Tải bản đầy đủ (.doc) (78 trang)

Giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại ngân hàng Việt Nam Thịnh Vượng chi nhánh Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (416.57 KB, 78 trang )

Chuyên đề thực tập
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU 1
CHƯƠNG I 3
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ RỦI RO TÍN DỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI 3
2.3. Đặc điểm hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại 9
2.4. Phân loại hoạt động tín dụng của NHTM 12
2.4.1. Căn cứ vào thời hạn cho vay 12
2.4.2. Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn 12
2.4.3. Căn cứ vào sự đảm bảo hoàn trả nợ 12
2.4.4. Căn cứ vào hình thái giá trị tín dụng 12
2.4.5. Căn cứ vào phương pháp cho vay 13
2.4.6. Căn cứ vào phương thức hoàn trả 13
KẾT LUẬN 75
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 76
Sinh Viên: Vũ Minh Khuê
KTPT49A
Chuyên đề thực tập
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU
SƠ ĐỒ
LỜI NÓI ĐẦU 1
CHƯƠNG I 3
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ RỦI RO TÍN DỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI 3
2.3. Đặc điểm hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại 9
2.4. Phân loại hoạt động tín dụng của NHTM 12
2.4.1. Căn cứ vào thời hạn cho vay 12
2.4.2. Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn 12
2.4.3. Căn cứ vào sự đảm bảo hoàn trả nợ 12
2.4.4. Căn cứ vào hình thái giá trị tín dụng 12


2.4.5. Căn cứ vào phương pháp cho vay 13
2.4.6. Căn cứ vào phương thức hoàn trả 13
Chỉ tiêu 48
So sánh 2011/2010 48
Chỉ tiêu 49
Năm 2010 49
Năm 2011 49
So sánh 2010/2011 49
Chỉ tiờu 50
Năm 2010 50
Năm 2011 50
So sánh 2010/2011 50
Chỉ tiêu 51
KẾT LUẬN 75
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 76
Sinh Viên: Vũ Minh Khuê
KTPT49A
Chuyên đề thực tập
LỜI NÓI ĐẦU
Để thực hiện công cuộc đổi mới và phát triển toàn diện nền kinh tế đất
nước, hệ thống ngân hàng Việt Nam trong những năm qua đã có nhiều đổi mới
sâu sắc căn bản và toàn diện trên mọi lĩnh vực hoạt động. Từ khi chuyển sang hệ
thống ngân hàng hai cấp, các ngân hàng đã có những đóng góp tích cực và to lớn
cho sự nghiệp và phát triển kinh tế, trong đó nổi bật là đã cung cấp một khối
lượng tín dụng đáng kể cho tất cả các thành phần kinh tế, đồng thời góp phần
thực hiện thành công đẩy lùi kiềm chế lạm phát và ổn định tiền tệ.
Cùng với sự tồn tại tất yếu phát triển không ngừng của hệ thống ngân
hàng, tín dụng ngân hàng đã thực sự trở thành trụ cột vững chắc cho sản xuất
và lưu thông. Trong nền kinh tế hàng hoá, tín dụng ngân hàng phải làm sao
tạo được thị trường đầu vào để tăng nhanh nguồn vốn tín dụng và mở rộng thị

trường đầu ra để sử dụng nguồn vốn có hiệu quả cao nhất. Tín dụng ngân
hàng là một khâu cơ bản của hệ thổng tài chính quốc gia nên cần góp phần
tích cực bảo đảm cung cấp vốn dài hạn, trung hạn và ngắn hạn, cả nội tệ và
ngoại tệ đáp ứng nhu cầu về vốn của nền kinh tế quốc dân.
Hoạt động tín dụng là một trong những nghiệp vụ chính và sôi động nhất
của các ngân hàng thương mại. Đây là nghiệp vụ sinh lời chủ yếu nhưng nó
cũng chứa đựng không ít rủi ro.
Qua nghiên cứu tìm hiểu, khảo sát thực tiễn tình hình hoạt động kinh
doanh tại ngân hàng Việt Nam Thịnh Vượng VP Bank chi nhánh Hà Nội em
nhận thấy hoạt động kinh doanh cho vay là vấn đề đáng quan tâm trong hoạt
động của ngân hàng VP Bank chi nhánh Hà Nội nói riêng cũng như nền kinh
tế xã hội nói chung. Chính vì vậy mà em mạnh dạn chọn đề tài: “ Giải pháp
hạn chế rủi ro tín dụng tại ngân hàng Việt Nam Thịnh Vượng chi nhánh
Hà Nội” làm chuyên đề thực tập.
Sinh Viên: Vũ Minh Khuê
KTPT49A
1
Chuyên đề thực tập
Mục đích của đề tài là muốn làm rõ hơn về một số vấn đề mang tính chất
lý luận về rủi ro trong hoạt động cho vay của ngân hàng và đưa ra một số giải
pháp, kiến nghị, đề xuất nhằm góp một phần nhỏ vào quá trình phòng ngừa và
hạn chế rủi ro trong công tác kinh doanh tín dụng tại ngân hàng VP Bank nói
riêng và hệ thống các ngân hàng thương mại nói chung.
Nội dung chuyên đề gồm 3 phần chính:
Chương I: Ngân hàng thương mại và rủi ro tín dụng của ngân hàng
thương mại
Chương II: Thực trạng rủi ro tín dụng tại ngân hàng Việt Nam
Thịnh Vượng chi nhánh Hà Nội
Chương III: Giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại ngân hàng Việt
Nam Thịnh Vượng chi nhánh Hà Nội

Sinh Viên: Vũ Minh Khuê
KTPT49A
2
Chuyên đề thực tập
CHƯƠNG I
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ RỦI RO TÍN DỤNG
TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
I. NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.Ngân hàng thương mại
1.1.Khái niệm,phân loại
Luật các tổ chức tín dụng do Quốc hội khoá X thông qua vào ngày 12
tháng 12 năm 2007, định nghĩa:
“Ngân hàng thương mại là một loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện
toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động khác có liên quan”. Luật này
còn định nghĩa: “Tổ chức tín dụng là loại hình doanh nghiệp được thành lập
theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật để hoạt động
kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ ngân hàng với nội dung nhận tiền gửi và sử
dụng tiền gửi để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán”.
Luật tổ chức tín dụng không có định nghĩa hoạt động của ngân hàng vì
khái niệm này đã được định nghĩa trong Luật Ngân hàng Nhà nước, cũng do
Quốc hội khoá X thông qua cùng ngày. Luật Ngân hàng Nhà Nước định
nghĩa: “Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân
hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để
cấp tín dụng, cung ứng dịch vụ thanh toán”.
1.2.Vai trò của ngân hàng thương mại
1.2.1. Vai trò của ngân hàng thương mại đối với doanh nghiệp
Vốn là điều kiện không thể thiếu được để một doanh nghiệp được thành
lập và tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh. Tuỳ theo loại hình doanh
nghiệp và các đặc điểm cụ thể, mỗi doanh nghiệp có thể có các phương thức
huy động vốn khác nhau, tuy nhiên vốn vay ngân hàng là một trong những

