Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

Khái quát chung về nguồn vốn đầu tư trong nước và nguồn vốn đầu tư nước ngoài

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (294.02 KB, 38 trang )

MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU 1
CHƯƠNG I 2
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NGUỒN VỐN ĐẦU TƯ TRONG NƯỚC VÀ NGUỒN VỐN ĐẦU TƯ
NƯỚC NGOÀI 2
CHƯƠNG II 18
MỐI QUAN HỆ GIỮA NGUỒN VỐN ĐẦU TƯ TRONG NƯỚC VÀ NGUỒN VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC
NGOÀI TẠI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2001 – 2011 18
LỜI NÓI ĐẦU
Đầu tư là sử dụng mọi nguồn lực tài chính , nguồn lực vật chất , nguồn lực lao
động và trí tuệ ở hiện tại vào một họat động nào đó nhằm mục tiêu nào đó để đem
lại lợi ích cho người sử dụng nguồn lực như duy trì tiềm lực hoạt động của các cơ
sở đang tồn tại và tạo tiềm lực mới cho nền kinh tế xã hội , tạo việc làm, lợi nhuận,
nguồn thu cho nhà nước….
Công việc thực hiện đầu tư là một phần không thể thiếu trong chiến lược phát
triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia, liên quan đến nhiều yếu tố nguồn lực trong xã
hội, trong đó có yếu tố vốn. Vốn là nguồn lực quan trọng của nền kinh tế, vốn là
biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các chi phí đã chi ra để tạo ra năng lực sản xuất. Xét
trên góc độ vĩ mô, vốn được chia làm 2 loại : Vốn đầu tư trong nước và vốn đầu tư
nước ngoài . Hai nguồn vốn này có quan hệ mật thiết với nhau cũng như tác động
trực tiếp đến nền kinh tế của mỗi quốc gia , vùng lãnh thổ. Để thực hiện mục tiêu
công nghiệp hoá , hiện đại hoá , tăng trưởng kinh tế phấn đấu đến năm 2020 về cơ
bản nước ta trở thành một nước công nghiệp thì việc sử dụng vốn đầu tư để đạt
được mục đích này là rất quan trọng.
Do vậy, nghiên cứu tác động của hai nguồn vốn này đến sự phát triển kinh tế xã
hội được xem là cấp thiết, nhằm đưa ra những định hướng đúng đắn, chủ trương
hợp lí của Đảng và nhà nước để không ngừng phát triển và đối phó với những thách
thức mới trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay của thế giới.
1
Chương I
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NGUỒN VỐN ĐẦU TƯ TRONG


NƯỚC VÀ NGUỒN VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI
I. Khái niệm vốn đầu tư
1. Vốn đầu tư phát triển.
Trên phương diện nền kinh tế: Vốn đầu tư phát triển là biểu hiện bằng tiền
toàn bộ những chi phí đã chi ra để tạo ra năng lực sản xuất (tăng thêm tài sản cố
dịnh và tài sản lưu động) và các khoản đầu tư phát triển khác.
2. Nguồn vốn đầu tư phát triển.
Nguồn vốn đầu tư là thuật ngữ dùng để chỉ các nguồn tập trung và phân phối
vốn cho đầu tư phát triển kinh tế đáp ứng nhu cầu chung của nhà nước và xã hội
3. Bản chất nguồn vốn đầu tư phát triển.
Xét về bản chất , nguồn hình thành vốn đầu tư chính là phần tiết kiệm hay
tích lũy của nền kinh tế có thể huy động được để đưa vào quá trình tái sản xuất xã
hội.
II. Nguồn vốn đầu tư trong nước
1. Khái niệm.
Nguồn vốn đầu tư trong nước là phần tích lũy của nội bộ nền kinh tế bao
gồm tiết kiệm của khu vực tư nhân, các tổ chức kinh tế, các doanh nghiệp và tiết
kiệm của chính phủ được huy động vào quá trình tái sản xuất của xã hội
2. Các nguồn vốn đầu tư trong nước.
2.1. Nguồn vốn nhà nước.
Nguồn vốn đầu tư của nhà nước bao gồm nguồn vốn của ngân sách nhà
nước, nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước và nguồn đầu tư phát triển
của doanh nghiệp nhà nước.
2
2.1.1. Nguồn vốn từ ngân sách nhà nước.
Đây chính là nguồn chi của ngân sách nhà nước cho đầu tư. Đó chính là một
nguồn vốn đầu tư quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của quốc gia.
Nguồn vốn này thường được sử dụng cho các dự án kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội,
quốc phòng, an ninh, hỗ trợ các dự án của doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực cần sự
tham gia của nhà nước, chi cho công tác lập và thực hiện các dự án quy hoạch tổng

thể phát triển kinh tế xã hội vùng, lãnh thổ, quy hoạch xây dựng đô thị, nông thôn.
2.1.2. Nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước.
Vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước là một hình thức quá độ chuyển
tư phương thức cấp phát vốn ngân sách sang phương thức tín dụng đối với các dự
án có khả năng thu hồi vốn trực tiếp. Với cơ chế tín dụng, các đơn vị sử dụng vốn
này phải đảm bảo nguyên tắc hoàn trả vốn vay. Chủ đầu tư là người vay vốn phải
tính kỹ hiệu quả đầu tư, sử dụng vốn tiết kiệm hơn. Vốn tín dụng đầu tư phát triển
của nhà nước là một hình thức quá độ chuyển từ phương thức cấp phát vốn ngân
sách sang phương thức tín dụng đối với các dự án có khả năng thu hồi vốn trực tiếp.
Bên cạnh đó, vốn tín dụng phát triển của nhà nước còn phục vụ công tác
quản lý và điều tiết kinh tế vĩ mô.Thông qua nguồn vốn tín dụng, nhà nước khuyến
khích phát triển kinh tế xã hội của ngành, vùng, lĩnh vực theo hướng chiến lược của
mình
2.1.3. Nguồn vốn đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước.
Được xác định là thành phần chủ đạo trong nền kinh tế,các doanh nghiệp nhà
nước vẫn giữ một khối lượng vốn khá lớn. Mặc dù vẫn còn một số hạn chế nhưng
khu vực kinh tế nhà nước với sự tham gia của doanh nghiệp nhà nước vẫn đóng vai
trò chủ đạo trong nền kinh tế nhiều thành phần, hiệu quả của khu vực này ngày càng
được khẳng định, tích lũy của khu vực này ngày càng tăng.
Nguồn vốn này chủ yếu bao gồm từ khấu hao tài sản cố định và thu nhập giữ
lại tại doanh nghiệp nhà nước, thông thường chiếm 14-15% tổng vốn đầu tư xã hội.
2.2. Nguồn vốn của dân cư và khu vực tư nhân.
Nguồn vốn của doanh nghiệp tư nhân bao gồm phần tiết kiệm của dân cư,
phần tích lũy của doanh nghiệp dân doanh, các hợp tác xã.
3
Đầu tư của các doanh nghiệp tư nhân và hộ gia đình có vai trò đặc biệt quan
trọng trong việc phát triển nông nghiệp, kinh tế nông thôn, mở mang ngành nghề,
phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp
Các loại hình doanh nghiệp tư nhân ngày càng phát triển, phần tích lũy của
các doanh nghiệp này sẽ góp phần đáng kể vào tổng quy mô nguồn vốn của toàn xã

