Tải bản đầy đủ (.doc) (86 trang)

Giải pháp nhằm hạn chế rủi ro trong thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ tại ngân hàng Saocmbank chi nhánh Đống Đa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.26 MB, 86 trang )

Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐH Phương Đông
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan chuyên đề “ Giải pháp nhằm hạn chế rủi ro trong thanh toán
quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ tại ngân hàng Saocmbank chi nhánh
Đống Đa” là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong chuyên đề là trung thực và có nguồn gốc rõ ràng.
Tôi xin chân thành cảm ơn các Thầy cô trường Đại học DL Phương Đông đã
truyền đạt cho tôi kiến thức trong suốt những năm học ở trường.
Hà Nội, tháng 2 năm 2012
Tác giả chuyền đề

Trần Thị Mai Vân
SV: Trần Thị Mai Vân
Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐH Phương Đông
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Ngân hàng thương mại cổ phần NHTMCP
Ngân hàng Nhà nước NHNN
Doanh nghiệp DN
Cá nhân CN
Xuất khẩu XK
Nhập khẩu NK
Thanh toán quốc tế TTQT
Tín dụng chứng từ TDCT
Xuất nhập khẩu XNK
Bộ chứng từ BCT
Khách hàng KH
Ngân hàng NH
SV: Trần Thị Mai Vân
Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐH Phương Đông
DANH MỤC BẢNG BIỂU
BẢNG


SV: Trần Thị Mai Vân
Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐH Phương Đông
MỤC LỤC
1
SV: Trần Thị Mai Vân
Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐH Phương Đông

LỜI MỞ ĐẦU
Hiện nay, khối các ngân hàng thương mại cổ phần đang được đánh giá là
phát triển năng động và chiếm thị phần ngày càng lớn trong hầu hết các lĩnh vực
hoạt động của ngân hàng thương mại. NHTMCP Sài Gòn Thương Tín (Sacombank)
là một trong số những NHTMCP đang phát triển mạnh mẽ trong thời gian gần đây.
Sacombank cũng là ngân hàng có thế mạnh về thanh toán quốc tế, đang nỗ lực duy
trì vị trí một trong các NHTMCP có thị phần cao nhất về thanh toán quốc tế. Cùng
với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra nhanh chóng trên phạm vi rộng
lớn như hiện nay, các quan hệ kinh tế đối ngoại nói chung và hoạt động xuất nhập
khẩu nói riêng đang ngày càng khẳng định vị trí quan trọng trong đời sống kinh tế
xã hội của mỗi nước, và Việt Nam cũng không nằm ngoài dòng chảy đó. Nắm bắt
được xu thế ấy, các ngân hàng thương mại trong nước nói chung và Sacombank nói
riêng đang rất chú trọng tới việc phát triển các nghiệp vụ thanh toán quốc tế tại đơn
vị để nâng cao thị phần của mình, từ đó gia tăng thu nhập từ lĩnh vực dịch vụ hấp
dẫn và đầy tiềm năng này. Trong số các phương thức thanh toán quốc tế đang được
sử dụng phổ biến hiện nay, phương thức tín dụng chứng từ được sử dụng rộng rãi
nhất do những ưu điểm vượt trội của nó so với các phương thức thanh toán khác.
Song tín dụng chứng từ không phải là nghiệp vụ đơn giản, trong thực tế công tác
này đã gặp phải không ít những rủi ro gây thiệt hại cả về tài chính lẫn uy tín cho các
ngân hàng thương mại cũng như các doanh nghiệp Việt Nam.
Thực trạng trên cho thấy việc phát hiện, phòng ngừa những rủi ro trong
thanh toán quốc tế đặc biệt là thanh toán bằng phương thức tín dụng chứng từ là
một việc làm cần thiết mà các ngân hàng Thương Mại cũng như các doanh

nghiệpViệt Nam phải quan tâm chú trọng. Chính vì vậy, tôi chọn đề tài: “Giải pháp
nhằm hạn chế rủi ro trong thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ
tại Ngân hàng Sacombank chi nhánh Đống Đa”.
SV: Trần Thị Mai Vân
1
Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐH Phương Đông
Nội dung để tài gồm 3 chương:
Chương I: Những vấn đề cơ bản và các rủi ro thường gặp trong hoạt động
thanh toán tín dụng chứng từ
Chương II: Thực trạng rủi ro trong thanh toán quốc tế tại Ngân Hàng
Sacombank chi nhánh Đống Đa.
Chương III: Giải pháp nhằm hạn chế rủi ro trong phương thức thanh toán
tín dụng chứng từ tại Sacombank chi nhánh Đống Đa.
Tuy nhiên, do những hạn chế về lý luận cũng như kinh nghiệm thực tiễn nên
chuyên đề của tôi không tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, tôi rất mong nhận được
sự góp ý từ phía thầy cô và các bạn để bài viết đạt kết quả cao hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn ban lãnh đạo ngân hàng và các cán bộ Ngân hàng
Sacombank chi nhánh Đống Đa đã tận tình giúp tôi hoàn thành đề tài này.
SV: Trần Thị Mai Vân
Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐH Phương Đông
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VÀ CÁC RỦI RO
THƯỜNG GẶP TRONG HOẠT ĐỘNG THANH TOÁN
TÍN DỤNG CHỨNG TỪ
1.1 .TỔNG QUAN VỀ PHƯƠNG THỨC TÍN DỤNG CHỨNG TỪ CỦA NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.1. Khái niệm
Phương thức tín dụng chứng từ là phương thức thanh toán quốc tế được sử
dụng rộng rãi nhất hiện nay, do nó là phương thức ưu việt hơn cả trong các phương
thức thanh toán quốc tế. Phương thức này đảm bảo quyền lợi tương đối cho cả
người mua và người bán, do đó góp phần thúc đẩy hoạt động ngoại thương, nâng

cao hiệu quả hoạt động xuất nhập khẩu của các nước.
“Phương thức tín dụng chứng từ là một sự cam kết thanh toán có điều kiện bằng
văn bản của ngân hàng, trong đó một ngân hàng (ngân hàng mở thư tín dụng) theo
yêu cầu của khách hàng (người yêu cầu mở thư tín dụng) sẽ trả tiền cho người
hưởng lợi hay chấp nhận, mua hối phiếu do người hưởng lợi phát hành; hoặc cho
phép một ngân hàng khác trả tiền, chấp nhận, hay mua hối phiếu đó khi mọi điều
kiện đặt ra trong thư tín dụng đều được thực hiện đầy đủ”. Phương thức tín dụng
chứng từ có đặc trưng là ngân hàng và các bên liên quan chỉ giao dịch trên cơ sở
chứng từ mà không dựa trên hàng hoá hoặc dịch vụ, nghĩa là ngân hàng thanh toán
hoặc chấp nhận thanh toán là hoàn toàn dựa vào việc kiểm tra bộ chứng từ chứ
không phải là trực tiếp kiểm tra hiện trạng hàng hoá.
Phương thức tín dụng chứng từ được điều chỉnh bởi “Quy tắc và thực hành
thống nhất về tín dụng chứng từ”, số xuất bản 600 – UCP 600 của phòng thương
mại quốc tế ICC. Bản quy tắc này mang tính chất pháp lý tuỳ, hoàn toàn do các
chuyên gia thuộc khu vực tư nhân soạn thảo, ra đời nhằm làm giảm sự bất đồng
giữa các bên thuộc các quốc gia khác nhau trong thương mại quốc tế. Điều đó có
nghĩa là quy tắc này áp dụng cho bất kỳ tín dụng chứng từ nào có nội dung chỉ ra
một cách rõ ràng nó phụ thuộc quy tắc này.
1.1.2. Các chủ thể tham gia phương thức tín dụng chứng từ
SV: Trần Thị Mai Vân
3
Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐH Phương Đông
- Người yêu cầu mở thư tín dụng (Applicant for L/C)
Là người mua, người nhập khẩu hàng hoá. Người yêu cầu mở thư tín dụng có
trách nhiệm pháp lý về việc trả tiền của ngân hàng cho người bán theo L/C mà họ
yêu cầu mở. Họ cũng có quyền hoàn trả toàn bộ hay một phần số tiền của L/C nếu
xét thấy bộ chứng từ không phù hợp với điều kiện, điều khoản của L/C.
- Ngân hàng phát hành L/C (Issuing Bank or Opening Bank)
Là ngân hàng đại diện cho người nhập khẩu, phát hành thư tín dụng theo yêu
cầu của người nhập khẩu. Ngân hàng phát hành chịu trách nhiệm kiểm tra bộ chứng

