Tải bản đầy đủ (.doc) (85 trang)

Giải pháp nâng cao hoạt động công tác huy động vốn tại chi nhánh techcombank ha tây

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.96 MB, 85 trang )

Khóa luận tốt nghiệp
Khoa Tài chính - Ngân hàng
MỤC LỤC
TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI 1
1. KHÁI NIỆM VỀ VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 12
2. CƠ CẤU VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 12
3. VAI TRÒ CỦA HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 17
3.1. ĐỐI VỚI TOÀN BỘ NỀN KINH TẾ 17
4. CÁC HÌNH THỨC HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 19
GVHD: Th.S Nguyễn Quang Huy
SV: Hồ Thị Thúy
Khóa luận tốt nghiệp
Khoa Tài chính - Ngân hàng
DANH MỤC BẢNG BIỂU
BẢNG
TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI 1
TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI 1
1. KHÁI NIỆM VỀ VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 12
1. KHÁI NIỆM VỀ VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 12
2. CƠ CẤU VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 12
2. CƠ CẤU VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 12
3. VAI TRÒ CỦA HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 17
3. VAI TRÒ CỦA HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 17
3.1. ĐỐI VỚI TOÀN BỘ NỀN KINH TẾ 17
3.1. ĐỐI VỚI TOÀN BỘ NỀN KINH TẾ 17
4. CÁC HÌNH THỨC HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 19
4. CÁC HÌNH THỨC HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 19
BIỂU
Biểu đồ 1: Biểu đồ nguồn vốn huy động của Techcombank Hà Tây Error:
Reference source not found
Biểu đồ 2: Tổng dư nợ và dư nợ quá hạn qua các năm Error: Reference source not


found
Biểu đồ 3: Cơ cấu nguồn vốn huy động theo phương thức huy động Error:
Reference source not found
Biểu đồ 4: Cơ cấu nguồn vốn theo thời gian Error: Reference source not found
Biểu đồ 5: Cơ cấu nguồn vốn huy động theo thành phần kinh tế Error: Reference
source not found
Biểu đồ 6: Cơ cấu nguồn huy động vốn phân theo loại tiền tệ Error: Reference
source not found
GVHD: Th.S Nguyễn Quang Huy
SV: Hồ Thị Thúy
Khóa luận tốt nghiệp
Khoa Tài chính - Ngân hàng
LỜI MỞ ĐẦU
 TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Mục tiêu mà Đảng và Nhà nước ta đặt ra cho đến năm 2020 là phải hoàn
thành nhiệm vụ công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước đưa Việt Nam từ một nước
nông nghiệp trở thành một nước công nghiệp tiên tiến.
Để thục hiện được mục tiêu này vốn là một trong những yếu tố rất quan
trọng, là tiền đề cho sự tăng trưởng kinh tế, mức tăng trưởng kinh tế phụ thuộc vào
quy mô và hiệu quả vốn đầu tư. Vì vậy để đáp ứng nhu cầu phát triển và cạnh tranh
các doanh nghiệp Việt nam cũng đòi hỏi phải được mở rộng, phát triển với quy mô
ngày càng lớn, đổi mới dây truyền công nghệ, nâng cao chất lượng hàng hoá, dịch
vụ, vươn lên cạnh tranh với hàng hoá, dịch vụ của các nước khác trong khu vực và
trên thế giới. Bởi vậy nhu cầu vốn đầu tư cho nền kinh tế ngày càng tăng. Một địa
chỉ quen thuộc và tiện ích nhất mà người cần vốn nghĩ đến đó là các Ngân hàng
thương mại.
Vốn cho đầu tư phát triển có thể được tạo thành từ nhiều nguồn, tuy nhiên
trong điều kiện thị trường tài chính nước ta đang trong giai đoạn bước đầu hình
thành và phát triển thì huy động vốn qua kênh ngân hàng vẫn là phổ biến và hiệu quả
nhất. NHTM là một doanh nghiệp đặc biệt chuyên kinh doanh tiền tệ, hoạt động kinh

doanh của ngân hàng thương mại vừa với danh nghĩa là một tổ chức hạch toán kinh tế -
kinh doanh, vừa với vai trò trung gian tài chính. Với vai trò trung gian tài chính,
NHTM tập trung mọi nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế và phân phối
chúng cho các nhu cầu đầu tư, sản xuất kinh doanh và các nhu cầu khác của các doanh
nghiệp và cá nhân, tổ chức trong nền kinh tế theo các nguyên tắc tín dụng.
Nhu cầu vốn đầu tư ngày càng tăng của nền kinh tế cũng tương đương với
việc huy động vốn của các NHTM phải được tăng cường, mở rộng cho phù hợp.
Mặt khác việc tăng cường huy động và sử dụng vốn hợp lý cũng giúp cho hoạt động
kinh doanh của Ngân hàng được an toàn, hiệu quả .
Cùng với sự phát triển chung của nền kinh tế, nhu cầu về vốn ngày càng tăng và
đòi hỏi phải được đáp ứng nhanh chóng kịp thời. Do vậy, trong thời gian tới để phát huy
hơn nữa vai trò của mình và đáp ứng cho sự phát triển của nền kinh tế cũng như cho
chính bản thân hệ thống ngân hàng, việc huy động vốn cho kinh doanh trong tương lai
GVHD: Th.S Nguyễn Quang Huy
SV: Hồ Thị Thúy
1
Khóa luận tốt nghiệp
Khoa Tài chính - Ngân hàng
chắc chắn sẽ được đặt lên hàng đầu đối với các ngân hàng thương mại và chi nhánh
Techcombank Hà Tây cũng không là ngoại lệ. Vấn đề tìm ra những giải pháp để hoàn
thiện công tác huy động vốn là rất thiết thực và cấp bách.
Nhận thức được tầm quan trọng đó, với những kiến thức đã được học ở trường,
cùng với những kiến thức thu nhận được trong thời gian thực tập, tìm hiểu tình hình
thực tế tại chi nhánh Techcombank Hà Tây vừa qua, em đã mạnh dạn chọn đề tài:
“GIẢI PHÁP NÂNG CAO HOẠT ĐỘNG CÔNG TÁC HUY ĐỘNG VỐN TẠI
CHI NHÁNH TECHCOMBANK HA TÂY” làm luận văn tốt nghiệp cho mình.
 MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về huy động vốn và hiệu quả huy động vốn của
NHTM trong nền kinh tế thị trường.
- Phân tích, đánh giá thực trạng huy động vốn tại chi nhánh Techcombank Hà Tây.

- Đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn tại Techcombank Hà Tây
 ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
- Đối tượng nghiên cứu là công tác huy động vốn tại chi nhánh Techcombank
Hà Tây.
- Phạm vi nghiên cứu là hoạt động của chi nhánh Techcombank Hà Tâytrong
3 năm 2009, 2010 và 2011.
 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp duy vật
lịch sử của Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh kết hợp với các học
thuyết kinh tế, phương pháp thống kê, phương pháp phân tích tổng hợp…
 KẾT CẤU LUẬN VĂN
Luận văn được trình bày theo 3 chương với nội dung cơ bản như sau:
Chương I : Những vấn đề cơ bản về ngân hàng thương mại và hoạt động huy
động vốn tại NHTM.
Chương II : Tổng quan và hoạt động huy động vốn tại ngân hàng
TMCP Kỹ Thương Việt Nam chi nhánh Hà Tây.
Chương III. Phương hướng và giải pháp nâng cao hoạt động
GVHD: Th.S Nguyễn Quang Huy
SV: Hồ Thị Thúy
2
Khóa luận tốt nghiệp
Khoa Tài chính - Ngân hàng
huy động vốn tại chi nhánh Techcombank Hà Tây.
CHƯƠNG I:
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
VÀ HUY ĐỘNG VỐN TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
I. Khái quát chung về NHTM
Ngân hàng thương mại (NHTM) ra đời và phát triển gắn liền với các hoạt động
sản xuất kinh doanh của nhân dân và nền kinh tế. Trong các nước phát triển hầu như
không có một công dân nào là không có quan hệ giao dịch với một Ngân hàng