hội, nó được coi như những tế bào có khả năng tái tạo các nguồn tài chính.
III.Vốn đầu tư nước ngoài
1. Khái niệm.
Nguồn vốn đầu tư nước ngoài bao gồm toàn bộ phần tích lũy của cá nhân,
các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế và chính phủ nước ngoài có thể huy động
được vào quá trình đầu tư phát triển của nước sở tại.
Có thể xem xét nguồn vốn đầu tư nước ngoài trên phạm vi rộng hơn đó là
dòng lưu chuyển vốn quốc tế. Về thực chất, các dòng lưu chuyển vốn quốc tế là
biểu hiện cụ thể của quá trình chuyển giao nguồn lực tài chính giữa các quốc gia
trên thế giới. Theo tính chất của dòng luân chuyển vốn, có thể phân loại các nguồn
vốn nước ngoài chính thức như sau:
- Nguồn viện trợ phát triển chính thức( ODA)
- Nguồn vốn tín dụng từ các ngân hàng thương mại quốc tế
- Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
- Nguồn vốn từ thị trường vốn quốc tế
2. Các nguồn vốn đầu tư nước ngoài.
2.1. Nguồn viện trợ phát triển chính thức ( ODA )
Nguồn vốn ODA là nguồn vốn phát triển do các tổ chức quốc tế, các chính
phủ nước ngoài cung cấp với mục tiêu trợ giúp các nước đang phát triển. So với
các nguồn tài trợ khác, ODA mang tính ưu đãi hơn bất cứ nguồn ODF nào khác.
Bao gồm các khoản viện trợ không hoàn lại, viện trợ có hoàn lại hoặc tín dụng ưu
đãi của các chính phủ,các tổ chức liên hợp quốc Vốn ODA được các chính phủ
tài trợ là để thúc đẩy tăng trưởng bền vững và giảm nghèo ở các nước đang phát
triển như xây dựng cơ sở hạ tầng, đầu tư nghiên cứu các yếu tố không hoàn lại
của vốn vay ODA ít nhất 25%, thời gian cho vay dài, khối lượng cho vay lớn, thời
4
gian ân hạn dài. Bên cạnh đó, ODA còn mang tính chất ràng buộc với nước tiếp
nhận vốn và là nguồn vốn vay có khả năng gây nợ. Vì vậy, chính phủ các nước
phải quản lý nguồn vốn vay để sử dụng có hiệu quả.
2.2. Nguồn vốn tín dụng từ các ngân hàng thương mại quốc tế.

Điều kiện ưu đãi dành cho loại nguồn vốn này không dễ dàng như đối với
nguồn vốn ODA. Tuy nhiên, bù lại có ưu điểm rõ ràng là không gắn với các ràng
buộc chính trị, xã hội. Mặc dù vậy, thủ tục vay đối với nguồn vốn này là tương đối
khắt khe, thời gian trả nghiêm ngặt, mức lãi suất cao là những trở ngại không nhỏ
đối với những nước nghèo.
Do được đánh giá là mức lãi suất tương đối cao cũng như sự thận trọng
trong kinh doanh ngân hàng, nguồn vốn tín dụng của các ngân hàng thương mại
thường được sử dụng chủ yếu để đáp ứng nhu cầu xuất nhập khẩu và thường là
ngắn hạn. Một bộ phận nguồn vốn này có thể dùng để đầu tư phát triển.
2.3. Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI.
Đây là nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát triển không chỉ đối với nước
nghèo mà cả đối với các nước công nghệ phát triển. Nguồn vốn đầu tư nước ngoài
có đặc điểm khác với các nguồn vốn khác là việc tiếp nhận nguồn vốn này không
phát sinh nợ cho nước tiếp nhận đầu tư. Thay vì nhận lãi trên vốn đầu tư, nhà đầu
tư sẽ nhận được phần lợi nhuận thích đáng khi dự án hoạt động có hiệu quả. Đầu
tư nước ngoài đem theo toàn bộ tài nguyên kinh doanh vào nước nhận vốn nên có
thể thúc đẩy phát triển ngành nghề mới, đặc biệt là những ngành nghề đòi hỏi cao
về kỹ thuật, công nghệ hay nhiều vốn. Vì thế, nguồn này có tác dụng cực kỳ to lớn
đối với quá trình công nghiệp hóa, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tăng trưởng
nhanh của nước tiếp nhận đầu tư.
2.4. Nguồn vốn từ thị trường vốn quốc tế.
Với xu hướng toàn cầu , mối liên kết ngày càng tăng của các thị trường vốn
quốc gia vào hệ thống tài chính quốc tế đã tạo nên vẻ đa dạng về các nguồn vốn
cho mỗi quốc gia và làm tăng lượng vốn lưu chuyển trên phạm vi toàn cầu.
Thị trường vốn quốc tế được biểu hiện bằng sự phát triển của thị trường
chứng khoán, dòng vốn đầu tư qua thị trường chứng khoán của các nước đang
phát triển ngày càng mạnh mẽ. Chính phủ của các nước đang phát triển có thể
5
phát hành trái phiếu trên thị trường vốn quốc tế để huy động nguồn vốn lớn, tập
trung cho phát triển kinh tế.

IV.Phân tích mối quan hệ giữa hai nguồn vốn
1. Vai trò của nguồn vốn đầu tư trong nước và tác động của nguồn vốn đầu
tư trong nước đến nguồn vốn đầu tư nước ngoài.
Chúng ta phải xem xét vị trí của nguồn vốn trong nước trong tăng trưởng và
phát triển kinh tế.
Trước tiên, cần phải khẳng định mọi nền kinh tế muốn phát triển bền vững
và lâu dài thì phải dựa vào nội lực khả năng sẵn có của nền kinh tế bởi các nguồn
vốn từ bên ngoài mặc dù có vai trò quan trọng là “cú kích” để đẩy nền kinh tế đi lên
nhưng không phải là nhân tố quyết định nếu nền kinh tế đó không có nội lực sẵn có
của mình thì mọi sự tác động sẽ trở thành vô nghĩa.
1.1. Vốn trong nước giữ vai trò quyết định phát triển kinh tế, và trong cơ
cấu nguồn vốn luôn chiếm tỷ lệ lớn.
Vốn trong nước được coi là nhân tố nội lực của mỗi quốc gia vì nó mang tính
ổn định và bền vững. Nội lực có tốt thì mới phát huy được hết vai trò của ngoại lực
(vốn nước ngoài). Vốn trong nước mang tính ổn định và bền vững vì lẽ nó do yếu tố
trong nước quyết định chứ không chịu ảnh hưởng của nhân tố bên ngoài (như tình
hình kinh tế-xã hội, an ninh của nước ngoài, mối quan hệ giữa hai Nhà nước ).
Ở một số nước, khu vực kinh tế Nhà nước được coi là khu vực quan trọng
nhất, giữ vai trò chủ đạo và nó thường chi phối trong những ngành, lĩnh vực quan
trọng. Những ngành cần Nhà nước đứng ra đảm nhiệm như lĩnh vực cần thiết nhưng
khả năng thu hồi vốn lâu, lợi nhuận lại thấp (xây dựng cơ sở hạ tầng) nên không
nhiều nhà đầu tư nào có mong muốn đầu tư vào, những lĩnh vực mà Nhà nước phải
đứng ra độc quyền (phân phối điện, nước), những lĩnh vực mới còn tiểm ẩn những
rủi ro cao, hay lĩnh vực liên quan đến an ninh quốc gia, chủ quyền lãnh thổ Nhà
nước cũng đầu tư vào hoạt động kinh tế như một doanh nghiệp thông thường, lợi
nhuận của doanh nghiệp Nhà nước lại trở thành nguồn thu của ngân sách Nhà nước.
Vai trò quan trọng của Ngân sách Nhà nước là công cụ tài chính vĩ mô sắc bén nhất,
hữu hiệu nhất, là công cụ bù đắp những khiếm khuyết của thị trường, đảm bảo công
bằng xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái. Các doanh nghiệp nhà nước luôn là lực
6