từ do người xuất khẩu xuất trình và thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán cho một
xuất trình phù hợp.
- Ngân hàng thông báo (Avising bank)
Là ngân hàng được ngân hàng phát hành yêu cầu thông báo thư tín dụng cho
người hưởng lợi một cách trực tiếp hoặc thông báo cho một ngân hàng khác. Ngân
hàng này có thể là chi nhánh hoặc ngân hàng đại lý cho ngân hàng phát hành,
thường ở tại nước người hưởng lợi.
- Người hưởng lợi (Beneficiary)
Là người được hưởng số tiền thanh toán hoặc sở hữu hối phiếu đã có chấp
nhận thanh toán. Người hưởng lợi có thể là người xuất khẩu, người bán hay bất cứ
người nào mà người xuất khẩu chỉ định.
Ngoài các thành phần trên, tuỳ theo điều kiện cụ thể trong thực tế, có thể có
một số ngân hàng khác tham gia quá trình thanh toán như :
- Ngân hàng xác nhận (Confirming bank)
Là ngân hàng đứng ra nhận trách nhiệm sẽ cùng ngân hàng mở thư tín dụng
đảm bảo việc trả tiền cho người xuất khẩu khi nhận được xuất trình phù hợp. Ngân
hàng xác nhận thường là một ngân hàng lớn, có uy tín
- Ngân hàng được chỉ định (Nominated bank)
Là ngân hàng được chỉ định trong thư tín dụng để thực hiện việc thanh toán,
chiết khấu hoặc chấp nhận bộ chứng từ hợp lệ của người xuất khẩu. Tuỳ theo nhiệm
vụ được chỉ định mà ngân hàng này có thể được gọi là ngân hàng chỉ định thanh
toán (Nominated paying bank), ngân hàng chỉ định chiết khấu (Nominated
SV: Trần Thị Mai Vân
Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐH Phương Đông
negotiating bank), hay ngân hàng chỉ định chấp nhận (Nominated accepting bank).
1.1.3. Quy trình thanh toán theo phương thức tín dụng chứng từ
6
5
2
8 7 1 3 5 6

4
Bước 1: Người nhập khẩu làm đơn xin mở thư tín dụng gửi đến ngân hàng phục
vụ mình yêu cầu mở thư tín dụng cam kết trả tiền cho người xuất khẩu.
Bước 2: Căn cứ vào yêu cầu và nội dung đơn xin mở thư tín dụng, ngân hàng sẽ
lập thư tín dụng và qua ngân hàng đại lý của mình ở nước người xuất khẩu thông
báo và chuyển thư tín dụng đến cho người xuất khẩu.
Bước 3: Nhận được thông báo, ngân hàng thông báo sẽ thông báo cho người
xuất khẩu biết toàn bộ nội dung về việc mở thư tín dụng và khi nhận được thư tín
dụng thì chuyển thư tín dụng đến cho người xuất khẩu.
Bước 4: Người xuất khẩu kiểm tra kỹ nội dung của thư tín dụng, nếu chấp nhận
thì tiến hành giao hàng, nếu không chấp nhận thì trực tiếp thông báo hoặc qua ngân
hàng mở thư tín dụng đề nghị người nhập khẩu sửa đổi, bổ sung thư tín dụng cho
phù hợp với hợp đồng. Mọi nội dung sửa đổi đều phải có xác nhận của ngân hàng
mở thư tín dụng thì mới có hiệu lực. Văn bản sửa đổi trở thành một bộ phận cấu
thành không thể tách rời thư tín dụng cũ và cũng không thể huy bỏ thư tín dụng cũ.
Bước 5: Sau khi giao hàng, người xuất khẩu lập bộ chứng từ thanh toán theo yêu
cầu của thư tín dụng, qua ngân hàng thông báo, xuất trình cho ngân hàng mở thư tín
dụng yêu cầu thanh toán.
Bước 6: Ngân hàng mở thư tín dụng kiểm tra bộ chứng từ, nếu thấy phù hợp
với thư tín dụng thì tiến hành trả tiền cho người xuất khẩu, nếu không phù hợp thì
từ chối trả tiền và gửi trả lại bộ chứng từ cho người xuất khẩu.
Bước 7: Ngân hàng mở thư tín dụng đòi tiền người nhập khẩu và chuyển bộ
chứng từ hàng hóa cho người nhập khẩu.
Bước 8: Người nhập khẩu kiểm tra bộ chứng từ, nếu thấy phù hợp thì thanh
toán cho ngân hàng, nếu thấy không phù hợp thì có quyền từ chối thanh toán.
SV: Trần Thị Mai Vân
5
Ngân hàng mở
thư tín dụng
Ngân hàng thông

báo thư tín dụng
Người nhập khẩu Người xuất khẩu
Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐH Phương Đông
1.1.4. Đặc điểm của giao dịch thanh toán theo phương thức tín dụng chứng từ
L/C là một cam kết thanh toán độc lập của ngân hàng phát hành khi những
điều kiện quy định trong thư tín dụng được thực hiện đúng và đầy đủ, bảo đảm là
người thụ hưởng sẽ được thanh toán và không còn bị phụ thuộc vào thiện chí thanh
toán của người mua. Do đó người bán có được một cam kết chắc chắn từ phía ngân
hàng phát hành, người mua có được những chứng từ như yêu cầu.
•L/C không phụ thuộc vào hợp đồng cơ sở (hợp đồng mà xuất phát từ hợp
đồng đó người ta tiến hành mở L/C). Các ngân hàng không liên quan hoặc bị ràng
buộc bởi các hợp đồng như thế ngay cả khi L/C có dẫn chiếu đến các hợp đồng đó
(điều 4 UCP600).
•Các ngân hàng làm việc với nhau trên cơ sở chứng từ chứ không quan tâm
đến hàng hóa/dịch vụ. Cho dù người bán giao hàng bị thiếu, hàng kém chất lượng,
giao hàng sai …, nhưng nếu trên bề mặt chứng từ thể hiện phù hợp với L/C, UCP,
ISBP thì ngân hàng phát hành phải thanh toán cho người thụ hưởng. Các bên tham
gia trong thư tín dụng không được lợi dụng vào tình trạng hàng hóa/dịch vụ được
giao để trì hoãn việc thanh toán (Điều 5 UCP600).
•Theo UCP600 thì L/C là không thể hủy ngang.
•Theo UCP600 quy định, thì các bên muốn áp dụng phiên bản UCP nào thì
phải quy định rõ trong thư tín dụng.
•Mặc dù người đề nghị mở L/C tham gia với tư cách là người mua hàng hóa/dịch
vụ, nhưng ngân hàng phát hành mới là người thanh toán, cho nên khi người thụ hưởng
ký phát hối phiếu đòi tiền thì phải đòi tiền ngân hàng phát hành L/C.
1.1.5. Vai trò của giao dịch thanh toán theo phương thức tín dụng chứng từ
Phương thức tín dụng chứng từ được sử dụng rộng rãi nhất trong thanh toán
quốc tế, chiếm khoảng 70% tổng giá trị thanh toán. Sở dĩ như vậy là vì phương thức
này ưu việt hơn hẳn các phương thức thanh toán quốc tế khác, đảm bảo được quyền
lợi một cách tương đối cho cả nhà xuất khẩu và nhà nhập khẩu.

