Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Cơ sở pháp lý và ý nghĩa của quy định hạn chế quyền cha mẹ đối với con chưa thành niên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (144.87 KB, 13 trang )

Lời nói đầu
Với ý nghĩa gia đình là tập hợp những người gắn bó với nhau do hôn nhân,
quan hệ huyết thống hoặc do quan hệ nuôi dưỡng, làm phát sinh các nghĩa vụ
và quyền giữa họ với nhau theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình; dựa
trên cơ sở đạo đức thể hiện truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam, luôn có
sự yêu thương chăm sóc đùm bọc lẫn nhau giữa các thành viên trong gia đình.
Thế nhưng một thực tế đáng buồn vẫn đang diễn ra ở nhiều địa phương
trong cả nước ta. Đó là tình trạng bạo hành, ngược đãi trẻ em trong gia đình
cũng như ngoài xã hội. Nhiều trẻ em vẫn còn phải lao động cực nhọc, ăn chưa
đủ no, mặc chưa đủ ấm, không được đi học, còn bị hành hạ về thể xác và tinh
thần hoặc mua bán, xâm hại… Không chỉ vậy, không ít trẻ em đã trở thành nạn
nhân của chính cha mẹ các em - những ng ười trực tiếp sinh thành, dưỡng dục
các em. Các ông bố, bà mẹ đã vô tâm vứt bỏ các em ngay từ khi mới được sinh
ra.
Vì vậy Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 đã quy định biện pháp hạn
chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên.Thực chất biện pháp này là
chế tài của luật hôn nhân và gia đình áp dụng đối với hành vi có lỗi, hoặc phạm
tội của cha, mẹ xâm phạm lợi ích của con. Khi áp dụng biện pháp này, tòa án
cần cân nhắc thận trọng, chỉ quyết định tước những quyền này của cha, mẹ đối
với con trong trường hợp cần thiết vì lợi ích của con. Để tăng cưòng nhận thức
của bản thân cũng như để góp phần giúp mọi người hiểu rõ được vấn đề này,
nhóm chúng em chọn đề tài: “Cơ sở pháp lý và ý nghĩa của quy định hạn
chế quyền cha mẹ đối với con chưa thành niên”.
Do đây là một đề tài lớn và chúng em đã cố gắng trình bày vấn đề này một
cách ngắn gọn, cô đọng nhưng không thể tránh khỏi những thiếu sót. Chúng em
rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô.
Chúng em xin chân thành cảm ơn !
1
A.Mở đầu
Cha mẹ là tấm gương cho con cái noi theo. Nhưng bên cạnh những tấm
gương sáng mẫu mực cho con cái học tập theo thì cũng có những tấm


gương mờ làm ảnh hưởng xấu đến nhân phẩm,sức khỏe, nhận thức cũng
như sự phát triển toàn diện của con cái.Đặc biệt là đối với trẻ chưa vị thành
niên-lứa tuổi mà trẻ chưa hoàn thiện về khả năng nhận thức và chưa có đủ
trách nhiệm pháp lí đối với bản thân.Đây là lứa tuổi dễ bị cha mẹ xâm hại
sức khỏe, nhân phẩm, danh dự cũng như bị ngược đãi, xúi giục, ép buộc
làm việc xấu,phạm pháp. Để hạn chế và xử lí những hành vi xấu xa đó,
Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 đã quy định biện pháp hạn chế quyền
của cha mẹ đối với con chưa thành niên. Tuy nhiên, cơ sở pháp lý của quy
định này cũng như ý nghĩ của nó thì không phải ai cũng biết. Vì vậy bài
tiểu luận này chúng tôi xin đề cập đến vấn đè cơ cở pháp lý và ý nghĩa của
quy định hạn chế quyền cha mẹ đối với con chưa thành niên.
B.Nội dung
1.Cơ sở pháp lý
Các quy định về hạn chế quyền cha mẹ với con trong Luật Hôn nhân & Gia
đình năm 2000 dựa trên cơ sở pháp lý chính là Hiến pháp nước Cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm
2004 và Công ước quốc tế về quyền trẻ em.
 Theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000:
Điều 41. Hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên
Khi cha, mẹ đã bị kết án về một trong các tội cố ý xâm phạm sức khoẻ,
nhân phẩm, danh dự của con hoặc có hành vi vi phạm nghiêm trọng nghĩa
vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con; phá tán tài sản của con;
có lối sống đồi truỵ, xúi giục, ép buộc con làm những việc trái pháp luật,
trái đạo đức xã hội thì tuỳ từng trường hợp cụ thể Toà án có thể tự mình
2
hoặc theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức quy định tại điều 42 ra
quyết định không cho cha, mẹ trông nom, chăm sóc, giáo dục con, quản lý
tài sản riêng của con hoặc đại diện theo pháp luật cho con trong thời hạn từ
một năm đến năm năm. Toà án có thể xem xét việc rút ngắn thời hạn này.
Điều 42. Người có quyền yêu cầu Toà án hạn chế quyền của cha, mẹ