lượng đi đầu trong việc ứng dụng khoa học-công nghệ, nêu gương về năng suất,
chất lượng, hiệu quả kinh tế xã hội và chấp hành pháp luật.
Như vậy, đầu tư trong nước là nguồn cơ bản đảm bảo cho sự tăng trưởng
kinh tế một cách liên tục, đưa đất nước đi đến sự phồn vinh một cách chắc chắn, lâu
bền, là nguồn vốn cơ bản có vai trò quyết định, chi phối mọi hoạt động đầu tư phát
triển trong nước. Trong lịch sử phát triển của các nước trên phương diện lý luận
chung, bất kì nước nào cũng phải sử dụng lực lượng nội bộ là chính. Sự chi viện, bổ
sung bên ngoài chỉ là tạm thời, chỉ bằng cách sử dụng nguồn vốn đầu tư trong nước
có hiệu quả mới nâng cao được vai trò của nó và thực hiện được các mục tiêu quan
trọng đề ra của quốc gia.
1.2. Sự lớn mạnh về quy mô và ổn định nguồn lực vốn trong nước có thể
giúp nền kinh tế chống đỡ lại những cú sốc từ bên ngoài.
Một nguyên nhân quan trọng của cuộc khủng hoảng kinh tế Châu Á 1997 đó
là sự lệ thuộc quá nhiều vào đồng vốn nước ngoài dẫn đến sự sụp đổ dây chuyền
giữa các quốc gia.
Hiện nay, trong xu thế hội nhập toàn cầu, mỗi 1 quốc gia không chỉ phát
triển đơn lẻ mà còn có sự tác động qua lại đối với các quốc gia khác. Chính vì thế,
nền kinh tế của mỗi quốc gia sẽ ít nhiều chịu ảnh hưởng của nền kinh tế thế giới.
Trong bối cảnh đó, nếu chúng ta phát huy được nội lực nguồn vốn trong nước thì sẽ
có được thế chủ động trong việc điều hành nền kinh tế và ổn định các chính sách
kinh tế.
Nếu tỷ trọng vốn đầu tư trong nước quá thấp so với vốn nước ngoài thì sẽ
dẫn đến giảm khả năng thanh toán và có thể không kiểm soát được sự thâm nhập
của các tập đoàn xuyên quốc gia gây lũng loạn thị trường, thu hẹp thị trường của
các doanh nghiệp trong nước và sản xuất trong nước không phát triển. Chính vì vậy
chúng ta phải giữ cho tỷ trọng nguồn vốn trong nước ở mức kiểm soát được để ứng
phó kịp thời với những biến động của nền kinh tế.
1.3. Nguồn vốn trong nước là nguồn vốn đối ứng nhằm tạo cơ sở cho
nguồn vốn nước ngoài vào hoạt động có hiệu quả.
Thông thường để vốn đầu tư nước ngoài phát huy được tác dụng thì cần phải

có một tỷ lệ vốn đối ứng trong nước thích hợp. Nghĩa là muốn tiếp nhận được vốn
7
đầu tư nước ngoài thì trong nước cũng cần chuẩn bị sẵn một số cơ sở nhất định tạo
điều kiện cho vốn nước ngoài hoạt động có hiệu quả. Trong dự án sử dụng vốn
ODA những tổ chức cho vay yêu cầu nước đi vay phải có vốn đối ứng để chủ động
cho việc lập dự án. Nước đi vay phải bỏ trước có thể để chi trả cho đội ngũ thực
hiện dự án hoặc chi phí cho hoạt động đi lại, hoạt động của phía Việt Nam. Sẽ có
hai nhóm nhận tiền, một nhóm là do dự án trả, một nhóm khác do Nhà nước trả
( lấy từ nguồn vốn đối ứng). Theo kinh nghiệm của một số nước nhóm NICs thì giai
đoạn đầu của quá trình phát triển tỷ lệ này thường thấp ở mức 1/1.5 nghĩa là 1 đòng
vốn nước ngoài cần 1.5 đồng vốn trong nước. Ở giai đoạn sau khi các chương trình
đầu tư nghiêng về ngành công nghiệp chế biến có hàm lượng vốn và kỹ thuật cao
thì tỷ lệ này thường tăng lên.
1.4. Vốn trong nước đóng vai trò định hướng cho dòng đầu tư nước ngoài
chảy vào các ngành, các lĩnh vực cần thiết.
Nguồn vốn trong nước đóng vai trò then chốt trong việc định hướng các hoạt
động đầu tư. Mỗi nền kinh tế phát triển đều phải trải qua những giai đoạn khác nhau
và không thể áp dụng dập khuôn 1 chính sách cho cả quá trình phát triển. Với mỗi
giai đoạn phát triển sẽ đặt ra những mục tiêu trọng tâm, ưu tiên cho việc phát triển
những ngành kinh tế phù hợp. Muốn xây dựng một đất nước phát triển về mọi mặt
thì các ngành, các vùng của chúng ta đều phải có một sự phát triển nhất định với
một cơ cấu hợp lí. Việc đầu tư vốn trong nước để xây dựng cơ sở hạ tầng, mạng
lưới thông tin liên lạc, giao thông vào ngành, địa phương nào sẽ tạo môi trường
đầu tư thuận lợi, từ đó có thể thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. Vì vậy việc sử
dụng vốn trong nước cho ngành nào, vùng nào cần phải được cân nhắc kĩ theo sự
định hướng đúng đắn của Nhà nước sẽ giúp nền kinh tế phát triển nhanh chóng.
Vốn Nhà nước có vai trò quan trọng trong việc tạo ra môi trường đầu tư thuận lợi,
nhằm đẩy mạnh đầu tư của mọi thành phần kinh tế theo định hướng chung của kế
hoạch, chính sách và pháp luật đồng thời trực tiếp tạo ra năng lực sản xuất của một
số lĩnh vực quan trọng nhất của nền kinh tế đảm bảo theo đúng định hướng chiến

lược và quy hoạch phát triển kinh tế xã hội.
8
Trước tiên, xét về nguồn vốn FDI: Thực tế những năm qua, dòng vốn FDI
trên thế giới chủ yếu di chuyển trong nội bộ các nước phát triển, chỉ có khoảng 25%
- 30% di chuyển đến các nước đang và chậm phát triển. Điều đó chứng tỏ tài
nguyên thiên nhiên dồi dào, lao động rẻ không phải là nhân tố quan trọng hàng đầu
trong thu hút FDI. Khoảng 90% dòng vốn chảy vào một số ít quốc gia có môi
trường đầu tư hấp dẫn. Vì vậy cần quan tâm tới vấn đề sử dụng nguồn vốn trong
nước để tạo một môi trường đầu tư hấp dẫn. Do đó, tự bản thân chúng ta phải xây
dựng cho mình một nền tảng kinh tế - chính trị - xã hội vững chắc và ổn định, có cơ
sở hạ tầng, giao thông liên lạc tốt, đội ngũ nhân công có tay nghề, cán bộ quản lí có
chuyên môn Đó mới là yếu tố quyết định tới việc thu hút vốn nước ngoài để phát
triển kinh tế. Và đảm nhiệm vai trò này chính là nguồn vốn trong nước.
Đối với nguồn vốn ODA, tuy có rất nhiều ưu đãi nhưng về bản chất đây vẫn
là 1 khoản vay nên chúng ta vẫn phải trả nợ. Nếu khi đó nguồn vốn trong nước
không đủ để chi trả thì sẽ dẫn tới tình trạng nợ cho nền kinh tế và như vậy thì mục
đích tăng trưởng và phát triển kinh tế đã không đạt được.
Do đó nguồn vốn trong nước thực sự đóng vai trò quyết định tới việc thu hút
vốn nước ngoài và tới tăng trưởng của nền kinh tế.
2. Vai trò quan trọng của nguồn vốn nước ngoài và tác động đến nguồn vốn
trong nước.
2.1. Vai trò quan trọng của nguồn vốn nước ngoài.
Muốn tăng trưởng kinh tế nhanh chóng thì cần một tỷ lệ đầu tư toàn xã hội
rất cao. Nguồn vốn trong nước chỉ đáp ứng được một phần nên vốn nước ngoài là
nguồn bổ sung quan trọng. Đặc biệt ở các nước đang phát triển và kém phát triển
thì một trong những đặc trưng và nguyên nhân của nghèo đói là thiếu vốn. Vậy ở
những nước này thì nguồn vốn nước ngoài càng giữ vị trí quan trọng, là động lực
giúp cho các nước này bắt đầu quá trình “cất cánh”. Không những chỉ là nguồn bổ
sung đơn thuần, các nguồn vốn nước ngoài còn có các tác động ảnh hưởng ngược
trở lại đến nguồn vốn trong nước