Sinh Viên: Vũ Minh Khuê
KTPT49A
3
Chuyên đề thực tập
nguồn vốn quan trọng nhất, không chỉ đối với bản thân các doanh nghiệp mà
còn đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Sự hoạt động và phát triển của các
doanh nghiệp đều gắn liền với các dịch vụ tài chính do các ngân hàng thương
mại cung cấp. Không có một doanh nghiệp nào không vay vốn ngân hàng
hoặc không sử dụng tín dụng thương mại nếu doanh nghiệp đó muốn tồn tại
vững chắc trên thị trường. Trong quá trình hoạt động, các doanh nghiệp
thường vay ngân hàng để đảm bảo nguồn tài chính cho các hoạt động sản xuất
- kinh doanh, đặc biệt là đảm bảo có đủ vốn cho các dự án mở rộng hoặc đầu
tư chiều sâu của doanh nghiệp.
Ngân hàng thương mại hỗ trợ thúc đẩy hoạt động của các doanh nghiệp
thông qua các dịch vụ thanh toán: dịch vụ thanh toán trong nước và quốc tế,
dịch vụ thu hộ, chi hộ…giúp các doanh nghiệp tiết kiệm được thời gian và chi
phí, đặc biệt trong thanh toán xuất nhập khẩu, nâng cao sức cạnh tranh và cớ
sự phát triển mạnh mẽ như ngày nay.
1.2.2. Vai trò của ngân hàng thương mại đối với nền kinh tế
Đối với nền kinh tế, ngân hàng là một trong những tổ chức trung gian tài
chính quan trọng nhất. Ngân hàng là người cho vay chủ yếu đối với hàng triệu
hộ tiêu dùng, hầu hết các doanh nghiệp và kể cả các cơ quan chính quyền.
Ngân hàng còn là một kênh quan trọng trong chính sách kinh tế vĩ mô của
Chính phủ. Trên thực tế, để có thể duy trì khả năng cạnh tranh và đáp ứng nhu
cầu ngày càng cao của xã hội, vai trò của ngân hàng ngày càng lớn, thể hiện
qua:
- Vai trò thực thi chính sách tiền tệ: Việc hoạch định chính sách tiền tệ
thuộc về Ngân hàng Trung ương; để thực thi các chính sách tiền tệ đó phải sử
dụng các công cụ như lãi suất, dự trữ bắt buộc, tái chiết khấu, thị trường mở,
hạn mức tín dụng Chính các Ngân hàng thương mại là chủ thể chịu sự tác

động trực tiếp của những công cụ này và đồng thời đóng vai trò cầu nối trong
Sinh Viên: Vũ Minh Khuê
KTPT49A
4
Chuyên đề thực tập
việc chuyển tiếp các tác động trực tiếp của những công cụ này và đồng thời
đóng vai trò cầu nối trong việc chuyển tiếp các tác động của chính sách ti tiền
tệ đến khu vực phi ngân hàng và đến nền kinh tế. Ngược lại, cũng qua Ngân
hàng thương mại và các định chế tài chính trung gian khác, tình hình, sản
lượng, giá cả, công ăn việc làm, nhu cầu tiền mặt của nền kinh tế được phản
hồi về cho Ngân hàng Trung ương để Chính phủ và Ngân hàng Trung ương
có những chính sách điều tiết thích hợp với từng tình hình cụ thể. Hoạt động
kinh doanh của Ngân hàng thương mại gắn liền với các hoạt động kinh doanh
của các doanh nghiệp, các tổ chức và các chủ thể kinh tế. Trong quá trình hoạt
động đó, ngân hàng thương mại thực hiện vai trò tham gia điều tiết kinh tế vi
mô đối với nền kinh tế thông qua các chức năng của mình, biểu hiện các mối
quan hệ giữa ngân hàng thương mại đối với các tổ chức kinh tế, cá nhân về
mặt tín dụng, tiền mặt, thanh toán không dùng tiền mặt đảm bảo hoạt động
của ngân hàng và nền kinh tế được bình thường. Vai trò điều tiết nền kinh tế
vi mô của ngân hàng Thương mại được thể hiện qua việc tiếp nhận, thu hút
khối lượng tiền mặt từ trong nền kinh tế vào Ngân hàng thương mại, đồng
thời ngân hàng thương mại cũng cung ứng tiền mặt theo nhu cầu khi các
doanh nghiệp rút tiền mặt từ tài khoản của mình để trả lương cho công nhân
viên chức, trả tiền mua nguyên vật liệu, thu mua hàng hoá , khi công chúng
rút tiền gởi để chi dùng cho những nhu cầu của mình. Quá trình thu nhận và
cung ứng khối lượng tiền mặt trong nền kinh tế đã tạo ra mối quan hệ giữa
lưu thông hàng hoá và lưu thông tiền tệ trong từng khu vực.
Cùng với các nghiệp vụ kinh doanh trong lĩnh vực tín dụng và tiền tệ,
ngân hàng thương mại còn thực hiện các dịch vụ ngân hàng khác, trong nền
kinh tế. Đây là những dịch vụ trung gian, tạo cho ngân hàng thương mại

những nguồn lợi đáng kể, góp phần tăng thêm các khoản thu nhập cho ngân
hàng thương mại, đồng thời cũng tạo ra những điều kiện thuận lợi cho sự phát
Sinh Viên: Vũ Minh Khuê
KTPT49A
5
Chuyên đề thực tập
triển toàn diện và thoả mãn các yêu cầu trong hoạt động sản xuất kinh doanh
của các chủ thể kinh tế. Với tư cách là trung gian thanh toán không dùng tiền
mặt, ngân hàng thương mại đã giúp các chủ thể tham gia thanh toán, tiết kiệm
chi phí trong mua bán hàng hoá, cung ứng và tiếp nhận các dịch vụ, tiết kiệm
thời gian, đồng thời giúp cho doanh nghiệp thu hồi tiền bán hàng nhanh để
tiếp tục quá trình luân chuyển vốn tiếp theo, tạo thuận lợi cho sự phát triển
của doanh nghiệp , từ đó đảm bảo quyền lợi của người mua và người bán,
đảm bảo an toàn và đẩy nhanh tốc độ luân chuyển vốn, góp phần tạo nên văn
hoá tiền tệ cho xã hội.
- Vai trò góp phần vào hoạt động điều tiết vĩ mô thông qua chức năng
tạo tiền của Ngân hàng thương mại.
Trong nền kinh tế thị trường, chức năng điều tiết nền kinh tế vĩ mô thuộc
về Ngân hàng Trung ương. Chức năng này thể hiện trên hai mặt:
Thứ nhất, tham gia xây dựng chiến lược phát triển kinh tế xã hội và soạn
thảo chính sách tiền tệ. Với chức năng và vai trò của mình, Ngân hàng Trung
ương có đủ điều kiện thiết lập một kế hoạch tổng thể về việc phân bổ, sử dụng
các nguồn lực cho nhu cầu phát triển kinh tế, từ đó Ngân hàng Trung ương trở
thành một trong những trung tâm điều độ, mà sự phát triển của nền kinh tế
phụ thuộc rất lớn vào trung tâm điều độ này. Chính sách tiền tệ là loại công cụ
của chính sách can thiệp bằng kinh tế, dựa trên bản thân cơ chế thị trường và
quy luật vận động của nó. Nhưng Ngân hàng Trung ương không trực tiếp giao
dịch với công chúng, do đó phải dựa vào thông tin phản hồi từ các định chế
tài chính trung gian để làm căn cứ soạn thảo chính sách tiền tệ. Như vậy, rõ
ràng là nếu không có hệ thống Ngân hàng thương mại cung cấp, thì việc