thương mại nhất định nào đó. NHTM được coi như là một định chế tài chính quen
thuộc trong đời sống kinh tế. Khi nền kinh tế càng phát triển thì hoạt động dịch vụ
của Ngân hàng càng đi sâu vào tận cùng những ngõ ngách của nền kinh tế và đời
sống con người. Mọi công dân đều chịu tác động từ các hoạt động của Ngân hàng,
dù họ chỉ là khách hàng gửi tiền, một người vay hay đơn giản là người đang làm
việc cho một doanh nghiệp có vay vốn và sử dụng các dịnh vụ Ngân hàng.
Ngân hàng thương mại là một sản phẩm độc đáo của nền sản xuất hàng hoá
trong kinh tế thị trường, một tổ chức có tầm quan trọng đặc biệt trong nền kinh tế.
Bản chất, chức năng, các hoạt động nghiệp vụ của các ngân hàng hầu như là giống
nhau song quan niệm về ngân hàng lại không đồng nhất giữa các nước trên thế giới.
1. Ngân hàng thương mại và vai trò của NHTM đối với sự phát
triển của nền kinh tế.
1.1. Khái niệm.
Để đưa ra được một khái niệm chính xác và tổng quát nhất về NHTM, người ta
thường phải dựa vào tính chất và mục đích hoạt động của nó trên thị trường tài
chính, và đôi khi còn kết hợp tính chất, mục đích và đối tuợng hoạt động. Với mỗi
quốc gia khác nhau, hình thành một khái niệm khác nhau về NHTM.
Theo Luật Ngân hàng Đan Mạch năm 1930: “Những nhà băng thiết yếu bao
gồm những nghiệp vụ nhận tiền gửi, buôn bán vàng bạc, hành nghề thương mại và
các giá trị địa ốc, các phương tiện tín dụng và hối phiếu, thực hiện các nghiệp vụ
chuyển ngân, đứng ra bảo hiểm ”
GVHD: Th.S Nguyễn Quang Huy
SV: Hồ Thị Thúy
3
Khóa luận tốt nghiệp
Khoa Tài chính - Ngân hàng
Theo Luật Ngân hàng Pháp năm 1941: “NHTM là những xí nghiệp hay cơ sở hành
nghề thường xuyên nhận của công chúng dưới hình thức ký thác hay hình thức khác
các số tiền mà họ dùng cho chính họ vào các nghiệp vụ chiết khấu, tín dụng hay dịch
vụ tài chính”.

Theo Luật của các TCTD tại Việt Nam:“Ngân hàng là TCTD thực hiện toàn bộ
hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan”
“Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ, chủ yếu là nhận tiền gửi,
sử dụng số tiền đó để cho vay và thực hiện các nghiệp vụ thanh toán”.
“NHTM là loại hình ngân hàng được thực hiện toàn bộ các hoạt động ngân hàng
và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan vì mục tiêu lợi nhuận góp phần thực
hiện các mục tiêu kinh tế của Nhà nước”.
Như vậy, mặc dù có nhiều cách thể hiện khác nhau về định nghĩa NHTM, nó tuỳ
thuộc vào tập quán pháp luật của từng quốc gia, từng vùng lãnh thổ nhưng khi đi
sâu phân tích, khai thác nội dung của từng định nghĩa đó, người ta dễ dàng nhận
thấy rằng: Tất cả các NHTM đều có chung một tính chất đó là: việc nhận tiền ký
thác - tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn, để sử dụng vào các nghiệp vụ cho vay,
chiết khấu và các dịch vụ kinh doanh khác của chính Ngân hàng.
1.2. Phân loại NHTM
Trên thế giới các ngân hàng thương mại hoạt động với chức năng, nghiệp vụ
khá giống nhau, đó là việc: nhận tiền gửi ký thác, tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ
hạn để sử dụng vào các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu và các nghiệp vụ kinh doanh
khác của chính ngân hàng. Để phân loại các Ngân hàng thương mại ta có thể dựa
trên các tiêu chi sau:
Căn cứ vào hình thức sở hữu: Các Ngân hàng thương mại được phân thành:
- Ngân hàng sở hữu tư nhân: Là ngân hàng được thành lập bằng vốn của một cá
nhân. Đây là các ngân hàng nhỏ, thường chỉ hoạt động trong phạm vi một địa
phương với đối tượng phục vụ chủ yếu là những người trong địa phương.
- Ngân hàng sở hữu của các cổ đông: Là ngân hàng được hình thành từ nguồn
vốn thông qua tập trung phát hành cổ phiếu. Những người nắm giữ cổ phiếu này
chính là những người chủ của ngân hàng. Họ có quyền tham gia vào các hoạt động
của ngân hàng và được chia lãi cổ tức. Do huy động từ nhiều người nên các ngân
GVHD: Th.S Nguyễn Quang Huy
SV: Hồ Thị Thúy
4

Khóa luận tốt nghiệp
Khoa Tài chính - Ngân hàng
hàng này có vốn chủ sở hữu lớn, có các hình thức kinh doanh đa dạng.
- Ngân hàng sở hữu nhà nước: Là loại hình ngân hàng có vốn chủ sở hữu thuộc
về Nhà nước. Đây là loại hình ngân hàng có thể nói là an toàn nhất, rất ít khi bị phá
sản. Tuy nhiên, các ngân hàng này nhiều khi phải thực hiện những nhiệm vụ nhà
nước giao, ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Căn cứ theo tính chất hoạt động
- Ngân hàng chuyên doanh và ngân hàng đa năng.
Ngân hàng chuyên doanh là ngân hàng hoạt động theo hướng chuyên doanh,
thường chỉ cung cấp một hoặc một số dịch vụ ngân hàng nhất định.
Ngân hàng đa năng là ngân hàng cung cấp mọi dịch vụ ngân hàng. Đây là xu
hướng chủ yếu hiện nay của các ngân hàng thương mại.
- Ngân hàng bán buôn và ngân hàng bán lẻ.
Ngân hàng bán buôn là loại hình ngân hàng mà hoạt động của nó chủ yếu thực
hiện đối với các khách hàng lớn. Số lượng các giao dịch của ngân hàng bán buôn
nhỏ song về giá trị một dịch vụ lại lớn.
Ngân hàng bán lẻ là loại hình ngân hàng mà hoạt động chủ yếu của nó thực hiện
đối với các khách hàng là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, khách hàng cá nhân. Số
lượng các giao dịch của ngân hàng bán lẻ lớn song giá trị một giao dịch thường nhỏ.
Căn cứ theo cơ cấu tổ chức
Ngân hàng sở hữu công ty và ngân hàng không sở hữu công ty. Sự phân chia
này là do pháp luật ở nhiều nước cấm không cho ngân hàng trực tiếp tham gia vào
một số hoạt động kinh doanh như: buôn bán chứng khoán, bất động sản nên các
ngân hàng tổ chức ra các công ty riêng, có tư cách pháp nhân để kinh doanh.
Việt Nam, với việc chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, thực hiện nhất quán
chính sách kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, mọi người
được tự do kinh doanh, bình đẳng trước pháp luật. Nhà nước ta quan niệm: (Theo
điều 4 Luật các Tổ chức tín dụng của Việt nam số 47/ 2010/QH 12) “Ngân hàng
thương mại là loại hình ngân hàng được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng và

các hoạt động kinh doanh khác theo quy định của Luật này nhằm mục tiêu lợi
nhuận”.
GVHD: Th.S Nguyễn Quang Huy
SV: Hồ Thị Thúy
5
Khóa luận tốt nghiệp
Khoa Tài chính - Ngân hàng
* Các loại hình ngân hàng ở Việt Nam hiện nay:
- Ngân hàng thương mại quốc doanh: Đây là các ngân hàng giữ vai trò chủ đạo
trong hệ thống ngân hàng ở nước ta. Các ngân hàng này được nhà nước cấp vốn và
hoạt động chịu sự quản lý của nhà nước. Ngoài việc tiến hành kinh doanh bình
thường: huy động vốn, cho vay và các dịch vụ khác, ngân hàng còn phải thực hiện
các nhiệm vụ khi nhà nước giao cho. Hiện nay có các ngân hàng thương mại quốc
doanh sau: Ngân hàng Nông Nghiệp và Phát triển nông thôn, Ngân hàng Ngoại
Thương Việt Nam, Ngân hàng Công Thương Việt Nam, Ngân hàng Đầu Tư và Phát
triển Việt Nam, Ngân hàng chính sách xã hội, Ngân hàng phát triển nhà đồng bằng
sông Cửu Long.
- Ngân hàng thương mại cổ phần: Đây là các ngân hàng được thành lập và hoạt
động theo luật công ty cổ phần. Sở hữu ngân hàng là các cổ đông, họ cùng nhau góp
vốn để hình thành và hoạt động theo quy định của pháp luật.
- Ngân hàng liên doanh: Là ngân hàng được thành lập trên cơ sở hợp đồng liên
doanh. Vốn điều lệ là vốn góp của bên ngân hàng Việt Nam và bên ngân hàng nước
ngoài, có trụ sở chính tại Việt Nam và chịu sự điều chỉnh của pháp luật Việt Nam.
- Chi nhánh ngân hàng nước ngoài: Là một bộ phận của ngân hàng nước ngoài
(ngân hàng nguyên xứ) hoạt động tại Việt Nam, chịu sự điều chỉnh của pháp luật
Việt Nam.
- Ngân hàng đầu tư: Ngân hàng đầu tư hoạt động với mục tiêu đầu tư trung và
dài hạn, cũng vì sự phát triển nhưng thông qua hình thức đầu tư gián tiếp thông qua
các giấy tờ có giá.
- Ngân hàng phát triển: Ngân hàng phát triển có nét đặc trưng nổi bật là những