Đối với người nhập khẩu
- Chỉ phải thanh toán khi nhận được bộ chứng từ phù hợp với các điều kiện và
điều khoản của L/C. Các chứng từ này phản ánh phần nào thực trạng hàng hoá (như
SV: Trần Thị Mai Vân
Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐH Phương Đông
Danh sách đóng gói, Chứng nhận chất lượng, Chứng nhận xuất xứ…) nên người
nhập khẩu ít gặp phải rủi ro nhập về hàng hoá không đúng với hợp đồng thương mại
đã ký.
- Người nhập khẩu được ngân hàng tài trợ vốn khi họ chỉ phải ký quỹ dưới
100% giá trị của L/C, nhờ đó mà có thể tận dụng được vốn của mình vào hoạt động
sản xuất kinh doanh.
Đối với người xuất khẩu:
- Được đảm bảo thanh toán khi tuân thủ các điều kiện và điều khoản của L/C
và nhận được thanh toán nhanh nhất do có được sự cam kết thanh toán của ngân
hàng.
- Được ngân hàng giúp đỡ, tư vấn (như tìm ra các điều kiện, điều khoản trong
L/C bất lợi cho người xuất khẩu), do đó giảm thiểu được các rủi ro.
- Có thể sử dụng L/C như một phương thức tài trợ cho xuất khẩu như chiết
khấu bộ chứng từ, bán bộ chứng từ cho ngân hàng hay vay vốn ngân hàng bằng thế
chấp bộ chứng từ.
Đối với ngân hàng
Thực hiện nghiệp vụ này, ngân hàng thu được phí dịch vụ; nhờ đó thu nhập
của ngân hàng tăng, tạo điều kiện mở rộng tín dụng, bảo lãnh quốc tế, kinh doanh
ngoại tệ.
Tuy là phương thức thanh toán ưu việt hơn cả trong thanh toán quốc tế, nhưng
phương thức tín dụng chứng từ vẫn có những hạn chế nhất định. Ở phương thức
này, ngân hàng chỉ giao dịch trên cơ sở chứng từ, do đó người nhập khẩu vẫn phải
thanh toán nếu bộ chứng từ xuất trình hợp lệ,mặc dù thực trạng hàng hoá nhập về
không đúng với những điều được phản ánh trong chứng từ. Người xuất khẩu cũng
có thể gặp phải bất lợi khi họ không đáp ứng được những quy định trong L/C, dẫn

đến việc thanh toán có thể bị trì hoãn, thậm chí bị từ chối thanh toán. Ngân hàng
cũng phải đối mặt với rủi ro khi người nhập khẩu gặp khó khăn về tài chính, không
có khả năng hoàn trả tiền cho ngân hàng.
1.1.6. Các văn bản pháp lý điều chỉnh giao dịch thanh toán theo phương thức
tín dụng chứng từ
SV: Trần Thị Mai Vân
7
Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐH Phương Đông
1.1.6.1.Giới thiệu chung về UCP 600 và ISBP 681
Khi thanh toán bằng phương thức TDCT, các bên XNK phải thỏa thuận với
nhau về việc sử dụng UCP (The Uniform Customs and practice for Documentary
credit). UCP là bản quy tắc và cách thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ do
phòng thương mại quốc tế (ICC) tại Pari công bố lần đầu tiên vào năm 1933. Từ đó
đến nay UCP đã qua các lần sửa đổi, bổ sung.
UCP đã được hơn 175 nước áp dụng trong đó có Việt Nam. Khác với luật quốc
gia hay công ước quốc tế, UCP không tự động áp dụng để điều chỉnh hoạt động
thanh toán TDCT mà mang tính chất pháp lý tùy ý. Các bên tham gia có quyền lựa
chọn có hay không dùng UCP để điều chỉnh hoạt động thanh toán TDCT. Nhưng
một khi các bên đã đồng ý áp dụng UCP thì các điều khoản áp dụng của UCP sẽ
ràng buộc nghĩa vụ và trách nhiệm của các bên tham gia.
Một điểm cần lưu ý là UCP ban hành sau không phủ nhận các nội dung của UCP
trước đó. Do đó các bên có thể thỏa thuận lựa chọn một UCP nào đó, nhưng điều quy
định bắt buộc là phải dẫn chiếu nó trong L/C. Chỉ UCP bản gốc bằng tiếng Anh mới có
giá trị pháp lý giải quyết tranh chấp, các bản dịch khác chỉ có giá trị tham khảo.
Bản UCP sửa đổi lần thứ nhất vào năm 1951, số 151 sau 19 năm kể từ lần ban
hành UCP đầu tiên trên thế giới. Sau lần sửa đổi UCP lần thứ nhất, cứ khoảng 10
năm lại sửa đổi một lần. Phải mất hơn 14 năm mới tiến hành sửa đổi UCP lần thứ
sáu là do nhiều nguyên nhân. Để diễn giải 39 điều khoản của UCP 600, phòng
thương mại quốc tế đã tiến hành sửa đổi và bổ sung ISBP 645 2003 và ban hành
ISBP 681 2007 để thay thế.

ISBP 681 là sự cụ thể hóa, sự bổ sung mang tính thực tiễn cho UCP 600. ISBP
không sửa đổi UCP và không mâu thuẫn với UCP cũng như với các ý kiến và Quyết
định của ủy ban Ngân hàng ICC, mà giải thích chi tiết và rõ ràng hơn cách áp dụng
các Quy tắc của UCP trong giao dịch hàng ngày. Nhờ vậy, ISBP sẽ làm giảm sự
khác biệt không cần thiết giữa những nguyên tắc chung quy định trong các Quy tắc
của UCP và công việc hàng ngày của những người thực hiện thanh toán bằng
TDCT.
Hiện nay,UCP bản sửa đổi năm 2006, số 600 được coi là hoàn chỉnh và ngày
càng được nhiều ngân hàng của các nước thừa nhận và áp dụng rộng rãi trong thanh
SV: Trần Thị Mai Vân
Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐH Phương Đông
toán quốc tế, UCP 600 thực sự được coi là cẩm nang cho nghiệp vụ tín dụng chứng từ.
1.1.6.2. Các văn bản pháp lý khác.
a.Bản phụ trương UCP 600 về việc xuất trình chứng từ điện tử. Bản diễn giải
số 1.1 năm 2007 (eUCP- 2002)
Do trình độ công nghệ hiện đại hóa ngày càng cao nên việc xuất trình chứng
từ điện tử ngày càng nhiều. Chính vì vậy ICC đã nghiên cứu và đưa ra quy định
chung cho việc xuất trình chứng từ bằng điện tử. Bản phụ trương này có 12 điều và
có một số quy định khác biệt với UCP.
b . Quy tắc thống nhất về hoàn trả tiền giữa các ngân hàng theo L/C (Uniform
Rules for Bank- to Bank Reimbursement Under Documentary Credits (URR):
UR ấn bản 525 do ICC phát hành lần đầu tiên vào năm 1995, được xem như là
sự mở rộng và chi tiết hóa điều khoản 19 ( thỏa thuận về hoàn trả liên hàng) của
UCP 500. UR 725 thay thế URR 525 là sự mở rộng và chi tiết hóa điều khoản 13
( thỏa thuận về hoàn trả liên hàng) của UCP 600, UR không mang tính chất bắt
buộc các bên tham gia phải áp dụng.
c. Tập quán L/C dự phòng( ISBP 98)
Tập quán L/C dự phòng chỉ dùng cho loại L/C duej phòng và thường áp dụng
ở thị trường Mỹ còn UCP thì áp dụng được cho cả L/C và L/C dự phong. Khi áp
dụng ISP98 người ta thường quy định vào trong L/C dự phòng đó là áp dụng theo