hoạch định chiến lược và soạn thảo chính sách tiền tệ của Ngân hàng Trung
ương sẽ không hoàn hảo.
Sinh Viên: Vũ Minh Khuê
KTPT49A
6
Chuyên đề thực tập
Thứ hai, chính sách tiền tệ được thiết kế và khởi động từ Ngân hàng
Trung ương, lan ra đến mọi ngóc ngách của nền kinh tế thông qua hoạt động
dây chuyền của hệ thống ngân hàng trung gian và các tổ chức tài chính trong
nước. Như vậy, nếu không có sự chấp hành của hệ thống ngân hàng trung
gian thì mục đích và chính sách tiền tệ của Ngân hàng Trung ương sẽ không
thực hiện được. Trong việc điều hành thực thi chính sách tiền tệ, Ngân hàng
Trung ương sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ trong phạm vi toàn xã hội,
mà trước hết là trong hệ thống Ngân hàng thương mại. Các công cụ này là
những thao tác hoạt động của Ngân hàng Trung ương. Vì thế, có thể nói rằng,
mọi hoạt động của Ngân hàng Trung ương đều tác động đến nền kinh tế vĩ mô
trong khuôn khổ của chính sách tiền tệ đã vạch ra.
Sự điều tiết tiền tệ (bao gồm chính sách tiền tệ và các công cụ của nó) có
thể điều tiết gián tiếp và vô cùng hiệu quả đến những hoạt động của nền kinh
tế quốc gia từ vĩ mô đến vi mô. Một nội dung quan trọng của điều tiết tiền tệ
là điều hoà khối tiền tệ. Điều hoà khối tiền tệ ngày nay có nghĩa là điều chỉnh
việc tạo tiền và sử dụng tiền trong hệ thống ngân hàng hai cấp. Một khả năng
kỳ bí của hệ thống ngân hàng hai cấp là tạo tiền, điều chỉnh mức cung tiền để
ổn định tiền tệ. Do việc phân chia hệ thống ngân hàng thành hai cấp, nên có
việc phân chia hai loại tiền: tiền ngân hàng trung ương (giấy bạc hay tiền mặt)
và tiền ngân hàng (tiền ghi sổ, bút tệ). Tiền trung ương là tiền do Ngân hàng
Trung ương độc quyền phát hành. Tiền ngân hàng là tiền do các ngân hàng
thương mại tạo ra thông qua việc cấp tín dụng cho nền kinh tế, đặc biệt là tiền
trên các khoản thanh toán sec. Nó được tạo ra như là sự mở rộng gấp nhiều
lần quỹ dự trữ ngân hàng (thông qua hệ số tạo tiền). Tiền của hệ thống Ngân

hàng thương mại chiếm bộ phận lớn nhất trong tổng khối lượng tiền tệ ngày
nay ở các nước có nền kinh tế phát triển. Một nền kinh tế càng đi dần vào
hiện đại, càng phát triển bao nhiêu, nền kinh tế ấy càng sử dụng nhiều hơn
tiền do các Ngân hàng trung gian tạo ra.
Sinh Viên: Vũ Minh Khuê
KTPT49A
7
Chuyên đề thực tập
Như vậy, bằng việc tạo tiền gắn liền chặt chẽ với công cụ quản lý vĩ mô
của Ngân hàng Trung ương trong khi thực hiện hoạt động kinh doanh của
mình, Ngân hàng Thương mại đã thể hiện vai trò của mình trong việc góp
phần vào hoạt động điều tiết vĩ mô của Ngân hàng Trung ương thông qua
chính sách tiền tệ.
2.Tín dụng ngân hàng thương mại
2.1. Khái niệm
Khái niệm tín dụng đã xuất hiện từ rất lâu và rộng khắp trên thế giới và
Việt Nam. Nó xuất phát từ gốc Latinh CREDITUM - có nghĩa là sự tin tưởng,
tín nhiệm hay chính là lòng tin.
Mác cho rằng: Tín dụng là quá trình chuyển nhượng tạm thời một lượng
giá trị từ người sở hữu đến người sử dụng sau một thời gian nhất định thu hồi
lại một lượng giá trị lớn hơn giá trị ban đầu.
Theo luật các tổ chức tín dụng Việt Nam xác định tín dụng ngân hàng
bao gồm các hoạt động cho vay, chiết khấu, cho thuê, bảo lãnh. Nó được hiểu
là quan hệ vay mượn lẫn nhau trên nguyên tắc có hoàn trả cả vốn và lãi sau
một thời hạn nhất định.
2.2. Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với nền kính tế quốc dân
-Một là: Góp phần thúc đẩy sự ra đời và phát triển của các doanh nghiệp,
không chỉ đối với các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế nhà nước mà
còn tác động đến cả các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác. Đồng
thời tín dụng NH còn đáp ứng nhu cầu vốn cần thiết cho các doanh nghiệp và

cá nhân để duy trì quá trình sản xuất được liên tục, góp phần điều hoà vốn
trong toàn bộ nền kinh tế.
-Hai là: Tín dụng Ngân hàng là đòn bẩy thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
-Ba là: Tín dụng là công cụ tài trợ cho các dự án tạo việc làm, các ngành
kinh tế kém phát triển và các nghành mũi nhọn, thực hiện mục tiêu xoá đói
giảm nghèo và các chương trình dự án mang tính chất xã hội khác.
Sinh Viên: Vũ Minh Khuê
KTPT49A
8
Chuyên đề thực tập
-Bốn là: Tín dụng Ngân hàng thúc đẩy quá trình tích tụ tập trung vốn sản
xuất mở rộng quá trình phân công lao động xã hội và tạo điếu kiện để phát
triển trên các quan hệ kinh tế đối với nước ngoài.
-Năm là: Thông qua hoạt động tín dụng ngân hàng, nhà nước có thể
kiểm soát các hoạt động sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế để đề ra các
biện pháp, chính sách quản lý kinh tế và pháp lý phù hợp. Đồng thời điều
chỉnh cơ cấu kinh tế và hoạt động của các thành phần kinh tế thông qua các
chính sách về tín dụng như là các chính sách ưu đãi về lãi suất và các điều
kiện cho vay khác cho các doanh nghiệp đầu tư sản xuất theo mục tiêu định
hướng phát triển kinh tế của nhà nước.
Phát huy vai trò tín dụng Ngân hàng để đạt mục tiêu không ngừng mở
rộng và đứng vững trong cơ chế thị trường cạnh tranh và ngày một phát triển
là một nhiệm vụ đầy khó khăn và thử thách. Đòi hỏi mỗi NHTM cần phải giải
quyết tốt nhiều vấn đề, trong đó việc đảm bảo an toàn tín dụng là mục tiêu lớn
trong hoạt động kinh doanh Ngân hàng.
2.3. Đặc điểm hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại
Đặc điểm của hoạt động tín dụng của NHTM là kinh doanh khoản tiền
tệ của người khác để đầu tư, cho vay thu lợi nhuận. Hoạt động tín dụng lại
luôn chịu sự tác động của các yếu tố: thông tin không cân xứng, sự lựa chọn
đối nghịch, rủi ro đạo đức.