ngân hàng này tập trung vốn huy động trung, dài hạn và đầu tư trung, dài hạn vì sự
phát triển. Hoạt động đầu tư của loại ngân hàng này chủ yếu đầu tư trực tiếp qua các
dự án.
- Ngân hàng chính sách: Là những ngân hàng thương mại 100% vốn Nhà nước
hoặc ngân hàng thương mại cổ phần Nhà nước (gồm sở hữu Nhà nước và sở hữu
của các tổ chức kinh tế quốc doanh) được lập ra để phục vụ những chính sách của
Nhà nước. Loại ngân hàng này không hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận.
GVHD: Th.S Nguyễn Quang Huy
SV: Hồ Thị Thúy
6
Khóa luận tốt nghiệp
Khoa Tài chính - Ngân hàng
- Ngân hàng hợp tác: Ngân hàng hợp tác hay gọi rộng ra là những tổ chức tín
dụng hợp tác, là những tổ chức tín dụng thuộc sở hữu tập thể, được các thành viên
tự nguyện lập lên không phải vì mục tiêu lợi nhuận mà vì mục tiêu tương trợ lẫn
nhau về vốn và dịch vụ ngân hàng.
1.3. Vai trò của NHTM đối với sự phát triển của nền kinh tế.
Từ khái niệm về NHTM nêu trên áp dụng vào thực tế nước ta, một nước có hơn
80% dân số sống bằng nghề nông, việc phát triển sản xuất theo chiều hướng CNH-
HĐH rất cần đến NHTM với vai trò to lớn của nó. Nhất là khi quá trình CNH -
HĐH của chúng ta đã đi vào chiều sâu, yêu cầu cần có vốn để xây dựng cơ sở hạ
tầng, tăng tốc đầu tư, từng bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đảm bảo nhịp độ tăng
trưởng kinh tế nhanh và lâu bền, thực hiện thành công các mục tiêu phát triển kinh
tế năm thì vai trò của các NHTM càng được Đảng và Nhà nước ta coi trọng.
- Ngân hàng là nơi cung cấp vốn cho nền kinh tế
Ngân hàng thương mại ra đời là tất yếu của nền sản xuất hàng hoá. Sản xuất
hàng hoá phát triển, lưu thông hàng hoá ngày càng mở rộng, trong xã hội xuất hiện
người thì có vốn nhàn rỗi, người thì cần vốn để tiến hành các hoạt động sản xuất
kinh doanh. Điều này giải quyết bằng cách nào? NHTM ra đời là chìa khoá giúp
cho người cần vốn có được vốn và người có vốn tạm thời nhàn rỗi có thể kiếm được

lãi từ vốn. Các ngân hàng cũng cân đối được vốn trong nền kinh tế giúp cho các
thành phần kinh tế cùng nhau phát triển. Các ngân hàng đứng ra huy động vốn tạm
thời nhàn rỗi từ các doanh nghiệp, các cá nhân sau đó sẽ cung ứng lại cho nơi cần
vốn để tiến hành tái sản xuất với trang thiết bị hiện đại hơn, tạo ra sản phẩm tốt hơn,
có lợi nhuận cao hơn. Xã hội càng phát triển nhu cầu vốn cần cho nền kinh tế càng
tăng, không một tổ chức nào có thể đáp ứng được. Chỉ có ngân hàng - một tổ chức
trung gian tài chính mới có thể đứng ra điều hoà, phân phối vốn giúp cho tất cả các
thành phần kinh tế cùng nhau phát triển nhịp nhàng, cân đối.
- Ngân hàng là cầu nối giữa doanh nghiệp và thị trường
Trong nền kinh tế thị trường các doanh nghiệp không phải là cứ sản xuất bất cứ
cái gì mà phải luôn trả lời được 3 câu hỏi: sản xuất cái gì? sản xuất như thế nào ? và
sản xuất cho ai? Có nghĩa là sản xuất theo tín hiệu của thị trường. Thị trường yêu
cầu các doanh nghiệp phải sản xuất ra các sản phẩm với chất lượng tốt hơn, mẫu mã
đẹp hơn, phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng. Để được như vậy các doanh
GVHD: Th.S Nguyễn Quang Huy
SV: Hồ Thị Thúy
7
Khóa luận tốt nghiệp
Khoa Tài chính - Ngân hàng
nghiệp phải được đầu tư bằng dây truyền công nghệ hiện đại, trình độ cán bộ, công
nhân lao động phải được nâng cao Những hoạt động này đòi hỏi doanh nghiệp
phải có một lượng vốn đầu tư lớn và để đáp ứng được thì chỉ có các ngân hàng.
Ngân hàng sẽ giúp cho các doanh nghiệp thực hiện được các cải tiến của mình, có
được các sản phẩm có chất lượng, giá thành rẻ, nâng cao năng lực cạnh tranh.
- NHTM là công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế của Nhà nước.
Trong nền kinh tế thị trường, NHTM với tư cách là trung tâm tièn tệ của toàn
bộ nền kinh tế, đảm bảo sự phát tiển hài hoà cho tất cả các thành phần kinh tế
khi tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh, có thể nói mỗi sự dao động của
Ngân hàng đều gây ảnh hưởng ít nhiều đến các thành phần kinh tế khác. Do vậy
sự hoạt động có hiệu quả của NHTM thông qua các nghiệp vụ kinh doanh của

nó thực sự là công cụ tốt để Nhà nứơc tiến hành điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Thông qua hoạt động tín dụng và thanh toán giữa các Ngân hàng trong hệ
thống, NHTM đã trực tiếp góp phần mở rộng khối lượng tiền cung ứng trong lưu
thông. Mặt khác với việc cho các thành phần trong nền kinh tế vay vốn, NHTM
đã thực hiện việc dẫn dắt các luồng tiền, tập hợp và phân chia vốn của thị
trường, điều kiện chúng một cách có hiệu quả, bảo đảm cung cấp đầy đủ kịp thời
nhu cầu vốn cho quá trình tái sản xuất cũng như thực thi vai trò điều tiết gián
tiếp vĩ mô nền kinh tế.
- Ngân hàng thương mại là cầu nối nền tài chính quốc gia với nền tài chính
quốc tế.
Ngày nay, trong su hướng toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới với việc hình
thành hàng loạt các tổ chức kinh tế, các khu vực mậu dịch tự do, làm cho các
mối quan hệ thương mại, lưu thông hàng hoá giữa các quốc gia trên thế giới
ngày càng được mở rộng và trở nên cần thiết, cấp bách. Nền tài chính của một
quốc gia cần phải hoà nhập với nền tài chính thế giới. Các ngân hàng thương
mại là trung gian, cầu nối để tiến hành hội nhập. Ngày nay, đầu tư ra nước ngoài
là một hướng đầu tư quan trọng và mang lại nhiều lợi nhuận. Đồng thời các
nước cần xuất khẩu những mặt hàng mà mình có lợi thế so sánh và nhập khẩu
những mặt hàng mà mình thiếu. Các ngân hàng thương mại với những nghiệp vụ
kinh doanh như : nhận tiền gửi, cho vay, bảo lãnh và đặc biệt là các nghiệp vụ
thanh toán quốc tế, đã góp phần tạo điều kiện, thúc đẩy ngoại thương không
GVHD: Th.S Nguyễn Quang Huy
SV: Hồ Thị Thúy
8
Khóa luận tốt nghiệp
Khoa Tài chính - Ngân hàng
ngừng được mở rộng và phát triển.
2. Các nghiệp vụ cơ bản của NHTM.
NHTM hiện đại hoạt động với ba nghiệp vụ chính đó là: nghiệp vụ huy động
vốn, nghiệp vụ sử dụng vốn và các nghiệp vụ trung gian khác. Ba nghiệp vụ này