ISP98 và luật New York.
1.2. RỦI RO TRONG THANH TOÁN QUỐC TẾ THEO PHƯƠNG THỨC TÍN
DỤNG CHỨNG TỪ
1.2.1. Khái niệm rủi ro trong thanh toán quốc tế
Là một trong những lĩnh vực hoạt động kinh doanh của NHTM, TTQT ra đời
và phát triển không ngừng như là một yếu tố khách quan. Tuy nhiên, trong quá trình
hoạt động của mình, TTQT không chỉ đơn thuần mang lại những lợi ích kinh tế mà
còn phát sinh những nguy cơ có thể gây rủi ro, tổn thất trực tiếp cho đất nước, cho
ngân hàng, cho doanh nghiệp hoạt động kinh doanh XNK.
Rủi ro trong hoạt động TTQT của NHTM là một vấn đề xảy ra ngoài ý muốn
trong quá trình tiến hành hoạt động TTQT và ảnh hưởng xấu đến hoạt động kinh
doanh của NHTM. Trong quá trình tiến hành hoạt động TTQT, rủi ro xảy ra khi
quyền lợi của một bên tham gia bị vi phạm. Rủi ro không chỉ được hiểu theo nghĩa
hẹp mà là việc chứng từ không được thanh toán, mà còn được hiểu rộng ra là bất kỳ
SV: Trần Thị Mai Vân
9
Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐH Phương Đông
một sự chậm trễ nào trong các khâu của quá trình TTQT. Nó do các nguyên nhân
phát sinh từ quan hệ giữa các bên tham gia quan hệ thanh toán quốc tế ( nhà nhập
khẩu, nhà xuất khẩu, ngân hàng, các tổ chức, cá nhân và các tác nhân trung gian )
hoặc do các nhân tố khách quan khác gây nên.
Con người có thể nhận biết được các hiện tượng khách quan đó, song không
thể lượng hóa các hiện tượng đó xảy ra vào lúc nào, ở đâu? Và mức độ thiệt hại
thực sự đến thanh toán quốc tế.
1.2.2.Các loại Rủi ro trong phương thức tín dụng chứng từ
1.2.2.1. Căn cứ vào đối tượng bị thiệt hại
a. Rủi ro đối với nhà XK
Nhà XK xuất trình bộ chứng từ không phù hợp với L/C dẫn đến thời gian
thanh toán bị kéo dài, thậm chí không được thanh toán. Khi đó, nhà XK phải tự xử
lý hàng như dỡ hàng, lưu kho, bán đấu giá hay chở hàng quay về nước và chịu các

loại chi phí như lưu kho, mua bảo hiểm cho hàng hóa…trong khi không biết nhà
NK có đồng ý nhận hàng hay không.
NH phát hành hay NH xác nhận mất khả năng thanh toán thì cho dù bộ chứng
từ xuất trình là hoàn hảo thì nhà XK cũng không được thanh toán. Tương tự, nếu
Ngân hàng chấp nhận hối phiếu bị phá sản trước khi hối phiếu đến hạn thì hối phiếu
cũng không được thanh toán. Nhà XK phải chịu rủi ro về hệ số tín nhiệm của NH
phát hành cũng như rủi ro về chính trị hay cơ chế chính sách của nước nhà NK.
Rủi ro do nhà NK lừa đảo, cấu kết với cá nhân hay tổ chức phi ngân hàng lập nên
những bộ chứng từ giả để lừa đảo hòng chiếm đoạt hàng mà không phải trả tiền. Mặc dù
rủi ro này không dễ dàng thực hiện nhưng trên thực tế không phải là không xảy ra.
b.Rủi ro đối với nhà NK
Nhà NK nhận được hàng hóa không đúng số lượng, chất lượng với quy định
của hợp đồng. Do ngân hàng chỉ phải kiểm tra tính chân thật “ bề ngoài” của bộ
chứng từ, ma không chịu trách nhiệm về hàng hóa thực giao nên rủi ro này xảy ra
khi nhà XK thiếu trung thực đã lập bộ chứng từ không đúng với thực trạng hàng
hóa, miễn là phù hợp với L/C.
NH phát hành, NH xác nhận, NH được chỉ định có thể mắc sai lầm thanh toán
cho bộ chứng từ có sai sót. Về nguyên tắc, nhà NK vẫn có quyền truy đòi lại số tiền
SV: Trần Thị Mai Vân
Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐH Phương Đông
thanh toán nhưng mất rất nhiều thời gian và chi phí.
Nhà NK chưa nhận được bộ chứng từ để làm thủ tục nhận hàng mặc dù hàng
đã cập cảng khiến nhà NK phải chịu chi phí lưu kho, lưu bãi. Trường hợp muốn
nhận hàng hóa ngay, nhà NK sẽ đề nghị NH phát hành bảo lãnh và phải chịu rủi ro
châp nhận thanh toán với mọi sai sót của bộ chứng từ.
Nhà XK không gửi hàng nhưng vẫn lập bộ chứng từ giả xuất trình đòi tiền
NH phát hành. Loại rủi ro này tuy không chiếm tỷ lệ lớn song vẫn tồn tại.
c. Rủi ro đối với NHTM
• Rủi ro đối với NH phát hành
Rủi ro do nhà NK mất khả năng thanh toán hoặc bị phá sản. Đây la loại rủi ro