Trong đó, sự không cân bằng về thông tin giữa ngân hàng và khách hàng
có được gọi là thông tin không cân xứng. Sự lựa chọn đối nghịch là vấn đề do
thông tin không cân xứng tạo trước khi diễn ra cuộc giao dịch. Chọn lựa đối
nghịch xảy ra khi những người đi vay có nhiều khả năng tạo ra một kết cục
không mong muốn (đối nghịch)- tức là những rủi ro không thể trả được nợ, đó
là những người tích cực tìm vay nhất và do vậy có nhiều khả năng được lựa
chọn nhất. Rủi ro đạo đức là một vấn đề do thông tin không cân xứng tạo ra
Sinh Viên: Vũ Minh Khuê
KTPT49A
9
Chuyên đề thực tập
sau khi cuộc giao dịch diễn ra. Rủi ro đạo đức xảy ra khi ngân hàng phải chịu
một rủi ro là người vay có ý muốn thực hiện những hoạt động không tốt (thiếu
đạo đức) bởi những hoạt động này khiến ít có khả năng món vay được hoàn
trả. Do rủi ro đạo đức giảm bớt xác suất hoàn trả được vốn nên ngân hàng có
thể quyết định thôi không cho vay.
Để có lợi nhuận, các ngân hàng phải vượt qua những vấn đề thông tin
không cân xứng, lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức này, những vấn đề
khiến cho sự vỡ nợ có thể xảy ra. Sự cố gắng của các ngân hàng để giải quyết
các vấn đề này giúp giải thích những nguyên tắc tín dụng ngân hàng trong
việc quản lý các món tiền cho vay: sàng lọc, giám sát, thiết lập những mối
quan hệ khách hàng lâu dài và các mức tín dụng, yêu cầu thế chấp và những
yêu cầu về số dư bù, sự hạn chế tín dụng.
Sàng lọc: Lựa chọn đối nghịch trong hoạt động tín dụng đòi hỏi các ngân
hàng phải lọc những người mạo hiểm vay tín dụng có triển vọng tốt ra khỏi
những người mạo hiểm vay tín dụng có triển vọng xấu, nhờ vậy các món tiền
cho vay sẽ có lợi nhuận cho các ngân hàng đó. Nhằm thực hiện việc sàng lọc
một cách có hiệu quả, các ngân hàng phải tập hợp thông tin tin cậy về những
người vay tiền có triển vọng. Sàng lọc một cách có hiệu quả và tập hợp thông
tin tạo ra một nguyên tắc quan trọng trong hoạt động tín dụng.

Giám sát: Khi một món tiền cho vay được thực hiện, người vay có ý
muốn tiến hành những hoạt động rủi ro để món tiền vay này ít có khả năng
được thanh toán. Để giảm bớt tính chất của rủi ro đạo đức, các ngân hàng phải
viết ra những điều khoản hợp đồng (được gọi là những quy định hạn chế) vào
trong hợp đồng vay tiền, đó là những điều khoản nhằm hạn chế người vay tiền
không thực hiện những hoạt động rủi ro. Bằng cách giám sát các hoạt động
của người vay để xem liệu họ có tuân theo những quy định hạn chế đó hay
không và bằng cách cưỡng chế thi hành những quy định hạn chế nếu họ
Sinh Viên: Vũ Minh Khuê
KTPT49A
10
Chuyên đề thực tập
không tuân theo. Các ngân hàng có thể đảm bảo chắc chắn rằng những người
vay đang không làm những việc rủi ro bằng món tiền của ngân hàng cho vay.
Thiết lập mối quan hệ khách hàng lâu dài: quan hệ khách hàng lâu dài
làm lợi cho các khách hàng cũng như cho ngân hàng. Một khách hàng đã có
mối quan hệ cũ sẽ dễ được vay ở lãi suất thấp, bởi vì ngân hàng tốn ít thời
gian để xác định xem liệu người vay tiền này có phải là một người mạo hiểm
có triển vọng tốt hay không nên tốn tiền ít hơn cho việc giám sát. Ngân hàng
cũng xây dựng mối quan hệ lâu dài và tập hợp thông tin bằng cách đưa ra một
mức tín dụng cho khách hàng thương mại. Phần lớn các món cho vay được
thực hiện theo thoả ước mức tín dụng. Một thoả ước về mức tín dụng là một
phương pháp rất hữu hiệu để giảm chi phí cho việc sàng lọc và tập hợp thông
tin của ngân hàng.
Vật thế chấp và số dư bù: những bắt buộc về vật thế chấp đối với tiền
cho vay là công cụ quan trọng để quản lý ngân hàng. Vật thế chấp là vật sở
hữu được hứa sẽ thuộc về ngân hàng nếu người vay vỡ nợ, làm giảm bớt hậu
quả của chọn lựa đối nghịch bởi vì nó làm giảm tổn thất cho ngân hàng trong
trường hợp đó. Nếu người vay vỡ nợ đối với món tiền vay, ngân hàng có thể
bán vật thế chấp và dùng tiền thu được để bù lại các tổn thất của mình do món