2.2. Tác động tích cực của nguồn vốn nước ngoài đến nguồn vốn trong nước.
2.2.1Nguồn vốn nước ngoài hỗ trợ cho những thiếu hụt về vốn trong nước.
Nguồn vốn nước ngoài hỗ trợ cho những thiếu hụt về vốn trong nước, đặc
biệt là trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển, khi mà nguồn vốn trong nước
9
còn rất hạn chế. Những nghiên cứu về các nước đang phát triển cho thấy rằng,
nhóm nước này có mức thu nhập thấp nên khả năng tiêu dùng và tích luỹ cũng là
rất hạn chế. Nhưng ở giai đoạn này lại cần một khoản vốn lớn để đầu tư nhằm
hoàn chỉnh hệ thống cơ sở hạ tầng, xây dựng những công trình làm nền tảng cho
sự phát triển kinh tế lâu dài. Trong giai đoạn này thường tồn tại khoảng cách lớn
giữa đầu tư và tiết kiệm, cần nguồn bù đắp. Hơn nữa trong giai đoạn này do nền
công nghiệp của đất nước chưa phát triển nên hàng xuất khẩu nếu có đa phần là
hàng nông sản sơ chế và các nguyên liệu thô có giá trị gia tăng thấp. Ngược lại
về phía nhập khẩu do nhu cầu phát triển đòi hỏi phải nhập khẩu hàng cao cấp,
máy móc thiết bị công nghệ có giá trị gia tăng cao. Điều đó dẫn đến cán cân
thương mại, cán cân thanh toán luôn nằm trong tình trạng thâm hụt. Để giải quyết
khó khăn này nhiều nước đã tìm đến nguồn vốn đầu tư nước ngoài để tài trợ cho
những thiếu hụt đó.
Như vậy, hỗ trợ phát triển chính thức, ngoài việc bản thân nó là nguồn vốn
bổ sung quan trọng cho các nước dang phát triển, còn có tác dụng tăng khả năng
thu hút vốn từ nguồn đầu tư trực tiếp và tạo điều kiện để mở rộng đầu tư phát triển
trong nước cho các nước này.
2.2.2. Là nguồn cung ứng ngoại tệ cho hoạt động mua sắm máy móc thiết
bị, chuyển giao công nghệ, phân công lao động xã hội, tạo điều kiện cho
tăng năng suất lao động, gia tăng sản lượng của nền kinh tế.
Để tạo ra sự "cất cánh cho nền kinh tế phải tìm cách tạo ra mức sản lượng,
mức thu nhập ngày càng ra tăng. Muốn vậy cần phải có vốn đầu tư và kỹ thuật
tiên tiến. Và trong lúc nền kinh tế còn đang trong trạng thái tự đảm bảo một cách
khó khăn cho sự sinh tồn của mình, không thể hoàn toàn trông đợi vào con đường
"thắt lưng buộc bụng" tích luỹ nội bộ. Mà không phát triển nhanh thì nước đó luôn

rơi vào tình trạng rượt đuổi do tụt hậu phát triển. Mặt khác, kỹ thuật trong nước lại
quá lạc hậu, thậm chí đi sau vài chục năm so với các nước phát triển, việc nhập
khẩu công nghệ bên ngoài là một tất yếu. Nguồn vốn đầu tư nước ngoài lúc này
chính là nguồn cung ứng ngoại tệ để có thể tiếp cận công nghệ bên ngoài.
Trong quá trình chuyển giao, bên nhận nhận được những kiến thức kỹ thuật
mà không phải chi phí tốn kém và mất thời gian cho hoạt động nghiên cứu và triển
khai. Ưu điểm rõ ràng nhất đối với bên nhận công nghệ là tạo ra được sự tiến bộ
10
kỹ thuật và thương mại từ sự tiếp nhận công nghệ. Sự cung cấp tài liệu và huấn
luyện đầy đủ để nâng cao kiến thức của bên nhận trong lĩnh vực cụ thể của khoa
học ứng dụng và do đó làm tăng khả năng sản xuất của các sản phẩm công nghiệp
của bên nhận hoặc áp dụng các quy trình công nghệ để sản xuất một cách thành
công. Đôi khi sự giúp đỡ thêm về tài chính, tìm thị trường và tiêu thụ sản phẩm
của bên cung cấp còn mở ra một khả năng thương mại cho bên nhận. Khi công
nghệ đựơc chuyển giao, năng suất lao động sẽ tăng do tiến bộ của khoa học kỹ
thuật, hàng hoá bên nhận sẽ có chất lượng cao hơn, đáp ứng tốt hơn nhu cầu trong
nước cũng như xuất khẩu.
2.2.3. Làm gia tăng nguồn vốn trong nước.
Tạo công ăn việc làm cho nguồn lao động dư thừa, giải quyết thất nghiệp,
tăng thu nhập cho công nhân, từ đó tăng tiêu dùng, tăng tích luỹ, tăng nguồn vốn
trong nước
Từ khi mở cửa hội nhập, tiếp nhận luồng vốn đầu tư nước ngoài, số lượng
doanh nghiệp trong nước tăng lên đáng kể. Bằng cách tuyển dụng lao động địa
phương vào trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã trực tiếp tạo việc
làm cho người lao động hoặc gián tiếp tạo việc làm thông qua việc hình thành các
doanh nghiệp vệ tinh cung cấp hàng hoá và dịch vụ cho các doanh nghiệp này và
khi các doanh nghiệp vệ tinh này được hình thành và phát triển sẽ tạo việc làm
trong phạm vi toàn xã hội. Ngoài ra điều kiện lao động và chăm sóc về mặt sức
khoẻ, y tế đối với người lao động tại các nước tiếp nhận đầu tư tốt hơn so với các
doanh nghiệp địa phương. Với nguồn thu nhập ngày càng được cải thiện thì chất

lượng cuộc sống ngày càng nâng cao. Thu nhập cao hơn, người lao động sẽ tiêu
dùng nhiều hơn, làm gia tăng cầu của nền kinh tế, kích thích sản xuất phát triển.
Điều đó cũng thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển để đáp ứng nhu cầu ngày
càng gia tăng cộng vơi sự vơi bớt đi nỗi lo về đầu ra cho sản phẩm. Từ đó doanh
nghiệp trong nước sẽ tích cực sản xuất, nghiên cứu để cải tiến công nghệ nhằm gia
tăng năng suất lao động và đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu. Từ do doanh thu
từ bán hàng và cung ứng dịch vụ của các công ty sẽ tăng, lợi nhuận tăng, làm gia
tăng tích luỹ nội bộ nền kinh tế. Bên cạnh đó, khi thu nhập của người lao động
tăng, họ cũng tăng tích luỹ, tạo thành nguồn vốn lớn trong nước
11
Tạo thu cho ngân sách nhà nước, góp phần tăng tích lũy nguồn vốn trong
nước. Nguồn vốn nước ngoài khi vào lãnh thổ Việt Nam, sẽ hoạt động theo luật
pháp của Việt Nam, và cũng như doanh nghiệp trong nước phải hoàn thành nghĩa
vụ đóng thuế cho Nhà nước. Một thực tế mà chúng ta đều thấy, doanh nghiệp nước
ngoài thường hoạt động có hiệu quả hơn so với doanh nghiệp trong nước vì vậy, số
thuế thu được từ những doanh nghiệp này sẽ nhiều hơn, bao gồm nguồn thu từ thuế
giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân, thuế chuyển
nhượng, thu nhập từ mua bán tài sản Đó cũng là nguồn bù đắp lớn cho Ngân sách
Nhà nước, mà đây cũng chính là nguồn cung ứng vốn lớn ở trong nước
Nguồn vốn đầu tư nước ngoài cùng với nguồn vốn trong nước hình thành
những hình thức hợp tác như công ty liên doanh, công ty cổ phần Việc liên doanh
liên kết này sẽ giảm bớt gánh nặng về vốn, đầu tư đổi mới công nghệ do được san
sẻ giữa các bên. Bên cạnh đó tạo điều kiện tốt cho phía trong nước có cơ hội học
hỏi kỹ năng quản lý chuyên nghiệp từ bên ngoài, tác phong làm việc công nghiệp,
nâng cao tay nghề cho công nhân. Cộng vào đó sản phẩm đầu ra sẽ có thương hiệu
tốt hơn, từ đó tạo ra khả năng cạnh tranh cao hơn, lợi nhuận cao hơn so với việc
không liên doanh liên kết và như thế, nó đã góp phần gia tăng tích luỹ nội bộ nền
kinh tế như vậy, nếu sử dụng tốt thì vốn đầu tư nước ngoài về ngắn hạn là đáp ứng
vốn đầu tư phát triển, về dài hạn góp phần gia tăng nguồn vốn tích luỹ trong nước.
2.2.4. Vốn nước ngoài thúc đây quá trình sử dụng vốn ở nội địa linh hoạt