gây thiệt hại nặng nề nhất cho NH phát hành, do NH phải thanh toán cho bộ chứng
từ hoàn hảo trong khi không thể thu hồi lại vốn từ người mua.
Rủi ro do nhà XK có hành vi lừa đảo, giả mạo chứng từ: NH phát hành mặc sù
đã kiểm tra chứng từ với sự cẩn thận hợp lý nhưng không phát hiện sai sót và tiến
hành thanh toán. Nếu phía XK là một tổ chức “ma” hoặc bị phá sản, trong khi nhà
NK không năng lực tài chính để bồi thường thì NH phát hành cuối cùng sẽ là người
phải gánh chịu rủi ro đó.
Rủi ro do nhà NK không nhận hàng: Khi tỷ giá biến động theo hướng bất lợi
hoặc giá hàng trên thị trường giảm mạnh, nhà NK không muốn nhận hàng vì sợ thua lỗ
nên không tiến thành thanh toán. Trong trường hợp này, nếu tỷ lệ ký quỹ L/C không bù
đắp được tỷ lệ trượt giá của nội tệ thì rủi ro này sẽ do NH phát hành gánh chịu.
NH phát hành còn có thể chịu rủi ro trong khâu kiểm tra chứng từ chính ngân
hàng mình, ví dụ như:
+ NH phát hành không phát hiện ra sai sót trên cơ sở bộ chứng từ không hoàn
hảo và tiến hành thanh toán. Nếu nhà NK phát hiện ra sai sót của bộ chứng từ, họ
có quyền từ chối thanh toán và NH phát hành phải gánh chịu rủi ro.
+ Kiểm tra không hết sai sót, dẫn tới mất quyền từ chối bởi ngân hàng không
có quyền từ chối lần hai.
+ Bắt sai lỗi của bộ chứng từ, tức bộ chứng từ hoàn hảo lại cho là sai sót và
tiến hành thanh toán, dẫn đến bị nhà XK khiếu kiện.
SV: Trần Thị Mai Vân
11
Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐH Phương Đông
+ Tiến hành kiểm tra chứng từ vượt quá 05 ngày làm việc Ngân hàng dẫn đến
mất quyền từ chối bộ chứng từ có sai sót, trong khi đó nhà NK có quyền từ chối
thanh toán cho Ngân hàng đối với những lỗi đó.
• Rủi ro đối với Ngân hàng Thông báo:
Về mặt nguyên tắc, NH thông báo chỉ chịu trách nhiệm có sự quan tâm hợp lý
để đảm bảo tính chân thực của L/C mình thông báo mà không chịu trách nhiệm
thanh toán. Tuy nhiên, nếu không hoàn thành tốt trách nhiệm và để xảy ra sai sót thì

NH thông báo cũng phải gánh chịu rủi ro như không nhận được phí dịch vụ, thậm
chí nghiêm trọng hơn là bị khởi kiện và đòi bồi thường thiệt hại.
•Rủi ro đối với NH xác nhận.
Rủi ro do NH phát hành không có khả năng thanh toán: NH xác nhận phải
thanh toán cho bộ chứng từ hoàn hảo bất luận có truy đòi được từ NH phát hành hay
không. Như vậy, NH xác nhận phải chịu rủi ro tín dụng đối với NH phát hành cũng
như rủi ro chính trị và rủi ro ngoại hối của nước NH phát hành.
Rủi ro trong khâu kiểm tra chứng từ: Trường hợp NH xác nhận không phát
hiện sai sót của bộ chứng từ và tiến hành thanh toán thì không thể truy đòi lại từ NH
phát hành.
•Rủi ro đối với NHCK chứng từ
Theo UCP600, NH phát hành được miễn trách nhiệm thanh toán trong trường
hợp bộ chứng từ có lỗi nên nếu NHCK chiết khấu miễn truy đòi cho bộ chứng từ sai
sót thì phải một mình gánh chịu rủi ro này.
1.2.2.2.Căn cứ vàonguyên nhân phát sinh rủi ro.
a.Rủi ro kỹ thuật : Rủi ro kỹ thuật là những rủi ro do những sai sót mang tính
kỹ thuật trong quy trình thanh toán TDCT
 . Đối với nhà xuất khẩu:
Khi tham gia phương thức thanh toán TDCT, nhà XK hay gặp phải những rủi
ro sau:
- Khi nhận được L/C từ NH thông báo, nếu nhà XK kiểm tra các điều kiện chứng
từ không kĩ, chấp nhận cả những yêu cầu bất lợi mà nhà XK không thể đáp ứng trong
khâu lập chứng từ sau này. Khi các yêu cầu đó không được thỏa mãn, NH phát hành từ
chối bộ chứng từ và không thanh toán. Lúc đó, nhà NK sẽ có lợi thế để thương lượng
SV: Trần Thị Mai Vân
Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐH Phương Đông
lại về giá cả nằm ngoài các điều khoản của L/C và nhà XK sẽ gặp bất lợi.
- Trong thanh toán TDCT, ngân hàng mở L/C đứng ra cam kết thanh toán cho
người XK khi họ xuất trình bộ chứng từ phù hợp với nội dung của L/C, NH chỉ làm
việc với các chứng từ quy định trong L/C. Phương thức thanh toán TDCT đòi hỏi sự

chính xác tuyệt đối giữa các bộ chứng từ thanh toán với nội dung quy định trong
L/C. Chỉ cần một sơ suất nhỏ trong việc lập chứng từ thì nhà XK cũng có thể bị NH
mở L/C và người mua bắt lỗi, từ chối thanh toán. Do đó, việc lập bộ chứng từ thanh
toán là một khâu quan trọng và rất dễ gặp rủi ro đối với nhà XK. Một bộ chứng từ
thanh toán phù hợp với L/C phải đáp ứng được các yêu cầu sau:
+ Các chứng từ phải phù hợp với luật lệ và tập quán thương mại mà hai nước
người mua và người bán đang áp dụng và được dẫn chiếu trong L/C.
+ Nội dung và hình thức của các chứng từ thanh toán phải được lập theo đúng
yêu cầu đề ra trong L/C.
+ Những nội dung và các số liệu có liên quan giữa các chứng từ không được
mâu thuẫn với nhau, nếu có sự mâu thuẫn giữa các chứng từ mà từ đó người ta
không thể xác định một cách rõ ràng, thống nhất nội dung thuộc về tên hàng, số
lượng, trọng lượng, giá cả, tổng trị giá, tên của người hưởng lợi thì các chứng từ
đó sẽ bị ngân hàng từ chối thanh toán vì bộ chứng từ đó mâu thuẫn nhau Bộ chứng
từ phải được xuất trình tại địa điểm quy định trong L/C và tổng thời hạn hiệu lực
của L/C.
Trên thực tế có rất nhiều sai sót xảy ra trong quá trình lập chứng từ, thường
vẫn gặp là:
+ Lập chứng từ sai lỗi chính tả, sai tên, địa chỉ của các bên tham gia, của hãng
vận tải.
+ Chứng từ không hoàn chỉnh về mặt số lượng.
+ Các sai sót trên bề mặt chứng từ: số tiền trên chứng từ vượt quá giá trị của
L/C, các chứng từ không ghi số L/C, không đánh dấu bản gốc; Các chứng từ không
khớp nhau hoặc không khớp với nội dung của L/C về số lượng, trọng lượng, mô tả
hàng hóa các chứng từ không tuân theo quy định của L/C về cảng bốc dỡ hàng, về
hãng vận tải, về phương thức vận chuyển hàng hóa Tất cả những sai sót trên đều là
những nguyên nhân gây nên những rủi ro cho nhà XK khi lập bộ chứng từ thanh
toán.
SV: Trần Thị Mai Vân
13

Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐH Phương Đông
Ngoài ra, do sự khác biệt về tập quán, luật lệ ở mỗi nước cho nên dễ dẫn đến
những sai sót khi nhà XK hoàn tất bộ chứng từ hàng hóa để gửi NH xin thanh toán.
- Nếu nhà XK xuất trình bộ chứng từ không phù hợp với L/C thì mọi khoản
thanh toán hay chấp nhận có thể bị từ chối, và nhà XK phải tự xử lý hàng hóa như
dỡ hàng, lưu kho cho đến khi vấn đề được giải quyết hoặc tìm người mua mới, bán
đấu giá hay chở hàng về quay về nước. Đồng thời, nhà XK phải chịu những chi phí
như lưu tàu quá hạn, phí lưu kho trong khi đó không biết rõ lập trường của nhà NK
là sẽ đồng ý hay từ chối nhận hàng vì lý do bộ chứng từ có sai sót.
- Nếu NH phát hành mất khả năng thanh toán, thì cho dù bộ chứng từ xuất
trình là hoàn hảo thì cũng không được thanh toán.
- Thư tín dụng có thể hủy ngang có thể được NH phát hành sửa đổi, bổ sung
hay hủy bỏ bất cứ lúc nào trước khi nhà XK xuất trình bộ chứng từ mà không cấn
sự đồng ý của nhà XK.
 .Đối với nhà nhập khẩu
- Trong thanh toán TDCT, việc thanh toán của NH cho người thụ hưởng chỉ
căn cứ vào bộ chứng từ xuất trình mà không căn cứ vào việc kiểm tra hàng hóa. NH
chỉ kiểm tra tính chân thật bề ngoài của chứng từ, mà không chịu trách nhiệm về
tính chất bên trong của chứng từ, cũng như chất lượng và số lượng hoàng hóa. Như
vậy sẽ không có sự đảm bảo nào cho nhà NK rằng hàng hóa sẽ đúng như đơn đặt
hàng hay không. Nhà NK có thể nhận được hàng hóa kém chất lượng hoặc bị hư hại
trong quá trình vận chuyển mà vẫn phải hoàn trả đầy đủ tiền thanh toán cho NH
phát hành.
- Khi nhà NK chấp nhận bộ chứng từ hàng hóa sẽ có nguy cơ gặp rủi ro. Bộ
chứng từ là cơ sở pháp lý đầu tiên về tính đúng đắn của hàng hóa. Nếu nhà NK
không chú ý kiểm tra kỹ bộ chứng từ ( từ lỗi, câu chữ, số lượng các loại chứng từ,
cơ quan có thẩm quyền cấp các loại giấy chứng nhận ) mà chấp nhận bộ chứng từ
có lỗi sẽ bị thiệt hại và gặp khó khăn trong việc khiếu nại sau này.
- Một rủi ro mà nhà NK hay gặp là hàng đến trước bộ chứng từ, nhà NK chưa
nhận được bộ chứng từ mà hàng đã cập cảng. Bộ chứng từ bao gồm vận đơn, mà

vận đơn lại là chứng từ sở hữu hàng hóa nên thiếu vận đơn thì hàng hóa không
được giải tỏa. Nếu nhà NK cần gấp ngay hàng hóa thì phải thu xếp để NH phát hành
SV: Trần Thị Mai Vân
Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐH Phương Đông
phát hành một thư bảo lãnh gửi hãng tàu để nhận hàng. Để được bảo lãnh nhận
hàng, nhà NK phải trả thêm một khoản chi phí cho NH. Hơn nữa, nếu nhà NK
không nhận hàng theo quy định thì tiền bồi thường giữ tàu quá hạn sẽ phát sinh.
 . Đối với ngân hàng phát hành
- Trong nghiệp vụ mở L/C, nếu NH phát hành kiểm tra không kỹ vận đơn xin
mở L/C sẽ dẫn đến việc chấp nhận cả những điều khoản hàm chứa rủi ro cho NH
sau này.
- Khi nhận được bộ chứng từ xuất trình, nếu NH phát hành trả tiền hay chấp
nhận thanh toán hối phiếu kỳ hạn mà không có sự kiểm tra một cách thích đáng bộ
chứng từ, để bộ chứng từ có lỗi, nhà NK không chấp nhận, thì NH không thể đòi
tiền nhà NK.
- Ngân hàng phát hành phải thực hiện thanh toán cho người thụ hưởng theo
quy định của L/C ngay cả trong trường hợp nhà NK mất khả năng thanh toán hoặc
bị phá sản do kinh doanh thua lỗ.
- Trong trường hợp hàng đến trước bộ chứng từ thì NH phát hành hay được
yêu cầu chấp nhận thanh toán cho người thụ hưởng mà chưa nhìn thấy bộ chứng từ.
Nếu không có sự chấp nhận trước của người NK về việc hoàn trả, thì NH phát hành
sẽ gặp rủi ro khi bộ chứng từ có sai sót, khi đó nhà NK không chấp nhận và NH sẽ
không truy hoàn được tiền từ nhà NK.
- Nếu trong L/C NH phát hành không quy định bộ vận đơn đầy đủ ( full set off
bills of lading) thì một người NK có thể lấy được hàng hóa khi chỉ cần xuất trình
một phần của bộ vận đơn, trong khi đó người trả tiền hàng hóa lại là NH phát hành
theo cam kết của L/C.
- NH phát hành có thể gặp rủi ro do không hành động đúng theo UCP 500, đó
là đưa ra quyết định từ chốí bộ chứng từ vượt quá 7 ngày làm việc của NH.
 . Đối với ngân hàng thông báo

- NH thông báo có trách nhiệm phải đảm bảo rằng thư tín dụng là chân thật,
đồng thời phải xác minh chữ ký, mã khóa (text key), mẫu điện của NH phát hành
trước khi gửi thông báo cho nhà XK. Rủi ro xảy ra với NH thông báo là khi NH này
SV: Trần Thị Mai Vân
15
Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐH Phương Đông
thông báo một L/C giả hoặc sửa đổi một L/C không có hiệu lực trong khi chính NH
chưa xác nhận được tình trạng mã khóa hay chữ ký ủy quyền của NH mở L/C.
 . Đối với ngân hàng xác nhận
- Nếu bộ chứng từ được xuất trình là hoàn hảo thì NH xác nhận phải trả tiền
cho nhà XK bất luận là có truy hoàn được tiền từ NH phát hành hay không. Như
vậy, NH xác nhận chịu rủi ro tín dụng đối với NH phát hành.
- Nếu NH xác nhận trả tiền hay chấp nhận thanh toán hối phiếu kỳ hạn mà không
có sự kiểm tra bộ chứng từ một cách thích đáng, để bộ chứng từ có lỗi, NH phát hành
không chấp nhận thanh toán thì NH xác nhận không thể đòi tiền NH phát hành.
 . Đối với ngân hàng được chỉ định
Các NH được chỉ định không có trách nhiệm thanh toán cho nhà XK trước khi
nhận được tiền hàng từ NH phát hành. Tuy nhiên trong thực tế, trên cơ sở bộ chứng
từ được xuất trình, các NH được chỉ định thường ứng trước cho nhà XK với điều
kiện truy đòi để trợ giúp nhà XK, do đó NH này phải chịu rủi ro tín dụng đối với
NH phát hành hoặc nhà XK.
b .Rủi ro ngoại hối
Trong thanh toán quốc tế hầu hết các hợp đồng thương mại đều sử dụng một
ngoại tệ để thanh toán. Do vậy, không thể tránh khỏi những rủi ro về ngoại hối, yếu
tố nhạy cảm và sự biến động của nó làm cho cả nhà xuất khẩu và nhập khẩu đều
không lường trước được sự biến động của nó. Sự biến động này có thể gây thiệt hại
cho nhà nhập khẩu hoặc nhà xuất khẩu trong từng trường hợp:
•Thứ nhất là vấn đề tỷ giá hối đoái:
Đây là một trường hợp cụ thể. Ví dụ với nhà nhập khẩu: khi hàng nhập về, tỷ
giá trượt mạnh, đối với những mặt hàng giá bán cạnh tranh không thể tăng giá được,