vay đó gây ra. Một dạng riêng của vật thế chấp là số dư bù. Một khách hàng
khi nhận được tiền vay phải giữ một số vốn tối thiểu bắt buộc trong một tài
khoản séc của ngân hàng cho vay. Ngoài việc có tác dụng như vật thế chấp,
các số dư bù giúp tăng được khả năng món tiền vay sẽ được hoàn trả. Số dư
bù đóng vai trò này giúp ngân hàng giám sát được người vay đó và ngăn ngừa
được rủi ro đạo đức.
Hạn chế tín dụng: một phương pháp khác để giúp ngân hàng đối phó
được với chọn lựa đối nghịch và rủi ro đạo đức là việc hạn chế tín dụng. Ngân
hàng từ chối cho vay mặc dù những người vay sẵn sàng thanh toán lãi suất đã
Sinh Viên: Vũ Minh Khuê
KTPT49A
11
Chuyên đề thực tập
được công bố thậm chí lãi suất cao hơn. Việc hạn chế tín dụng có 2 dạng:
Dạng thứ nhất diễn ra khi một ngân hàng từ chối một món cho vay với số
lượng bất kỳ nào đối với người vay ngay cả khi người cho vay sẵn lòng thanh
toán một lãi suất cao hơn, dạng thứ hai diễn ra khi một ngân hàng sẵn lòng
cho vay nhưng hạn chế mức vay đó dưới mức người vay muốn. Để đề phòng
rủi ro đạo đức, ngân hàng thực hiện dạng hạn chế tín dụng thứ hai: ngân hàng
trao tiền cho người vay nhưng không phải món vay lớn như họ muốn. Sự hạn
chế tín dụng là cần thiết bởi vì vấn đề rủi ro đạo đức trở nên nghiêm trọng
hơn đối với lợi ích những món tiền cho vay lớn hơn.
2.4. Phân loại hoạt động tín dụng của NHTM
Trong hoạt động tín dụng, NHTM phải giao dịch với rất nhiều đối tượng
khách hàng, mỗi khách hàng đến ngân hàng vay vốn lại có mục đích sử dụng
vốn khác nhau, với thời hạn vay khác nhau…nên để hoạt động tín dụng của
ngân hàng được thực hiện thuận tiện và an toàn thì NHTM đã tiến hành phân
loại tín dụng theo các chỉ tiêu khác nhau dựa trên các căn cứ khác nhau, cụ
thể là:
2.4.1. Căn cứ vào thời hạn cho vay

Bao gồm 3 loại hoạt động tín dụng: Tín dụng ngắn hạn, tín dụng trung
hạn và tín dụng dài hạn.
2.4.2. Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn
Bao gồm 2 loại hoạt động tín dụng: Tín dụng sản xuất và lưu thông hàng
hoá, tín dụng tiêu dùng.
2.4.3. Căn cứ vào sự đảm bảo hoàn trả nợ
Bao gồm 2 loại hoạt động tín dụng: Tín dụng không đảm bảo và tín dụng
có đảm bảo.
2.4.4. Căn cứ vào hình thái giá trị tín dụng
Bao gồm 2 loại hoạt động tín dụng: Tín dụng bằng tiền và tín dụng bằng
Sinh Viên: Vũ Minh Khuê
KTPT49A
12
Chuyên đề thực tập
tài sản.
2.4.5. Căn cứ vào phương pháp cho vay
Bao gồm 2 loại hoạt động tín dụng: Tín dụng trực tiếp và tín dụng gián tiếp.
2.4.6. Căn cứ vào phương thức hoàn trả
Bao gồm 3 loại hoạt động tín dụng: Tín dụng trả góp, tín dụng phi trả
góp và tín dụng hoàn trả theo yêu cầu.
Hoạt động tín dụng là hoạt động quan trọng nhất của các ngân hàng
thương mại. Nó thúc đẩy nền kinh tế xã hội phát triển và đem lại lợi nhuận
cho ngân hàng, thông qua hoạt động này mà ngân hàng mới có thể phát triển
thêm các hình thức dịch vụ khác. Tuy nhiên hoạt động tín dụng tiềm ẩn rất
nhiều những nhân tố bất lợi khó lường trước. Khi rủi ro xảy ra thì ngân hàng
không có khả năng thu hồi vốn và lãi một cách đầy đủ theo như thoả thuận
trong hợp đồng tín dụng giữa ngân hàng và khách hàng. Đó chính là rủi ro tín
dụng. Vì vậy cần phải có sự hiểu biết đầy đủ về rủi ro tín dụng và ảnh hưởng
của nó đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
3.Rủi ro trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại

3.1.Khái niệm và tính chất khách quan của rủi ro
Rủi ro là một khái niệm chỉ một sự việc xảy ra không như mong muốn
của một chủ thể nào đó. Một khi rủi ro xảy ra sẽ dẫn đến sự tổn hại về mặt
tinh thần hay vật chất cho chủ thể chịu rủi ro đó. Rủi ro là không tốt và các
chủ thể đều không muốn nó xảy ra với mình, các chủ thể có thể phòng ngừa
được rủi ro hoặc có thể hạn chế được tác hạn của nó nếu nó xảy ra. Cần thấy
rằng rủi ro cũng giống như chi phí cơ hội, các chủ thể nhiều khi phải chấp
nhận nó để có thể nhận được những cái lợi trong tương lai. Rủi ro trong hoạt
động của các ngân hàng là các biến cố mà ngân hàng không mong đợi xảy ra
gây mất mát và thiệt hại về tài sản và thu nhập của ngân hàng.
Trên thực tế, rủi ro trong kinh doanh của NHTM mang tính khách quan.
Sinh Viên: Vũ Minh Khuê
KTPT49A
13
Chuyên đề thực tập
Dù không thể định lượng chính xác trước được nhưng có thể dự đoán trước để
quản lý, theo dõi, phòng ngừa hoặc phân tán. Vì thế, các nhà quản trị không thể
loại bỏ được rủi ro mà chỉ có thể phát hiện kịp thời để có những biện pháp chủ
động xử lý. Nhờ đó có thể hạn chế được những tổn thất mà rủi ro có thể mang
lại. Rủi ro là một yếu tố không mong muốn nhưng đối với hoạt động của các
ngân hàng thì rủi ro luôn là “bạn đồng hành”. Sỡ dĩ nói như thế bởi lẻ hoạt động
tín dụng của ngân hàng là một hoạt động mang tín rủi ro cao kèm theo một mức
lợi nhuận tương đối, như vậy rủi ro trong hoạt động của các ngân hàng thương
mại là khó tránh khỏi. Vấn đề của các ngân hàng là làm sao nắm bắt, kiểm soát
và hạn chế các rủi ro đó. Có như vậy các ngân hàng mới tạo được chổ đứng
trong hệ thống ngân hàng nói chung và toàn bộ nền kinh tế nói riêng.
3.2.Các loại rủi ro của ngân hàng thương mại
Cũng như hoạt động của các doanh nghiệp, hoạt động của các ngân hàng
cũng chứa đựng rất nhiều rủi ro. Tuy nhiên khác với các doanh nghiệp rủi ro
mang tính không thường xuyên và trong một chừng mực nào đó có thể ước