và hiệu quả hơn.
• Thông qua kênh cạnh tranh: Các nhà đầu tư nước ngoài sẽ biến
thị trường trong nước trở thành một nơi có tính cạnh tranh mạnh mẽ. Thông
thường khi các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào nước sở tại, họ thường chọn
những nơi có cơ sở hạ tầng tốt, sử dụng tối đa công suất của chúng, kích thích
nguồn vốn trong lĩnh vực này hoạt động có hiệu quả hơn. Các doanh nghiệp trong
nước trước sức ép cạnh tranh của các doanh nghiệp nước ngoài sẻ phải tự đổi mới
để nâng cao khả năng cạnh tranh của mình.
• Thông qua kênh sao chép và học hỏi: Các doanh nghiệp nước
ngoài khi sang sẽ mang theo các công nghệ và phương thức tổ chức sản xuất kinh
doanh tiên tiến. Thông qua các quá trình tương tác trong hoạt động, các doanh
nghiệp trong nước có thể học hỏi và sao chép những kinh nghiệm của nước ngoài
12
để tự mình hoạt động có hiệu quả hơn. Đó có thể là các kinh nghiệm về quản lý, tổ
chức sản xuất hay cải thiện trình độ công nghệ. Khi công nghệ của nước ngoài đã
cũ, họ có thể chuyển giao sang cho nước sở tại, cũng làm tăng tiềm lực công nghệ
của nước sở tại.
• Thông qua kênh liên kết sản xuất: Các doanh nghiệp nước ngoài
có thể thiết lập nên các liên doanh với doanh nghiệp trong nước, cải thiện khả sử
dụng vốn của các đối tác trong nước. Các doanh nghiệp trong nước muốn làm ăn
với nước ngoài thì cần phải đảm bảo các tiêu chuẩn về độ tin cậy, chất lượng và
tốc độ giao hàng. Ngoài ra thì sự năng động của các nhà đầu tư nước ngoài sẽ kéo
theo các ngành sản xuất trong nước và vận tải nội địa hoạt động mạnh hơn nhằm
đáp ứng yêu cầu hoạt động của các doanh nghiệp nước ngoài. Các doanh nghiệp
nước ngoài còn tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước tiếp cận với thị
trường thế giới, giúp nước nhận mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hóa và là cầu
nối trung gian giúp cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu vươn ra thị trường bên
ngoài.
• Thông qua kênh di chuyển lao động (nhân lực): Các nhà đầu tư
tiến hành tuyển dụng lao động ở nước sở tại và đào tạo họ để đáp ứng các yêu cầu

công việc. Họ đào tạo từ công nhân cho tới cán bộ quản lý. Khi có sự luân chuyển
lao động thì những kỹ năng lao động hữu ích này sẽ lan ra toàn bộ nền kinh tế và
làm tăng năng lực của người lao động ở nước sở tại.
Tất cả các kênh trên sẽ tác động đồng thời làm tăng năng suất lao động
của nước sở tại. Các nguồn vốn sẽ được sử dụng một cách có hiệu quả hơn.
2.2.5. Vốn nước ngoài cũng làm hoàn thiện thị trường tài chính trong nước
và tăng khả năng cạnh tranh, hiệu quả của thị trường tài chính.
Trong đó tác động mạnh mẽ nhất là lên thị trường chứng khoán. Vốn đầu
tư nước ngoài vào cổ phiếu trong nước giúp giảm chi phí vốn ở nước sở tại và đa
dạng hóa rủi ro. Sự có mặt của các nhà đầu tư nước ngoài còn tạo áp lực cải thiện
thể chế và chính sách trong nước. Các nhà đầu tư đi kèm là các công ty đánh giá
mức độ tín nhiệm sẽ cải thiện chất lượng thông tin và nhờ đó tăng tính hiệu quả
của thị trường chứng khoán. Cơ chế cáo bạch sẽ tăng lên và giúp nước sở tại phát
triển các dịch vụ về kế toán, kiểm toán, dịch vụ môi giới và kinh doanh chứng
13
khoán. Ngoài ra sự có mặt của các nhà đầu tư nước ngoài cũng giúp thị trường
vốn nước sở tại từng bước hội nhập với thị trường vốn toàn cầu.
2.3. Tác động tiêu cực của vốn đầu tư nước ngoài nếu việc sử dụng và quản
lý nguồn vốn này không tốt.
Đúng như trên chúng ta đã phân tích, những tác động tích cực của nguồn vốn
nước ngoài mang lại cho chúng ta là rất lớn, song không phải lúc nào nguồn vốn
nước ngoài cũng mang lại hiệu quả như mong muốn mà nó cũng luôn tiềm ẩn
những nguy cơ cho nước tiếp nhận và tác động tới nguồn vốn trong nước đặc biệt là
về khả năng trong tương lai của nguồn vốn này.
2.3.1. Luôn tiềm ẩn nguy cơ làm gia tăng nợ nước ngoài và gia tăng sự phụ
thuộc vào nền kinh tế nước ngoài nhất là đối với nguồn ODA.
Nguồn vốn ODA luôn chứa đựng cả tính ưu đãi cho nước tiếp nhận và lợi
ích của nước viện trợ. Chính vì vậy, ODA mang yếu tố chính trị. Các nước viện trợ
nói chung đều không quên đựơc lợi ích cho mình, vừa gây ảnh hưởng chính trị, vừa
thực hiện xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ tư vấn vào nước tiếp nhận. Bản thân các

nước phát triển nhìn thấy lợi ích của mình trong việc hỗ trợ, giúp đỡ các nước đang
phát triển để mở mang thị trường tiêu thụ sản phẩm và thị trường đầu tư. Viện trợ
thường gắn với các điều kiện kinh tế. Xét về lâu dài, các nhà viện trợ sẽ có lợi về
mặt an ninh, kinh tế, chính trị khi kinh tế các nước nghèo phát triển. Viện trợ các
nước không chỉ đơn thuần là việc giúp đỡ hữu nghị mà còn là một công cụ lợi hại
để thiết lập và duy trì lợi ích kinh tế và vị thế chính trị cho nước tài trợ. Những nước
cấp viện trợ đòi hỏi những nước tiếp nhận phải thay đổi chính sách phất triển cho
phù hợp với lợi ích của bên tài trợ. Khi nhận viện trợ, các nước cần cân nhắc kỹ
lưỡng những điều kiện của các nhà tài trợ, không vì lợi ích trước mắt mà đánh mất
những quyền lợi lâu dài. Quan hệ hỗ trợ phát triển chính thức phải đảm bảo tôn
trọng toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau,
bình đẳng cùng có lợi.
ODA là nguồn vốn có khả năng gây nợ. Khi tiếp nhận và sử dụng vốn
ODA do tính chất ưu đãi nên gánh nặng nợ nần thường chưa xuất hiện. Một số nước
14
do sử dụng không hiệu quả ODA có thể tạo nên sự tăng trưởng nhất thời, nhưng sau
một thời gian lại lâm vào vòng nợ nần do không có khả năng trả nợ. Sự phức tạp
chính là ở chỗ vốn ODA không có khả năng đầu tư trực tiếp cho sản xuất, nhất là do
xuất khẩu trong khi việc trả nợ lại dựa vào xuất khẩu thu ngoại tệ. Mặt khác với
ODA là nguồn vốn vay lâu dài, do ban đầu chưa phải trả nợ ngay nên ODA hay
được sử dụng lãng phí, không hiệu quả. Khi đến kì trả nợ thì người phải trả lại là
thế hệ sau, vì vậy, nó còn kìm hãm khả năng phát triển lâu dài của nguồn vốn trong
nước. Do đó, trong khi hoạch định chính sách sử dụng ODA cần phải phối hợp với
các loại nguồn vốn để tăng cường sức mạnh kinh tế và khả năng xuất khẩu.
2.3.2. Nguồn vốn nước ngoài di chuyển vào trong nước làm tăng thu nhập
của vốn nước ngoài trên thị trường trong nước và làm giảm thu nhập của
nguồn vốn trong nước.
Về thực chất đây là việc tái phân phối thu nhập của vốn trong nước cho vốn
nước ngoài, do đó có thể gây ra làn sóng "bài ngoại" của vốn trong nước và hiện
tượng xung đột ngấm ngầm, hoặc công khai trong quan hệ giữa vốn trong nước và