có quan hệ mật thiết, tác động hỗ trợ thúc đẩy nhau cùng phát triển, tạo nên uy
tín và thế mạnh cạnh tranh cho các NHTM, các nghiệp vụ này đan xen lẫn nhau
trong quá trình hoạt động của Ngân hàng, tạo nên một chỉnh thể thống nhất
trong quá trình hoạt động kinh doanh của NHTM.
2.1. Nghiệp vụ huy động vốn.
Nghiệp vụ này phản ánh quá trình hình thành vốn cho hoạt động kinh doanh của
NHTM, cụ thể bao gồm các nghiệp vụ sau:
- Nghiệp vụ tiền gửi:
Đây là vốn quan trọng, chiếm tỷ trọng lớn trong nguồn vốn ngân hàng thương
mại và đó là mục tiêu tăng trưởng hàng năm của các ngân hàng. Có 2 hình thức huy
động khác nhau:
Tiền gửi thanh toán: Là số tiền của doanh nghiệp hoặc cá nhân gửi vào Ngân
hàng nhằm mục đích giao dịch, thanh toán, chi trả cho các hoạt động mua bán hàng
hóa, dịch vụ và các khoản chi phí phát sinh trong kinh doanh. Người gửi có thể rút
ra bất kỳ lúc nào và ngân hàng phải có trách nhiệm đáp ứng kịp thời, đầy đủ. Đây là
nguồn huy động có chi phí thấp của ngân hàng thương mại.
Tiền gửi tiết kiệm: Là những khoản tiền mà ngân hàng thương mại huy động từ
doanh nghiệp hoặc từ các khoản tiền nhàn rỗi trong các tầng lớp dân cư. Đây là
nguồn vốn ổn định, vì vậy các ngân hàng thương mại luôn tìm cách đa dạng hóa
huy động loại tiền gửi này bằng việc áp dụng các kỳ hạn lãi suất linh hoạt cùng với
nhiều chính sách khách hàng để thu hút tối đa nguồn vốn này.
- Nghiệp vụ phát hành giấy tờ có giá:
Thực chất là ngân hàng huy động vốn bằng việc phát hành các giấy tờ có giá
như: kỳ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi; trong đó kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi
là loại phiếu nợ ngắn hạn, trái phiếu là phiếu nợ trung dài hạn. Các loại giấy tờ có
giá đó được NHTM phát hành từng đợt với mục đích và số lượng cụ thể và được
GVHD: Th.S Nguyễn Quang Huy
SV: Hồ Thị Thúy
9
Khóa luận tốt nghiệp

Khoa Tài chính - Ngân hàng
NHTW chấp thuận. Khả năng vay mượn tùy thuộc vào uy tín của ngân hàng, lãi
suất và trình độ phát triển của thị trường tài chính.
- Nghiệp vụ đi vay:
Nghiệp vụ đi vay được các NHTM sử dụng thường xuyên nhằm mục đích tạo vốn
kinh doanh cho mình bằng việc vay các tổ chức tín dụng trên thị trường tiền tệ và vay
Ngân hàng nhà nước dưới các hình thức tái chiết khấu hay vay có đảm bảo Trong đó
các khoản vay từ Ngân hàng nhà nước chủ yếu nhằm tạo sự cân đối trong điều hành
vốn của bản thân NHTM khi mà nó không tự cân đối được nguồn vốn trên cơ sở khai
thác tại chỗ.
- Nghiệp vụ huy động vốn khác:
Ngoài ba nghiệp vụ huy động vốn cơ bản kể trên, NHTM còn có thể tạo vốn
kinh doanh cho mình thông qua việc nhận làm đại lý hay uỷ thác vốn cho các tổ
chức, cá nhân trong và ngoài nước. Đây là khoản vốn huy động không thường
xuyên của NHTM, thường để nhận được khoản vốn này đòi hỏi các Ngân hàng phải
lập ra các dự án cho từng đối tượng hoặc nhóm đối tượng phù hợp với đối tượng
các khoản vay.
- Vốn chủ sở hữu của NHTM :
Đây là vốn thuộc quyền sở hữu của NHTM. Lượng vốn này chiếm tỷ trọng nhỏ
trong tổng nguồn vốn của ngân hàng, song lại là điều kiện pháp lý bắt buộc khi bắt
đầu thành lập ngân hàng. Do tính chất thường xuyên ổn định, ngân hàng có thể sử
dụng nó vào các mục đích khác nhau như trang bị cơ sở vật chất, nhà xưởng, mua
sắm tài sản cố định phục vụ cho bản thân ngân hàng, cho vay, đặc biệt là tham gia
đầu tư góp vốn liên doanh. Trong thực tế khoản vốn này không ngừng được tăng lên
từ kết quả hoạt động kinh doanh của bản thân Ngân hàng mang lại.
2.2. Nghiệp sử dụng vốn.
Đây là nghiệp vụ phản ánh quá trình sử dụng vốn của NHTM vào các mục đích
khác nhau nhằm đảm bảo an toàn kinh doanh cũng như tìm kiếm lợi nhuận. Nghiệp
vụ tài sản có bao gồm các nghiệp vụ cụ thể sau:
- Nghiệp vụ ngân quỹ:

Nghiệp vụ này phản ánh các khoản vốn của NHTM được dùng vào với mục đích
nhằm đảm bảo an toàn về khả năng thanh toán hiện thời cũng như khả năng thanh toán
GVHD: Th.S Nguyễn Quang Huy
SV: Hồ Thị Thúy
10
Khóa luận tốt nghiệp
Khoa Tài chính - Ngân hàng
nhanh của NHTM và thực hiện quy định về dự trữ bắt buộc do Ngân hàng Nhà nước đề ra.
- Nghiệp vụ cho vay:
Cho vay là hoạt động quan trọng nhất của Ngân hàng thương mại. NH thương
mại đi vay để cho vay, do đó có cho vay được hay không là vấn đề mà mọi NH
thương mại đều phải tìm cách giải quyết. Thông thường lợi nhuận từ hoạt động cho
vay này chiếm tới 65- 70% trong tổng lợi nhuận của ngân hàng. Nghiệp vụ cho vay
có thể được phân loại bằng nhiều cách: theo thời gian có cho vay ngắn hạn, cho vay
trung hạn và dài hạn, theo hình thức đảm bảo có cho vay có đảm bảo, cho vay
không có đảm bảo, theo mục đích có cho vay bất động sản, cho vay thương mại,
cho vay cá nhân, cho vay nông nghiệp, cho vay thuê mua
- Nghiệp vụ đầu tư tài chính:
Bên cạnh nghiệp vụ tín dụng, các NHTM còn dùng số vốn huy động được từ
dân cư, từ các tổ chức kinh tế - xã hội để đầu tư vào nền kinh tế dưới các hình thức
như : hùn vốn, góp vốn, kinh doanh chứng khoán trên thị trường và trực tiếp thu
lợi nhuận trên các khoản đầu tư đó.
- Nghiệp vụ khác
Ngân hàng thương mại thực hiện các hoạt động king doanh như: kinh doanh
ngoại tệ, vàng bạc và kim khí, đá quý; thực hiện các dịch vụ tư vấn, dịch vụ ngân
quỹ; nghiệp vụ uỷ thác và đại lý; kinh doanh và dịch vụ bảo hiểm
2.3. Nghiệp vụ trung gian khác.
Ngoài hai nghiệp vụ cơ bản trên ngân hàng còn thực hiện một số nghiệp vụ
khác như:
- Kinh doanh ngoại hối: Hoạt động kinh doanh của NHTM trên thị trường ngoại

tệ thông qua các giao dịch mua bán giao ngay, giao dịch có kỳ hạn, giao dịch hoán
đổi nhằm đáp ứng các nhu cầu có liên quan đến ngoại tệ của khách hàng, ngân
hàng.
- Dich vụ trong thanh toán: Có thể nói ngân hàng là thủ quỹ của nền kinh tế. Các
doanh nghiệp , tổ chức kinh tế sẽ không phải mất thời gian sau khi mua hoặc bán hàng
hoá và dịch vụ bởi việc thanh toán sẽ được ngân hàng thực hiện một cách nhanh chóng
và chính xác.
- Dịch vụ tư vấn, môi giới: Ngân hàng đứng ra làm trung gian mua bán chứng
GVHD: Th.S Nguyễn Quang Huy
SV: Hồ Thị Thúy
11
Khóa luận tốt nghiệp
Khoa Tài chính - Ngân hàng
khoán, tư vấn cho người đầu tư mua bán chứng khoán, bất động sản
- Các dịch vụ khác: Ngân hàng đứng ra quản lý hộ tài sản; giữ hộ vàng, tiền;
cho thuê két sắt, bảo mật
II. Hoạt động huy động vốn của NHTM
1. Khái niệm về vốn của ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại là một tổ chức trung gian tài chính với các chức năng cơ
bản là: trung gian tín dụng, trung gian thanh toán và chức năng tạo tiền. Để thực hiện
được các chức năng này và đi vào hoạt động một cách có hiệu quả và có lợi nhuận thì
đòi hỏi ngân hàng thương mại phải có một lượng vốn hoạt động nhất định.
Các nhà kinh tế đã đưa ra khái niệm về vốn của NHTM như sau: Vốn của ngân
hàng thương mại là những giá trị tiền tệ do bản thân ngân hàng thương mại tạo lập
hoặc huy động được dùng để cho vay, đầu tư hoặc thực hiện các dịch vụ kinh
doanh khác
Khái niệm trên đã nói đầy đủ những thành phần tạo nên vốn của ngân hàng
thương mại. Về thực chất vốn của ngân hàng thương mại là bao gồm các nguồn tiền
tệ của chính bản thân ngân hàng và nguồn vốn huy động của những người có vốn
tạm thời nhàn rỗi. Họ chuyển tiền vào ngân hàng với các mục đích khác nhau: hoặc