tính và hạn chế được, rủi ro trong hoạt động của các ngân hàng khó có thể
ước lượng được tổn thất và các biện pháp hạn chế là rất khó khăn. Trong khi
các doanh nghiệp thường chỉ làm ăn với một số đối tác và họ thường có quan
hệ với nhau thì ngân hàng nói chung có rất nhiều đối tác hay nói đúng hơn là
các khách hàng của họ. Việc tìm hiểu tất cả các khách hàng là điều gần như
không thể chính vì thế hoạt động của ngân hàng mang tính rủi ro cao hơn hẳn
so với hoạt động của các doanh nghiệp. Rủi ro trong hoạt động của ngân hàng
tồn tại dưới nhiều hình thức và mức độ khác nhau. Đặc thù của ngân hàng là
kinh doanh trong lĩnh vựa tiền tệ mà tiền tệ vốn dĩ là cổ máy lưu thông của
nền kinh tế nên số lượng khách hàng là rất phong phú, đa dạng chứa đựng
nguy cơ rủi ro rất cao. Rủi ro tín dụng thực chất chỉ là một khía cạnh nhỏ của
rủi ro trong hoạt động của ngân hàng. Trong thực tế, rủi ro trong hoạt động
Sinh Viên: Vũ Minh Khuê
KTPT49A
14
Chuyên đề thực tập
thường có các hình thức cụ thể sau đây:
- Rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng là rủi ro xảy ra khi cho vay nhưng không thu được nợ
hoặc thu nợ không đầy đủ, không đúng hạn
Trong hoạt động tín dụng nói riêng và hoạt động ngân hàng nói chung
các NHTM luôn đặt ra mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận, đồng thời tối thiểu hoá
rủi ro. Để đạt được điều đó các NHTM phải thật sự nổ lực để có những giải
pháp hợp lý cho việc phòng ngừa, hạn chế rủi ro tín dụng.
-Rủi ro lãi suất
Rủi ro lãi suất là loại rủi ro do sự biến động của yếu tố tiền tệ. Nó
thường nảy sinh trong trường hợp lạm phát tăng, lãi suất buộc phải điều chỉnh
theo xu thế tăng làm chi phí của ngân hàng phải bỏ ra cũng tăng lên, do đó
làm giảm thu nhập của ngân hàng. Rủi ro lãi suất cũng có thể xảy ra do cơ cấu
tài sản nợ và tài sản có của ngân hàng không hợp lý. Ngoài ra rủi ro lãi suất

cũng có thể xảy ra do trình độ thấp kém bị thua thiệt trong việc cạnh tranh lãi
suất trên thị trường hoặc do yếu tố của nền kinh tế tác động đến lãi suất như
cung, cầu và những yếu tố khác trên thị trường Khi nhà nước có quyết định
điều chỉnh lãi suất theo hướng giảm xuống trong khi tiền gửi có kỳ hạn chưa
đến hạn trả.
- Rủi ro nguồn vốn
Rủi ro nguồn vốn cũng là một hình thức rủi ro thường gặp của các ngân
hàng, nó thường xảy ra khi ngân hàng không kiểm soát được nguồn vốn của
mình. Nguồn vốn của ngân hàng phải được tận dụng tối đa, không để ứ đọng
mặt khác cũng phải có dự phòng để tránh rủi ro khi khách hàng có nhu cầu rút
tiền hàng loạt. Trong thực tế rủi ro nguồn vốn của ngân hàng tồn tại dưới hai
hình thức là rủi ro thừa vốn và rủi ro thiếu vốn.
-Rủi ro thừa vốn
Sinh Viên: Vũ Minh Khuê
KTPT49A
15
Chuyên đề thực tập
Nguồn vốn hoạt động chủ yếu của NHTM là nguồn vốn huy động. Để
huy động được vốn, ngân hàng phải trả lãi cho người gửi tiền. Nếu số vốn này
bị ứ đọng, không thể cho vay hoặc đầu tư vào các loại tài sản có thể sinh lời
trong khi ngân hàng vẫn phải trả lãi cho số vốn đã huy động được thì thiệt hại
của ngân hàng đang diễn ra. NHTM lúc này đang rơi vào trạng thái mất cân
bằng, kéo dài tình trạng này sẽ dẫn tới tính trạng thua lỗ.
-Rủi ro thiếu vốn
Rủi ro này xảy ra khi ngân hàng không đáp ứng được các nhu cầu cho
vay và đầu tư, thậm chí không đủ vốn để thanh toán cho người gửi tiền khi
đến hạn hoặc mất khả năng chi trả cho khách hàng.
-Rủi ro hối đoái
Một khi ngân hàng đã huy động hay cho vay ngoại tệ thì sẽ có rủi ro hối
đoái. Rủi ro hối đoái là việc tăng lên hay giảm đi giá trị của một khoản huy

động hay cho vay nào đó. Rủi ro hối đoái với nguyên nhân là việc tăng lên
hay giảm đi giá trị của đồng tiền này so với đồng tiền khác nên ngân hàng rất
khó trong việc phòng ngừa.
-Rủi ro thanh khoản
Gần giống như rủi ro thiếu vốn, rủi ro thanh khoản xảy ra khi ngân hàng
mất khả năng thanh toán các khoản huy động. Khi khách hàng vay một khoản
tín dụng nào đó của ngân hàng thì điều tất nhiên là họ có thể rút ra ở bất cứ
thời điểm nào mặc dù họ có thể chịu một số tổn thất nào đó nếu rút trước hạn.
Do một số khách quan nào đó như thiên tai, bệnh tật, khách hàng mất lòng tin
vào ngân hàng hay một tin đồn nào đó khách hàng sẽ đổ xô đến ngân hàng để
rút tiền, đây là điều ngân hàng không có dự tính trước nên khi xảy ra các ngân
hàng sẽ rất khó có năng lực tài chính để thanh toán tất cả các khoản mà họ đã
vay. Ngân hàng lúc này bị coi như mất khả năng thanh toán, tất nhiên là rủi ro
thanh khoản ít khi xảy ra nhất là trong giai đoạn kinh tế hiện nay.
-Rủi ro khác
Sinh Viên: Vũ Minh Khuê
KTPT49A
16
Chuyên đề thực tập
Đây là loải rủi ro khách quan do thiên tai gây ra như lũ lụt, động đất, hoả
hoạn hoặc do bị mất trộm, bị lừa đảo, tham nhũng cũng như các nguyên
nhân liên quan đến đội ngủ cán bộ nhân viên của ngân hàng, họ có thể do
năng lực hạn chế hoặc do lợi ích cá nhân mà làm thiệt hại đến tài sản của
ngân hàng. Mặc dù các rủi ro này xảy ra với tần suất không cao, mang tính
thuần túy nhưng nó cũng gây thiệt hại lớn đối với ngân hàng.
II. RỦI RO TÍN DỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI
1.Khái niệm
Rủi ro tín dụng là khả năng khách hàng không thanh toán nợ gốc và lãi
đúng hạn cho ngân hàng. Đây là rủi ro gắn liền với hoạt động của ngân hàng,