vốn nước ngoài.
2.3.3. Nguồn vốn nước ngoài được đầu tư khá nhiều vào khai thác tài
nguyên, dẫn đến làm giảm khả năng phát triển lâu dài của nguồn vốn trong
nước.
Đặc điểm của tài nguyên thiên nhiên là bắt nguồn từ tính chất quý hiếm và
sự phân bố không đòng đều giữa các vùng trên trái đất. Các nước đang phát triển
thường có nhiều tài nguyên thiên nhiên hơn các nước phát triển. Một trong những
động cơ của các nhà đầu tư nước ngoài là nhằm khai thác tài nguyên thiên nhiên rẻ
và dồi dào ở những nước tiếp nhận. Họ có thể khai thác để đem về nước sản xuất
hoặc sản xuất thành sản phẩm ngay tại nước sở tại. Có một hình thức khai thác khác
là khai thác những địa điểm du lịch hấp dẫn có sẵn hoặc ở dạng tiềm năng của
chúng ta. Nhưng nguồn tài nguyên của chúng ta chỉ có hạn, nếu cứ khai thác như
vậy thì không biết trong bao lâu nữa sẽ cạn kiệt. Thế hệ sau sẽ không có nguyên,
nhiêu liệu để sản xuất vì vậy sẽ gặp bất lợi do có thể sẽ phải nhập khẩu nguyên liệu
15
hoặc tốn kém chi phí cho nghiên cứu tìm ra nguyên liệu khác thay thế. Việc này sẽ
làm giảm khả năng phát triển về lâu dài của nguồn vốn trong nước
2.3.4. Tình trạng lũng đoạn thị trường của nhà đầu tư nước ngoài và cạnh
tranh không cân sức giữa doanh nghiệp trong nước với và doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài có thể làm phá sản doanh nghiệp trong nước và gây
thất nghiệp.
Một thực tế mà tất cả chúng ta đều có thể dễ dàng nhìn thấy, đó là doanh
nghiệp nước ngoài thường làm ăn có hiệu quả hơn với doanh nghiệp trong nước đó
là bởi các lý do sau
• Thứ nhất năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong nước đang phát
triển thường rất hạn chế bởi đa số các doanh nghiệp đều có quy mô nhỏ và ít vốn.
Cộng thêm vào đó là đa số các chủ doanh nghiệp và giám đốc doanh nghiệp tư nhân
chưa được đào tạo một cách bài bản về kiến thức kinh doanh, quản lý, kinh tế - xã
hội, văn hóa, luật pháp và kỹ năng quản trị kinh doanh, nhất là kỹ năng kinh
doanh trong điều kiện hội nhập quốc tế. Điều đó được thể hiện rõ trong việc nhiều

doanh nghiệp chưa chấp hành tốt các quy định về thuế, quản lý nhân sự, quản lý tài
chính, chất lượng hàng hóa, sở hữu công nghiệp
• Thứ hai, sự lạc hậu về khoa học - công nghệ của các doanh nghiệp
trong nước. Hiện nay, đa số các doanh nghiệp nước ta đang sử dụng công nghệ lạc
hậu so với mức trung bình của thế giới từ 2 đến 3 thế hệ, trong đó số máy móc hiện
đại chiếm tỷ lệ thấp. Bên cạnh đó đầu tư để đổi mới công nghệ lại thường chiếm tỷ
lệ rất thấp khoảng 0.2 đến 0.5% doanh thu
• Thứ ba, hạn chế về khâu nguyên vật liệu và sự yếu kém về thương
hiệu các doanh nghiệp.
• Thứ tư, chiến lược phân phối, chiến lược truyền thông và xúc tiến
thương mại của các doanh nghiệp trong nước còn nhiều hạn chế.
16
2.3.5. Làm chảy máu chất xám sang khu vực có vốn đầu tư nước ngoài.
Doanh nghiệp nước ngoài còn cạnh tranh với doanh nghiệp trong nước trong
lĩnh vực thu hút nguồn nhân lực bởi chính sách lương, thưởng và những trợ cấp.
Thông thường do được hưởng nhiều ưu đãi và môi trường làm việc tốt hơn mà đa số
những người có trình độ tay nghề thường làm trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài. Việc này đã làm giảm đáng kể nhân tài cho khu vực trong nước, góp
phần làm giảm khả năng phát triển của khu vực này.
3. Tổng kết.
Giữa hai nguồn vốn trong nước và ngoài nước tồn tại mối quan hệ hữu cơ
với nhau. Mỗi nguồn đều có những tác động tích cực và những điểm hạn chế tới
việc huy động, hiệu quả sử dụng và mức đóng góp cho sự phát triển chung của
nguồn vốn còn lại. Biểu hiện đó có thể là những tác động trực tiếp, và những tác
động gián tiếp là chủ yếu qua một số kênh trong nền kinh tế như: Kênh lao động,
kênh chuyển giao công nghê, kênh cạnh tranh và ổn định môi trường vĩ mô chung
cho sự vận động của cả hai nguồn vốn.
Một điều luôn cần phải xem xét là những tác động tiềm ẩn nguy cơ bất ổn
định nền kinh tế của các dòng vốn từ ngoài nước (đầu tư gián tiếp nước ngoài, viện
trợ chính phủ…).Những bất ổn này có thể là nguyên nhân của nhiều cuộc khủng

hoảng và có thể đánh đổ những thành quả mà nguồn vốn trong nước đã xây dựng
trên con đường phát triển.
17
Chương II
MỐI QUAN HỆ GIỮA NGUỒN VỐN ĐẦU TƯ TRONG
NƯỚC VÀ NGUỒN VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT
NAM GIAI ĐOẠN 2001 – 2011.
I. Thực trạng nguồn vốn đầu tư trong nước.
1.Ngân sách nhà nước.
Nguồn thu chi của Ngân sách nhà nước
Nguồn vốn từ Ngân sách nhà nước là nguồn vốn vô cùng quan trọng và không
thể thiếu trong chiến lược phát triển kinh tế của mỗi quốc gia.Trong những năm trở
lại đây,tổng thu ngân sách nhà nước không ngừng được gia tăng.Chủ yếu là các
nguồn thu từ các loại thuế, bênh cạnh các khoản phí và lệ phí.Trong vòng 5 năm từ
2006-2010, tổng thu NSNN ước tính đạt 1547 nghìn tỉ đồng vượt 16,2 % ( 216
nghìn tỉ đồng ) so với dự toán và gấp 2,8 lần tổng thu NSNN giai đoạn trước đó
( 2001-2005).Trong đó, thu từ nội địa đạt 1162 nghìn tỉ vượt 16,1% ( 162 nghìn tỉ )
so với dự toánh Pháp lệnh, đạt mức tăng trưởng bình quân 22%, tổng chi của ngân
sách nhà nước tăng trên 17%
Trong các năm 2004-2006 nền kinh tế tương đối ổn định và phát triển. Nguồn
vốn nhà nước chi nhiều hơn cho các hoạt động xã hội và giảm chi cho các hoạt
động kinh tế. Năm 2008 do chịu ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế toàn cầu
Chính phủ đã quyết định tăng chi giảm thu để điều tiết nền kinh tế. Năm 2009, gói
kích cầu 9 tỉ $ được đưa nhằm khôi phục đà tăng trưởng kinh tế. Thực hiện thu ngân
sách nhà nước phát sinh trên địa bàn ước năm 2011 (chưa kể thu đóng góp, thu vay
và tạm ứng ngân sách Trung ương) là 3.195.100 triệu đồng, tăng 2% so dự toán
năm và bằng 95,2% so với cùng kỳ. Ước tổng chi ngân sách địa phương (kể cả các
khoản chi theo mục tiêu do ngân sách Trung ương hỗ trợ và tạm ứng cho ngân sách
địa phương) là 5.331.444 triệu đồng, đạt 118,9% dự toán năm và tăng 44,7% so
cùng kỳ. Trong đó, chi ngân sách tỉnh 2.969.230 triệu đồng, đạt 113,2% dự toán