lấy lãi, hoặc nhờ thu, nhờ chi hay là dùng các sản phẩm dịch vụ khác của ngân
hàng. Đây chính là họ chuyển quyền sử dụng vốn cho ngân hàng và số tiền mà ngân
hàng phải trả hay làm các dịch vụ chính là cái giá của quyền sử dụng các giá trị tiền
tệ đó. Nhờ việc có được nguồn vốn, các ngân hàng có thể tiến hành kinh doanh: cho
vay, bảo lãnh, cho thuê Nói chung vốn của ngân hàng chi phối toàn bộ và quyết
định đối với việc thực hiện các chức năng của ngân hàng thương mại.
2. Cơ cấu vốn của Ngân hàng thương mại
Vốn của ngân hàng thương mại bao gồm:
- Vốn chủ sở hữu.
- Vốn huy động.
- Vốn đi vay.
- Vốn khác.
Mỗi loại vốn đều có tính chất và vai trò riêng trong tổng nguồn vốn hoạt động
GVHD: Th.S Nguyễn Quang Huy
SV: Hồ Thị Thúy
12
Khóa luận tốt nghiệp
Khoa Tài chính - Ngân hàng
của ngân hàng và đều có những tác động nhất định đến hoạt động kinh doanh của
NHTM.
2.1. Vốn chủ sở hữu
Đây là nguồn vốn thuộc quyền sở hữu của chính ngân hàng, ngân hàng có toàn
quyền sử dụng gồm các trang thiết bị, cơ sở vật chất, trang thiết bị, nhà cửa Đây là
nguồn vốn khá quan trọng, trước hết nó tạo uy tín cho chính ngân hàng. Ngân hàng
có to, đẹp, bề thế thì mới tạo được cảm giác an toàn kho khách hàng khi đến giao
dịch. Đối với mỗi ngân hàng, nguồn hình thành và nghiệp vụ hình thành loại vốn rất
đa dạng tuỳ theo tính chất sở hữu, năng lực tài chính của chủ ngân hàng, yêu cầu và
sự phát triển của thị trường.
Vốn chủ sở hữu của NHTM gồm : vốn cấp 1 và vốn cấp 2.
 Vốn cấp 1

Vốn cấp 1 bao gồm vốn điều lệ, quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ, quỹ dự phòng
tài chính, quỹ đầu tư phát triển nghiệp vụ, lợi nhuận không chia.
- Vốn điều lệ ( Nguồn vốn hình thành ban đầu)
Vốn điều lệ là số vốn được ghi trong điều lệ hoạt động của ngân hàng thương
mại. Nguồn vốn này có thể khác nhau giữa các ngân hàng, phụ thuộc vào mỗi hình
thức sở hữu khác nhau của ngân hàng thương mại. Nếu là ngân hàng thương mại
thuộc sở hữu Nhà nước thì vốn điều lệ do ngân sách nhà nước cấp và được bổ sung
trong quá trình hoạt động. Nếu là ngân hàng cổ phần, ngân hàng liên doanh thì do
các cổ đông và các bên liên quan đóng góp. Vốn điều lệ của từng loại ngân hàng
thương mại không được thấp hơn mức vốn pháp định mà pháp luật quy định cho
từng loại ngân hàng thương mại. Trong quá trình kình doanh các ngân hàng thương
mại có thể bổ sung tăng vốn điều lệ nhưng phải được NHTW đồng ý và phải được
công bố công khai.
- Nguồn vốn bổ sung trong quá trình hoạt động
Vốn chủ sở hữu của ngân hàng không ngừng được tăng lên theo thời gian nhờ
có nguồn vốn bổ sung. Nguồn bổ sung này có thể từ lợi nhuận hay từ phát hành
thêm cổ phần, góp thêm, cấp thêm Nguồn vốn bổ sung này tuy không thường
xuyên song đối với các ngân hàng lớn từ lâu đời thì nguồn bổ sung này chiếm một
GVHD: Th.S Nguyễn Quang Huy
SV: Hồ Thị Thúy
13
Khóa luận tốt nghiệp
Khoa Tài chính - Ngân hàng
tỷ lệ rất lớn.
- Các quỹ
Trong quá trình hoạt động, ngân hàng có nhiều quỹ. Mỗi quĩ có một mục đích
riêng: Quỹ đầu tư phát triển, quỹ dự phòng tổn thất, quỹ bảo toàn vốn, quỹ phúc lợi,
quỹ khen thưởng Nguồn để hình thành nên các quỹ là từ lợi nhuận. Các quỹ này
thuộc toàn quyền sử dụng của ngân hàng. Tùy theo quy định của từng quốc gia,
từng thời kỳ từng mức độ trích lập, quy mô và mục đích sử dụng :

• Quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ hàng năm được trích theo tỷ lệ nhất định từ
lợi nhuận sau thuế. Ở Việt Nam, theo Nghị định 146/NĐ/CP/ngày
23/11/2005 mức trích lập là 5% lợi nhuận sau thuế, mức tối đa của quỹ này
có vốn điều lệ thực có.
• Quỹ dự phòng tài chính là các khoản dự phòng tổn thất được xem như là một
bộ phận của vốn tự có để bù đắp thua lỗ. Số dự trữ này không vượt quá 25%
vốn điều lệ của ngân hàng và được trích 10% từ lợi nhuận sau thuế hàng năm.
• Quỹ đầu tư phát triển nghiệp vụ, lợi nhuận không chia…các quỹ này được
trích lập và sử dụng theo quy định của pháp luật.
Ở Việt Nam vốn cấp 1 được dùng làm căn cứ để xác định giới hạn mua, đầu tư
vào tài sản cố định, vào tổ chức tín dụng.
 Vốn cấp 2
Vốn cấp 2 bao gồm các khoản như giá trị tăng thêm của tài sản cố định được
đánh giá lại theo quy định của pháp luật, giá trị tăng thêm của các loại chứng khoán
đấu từ được đánh giá lại theo quy định, trái phiếu chuyển đổi hoặc cổ phiếu ưu đãi
do TCTD phát hành thỏa mãn các điều kiện theo quy đinh, các công cụ nợ khác đáp
ứng các điều kiện của pháp luật, quỹ dự phòng chung.
Ở Việt Nam theo quy định hiện hành vốn cấp 2 bao gồm:
- 50% phần giá tị tăng thêm của tài sản cố định được đánh giá lại
- 40% phần giá trị tăng thêm của loại chứng khoán đầu tư (kể cả cổ phiếu đầu tư
vốn góp) được đánh giá lại.
- Nguồn vay nợ có thể chuyển đổi thành cổ phần
Các khoản vay nợ trung và dài hạn, ổn định có khả năng chuyển đổi thành cổ
GVHD: Th.S Nguyễn Quang Huy
SV: Hồ Thị Thúy
14
Khóa luận tốt nghiệp
Khoa Tài chính - Ngân hàng
phần thì được coi là một bộ phận vốn chủ sở hữu của ngân hàng. Ngân hàng có thể
sử dụng vốn theo các mục đích kinh doanh của mình như có thể đầu tư vào nhà cửa,