bởi vì hoạt động tín dụng là hoạt động quan trọng nhất của các NHTM, nó
đem lại lợi nhuận chủ yếu cho ngân hàng, thông qua hoạt động tín dụng ngân
hàng mới có thể phát triển thêm các loại hình dịch vụ khác. Khi rủi ro tín
dụng xẩy ra làm cho ngân hàng không trang trải đủ chi phí có thể dẫn đến tình
trạng phá sản.
Rủi ro tín dụng có thể xảy ra ở bốn trường hợp đối với nợ lãi và nợ gốc.
Đó là việc không thu được lãi đúng hạn hoặc không thu đủ vốn. Tuỳ từng
trường hợp mà ngân hàng hạch toán vào các khoản mục theo dõi khác nhau
như lãi treo hoặc nợ quá hạn. Khi không được trả lãi đúng hạn, nguy cơ rủi ro
ở mức độ thấp thì chỉ đưa vào mục lãi treo phát sinh. Nếu ngân hàng không
thể thu đủ lãi thì sẽ có khoản mục lãi treo đúng bằng trừ những trường hợp
ngân hàng miễn giảm khoản lãi đó cho doanh nghiệp. Còn khi không thu
được vốn đúng hạn, ngân hàng sẽ có khoản nợ quá hạn phát sinh. Tuy nhiên
khoản này vẫn chưa thể coi là khoản mất mát hoàn toàn của ngân hàng vì có
thể vì lý do nào đó doanh nghiệp chậm trả nợ gốc và sẽ trả sau hạn cam kết
trong hợp đồng. Nếu như các khoản này ngân hàng không thể thu hồi được
Sinh Viên: Vũ Minh Khuê
KTPT49A
17
Chuyên đề thực tập
(do doanh nghiệp phá sản) thì lúc này ngân hàng bị coi gặp rủi ro tín dụng ở
mức độ cao vì đã phát sinh khoản nợ không có khả năng thu hồi.
SƠ ĐỒ 1 : MÔ HÌNH RỦI RO TÍN DỤNG NGÂN HÀNG
Rủi ro tín dụng tồn tại dưới nhiều hình thức, các hình thức đó luôn biến
chuyển qua nhau mà mức độ cuối cùng là nó không có khả năng thu hồi. Lúc
đầu doanh nghiệp có thể chậm trả lãi, rồi sau đó chậm trả nợ gốc, hơn nữa là
không thể trả lãi và cuối cùng là không thể trả nợ gốc. Lúc này ngân hàng
thực sự rơi vào tình trạng rủi ro. Tuy nhiên không phải lúc nào rủi ro tín dụng
của ngân hàng cũng phải trải qua cả bốn hình thức trên. Có khi doanh nghiệp
trả lãi rất đầy đủ, đúng hạn nhưng cuối cùng lại không trả nợ gốc nên ngân

hàng chỉ có khoản mục nợ quá hạn phát sinh rồi chuyển sang nợ quá hạn
không có khả năng thu hồi. Các trường hợp trên chỉ là các tình huống tổng
quát, khi nghiên cứu rủi ro tín dụng người ta thường chú trọng vào nguy cơ xảy ra
rủi ro như lãi treo và đặc biệt là nợ quá hạn phát sinh, còn lãi treo đóng băng và nợ
Sinh Viên: Vũ Minh Khuê
KTPT49A
Không thu
được lãi
đúng hạn
Không thu
được vốn
đúng hạn
Không thu
đủ lãi
Không thu
đủ vốn cho
vay
RỦI RO TÍN DỤNG
18
Lãi treo
phát sinh
Nợ quá hạn
phát sinh
Lãi treo đóng
băng
Nợ không có khả
năng thu hồi
Chuyên đề thực tập
quá hạn không có khả năng thu hồi được được coi là các tình huống rủi ro thực sự
nên thường được xem xét để giải quyết hậu quả và rút ra bài học.

2. Sự cần thiết phải phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng
2.1.Đối với bản thân ngân hàng
Do vốn chủ sở hữu của ngân hàng chỉ chiếm một phần nhỏ trong tổng tài
sản nên chỉ cần một tỷ lệ nhỏ của danh mục cho vay có vấn đề là đã ảnh
hưởng lớn đến ngân hàng. Dưới đây là một số tác động xấu mà ngân hàng có
thể gặp phải khi rủi ro tín dụng xảy ra:
Thứ nhất, rủi ro tín dụng làm giảm thu nhập của ngân hàng. Khi có một
khoản nợ bị coi là quá hạn, thu nhập của ngân hàng bị giảm sút ngay; một
phần vì không thu được lãi hoặc nợ gốc như cam kết, trong khi vẫn phải trả
lãi cho nguồn huy động, một phần do các chi phí quản lý, giám sát phát sinh.
Mặt khác, nếu các khoản nợ quá hạn chuyển thành khó thu hoặc không thu
được, thì việc xử lý tài sản đảm bảo luôn gặp rất nhiều khó khăn về pháp lý và
định giá nên trường hợp ngân hàng có thể thu hồi được nợ khi phát mại tài
sản là rất khó xảy ra.
Thứ hai, rủi ro tín dụng làm giảm khả năng thanh toán của ngân hàng. Tỷ
lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ cao không những làm giảm thu nhập của ngân
hàng mà còn làm giảm nguồn vốn, đồng thời làm giảm khả năng thanh toán
của ngân hàng. Khi đó, ngân hàng sẽ phải đi vay trên thị trường liên ngân
hàng với lãi suất cao, bởi huy động từ tiền gửi dân cư thường mất rất nhiều
thời gian. Nếu tình trạng này kéo dài với việc hàng loạt người gửi tiền rút
tiền, ngân hàng sẽ buộc phải đóng cửa và tuyên bố phá sản.
Thứ ba, rủi ro tín dụng giảm uy tín và năng lực cạnh tranh của ngân hàng.
Khi ngân hàng mất khả năng thanh toán, phải đi vay từ nhiều nguồn khác nhau, uy
tín của ngân hàng trên thị trường tài chính sẽ bị giảm đi nghiêm trọng. Hơn nữa tỷ
lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ cao cũng là một chỉ tiêu quan trọng để đánh giá
Sinh Viên: Vũ Minh Khuê
KTPT49A
19
Chuyên đề thực tập
không tốt về tình hình hoạt động của ngân hàng. Điều này sẽ ảnh hưởng lớn đến

tâm lý đối tác của ngân hàng, dẫn đến việc huy động vốn trở nên khó khăn hơn
và gặp nhiều trở ngại trong việc cạnh tranh với các ngân hàng khác.
2.2.Đối với nền kinh tế.
Hoạt động của Ngân hàng thương mại mang tính xã hội hoá cao vì nó
liên quan đến nhiều ngành nghề và nhiều thành phần khác nhau trong nền
kinh tế. Do vậy, khi một ngân hàng bị phá sản, nó sẽ gây ảnh hưởng đến các
bộ phận còn lại trong xã hội. Trước tiên là các ngân hàng khác, bởi có quan
hệ mật thiết với nhau trong hoạt động nên một ngân hàng sụp đổ rất có thể
dẫn đến sự sụp đổ của các ngân hàng còn lại. Ngoài ra, việc sản xuất kinh
doanh của các doanh nghiệp bị gián đoạn do thiếu vốn; người gửi tiền không
lấy lại tiền. Những hậu quả này còn làm giảm lòng tin của công chúng vào sự
vững chắc và lành mạnh của hệ thống tài chính, cũng như hiệu lực của các
chính sách tài chính tiền tệ của Chính phủ.
3. Các chỉ tiêu đo lường rủi ro tín dụng
3.1. Phân loại nợ
Theo Quyết Định số 127/2005/QĐ-NHNN ngày 3 tháng 2 năm 2005 về
quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng, Ngân Hàng Nhà
Nước Việt Nam (NHNN) đã ban hành một loạt quyết định và chỉ thị nhằm
mục đích nâng cao chất lượng tín dụng và kiểm soát rủi ro, trong đó có Quyết
Định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22 tháng 4 năm 2005 ban hành quy định
về phân loại nợ,các nhóm nợ bao gồm :
- Nhóm 1:Nợ đủ tiêu chuẩn
+ Các khoản nợ trong hạn mà tổ chức tín dụng đánh giá là có đủ khả
năng thu hồi đầy đủ cả gốc và lãi đúng thời hạn
- Nhóm 2:Nợ cần chú ý
+ Các khoản nợ quá hạn dưới 90 ngày.
Sinh Viên: Vũ Minh Khuê
KTPT49A
20
Chuyên đề thực tập

+ Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ trong hạn theo thời hạn nợ đã
cơ cấu lại.
- Nhóm 3:Nợ dưới tiêu chuẩn
+ Các khoản nợ quá hạn từ 90-180 ngày.
+ Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn dưới 90 ngày theo thời
hạn đã cơ cấu lại.
- Nhóm 4:Nợ nghi ngờ
+ Các khoản nợ quá hạn từ 180-360 ngày.
+ Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn từ 90-180 ngày theo
thời hạn đã cơ cấu lại.
- Nhóm 5:Nợ có khả năng mất vốn
+ Các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày.
+ Các khoản nợ khoanh chờ chính phủ xử lý.
+ Các khoản nợ đã cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn trên 180 ngày theo
thời hạn đã được cơ cấu lại.
3.2 Các chỉ tiêu đo lường
Chỉ tiêu1 : Nợ quá hạn và tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ
Nợ quá hạn là khoản nợ mà khách hàng không trả được khi đã đến hạn
thoả thuận ghi trên hợp đồng tín dụng.
Tỷ lệ nợ qúa hạn =
Nợ quá hạn
*100%
Tổng dư nợ cho vay
Tỷ lệ này gián tiếp cho thấy quy mô của các khoản vay có vấn đề của
ngân hàng. Nếu tỷ lệ này lớn, chứng tỏ chất lượng tín dụng của ngân hàng là
kém, ngân hàng phải xem xét lại khả năng đánh giá lại các khoản cho vay của
mình, đánh giá lại quy trình thủ tục cho vay, đặc biệt xem xét khả năng thực
hiện nhiệm vụ của cán bộ tín dụng.
Theo quy định của ngân hàng Nhà nước Việt Nam, các ngân hàng có tỷ
Sinh Viên: Vũ Minh Khuê

KTPT49A
21
Chuyên đề thực tập
lệ dư nợ quá hạn trên 7% thì là các ngân hàng yếu kém. Ngân hàng có tỷ lệ dư
nợ quá hạn nhỏ hơn 5% là ngân hàng có nghiệp vụ tín dụng tốt, chất lượng
cho vay cao.
Tuy nhiên, ta cũng phải nhận thức rõ ràng hai vấn đề dường như trái
ngược nhau là: Thứ nhất, chỉ tiêu tỷ lệ nợ quá hạn có thể thấp, có thể giảm đi
qua các năm nhưng là do dư nợ của ngân hàng tăng nhanh chóng (nợ quá hạn
của ngân hàng có thể vẫn tăng đều đặn). Nếu ngân hàng quá tin tưởng vào chỉ
tiêu này cho rằng rủi ro tín dụng đối với ngân hàng là không đáng kể khi chỉ
tiêu này thấp thì rất nguy hiểm. Bởi vì rất có thể việc mở rộng quy mô cho
vay của ngân hàng không gắn liền với việc nâng cao chất lượng sẽ làm cho rủi
ro của khoản cho vay mới đó trong tương lai mới bộc lộ. Thứ hai, nợ quá hạn
chưa hẳn đã là tổn thất của ngân hàng, đây vẫn là chỉ tiêu gián tiếp. Bởi vì
không phải tất cả các khoản nợ quá hạn đều dẫn đến rủi ro.
Chỉ tiêu 2 :
Khả năng mất vốn =
Nợ quá hạn không có khả năng thu hồi
*100%
Dư nợ quá hạn
Đây là chỉ tiêu trực tiếp phản ánh rủi ro, ảnh hưởng đến thu nhập của
ngân hàng. Nó cho thấy trong một đồng nợ quá hạn thì có bao nhiêu đồng tổn
thất tức là không có khả năng thu hồi. Nói cách khác, chỉ tiêu này phản ánh
mức độ có thể gây ra rủi ro trong số nợ quá hạn của ngân hàng.
Chỉ tiêu 3 : Nợ khó đòi và tỷ lệ nợ khó đòi trên tổng dư nợ.
Tỷ lệ nợ khó đòi = Nợ khó đòi
Tổng dư nợ
Chỉ tiêu 4 : Chỉ tiêu phản ánh chất lượng tín dụng theo quyết định 493
của Ngân hàng nhà nước

Quyết Định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22 tháng 4 năm 2005 ban
hành quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro
Sinh Viên: Vũ Minh Khuê
KTPT49A
22
Chuyên đề thực tập
tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng.
Quyết Định 493 phân loại nợ thành năm nhóm, bao gồm:
+) Nhóm 1: nợ đủ tiêu chuẩn, bao gồm nợ được đánh giá là có khả năng
thu hồi đầy đủ gốc và lãi đúng hạn;
+) Nhóm 2: nợ cần chú ý, bao gồm nợ được đánh giá là có khả năng thu
hồi đầy đủ gốc và lãi nhưng có dấu hiệu khách hàng suy giảm khả năng trả nợ;
+) Nhóm 3: nợ dưới tiêu chuẩn, bao gồm nợ được đánh giá là không có
khả năng thu hồi gốc và lãi khi đến hạn;
+) Nhóm 4: nợ nghi ngờ, bao gồm nợ được đánh giá là có khả năng tổn
thất cao;
+) Nhóm 5: nợ có khả năng mất vốn, bao gồm nợ được đánh giá là
không còn khả năng thu hồi, mất vốn.
Tỷ Lệ Trích Lập và Công Thức Tính Dự Phòng Cụ Thể
Tỷ lệ trích lập dự phòng cụ thể đối với các nhóm nợ 1, 2, 3, 4, và 5 lần
lượt là 0%, 5%, 20%, 50% và 100%. Quyết Định 493 đưa ra cách tính số tiền
dự
phòng bằng công thức hoàn toàn mới khác với cách tính dự phòng quy
định tại các quy định trước đây. Theo các quy định trước đây, số tiền dự
phòng chỉ đơn giản bằng tỷ lệ trích dự phòng nhân với tài sản có từng nhóm.
Trong khi đó, Quyết Định 493 đưa ra công thức tính số tiền dự phòng như
sau:
R = max {0, (A-C)} x r
Trong đó, R: số tiền dự phòng cụ thể phải trích
A: giá trị khoản nợ

C: giá trị tài sản bảo đảm (nhân với tỷ lệ phần trăm do Quyết Định 493
quy định đối với từng loại tài sản bảo đảm)
r: tỷ lệ trích lập dự phòng cụ thể
Sinh Viên: Vũ Minh Khuê
KTPT49A
23

×