năm và ngân sách huyện, thành phố (kể cả ngân sách xã, phường, thị trấn)
2.362.214 triệu đồng, đạt 129% dự toán năm.
18
Bên cạnh những mặt tích cực thì NSNN cũng còn nhiều hạn chế như công tác
triển khai dự tóan còn chậm chễ trong việc ngân vốn ngân sách, tỉ lệ giải ngân thấp,
công tác quản lý, thực hịên giám sát ở các cấp còn nhiều hạn chế. Công tác thẩm
định phê duyệt chậm chễ, chưa đảm bảo yếu tố chất lượng, năng lực. Quy chế quản
lý đầu tư và xây dựng còn hạn chế, do hệ thống pháp luật chưa hòan chỉnh và đồng
bộ. Tính trượt giá chưa có quy định thông nhất, là nguyên nhân kéo dài thời gian
lập, thẩm định, phê duyệt dự án. Công tác giải phóng mặt bằng chậm, chi phí đền bù
lớn, quản lý và sự dụng đất đai chậm được khác phục ảnh hưởng đến tiến bộ và giải
ngân nguồn vốn.
2. Tín dụng đầu tư phát triển:
Chính sách tín dụng là sự khẳng định tính đứng đắn trong công cuộc đổi mới của
Đảng và nhà nước trong lĩnh vực đầu từ. Tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước đã
góp phần tăng cường cơ sở vật chất, kĩ thuật, nâng cao năng lực của nền kinh tế.
Trong thời kì đầu của cuộc đổi mới, nguồn vốn này đóng một vai trò quan trọng,
từng bước xóa bỏ chênh lệch về trình độ phát triển và đời sống nhân dân giữa các
vùng miền, tạo đà cho các vùng kinh tế phát triển.
Hỗ trợ một số lĩnh vực trọng điểm của nền kinh tế, như xây dựng hàng trăm km
đường dây 500KV, 220KV, và hàng trăm trạm biến áp, tăng công suất điện lên 2
nghìn MW, hàng trăm ngàn km cầu đường, hình thành và nâng cấp, mở rộng, các
khu KCN, KCX, đáp ứng nhu cầu XNK hàng hóa dịch vụ.
Phát triển các ngành CN trọng điểm như giao thông vận tải biển, giao thông
đường sắt, đóng tàu, gia tăng năng sản xuất cho các ngành khác.
Tạo sự chuyển biến lớn trong việc khai thác các nguồn vốn đầu tư, thúc đẩy thị
trường tài chính phát triển.
Giải quyết các vấn đề xã hội: đã xây dựng và đưa và sử dụng hàng trăm trường
học, bệnh viện, trạm xá… tạo việc làm cho, ổn định cuộc sống, bảo vệ môi trường
sức khỏe, nâng cao mức sống cho người dân ở các vùng miền núi, vùng sâu, vùng

xa, những nơi còn gặp nhiều khó khăn, thiếu thôn cơ sở vật chất.
3. Vốn doanh nghiệp nhà nước.
Nguồn vốn ở DNNN luôn chiếm tỉ trọng lớn trong đầu tư tòan xã hội, hiện được
xác định là đóng vai trò chủ đạo trong việc phát triển kinh tế, trong quá trình CNH-
19
HĐH ở nước ta. Theo tính tóan, tổng vốn đầu tư của DNNN cho xây dựng cơ bản
giai đọan 2001-2005 huy động và sử dụng trên 85,600 tỉ đồng, riêng năm 2006 đạt
trên 30,000 tỉ, bằng 137,8% so với năm 2005, lượng vốn cho phát triển tài sản vô
hình chiếm 18-20% tổng lượng vốn đầu tư của doanh nghiệp. Từ năm 2000, các
tổng công ty lập theo qui định TCT90-TCT91, đã lên thành lập tập đòan nhà nước
và các công ty từ NSNN được cổ phần hóa, nhằm tăng vốn điều lệ và tạo điều kiện
thuận lợi để huy động vốn trên TTCK. Năm 2007 tổng vốn chủ sở hữu của 70 tập
đòan tổng công ty lên đến 323 ngàn tỉ, vốn lưu động lên đến 448 ngàn tỉ đồng.
28/70 tập đòan tổng công ty đầu tư vốn ra nước ngòai chủ yếu trong các lĩnh vực
CK, ngân hàng bảo hiểm với giá trị lên đến 20ngàn tỉ, gấp 8,7 lần vốn chủ sở hữu.
Đầu tư dàn trải không tập trung vào chuyên môn chính của mình, họat động không
hiệu quả so với khu vực tư nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngòai. Do
được hưởng nhiều ưu đãi nên không bắt buộc có tài sản đảm bảo, dễ dẫn đến đổ vớ
dây chuyền và làm mất khả năng thanh tóan, cơ chế lao động còn bất hợp lý, nhất là
các cán bộ hành chính, thiếu kinh nghiệm làm việc và năng lực. Việc thực hiện tổ
chức các họat động kinh doanh chưa đảm bảo tính đồng bộ thống nhất, gây khó
khăn, lúc túng trong họat động kinh doanh của doanh nghiệp. Trong khi nền kinh tế
hiện nay, vẫn còn gặp không ít khó khăn, lạm phát, lãi suất vay tăng, doanh nghiệp
không đủ lợi nhuận, thậm chí là thu lỗ, dẫn đến thiếu khả năng thanh tóan, trả nợ
ngân hàng, và bù đắp thâm hụt.
4. Nguồn vốn từ dân cư và tư nhân
a. Nguồn vốn từ dân cư: nhìn tổng thể,vốn huy động từ dân cư là không hề nhỏ,
theo thống kê, lượng vàng dự trữ trong khu vực dân cư xấp xỉ 10tỉ $, tiền mặt và các
ngoại tệ khác chiếm xấp xỉ 80% tổng vốn huy động của toàn bộ hệ thống ngân
hàng. Thực tế khi phát hành trái phiếu chính phủ tư khu vực dân cư có thể huy động

hàng ngàn tỉ đồng. Nhiều hộ kinh doanh đã trở thành đơn vị kinh tế năng động trong
lĩnh vực kinh doanh ở địa phương. Ở một mức độ nhất định thì các hộ gia đình sẽ là
một số các nguồn tập trung và phân phối vốn quan trọng trong nền kinh tế.
20
b. Các công ty, doanh nghiệp tư nhân : từ khi đất nước hoàn toàn chuyển đổi từ
cơ chế kề hoạch hóa tập trung sng kinh tế thị trường thì các doanh nghiệp tư nhân
mới có cơ hội phát triển. Sau hơn 20 năm, doanh nghiệp tư nhân ngày càng mở
rộng, phát triển dưới nhiều hình thức:công ty TNHH, công ty hợp danh… Xét về
mặt hiệu quả và chất lượng, hiệu quả sử dụng vốn ở các doanh nghiệp tư nhân
tương đối cao. Với tính chất phong phú, đa dạng, năng động, linh hoạt,có nhiều
sáng kiến, sáng tạo mới, trên lí thuyết, đây là khu vực có cơ sở và trách nhiệm phải
sử dụng có hiệu quả nguồn vốn của mình. Tuy nhiên, khu vực này cũng chứa đựng
rất nhiều hạn chế: trốn thuế, nhiều cơ sở làm ăm kém hiệu quả, thua lỗ gây tổn thất
cho nền kinh tế;do chính sách thông thoáng, quản lí hành chính lỏng lẻo đã tạo điều
kiện cho các công ty ma ra đời lừa đảo và chiếm dụng tài sản nhân dân gây bức xúc
trong xã hội. Nhung không thể phủ nhận vai trò cùa các doanh nghiệp tư nhân đến
nền kinh tế thị trường hiện nay ở Việt Nam.
5. Nguồn vốn trên thị trường vốn:
Thị trường vốn Việt Nam phải kể đến 3 thị trường : ngân hàng, chứng khoán
và bất động sản
Hiện nay dưới sự quản lí của NHNN Việt Nam, hàng loạt các NHTM thành
lập và phát triển sánh cùng với các ngân hàng của khu vực nhà nước, là một kênh
huy động vốn lớn của nền kinh tế. Tuy nhiên, hiện nay, rủi ro ngân hàng lại khá lớn,
do cách thức cho vay và tính lãi suất của ngân hàng còn nhiều bất hợp lí gây dư
luận xã hội.
1/3 thị trường của thị trường vốn là thị trường chứng khoán, thành lập năm
2000, TTCK Việt Nam đã có bước nhảy vọt trong vài năm trở lại đây. Thời điểm
thống đốc NHNN quyết định thành lập UBCKNN (28/6/2000). TTCK Việt Nam
hoạt động vẫn còn rất yếu ớt, chưa tạo sự ảnh hưởng để được phổ biến,tính đến năm
2002 mới có 21 mã chứng khoán niêm yết với tổng vốn lá 1086 tỉ đồng thì hiện nay,