đất đai và có thể không phải hoàn trả khi đến hạn.
2.2. Vốn huy động
Vốn huy động là bộ phận lớn nhất trong tổng nguồn vốn của ngân hàng thương
mại. Với việc huy động vốn, ngân hàng có được quyền sử dụng vốn và có trách
nhiệm phải hoàn trả cả gốc lẫn lãi đúng hạn cho người gửi. Ngân hàng có thể huy
động vốn từ dân cư, các tổ chức kinh tế – xã hội với nhiều hình thức khác nhau.
- Tiền gửi thanh toán (tiền gửi giao dịch)
Đây là khoản tiền của các doanh nghiệp và cá nhân gửi vào ngân hàng với mục
đích là sử dụng các dịch vụ thanh toán của ngân hàng. Khoản tiền gửi thanh toán
này có thể được trả lãi (trả lãi thấp) hoặc không được trả lãi tuỳ thuộc vào mỗi ngân
hàng. Người gửi tiền vào ngân hàng để nhờ ngân hàng thu hộ tiền, trả hộ tiền với
một mức phí thấp. Các ngân hàng có thể sử dụng các số dư tiền gửi khách hàng vào
các hoạt động của mình.
- Tiền gửi có kỳ hạn của doanh nghiệp, các tổ chức xã hội
Nhiều doanh nghiệp, tổ chức xã hội có các hoạt động thu, chi tiền theo các chu
kỳ xác định. Họ gửi tiền vào ngân hàng để hưởng lãi. Tuy khoản tiền này không
tiện lợi bằng tiền gửi thanh toán (do khi cần tiền phải đến ngân hàng để rút) nhưng
bù lại tiền gửi có kỳ hạn lại có lãi suất cao hơn tuỳ theo độ dài của kỳ hạn được ghi
trên hợp đồng.
- Tiền gửi tiết kiệm của dân cư
Trong cộng đồng dân cư luôn có những người có khoản tiền tạm thời nhàn rỗi.
Họ gửi tiền vào ngân hàng nhằm thực hiện các mục đích bảo toàn và sinh lời đối
với những khoản tiền đó. Người gửi tiết kiệm sẽ có sổ tiết kiệm xác định rõ thời
gian và hình thức trả lãi đã thoả thuận với ngân hàng. Hiện nay tiền gửi tiết kiệm là
khu vực tiềm năng đồng thời là nơi cạnh tranh gay gắt giữa các ngân hàng, để thu
hút nguồn tiền này các ngân hàng luôn đưa ra các hình thức huy động đa dạng như
tiết kiệm bằng VNĐ, bằng vàng và bằng ngoại tệ, với lãi suất cạnh tranh hấp dẫn và
GVHD: Th.S Nguyễn Quang Huy
SV: Hồ Thị Thúy
15

Khóa luận tốt nghiệp
Khoa Tài chính - Ngân hàng
với nhiều kỳ hạn để người gửi có nhiều cơ hội lựa chọn cho phù hợp, tiện ích nhất.
2.3. Vốn đi vay
Bên cạnh việc huy động tiền gửi, nhiều lúc các ngân hàng cũng phải đi vay để
đảm bảo thanh toán, đảm bảo dự trữ bắt buộc Các ngân hàng có thể vay ở:
- Vay ngân hàng Nhà nước (Ngân hàng Trung ương)
NHTW có thể cho các tổ chức tín dụng vay vốn ngắn hạn khi cần thiết dưới hình
thức tái cấp vốn như : cho vay lại theo hồ sơ tín dụng, chiết khấu, tái chiết khấu,
thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác, cho vay có đảm bảo bằng cầm cố
thương phiếu là các giấy tờ có giá ngắn hạn khác, cho vay bổ sung vốn trong thanh
toán bù trừ, cho vay đặcbiệt khi tổ chức tín dụng mất khả năng thanh toán có nguy cơ
mất an toàn trong hệ thống.
- Vay các tổ chức tín dụng khác
Khi các NHTM có sự mất cân đối giữa nguồn vốn huy động và sử dụng vốn,
xảy ra hiện tượng thiếu vốn đột xuất. Để đảm bảo khả năng thanh toán của mình,
các tổ chức tín dụng vay vốn của nhau qua thị trường liên ngân hàng. Các khoản
vay này thông thường có thời hạn ngắn chủ yếu chỉ để giải quyết những nhu cầu tức
thời. Hoạt động của thị trường này nhằm tận dụng đến mức cao nhất các khả năng
sẵn có một cách triệt để của các tổ chức tín dụng, trước khi có nhu cầu vay vốn của
Ngân hàng Trung ương.
Tuy nhiên, Luật Tổ chức tín dụng năm 2010 vừa được ban hành và sẽ có hiệu
lực từ 2011 thì không có điều khoản nào quy định việc các tổ chức tín dụng được
gửi tiền- nhận tiền gửi lẫn nhau. Tại Chương IV Luật Tổ chức tín dụng năm 2010
quy định về hoạt động của tổ chức tín dụng, quy định các tổ chức tín dụng được vay
vốn lẫn nhau (Điều 100, tiết c khoản 1 Điều 108, khoản 3 Điều 112, tiết b khoản 4
Điều 118, khoản 2 Điều 119), không quy định về hoạt động gửi tiền lẫn nhau giữa
các tổ chức tín dụng, chỉ quy định việc mở tài khoản thanh toán lẫn nhau của các tổ
chức tín dụng nhằm phục vụ cho mục đích thanh toán.
Các tổ chức tín dụng chỉ được thực hiện giao dịch liên ngân hàng dưới các hình

thức: Giao dịch qua mạng điện tử do Ngân hàng Nhà nước hoặc các tổ chức cung
ứng dịch vụ được cơ quan có thẩm quyền cho phép, hoặc qua điện thoại (có ghi âm
GVHD: Th.S Nguyễn Quang Huy
SV: Hồ Thị Thúy
16
Khóa luận tốt nghiệp
Khoa Tài chính - Ngân hàng
lại) hoặc các hình thức khác. Việc lựa chọn áp dụng hình thức giao dịch sẽ do các
bên lựa chọn nhưng phải đảm bảo thực hiện giao dịch an toàn, hiệu quả, đúng luật.
Mục đích của quy định này là nhằm hạn chế việc các tổ chức tín dụng đi vay quá
mức trên thị trường liên ngân hàng so với quy mô hoạt động và nguồn vốn tự có của
mình, đồng thời hạn chế việc đi vay để cho vay lại.
- Vay trên thị trường vốn
Các ngân hàng có thể phát hành giấy nợ (kỳ phiếu, tín phiếu, trái phiếu) trên thị
trường vốn để huy động vốn trung và dài hạn nhằm đáp ứng các nhu cầu cho vay
trung và dài hạn và các nhu cầu đầu tư khác. Những ngân hàng lớn có uy tín hoặc
trả lãi cao sẽ có khả năng vay được nhiều hơn các ngân hàng nhỏ. Các ngân hàng
nhỏ thường vay gián tiếp thông qua các ngân hàng đại lý hoặc được sự bảo lãnh của
ngân hàng đầu tư. Khả năng vay mượn này phụ thuộc nhiều vào trình độ phát triển
của thị trường tài chính, các hình thức phát hành, chuyển đổi, thời hạn của các công
cụ nợ
2.4. Vốn khác
- Nguồn uỷ thác
Ngân hàng thương mại thực hiện các dịch vụ uỷ thác qua đó làm tăng nguồn vốn của
ngân hàng như uỷ thác đầu tư, uỷ thác cho vay, uỷ thác cấp phát, uỷ thác giải ngân và thu
hộ
- Nguồn trong thanh toán
Các khoản thanh toán không dùng tiền mặt như: L/C, uỷ nhiệm thu, uỷ nhiệm chi
hay ngân hàng là đầu mối trong đồng tài trợ cũng giúp ngân hàng làm tăng nguồn vốn
của mình.

- Nguồn khác
Gồm các khoản phải nộp, phải trả như: thuế chưa nộp, lương chưa trả
3. Vai trò của hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương mại.
3.1. Đối với toàn bộ nền kinh tế
Tiết kiệm và đầu tư là những cơ sở nền tảng của nền kinh tế. Tiết kiệm và đầu
tư có mối quan hệ nhân quả, tiết kiệm góp phần thúc đẩy, mở rộng phát triển sản
xuất kinh doanh, tăng cường đầu tư và đầu tư cũng góp phần khuyến khích tiết
GVHD: Th.S Nguyễn Quang Huy
SV: Hồ Thị Thúy
17
Khóa luận tốt nghiệp
Khoa Tài chính - Ngân hàng
kiệm. Nhưng trong nền kinh tế các khoản tiết kiệm thường nhỏ, lẻ và người tiên
phong trong việc tập hợp vốn hiệu quả nhất chính là các ngân hàng thương mại.
Thông qua các kênh huy động vốn, các khoản tiết kiệm chuyển thành đầu tư góp
phần làm tăng hiệu quả của nền kinh tế.
Đối với những người có vốn nhàn rỗi: Việc huy động vốn của ngân hàng trước
hết sẽ giúp cho họ những khoản tiền lãi hay có được các dịch vụ thanh toán đồng
thời các khoản tiền không bị chết, luôn được vận động, quay vòng.
Đối với những người cần vốn: Họ sẽ có cơ hội mở rộng đầu tư, phát triển sản
xuất kinh doanh từ chính nguồn vốn huy động của ngân hàng.
Việc huy động vốn của ngân hàng giúp cho nền kinh tế có được sự cân đối về
vốn, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Các cơ hội đầu tư luôn có điều kiện để thực
hiện. Quá trình tái sản xuất mở rộng sẽ được thực hiện dễ dàng hơn với việc huy
động vốn của các ngân hàng thương mại. Tuy việc huy động vốn có thể thực hiện
bằng nhiều kênh: thị trường chứng khoán, ngân sách nhà nước nhưng trong điều
kiện nước ta hiện nay thì huy động vốn qua các ngân hàng thương mại vẫn là hình
thức chủ yếu và quan trọng nhất.
3.2. Đối với hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại.
- Vốn là cơ sở để ngân hàng tổ chức mọi hoạt động kinh doanh