nhà nhập khẩu có thể từ chối nhận hàng vì sợ bị lỗ và vì cũng không có đủ khả năng
thanh toán.
Trong một số trường hợp sự biến động của tỷ giá hối đoái cũng gây thiệt hại
cho ngân hàng. Ví dụ: Trong thực tế ở nước ta, một số doanh nghiệp nhập khẩu
thường không sẵn có ngoại tệ hoặc nếu có thì số lượng không đáng. Do đó khi cần
ngoại tệ, họ sẽ chuyển nội tệ vào ngân hàng và yêu cầu ngân hàng bán ngoại tệ cho
SV: Trần Thị Mai Vân
Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐH Phương Đông
mình để thanh toán. Khi có yêu cầu mở L/C thanh toán ngân hàng sẽ thu tiền ký quỹ
đối với nhà nhập khẩu. Do trong TTQT ngoại tệ mạnh thường được sử dụng nên
ngân hàng mở sẽ phải dùng số tiền đó để mua ngoại tệ. Số tiền ký quỹ mà doanh
nghiệp nộp vào NH đã được tính ra ngoại tệ theo tỷ giá hối đoái tại thời điểm đó.
Nếu vì một lý do nào đó ngân hàng không thực hiện ngay việc trao đổi lấy ngoại tệ
tại thời điểm đó mà lùi lại một thời gian, giả sử khi đó đồng nội tệ giảm giá và NH
không lường trước được điều này, NH sẽ phải mất thêm một khoản tiền để bù vào
mức giảm giá đó khi mua ngoại tệ. Kết quả là ngân hàng sẽ bị mất một khoản tiền
do sự biến động của tỷ giá hối đoái.
•Bên cạnh đó, nếu trạng thái ngoại hối của ngân hàng không tốt, một mặt
ngân hàng sẽ không đáp ứng được nhu cầu mua ngoại tệ của khách hàng, mặt khác
bản thân khách hàng cũng sẽ gặp khó khăn trong quá trình thanh toán cho NH.
Thiệt hại xảy ra có thể về mặt tài chính vì ngân hàng phải đi vay ngoại tệ của NH
khác, nhưng đồng thời cũng ảnh hưởng tới uy tín của NH trong hoạt động thanh
toán nói riêng, hoạt động NH nói chung.
c .Rủi ro đạo đức
Rủi ro đạo đức là những rủi ro khi một bên tham gia phương thức thanh toán
TDCT cố tình không thực hiện đúng nghĩa vụ của mình theo quy định của L/C, làm
ảnh hưởng tới quyền lợi của bên kia.
 Rủi ro đạo đức đối với nhà XK
Mặc dù trong thanh toán TDCT đã có sự cam kết của NH mở L/C nhưng sự
tin tưởng và thiện chí giữa người mua và người bán vẫn được coi là yếu tố quan

trọng đảm bảo cho sự an toàn của TTQT. Khi người NK không thiện chí, cố ý
không muốn thực hiện hợp đồng thì họ có thể dựa vào sai sót cho dù là rất nhỏ của
bộ chứng từ để đòi giảm giá, kéo dài thời gian để chiếm dụng vốn của người bán,
thậm chí từ chối thanh toán.
 Rủi ro đạo đức đối với nhà NK
Với người mua sự trung thực của người bán rất quan trọng bởi vì NH chỉ làm
việc với các chứng từ mà không cần biết việc giao hàng có đúng hợp đồng hay
không. Do đó, nhà NK có thể gặp rủi ro nếu nhà XK có hành vi gian lận, lừa đảo
SV: Trần Thị Mai Vân
17
Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐH Phương Đông
trong việc giao hàng như: cố tình giao hàng kém phẩm chất, không đúng số lượng
Một nhà XK chủ tâm gian lận có thể xuất trình bộ chứng từ giả mạo, có bề
ngoài phù hợp với L/C cho NH mà thực tế không có hàng giao, người NK vẫn phải
thanh toán cho NH ngay cả trong trường hợp không nhận được hàng hoặc nhận
được hàng không đúng theo hợp đồng.
 Rủi ro đạo đức đối với ngân hàng
NH là người gánh chịu rủi ro đạo đức: NH phát hành phải thực hiện thanh toán
cho người hưởng lợi theo quy định của L/C ngay cả trong trường hợp người NK chủ
tâm không hoàn trả.
NH là người gây rủi ro đạo đức: NH mở L/C có thể vi phạm cam kết của mình
như từ chối thanh toán hoặc trì hoãn thanh toán hoặc đứng về phía khách hàng gây
khó khăn trong quá trình thanh toán.
d .Rủi ro chính trị
Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ là một trong các phương thức được
sử dụng phổ biến trong thanh toán quốc tế. Các chủ thể tham gia trong phương thức
TDCT ở nhiều quốc gia khác nhau và tham gia vào nhiều lĩnh vực ngành nghề khác
nhau. Do đó, phương thức TDCT chịu sự ảnh hưởng mạnh mẽ của môi trường
chính trị, xã hội của các quốc gia. Một sự biến động dù là nhỏ về chính trị, xã hội
của một quốc gia cũng sẽ ảnh hưởng tới sự vận động của tự do thương mại, đến

hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp từ đó ảnh hưởng tới quá trình
thanh toán. Rủi ro chính trị trong thanh toán quốc tế theo phương thức TDCT là
những rủi ro bắt nguồn từ sự không ổn định về chính trị của các nước có liên quan
trong quá trình thanh toán. Thông thường đó là rủi ro do thay đổi môi trường pháp
lý: thay đổi đột ngột về thuế XNK, hạn ngạch, cơ chế ngoại hối ( hạn chế ngoại
hối), luật XNK. Những thay đổi này làm cho các điều kiện trên thị trường tài chính
thay đổi đột biến không dự tính trước làm các bên tham gia XNK và ngân hàng
không thực hiện được nghĩa vụ của mình, làm cho L/C có thể bị hủy bỏ, gây thiệt
hại cho các bên tham gia.
Bên cạnh đó, các cuộc nổi loạn, biểu tình, bạo động hay chiến tranh, đảo chính,
đình công hoặc những rủi ro bất khả kháng như thiên tai, hỏa hoạn ở các nước tham
SV: Trần Thị Mai Vân
Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐH Phương Đông
gia, chứng từ bị thất lạc cũng có thể gây rủi ro trong quá trình thanh toán.
e .Rủi ro khách quan từ nền kinh tế
Một rủi ro mà các bên tham gia phương thức thanh toán TDCT hay gặp là sự
khủng hoảng, suy thoái kinh tế và tình trạng công nợ nặng nề của các quốc gia. Khi
nền kinh tế của một quốc gia bị suy thoái, khủng hoảng sẽ kéo theo các ngân hàng
bị phong tỏa hoặc tạm ngưng hoạt động, từ đó làm ảnh hưởng tới quá trình thanh
toán quốc tế. Nếu nợ nước ngoài của một quốc gia là quá lớn thì các biện pháp như
tăng thuế, phá giá nội tệ sẽ được áp dụng, từ đó làm giảm khả năng chi trả của
người mua và ngân hàng có nguy cơ không đòi được tiền.
Ngoài ra, sự phong tỏa kinh tế của các quốc gia như trường hợp của Cuba,
Iraq cũng mang lại nhưng rủi ro cho bất kì quốc gia, đơn vị kinh tế nào có hoạt
động xuất nhập khẩu với các nước đó.
1.2.3.Chỉ tiêu phản ánh rủi ro trong phương thức TDCT của NHTM
- Tỷ lệ nợ quá hạn/ Tổng dư nợ cho vay mở L/C: Phản ánh rủi ro tín dụng
trong phương thức TDCT. Ngân hàng tiến hành cho khách hàng mở L/C trả ngay
vay để NK hàng hóa. Tuy nhiên đến hạn, do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ
quan tác động như sự thay đổi về tỷ giá, thay đổi cung cầu trên thị trường mà khách