nhất là năm 2006, TTCK Việt Nam đã có sự phát triển vượt bậc, nhiều mã CK được
niêm yết trên 2 thị trường Hà Nội và tp HCM. Xét trên phương diện vốn , TTCK đã
huy động đươc jmột lượng vốn lớn từ trái phiếu, cổ phiếu, 2 lọai trái phiếu công ty
21
có số vốn157tỉ, hơn 50 cổ phiếu công nghiệp có giá trị tới hàng ngàn tỉ và các lọai
cổ phiếu khác trên thị trường với tổng vốn lên đến hơn 6000 tỉ chiếm 1.6% GDP.
Cuối 2008, do chịu ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính thế giới, TTCK Việt Nam
đã có một giai đoạn khó khăn, hàng ngàn cổ phiếu sụt giá mạnh, thị trường bấp
bênh. Đến nay đã đi vào ổn định và ngày một hiệu quả.
Cuối cùng là thị trường bất động sản, trong thời gian qua, bất động sản đã có
nhiều biến động. Luật đất đai đời năm 1993, xuất hiên nhiều giao dịch bất động
song mới chỉ mang tính tự phát. Đến cuối năm 2006, thị trường rơi vào tình trạng
đóng băng làm giảm nguồn thu NS, còn làm các doanh nghiệp kinh doanh bất động
sản gặp nhiều khó khăn thậm chí là đi đến bờ phá sản, kéo theo các ngân hàng cho
vay bất động sản cũng rơi vào tình trạng khó khăn.Sang đến đàu năm 2007, lượng
vốn chảy vào trong nước dồi dào hơn cộng với thị trường chứng khoán đag nở rộ đã
khiến thị trường ấm lên. Các nhà đầu tư chứng khoàn để mắt đầu tư bất động sản
nhiều hơn. Thêm vào đó, là chính sách nhà nước cho phép Việt kiều có thể mua nhà
và thực hiện các hoạt đông mua bàn, giao dịch bất động sản nhộn nhịp hơn.
II. Thực trạng về huy động vốn đầu tư nước ngoài.
1. Tình hình thu hút vốn FDI.
Hiện nay, xu hướng hội nhập-hợp tác toàn cầu khu vực nền kinh tế đang diễn ra
trên toàn thế giới. Và Việt Nam cũng không nằm ngoài quỹ đạo phát triển chung
đó.Với lợi thế vị trị địa lí, điều kiện tự nhiên con người Việt Nam trở thành một
mảnh đất lí tưởng cho nhiều công ty, tổ chức quốc tế đầu tư vào Việt Nam và đối
với Việt Nam, nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI đã trở thành bộ phận
không thể thiếu của nền kinh tế. Đóng vai trò quan trọng đến tăng trưởng và phát
triển kinh tế Việt nam. Sau đây là bức tranh tổng thể về FDI
1.1. Một số dự án và số vốn đầu tư qua các giai đoạn :
a. Giai đoạn từ năm 2000-2007:

Đây là giai đoạn nền kinh tế thế giới và khu vực dần dần khôi phục trở lại.
Và kèm theo đó , nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI bắt đầu phục hồi và
tăng tốc.Tổng vốn FDI ( gồm cả vốn đăng ký và vốn tăng thêm ) đạt 4,2 tỷ USD
22
vào năm 2004, và 6,34 tỷ USD vào năm 2005. FDI đăng ký tăng bình quân một
năm trong giai đoạn 2001-2005 là 18,8 % /năm. FDI thực hiện tăng bình quân
6,4 %/năm.
Nói riêng năm 2006, đầu tư FDI vào Việt nam tiếp tục có sự phát triển
vượt bậc. Nếu như theo thông tin dự báo thì lượng vốn đầu tư chỉ là 6,5 tỷ USD cả
năm. Nhưng thực tế lượng vốn đầu tư đã vượt xa mức dự báo với mức kỷ lục 10,2
tỷ USD.
Tuy nhiên những bước tiến trong việc thu hút đầu tư FDI vào Việt nam chưa
dừng lại ở đó.Điểm nhấn quan trọng trong việc thu hút FDI vào Việt Nam nói riêng
và toàn nền kinh tế nói chung là sự kiện Việt nam đàm phán thành công ( 11/2006 )
và chính thức trở thành thành viên thứ 160 của tổ chức thương mại thế giới WTO
( 11/1/2007). Chính phủ với hành lang pháp luật, chính sách đầu tư được bổ sung
sửa đổi dẫn đến năm 2007, FDI đầu tư vào Việt Nam chạm mức 21 tỷ USD. Ghi
nhận thành công của chính sách thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt nam trong năm
đầu tiên gia nhập WTO.
b. Giai đoạn tù 2008 đến nay :
Năm 2008, Với nhiều dự án quy mô vốn đặc biệt lớn, FDI đăng ký cấp mới và
tăng thêm tại Việt Nam năm 2008, tính đến 19/12, đã đạt 64,011 tỷ USD, tăng gấp 3
lần so với năm 2007, và gấp hơn hai lần so với con số của hai năm 2006 và 2007
cộng lại. Và một con số quan trọng hơn – vốn giải ngân, thì năm 2008 cũng ghi
nhân kỉ lục, các doanh nghiệp tại Việt nam đã giải ngân số vốn lên tới 11,5 tỷ USD,
tăng 43,2% so với năm 2007 Phân tích kĩ hơn , nếu trong giai đoạn 20 năm trước
( 1989-2007), tổng số vốn FDI thực hiện là 43 tỷ USD , tức là tính trung bình chỉ
giải ngân được 2,15 tỷ USD /năm, thì giải ngân trong năm 2008 đã 26,7% tổng số
vốn giải ngân của 20 năm trước đó
Sang năm 2009, nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI vào Việt nam giảm

mạnh do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới. Từ mức kỉ lục 64 tỷ
USD trong năm 2008 giảm xuống chỉ còn 21,48 tỷ USD số vốn đăng ký năm 2009.
23
Bằng 30% so với năm 2008. Với 839 dự án vốn đầu tư nước ngoài FDI được cấp
phép đầu tư. Tuy nhiên, mặc dù vốn đăng ký giảm mạnh nhưng vốn thực hiện trong
năm 2009 vẫn đạt ở mức khá với số vốn giải ngân 10 tỷ USD làm cho khoảng cách
giữa vốn đăng ký và vốn thực hiện được giảm bớt.Và có thể khẳng định năm 2009 ,
tuy FDI đạt thấp nhưng vẫn là con số cao trong bối cảnh khủng hoảng , suy giảm
nguồn FDI thế giới và cạnh tranh gay gắt.
Giai đoạn 2010 đến nay là giai đoạn nền kình tế thế giới và khu vực đang trong
quá trình hồi phục chậm và đứng trước không ít những khó khăn nhưng với những
nỗ lực vận động xúc tiến đầu tư, cải thiện môi trường đầu tư, thủ tục hành chính của
các ngành các cấp thì tổng số vốn FDI năm 2010 đạt 18,6 tỷ USD, bằng 82% so với
năm 2009 và giải ngân vốn trực tiếp nước ngoài FDI đạt 11 tỷ USD.
1.2.Về cơ cấu vốn đầu tư
Đây là vấn đề có ý nghĩa quan trọng hàng đầu trong hoạt động thu hút vốn đầu
tư trực tiếp nước ngoài FDI. Bởi vì nó có tác động to lớn đến quá trình dịch
chuyển cơ cấu kinh tế của nước ta.
a. Theo lĩnh vực đầu tư:
Năm 2011 : Lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo là lĩnh vực thu hút được
nhiều sự quan tâm của nhà đầu tư nước ngoài với 435 dự án đầu tư đăng ký mới,
tổng số vốn cấp mới và tăng thêm là 7,123 tỷ USD, chiếm 48,5% tổng vốn đầu tư
đăng ký trong 12 tháng. Lĩnh vực sản xuất phân phối điện đứng thứ hai với tổng vốn
đầu tư đăng ký cấp mới và tăng thêm là 2,53 tỷ USD, chiếm gần 17,2% tổng vốn
đầu tư. Đứng thứ 3 là lĩnh vực xây dựng với 140 dự án đầu tư mới, tổng vốn đầu tư
đăng ký cấp mới và tăng thêm là 1,25 tỷ USD, chiếm 8,5%. Tiếp theo là lĩnh vực
kinh doanh bất động sản với tổng số vốn đăng ký cấp mới và tăng thêm là 845,6
triệu USD, chiếm 5,8%.
24

×