Để bước vào hoạt động kinh doanh thì đầu tiên ngân hàng phải cần có vốn.
Ngoài lượng vốn bắt buộc phải có, ngân hàng phải huy động từ các nguồn khác.
Ngân hàng đi vay để cho vay. Vậy để có hoạt động cho vay thì phải có thứ để mà
cho vay. Nguồn vốn phản ánh tiềm năng và sức mạnh của ngân hàng. Đối với
những ngân hàng lớn, việc tham gia tài trợ cho những dự án lớn luôn dễ dàng hơn
các ngân hàng nhỏ. Vốn không chỉ là phương tiện kinh doanh mà còn là đối tượng
kinh doanh chủ yếu của ngân hàng thương mại. Nói cách khác, không có vốn thì
ngân hàng không thể thực hiện được các nghiệp vụ kinh doanh của mình.
- Vốn quyết định quy mô hoạt động tín dụng và các hoạt động khác của ngân
hàng.
Hoạt động tín dụng của ngân hàng phụ thuộc vào vốn của ngân hàng. Ngân
hàng có nhiều vốn sẽ có ưu thế cạnh tranh hơn so với ngân hàng ít vốn. Có được
nhiều vốn ngân hàng sẽ có điều kiện để đưa ra các hình thức tín dụng linh hoạt, có
GVHD: Th.S Nguyễn Quang Huy
SV: Hồ Thị Thúy
18
Khóa luận tốt nghiệp
Khoa Tài chính - Ngân hàng
điều kiện để hạ lãi suất từ đó sẽ làm tăng quy mô tín dụng. Các ngân hàng lớn,
nhiều vốn thường có rất nhiều các dịch vụ ngân hàng. Phạm vi hoạt động kinh
doanh của họ sẽ rộng hơn nhiều các ngân hàng nhỏ. Chính vì vậy càng khẳng định
rõ tầm quan trọng của vốn trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
- Vốn quyết định khả năng thanh toán và đảm bảo uy tín của ngân hàng
trên thương trường
Các ngân hàng lớn trên thế giới là các ngân hàng có uy tín, luôn được ca ngợi và
nể trọng. Điều kiện đầu tiên để xây dựng được uy tín của ngân hàng chính là vốn của
ngân hàng. Có nhiều vốn, khả năng thanh toán của ngân hàng luôn được đảm bảo,
các khách hàng luôn cảm thấy yên tâm khi giao thiệp với ngân hàng. Trong nên kinh
tế bất ổn hiện nay, khả năng thanh toán luôn được các ngân hàng ưu tiên hàng đầu và
để được như vậy thì các ngân hàng luôn tìm cách huy động được nhiều vốn hơn.

- Vốn quyết định năng lực cạnh tranh của ngân hàng
Trong thời đại kinh tế cạnh tranh khốc liệt như hiện nay, vốn là điều kiện để các
ngân hàng tham gia cạnh tranh. Nó giúp cho ngân hàng mở rộng quy mô hoạt động,
tăng cường quan hệ với các đối tác. Đồng thời nó lôi kéo khách hàng mới, giữ chân các
khách hàng truyền thống. Doanh số của ngân hàng tăng lên đồng thời làm tăng nguồn
vốn của ngân hàng. Vốn của ngân hàng lớn giúp cho ngân hàng có khả năng tài chính
dồi dào để cạnh tranh với các ngân hàng khác: hạ lãi suất, linh hoạt về thời hạn tín
dụng, hình thức trả lãi Các dịch vụ ngân hàng sẽ ngày càng được cải tiến, phát triển và
được thực hiện tốt hơn.
4. Các hình thức huy động vốn của ngân hàng thương mại
Một hoạt động không thể thiếu của các ngân hàng thương mại là tiến hành huy
động vốn để ngân hàng đi vào hoạt động. Quá trình huy động vốn đó hầu như đều
giống nhau ở các ngân hàng nhưng để phân loại các hình thức huy động thì lại rất
khác nhau. Điều này còn phụ thuộc vào các tiêu chí được lựa chọn để phân loại.
4.1. Phân loại theo thời gian huy động
Phân loại theo thời gian có ý nghĩa quan trọng đối với ngân hàng vì nó liên
quan mật thiết đến tính an toàn và khả năng sinh lợi của nguồn vốn huy động cũng
như thời gian phải hoàn trả khách hàng. Theo thời gian, hình thức huy động được
chia thành:
GVHD: Th.S Nguyễn Quang Huy
SV: Hồ Thị Thúy
19
Khóa luận tốt nghiệp
Khoa Tài chính - Ngân hàng
- Huy động ngắn hạn
Đây là hình thức huy động chủ yếu trong các ngân hàng thương mại thông qua
việc phát hành các công cụ nợ ngắn hạn trên thị trường tiền tệ và các nghiệp vụ
nhận tiền gửi ngắn hạn, tiền gửi thanh toán Phần lớn số này được dùng để cho
vay ngắn hạn (dưới 1 năm) hoặc được chuyển hoán kỳ hạn để thực hiện cho vay
trung hạn. Do thời gian ngắn nên lãi suất huy động ngắn hạn thường thấp, tuy nhiên

tính ổn định lại kém.
- Huy động trung hạn
Đây là nguồn huy động vốn ngân hàng qua phát hành các công cụ nợ trung hạn
trên thị trường vốn hoặc nhận tiền gửi trung hạn (từ 1 đến 5 năm). Vốn huy động
này ngân hàng có thể sử dụng tương đối dài và thuận tiện. Tuy nhiên lãi suất huy
động nguồn này thường cao hơn nguồn ngắn hạn. Nguồn huy động trung hạn rất
quan trọng và cần thiết để ngân hàng thực hiện các hoạt động đầu tư, thay đổi công
nghệ và cho vay trung, dài hạn với lãi suất cao.
- Huy động dài hạn
Đây là hoạt động huy động vốn dài hạn của ngân hàng trên thị trường vốn, với
nguồn huy động này ngân hàng có thể sử dụng dễ dàng, có tính ổn định cao (từ 5
năm trở lên). Do vậy lãi suất mà ngân hàng phải trả cũng rất cao.
4.2. Phân loại căn cứ theo đối tượng huy động
- Huy động vốn từ dân cư
Đây là một khu vực huy động đầy tiềm năng cho các ngân hàng. Ngân hàng huy
động từ các khoản tiền nhàn rỗi của dân chúng và sau đó chuyển đến cho những
người cần vốn để mở rộng đầu tư, kinh doanh. Nguồn huy động từ dân cư thường
khá ổn định .
- Huy động vốn từ các doanh nghiệp và các tổ chức xã hội
Đây là nguồn huy động được đánh giá là rất lớn, chiếm tỷ trọng cao trong tổng
nguồn vốn. Để tiết kiệm thời gian và chi phí trong thanh toán, các doanh nghiệp dù
lớn hay nhỏ hầu hết đều có tài khoản trong ngân hàng. Các doanh nghiệp khi bán
được hàng hoá đều gửi tiền vào ngân hàng và rút ra khi cần. Chu kỳ rút tiền của các
doanh nghiệp và các tổ chức xã hội không giống nhau. Vì vậy ngân hàng luôn có
GVHD: Th.S Nguyễn Quang Huy
SV: Hồ Thị Thúy
20
Khóa luận tốt nghiệp
Khoa Tài chính - Ngân hàng
trong tay một khoản tiền lớn mà mình có thể sử dụng một cách tương đối thuận lợi.