hàng không có khả năng để trả nợ.
- Tỷ lệ L/C quá hạn và Ngân hàng phải trả nợ thay/ Tổng số L/C : là một chỉ
tiêu tổng hợp phản ánh rủi ro tín dụng, đạo đức và rủi ro hàng hóa trong TTQT theo
phương thức TDCT trả chậm. Người NK mở L/C trả chậm vay vốn từ nước ngoài
để nhập khẩu hàng hóa. Tuy nhiên đến hạn, khách hàng không có khả năng thanh
toán, dẫn đến quá hạn và ngân hàng buộc phải trả nợ thay.
- Tỷ lệ L/C bị từ chối xác nhận/ Tổng số L/C: phản ánh rủi ro về uy tín của NH
phát hành của nước NK trên thị trường quốc tế. Khi người XK, ngân hàng phục vụ
người XK không tin tưởng vào khả năng thực hiện cam kết theo L/C thì họ không
chấp nhận L/C được phát hành hoặc yêu cầu L/C phải được xác nhận bởi một ngân
hàng có uy tín khác hoặc tại một quốc gia khác.
1.2.4.Các nhân tố tác động đến rủi ro trong thanh toán quốc tế theo phương
thức tín dụng chứng từ tại các NHTM.
Hiệu quả của dịch vụ thanh toán được thể hiện thông qua nhiều chỉ tiêu như:
SV: Trần Thị Mai Vân
19
Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐH Phương Đông
tốc độ thanh toán, tính an toàn trong quá trình thanh toán, thu nhập từ việc cung cấp
dịch vụ thanh toán. Rủi ro tiềm ẩn cao có thể làm giảm hiệu quả của dịch vụ thanh
toán mà ngân hàng cung cấp. Việc thanh toán tiền hàng giữa các đối tác ở các quốc
gia khác nhau luôn chứa đựng nhiều rủi ro hơn so với thanh toán trong nước. Đó là
khả năng xảy ra những điều không mong muốn và khi xảy ra thì sẽ mang lại tổn thất
cho các bên. Sở dĩ như vậy là vì các quốc gia khác nhau có hệ thống pháp luật, tập
quán thương mại và thanh toán khác nhau; việc tìm hiểu thông tin về các đối tác
nước ngoài cũng gặp nhiều khó khăn hơn so với đối tác trong nước. Rủi ro trong
thanh toán quốc tế có thể xảy ra với bất cứ bên nào, có thể do nguyên nhân chủ
quan hoặc khách quan. Dưới đây sẽ trình bày các nhân tố tác động tới quá trình
thanh toán.
1.2.4.1. Nhân tố chủ quan
- Các quy định và chính sách của ngân hàng đối với nghiệp vụ thanh toán

Các quy định và chính sách của ngân hàng có thể ví như kim chỉ nam định
hướng cho hoạt động của nhân viên ngân hàng. Nếu ngân hàng đưa ra được chính
sách hợp lý, vừa đem lại lợi ích cho khách hàng, vừa đảm bảo lợi ích của ngân hàng
thì sẽ có thể thu hút được khách hàng, mở rộng hoạt động của ngân hàng. Ngược
lại, một chính sách không dung hoà được lợi ích của khách hàng và ngân hàng sẽ
chứa đựng nhiều rủi ro cho ngân hàng, làm giảm tính cạnh tranh của ngân hàng và
làm mất lòng tin của khách hàng đối với ngân hàng.
Trong các quy định của ngân hàng về nghiệp vụ thanh toán có tác động tới quá
trình thanh toán phải kể đến quy trình thanh toán được xây dựng chung cho hệ
thống ngân hàng. Đó là một trình tự các bước được quy định chi tiết, cụ thể, có sự
phân công công việc rõ ràng để thực hiện một thương vụ thanh toán cho khách hàng
theo một phương thức thanh toán nhất định. Để hoạt động thanh toán có hiệu quả,
quy trình thanh toán phải hợp lý, chặt chẽ, được áp dụng thống nhất trong ngân
hàng nhưng vẫn đảm bảo tính linh hoạt trong quá trình thực hiện. Nhìn chung, quy
trình thanh toán của các ngân hàng đều tuân theo thông lệ quốc tế. Tuy vậy, giữa
quy định của các ngân hàng vẫn có sự khác biệt nhất định về mức độ chặt chẽ và
tính hợp lý. Một quy trình trong đó các hồ sơ khách hàng hay bộ chứng từ xuất trình
SV: Trần Thị Mai Vân
Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐH Phương Đông
phải qua quá nhiều khâu kiểm tra, kiểm soát có thể đảm bảo an toàn hơn nhưng sẽ
làm giảm tốc độ thanh toán. Ngược lại, một quy trình mà việc kiểm tra, kiểm soát
sơ sài lại tiềm ẩn nhiều rủi ro. Do đó, tính chặt chẽ và hợp lý là rất quan trọng trong
việc xây dựng quy trình thanh toán.
Bên cạnh đó, sự khác biệt giữa các ngân hàng còn được thể hiện ở chính sách
của ngân hàng đối với việc phát triển nghiệp vụ thanh toán. Các ngân hàng có thể
có chính sách khác nhau dành cho từng đối tượng khách hàng, từng chủng loại hàng
hoá. Chẳng hạn, đối với những khách hàng có tình hình tài chính tốt, có uy tín thì
ngân hàng có thể áp dụng những chính sách hỗ trợ như: cho vay để ký quỹ mở L/C,
chiết khấu bộ chứng từ…giúp khách hàng có được sự thuận lợi trong quá trình sản
xuất kinh doanh của họ. Qua đó khách hàng có thể tin cậy và lựa chọn ngân hàng

làm trung gian thanh toán.
- Trình độ nghiệp vụ của các cán bộ nhân viên ngân hàng
Nhân viên ngân hàng là những người trực tiếp tiếp xúc với khách hàng và
cũng là những người tham gia thực hiện việc thanh toán cho khách hàng. Do đó,
trình độ nghiệp vụ của nhân viên ngân hàng có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả của
dịch vụ thanh toán. Đặc biệt, phương thức tín dụng chứng từ là phương thức thanh
toán khá phức tạp, vừa đòi hỏi sự làm việc tỉ mỉ, chính xác, vừa cần có tính linh
hoạt trong từng tình huống cụ thể của các nhân viên ngân hàng. Hiệu quả của việc
cung cấp dịch vụ thanh toán phụ thuộc rất lớn vào khả năng của nhân viên ngân
hàng trong việc tìm hiểu tình hình hoạt động của khách hàng để có thể đưa ra những
tư vấn, hỗ trợ cho khách hàng; nhanh chóng tìm ra sai sót trong chứng từ thanh toán
để sửa chữa kịp thời; phát hiện được các chứng từ giả mạo hay không hợp lý để
tránh tổn thất cho khách hàng và ngân hàng. Để làm được như vậy, nhân viên ngân
hàng cần phải am hiểu về kỹ thuật nghiệp vụ thanh toán, hiểu biết về lĩnh vực kinh
doanh của các khách hàng mà mình đang phục vụ và hướng tới phục vụ, linh hoạt
trong xử lý tình huống. Bên cạnh năng lực trình độ, sự phục vụ nhiệt tình chu đáo
đối với khách hàng của cán bộ, nhân viên ngân hàng cũng góp phần gia tăng hình
ảnh của ngân hàng và thu hút khách hàng.
- Công nghệ ngân hàng
Công nghệ đóng một vai trò hết sức quan trọng đối với hoạt động của ngân
SV: Trần Thị Mai Vân
21

×