông nghiệp, hiệu quả môi trường là hiệu quả mang tính
lâu dài, vừa đảm bảo lợi ích hiện tại mà không làm ảnh hưởng xấu đến tương lai,
nó gắn chặt với quá trình khai thác, sử dụng và bảo vệ tài nguyên đất và môi
trường sinh thái.
Sử dụng đất hợp lý, hiệu quả cao và bền vững phải quan tâm tới cả ba
hiệu quả trên, trong đó hiệu quả kinh tế là trọng tâm, không có hiệu quả kinh tế
thì không có điều kiện nguồn lực để thực thi hiệu quả xã hội và môi trường, ng-
ược lại, không có hiệu quả xã hội và môi trường thì hiệu quả kinh tế sẽ không
bền vững [12] .
1.5 Nguyên tắc, quan điểm và các tiêu chí đánh giá hiệu quả sử dụng đất
nông nghiệp bền vững trong quá trình đô thị hóa
1.5.1 Nguyên tắc sử dụng đất nông nghiệp
Đất đai là nguồn tài nguyên có hạn trong khi đó nhu cầu của con người
lấy từ đất ngày càng tăng, mặt khác đất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp do bị
trưng dụng sang các mục đích khác. Vì vậy, sử dụng đất nông nghiệp ở nước ta
với mục tiêu nâng cao hiệu quả KT-XH trên cơ sở đảm bảo an ninh lương thực,
thực phẩm, tăng cường nguyên liệu cho công nghiệp và hướng tới xuất khẩu. Sử
dụng đất nông nghiệp trong sản xuất nông nghiệp trên cơ sở cân nhắc những
mục tiêu phát triển KT-XH, tận dụng tối đa lợi thế so sánh về điều kiện sinh thái

24
và không làm ảnh hướng xấu đến môi trường là những nguyên tắc cơ bản và cần
thiết để đảm bảo cho khai thác sử dụng bền vững nguồn tài nguyên đất [11]. Do

đó, đất nông nghiệp cần được sử dụng theo nguyên tắc “đầy đủ và hợp lý”, phải
có các quan điểm đúng đắn theo xu hướng tiến bộ, phù hợp với điều kiện, hoàn
cảnh cụ thể, làm cơ sở thực hiện việc sử dụng đất nông nghiệp có hiệu quả kinh
tế cao.
Thực hiện sử dụng đất nông nghiệp đầy đủ và hợp lý là cần thiết vì:
- Nó sẽ làm tăng nhanh khối lượng nông sản trên 1 đơn vị diện tích, xây
dựng cơ cấu cây trồng, chế độ bón phân hợp lý, góp phần bảo vệ độ phì đất.
- Là tiền đề để sử dụng có hiệu quả cao các nguồn tài nguyên khác, từ đó
nâng cao đời sống của nông dân.
- Trong cơ chế kinh tế thị trường cần phải xét đến tính quy luật của nó,
gắn với các chính sách vĩ mô nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp
và phát triển nền nông nghiệp bền vững [7].
* Quan điểm nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp:
- Tận dụng triệt để các nguồn lực thuận lợi, khai thác lợi thế so sánh về
khoa học- kỹ thuật, đất đai, lao động qua liên kết trao đổi để phát triển cây trồng,
vật nuôi có tỉ suất hàng hoá cao, tăng sức cạnh tranh và hướng tới xuất khẩu [8].
- Trên quan điểm phát triển hệ thống nông nghiệp, thực hiện sử dụng đất
nông nghiệp theo hướng tập trung chuyên môn hoá, sản xuất hàng hoá theo
hướng ngành hàng, nhóm sản phẩm, thực hiện thâm canh toàn diện và liên tục.
Thâm canh cây trồng, vật nuôi vừa để đảm bảo nâng cao hiệu quả kinh tế sử
dụng đất nông nghiệp vừa đảm bảo phát triển một nền nông nghiệp ổn định [7].
- Nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp trên cơ sở thực hiện “đa
dạng hoá” hình thức sở hữu, tổ chức sử dụng đất nông nghiệp, đa dạng hoá cây
trồng vật nuôi, chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi phù hợp với sinh thái và
bảo vệ môi trường [3].

×