Tuy nhiên độ lớn của khoản tiền này phụ thuộc nhiều vào các dịch vụ, các tiện ích
mà ngân hàng mang lại khi khách hàng sử dụng các dịch vụ. Điều này khiến cho
việc huy động vốn từ các doanh nghiệp và các tổ chức xã hội gắn liền với việc mở
rộng, cải tiến các dịch vụ ngân hàng.
- Huy động vốn từ các ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác
Trong quá trình hoạt động các ngân hàng thường có các khoản tiền gửi ở lẫn
nhau để thuận tiện trong giao dịch, thanh toán Ngoài ra việc vay lẫn nhau giữa các
ngân hàng cũng làm tăng nguồn vốn huy động. Điều này tuy không thường xuyên
song là cần thiết trong hoạt động kinh doanh của mỗi ngân hàng thương mại. Khi
xuất hiện việc thiếu hụt dự trữ hay khả năng thanh toán bị đe doạ các ngân hàng
thương mại có thể vay lẫn nhau. Quá trình vay này là một thoả thuận tín dụng giữa
hai bên. Quá trình tăng vốn huy động này có thể được thực hiện ở trên thị trường
nội tệ hay thị trường ngoại tệ.
Khi các NHTM đã hết khả năng vay mượn của nhau mà vẫn thiếu vốn hoặc mất
khả năng thanh toán, các NHTM thực hiện vay vốn tại ngân hàng Trung ưng để tạo
thêm nguồn vốn bổ sung cho hoạt động kinh doanh của mình. Ngân hàng trung
ương đóng vai trò là người cho vay cuối cùng để giúp cho các ngân hàng thương
mại khắc phục những sự cố về thanh khoản.
Huy động vốn từ các Ngân hàng Trung ương và các tổ chức tín dụng khác để
đảm bảo những khả năng cần thiết, nên tuy cũng khá dễ dàng nhưng số lượng
thường không nhiều và chi phí huy động thường cao hơn. Do vậy, hình thức này các
ngân hàng sử dụng không nhiều.
4.3. Phân loại theo bản chất các nghiệp vụ huy động vốn
Hình thức phân loại này là hình thức chủ yếu được các ngân hàng thương mại
sử dụng hiện nay. Phân loại theo nghiệp vụ huy động vốn rõ ràng tạo sự thuận tiện
cho ngân hàng khi tiến hành huy động. Các hình thức huy động bao gồm:
Huy động vốn qua nghiệp vụ nhận tiền gửi
- Huy động tiền gửi không kỳ hạn :
Đây là phần tiền huy động tương đối quan trọng ở những nước phát triển có tỷ lệ
thanh toán không dùng tiền mặt cao. Mục đích của các khoản tiền gửi này không phải

GVHD: Th.S Nguyễn Quang Huy
SV: Hồ Thị Thúy
21
Khóa luận tốt nghiệp
Khoa Tài chính - Ngân hàng
là để lấy lãi mà chủ yếu dùng để thanh toán. Khách hàng gửi tiền phần lớn là những
tổ chức kinh tế, các doanh nghiệp, các cá nhân làm ăn buôn bán phải thanh toán tiền
hàng hoá, dịch vụ liên tục. Người gửi tiền có thể rút tiền ra bất cứ lúc nào hoặc để trả
cho người thứ ba. Hình thức rút có thể là tiền mặt hay lấy qua hình thức thanh toàn
bằng séc. Đặc biệt người gửi tiền có thể không cần trực tiếp đến ngân hàng lấy mà có
thể rút qua các máy rút tiền tự động (máy ATM). Ngân hàng thường bảo quản loại
tiền gửi này trên hai tài khoản: tài khoản thanh toán và tài khoản vãng lai:
Tài khoản thanh toán là loại tài khoản tiền gửi mà chủ tài khoản có toàn quyền
sử dụng số tiền trên tài khoản nhưng chỉ trong phạm vi số dư tiền gửi. Loại tài
khoản này luôn luôn có số dư có.
Tài khoản vãng lai là tài khoản có thể dư có hoặc dư nợ, thường được sử dụng
cho các cá nhân. Số dư có thể hiện tiền gửi của khách hàng còn số dư nợ thể hiện
khoản tín dụng ngân hàng cấp cho khách hàng vay.
Với mục đích chủ yếu khi gửi tiền là để sử dụng các dịch vụ ngân hàng nên
mức lãi suất mà ngân hàng trả cho người gửi tiền là rất thấp, thậm chí không phải
trả lãi. Tuy nhiên ở nhiều nước có tỷ lệ thanh toán không dùng tiền mặt thấp (trong
đó có Việt Nam) và để tăng mức động viên tiền gửi, ngân hàng vẫn trả lãi cho tiền
gửi này (có những thời điểm được trả ngang bằng với lãi suất tiền gửi tiết kiệm
không kỳ hạn). Tỷ lệ huy động từ nguồn này sẽ là khá cao nếu ngân hàng có các
dịch vụ đa dạng, sản phẩm ngân hàng chất lượng cao, hệ thống mạng lưới rộng rãi
đáp ứng tốt các nhu cầu của người gửi tiền.
- Huy động tiền gửi có kỳ hạn
Là tiền gửi của các tổ chức kinh tế, cá nhân gửi vào ngân hàng và rút ra sau một
thời hạn nhất định. Khoản này thường gắn với các tổ chức kinh tế có chu kỳ kinh
doanh gần như xác định, thời gian thanh toán tiền ổn định, ít có sự biến động. Phần tiền

gửi này ngân hàng sử dụng dễ dàng nên mức lãi suất mà ngân hàng phải trả cũng cao
hơn. Người gửi tiền ngoài mục đích sử dụng các dịch vụ ngân hàng còn có mục đích
kiếm lời. Do đó, sự thay đổi lãi suất sẽ có tác động rất nhanh và rõ nét đối với nguồn
vốn huy động của ngân hàng.
Ở Việt Nam, hình thức tiền gửi có kỳ hạn bằng các chứng chỉ tiền gửi (mà
chúng ta vẫn gọi là kỳ phiếu ngân hàng có mục đích) với các thời hạn 3 tháng, 6
GVHD: Th.S Nguyễn Quang Huy
SV: Hồ Thị Thúy
22
Khóa luận tốt nghiệp
Khoa Tài chính - Ngân hàng
tháng, 1 năm, 2 năm ngày càng phổ biến, đã và đang phát huy vai trò hay việc
tạo vốn cho các ngân hàng.
- Huy động tiền gửi tiết kiệm
Đây là hình thức phổ biến nhất, lâu đời nhất của các ngân hàng thương mại.
Bao gồm các loại sau:
Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn : Hình thức này gần giống như huy động tiền
gửi không kỳ hạn. Tuy nhiên so với tiền gửi không kỳ hạn thì số dư của phần này
ổn định hơn, ít biến động hơn nên ngân hàng phải trả lãi suất cao hơn.
Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn: Đây là loại hình tiết kiệm phổ biến nhất, quen
thuộc nhất ở nước ta. Người gửi tiền gửi vào ngân hàng và rút ra sau những thời hạn
xác định: 3 tháng, 6 tháng Người gửi không được rút trước, nếu rút trước hạn thì
sẽ bị phạt. Đây là những khoản tiền có tính ổn định rất cao nên ngân hàng phải trả
khách hàng với lãi suất gần như là cao nhất. Tuy nhiên, ở nước ta hiện nay, để tăng
sức cạnh tranh, thu hút được vốn các ngân hàng đã rất linh hoạt trong việc khách
hàng rút ra trước thời hạn. Có ngân hàng thì tính lãi cho khách hàng với lãi suất
không kỳ hạn, có ngân hàng vẫn tính với lãi suất đó với số ngày gửi thực tế
Tiền gửi tiết kiệm gửi góp : Loại hình này khá phổ biến ở những nước phát
triển nhưng ở nước ta còn khá mới mẻ. Người gửi có thể gửi tiền vào bất cứ lúc nào
và chỉ được rút ra khi đến hạn (thời hạn tương đối dài). Loại hình này giúp cho ngân

hàng có nguồn vốn ổn định để có thể đầu tư trung và dài hạn.
Huy động vốn qua nghiệp vụ đi vay
Hình thức này ngày càng chiếm vai trò quan trọng trong môi trường kinh doanh
đầy biến động như hiện nay. Các ngân hàng thương mại có thể vay từ nhiều nguồn:
- Vay từ các tổ chức tín dụng
Đó là các khoản vay thông thường mà các ngân hàng vay lẫn nhau trên thị
trường liên ngân hàng hay thị trường tiền tệ. Các ngân hàng thường xây dựng các
mối quan hệ tốt để khi thiếu hụt vốn có thể vay lẫn nhau chứ không vay ngân hàng
trung ương.
- Vay từ ngân hàng trung ương
Khi ngân hàng thương mại xảy ra tình trạng thiếu hụt dự trữ bắt buộc hay mất
GVHD: Th.S Nguyễn Quang Huy
SV: Hồ Thị Thúy
23

×