đối với con chưa thành niên
1. Cha, mẹ, người thân thích của con chưa thành niên theo quy định của
pháp luật về tố tụng dân sự có quyền tự mình yêu cầu Toà án hoặc đề nghị
Viện kiểm sát yêu cầu Toà án hạn chế một số quyền của cha, mẹ đối với
con chưa thành niên.
2. Viện kiểm sát theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự có quyền
yêu cầu Toà án hạn chế một số quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành
niên.
3. Cơ quan, tổ chức sau đây theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự
có quyền tự mình yêu cầu Toà án hoặc đề nghị Viện kiểm sát yêu cầu Toà
án hạn chế một số quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên:
a) Uỷ ban bảo vệ và chăm sóc trẻ em;
b) Hội liên hiệp phụ nữ.
4. Cá nhân, cơ quan, tổ chức khác có quyền đề nghị Viện kiểm sát xem xét,
yêu cầu Tòa án hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên.
Điều 43. Hậu quả pháp lý của việc cha, mẹ bị hạn chế quyền đối với
con chưa thành niên
1. Trong trường hợp một trong hai người là cha hoặc mẹ bị Toà án hạn chế
một số quyền đối với con chưa thành niên thì người kia thực hiện quyền
trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con, quản lý tài sản riêng của
con và đại diện theo pháp luật cho con.
2. Trong trường hợp cha mẹ đều bị Toà án hạn chế quyền đối với con chưa
thành niên thì việc trông nom, chăm sóc, giáo dục con và quản lý tài sản
3
riêng của con chưa thành niên được giao cho người giám hộ theo quy định
của Bộ luật dân sự và Luật này.
3. Cha, mẹ đã bị Toà án hạn chế quyền đối với con chưa thành niên vẫn
phải thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng con.
 Theo Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 1992:
Điều 65. Trẻ em được gia đình, Nhà nước và xã hội bảo vệ, chăm sóc và

giáo dục.
 Theo Công ước của Liên Hợp Quốc về Quyền trẻ em:
- Thông qua và mở cho các nước ký, phê chuẩn và gia nhập theo
nghị quyết 44/25 ngày 20-11-1989 của đại Hội Đồng Liên Hiệp
Quốc.
- Có hiệu lực từ ngày 2-9-1990 theo điều 49 của Công ước – Việt
Nam phê chuẩn ngày 20-2-1990.
Điều 9
1. Các quốc gia thành viên phải đảm bảo rằng trẻ em không bị cách ly
cha mẹ trái với ý muốn của họ, trừ trường hợp những nhà chức trách có
thẩm quyền chịu sự xem xét của pháp luật quyết định là theo luật pháp và
các thủ tục áp dụng thì việc cách ly như thế là cần thiết cho lợi ích tốt
nhất của trẻ em. Quyết định như thế có thể là cần thiết trong trường hợp
đặc biệt như trẻ em bị cha mẹ lạm dụng hay sao nhãng, hoặc khi cha mẹ
sống cách ly và cần phải có một quyết định về nơi cư trú của trẻ em.
2. Trong bất kỳ quá trình tố tụng theo như đoạn 1 của điều này, tất cả các
bên liên quan phải được cơ hội tham gia quá trình tố tụng và bày tỏ quan
điểm của mình.
Điều 19
1. Các quốc gia thành viên phải thực hiện tất cả các biện pháp lập pháp,
hành chính, xã hội và giáo dục thích hợp để bảo vệ trẻ em khỏi tất cả các
hình thức bạo lực về thể chất hoặc tinh thần, bị thương tổn hay lạm dụng,
4
bị bỏ mặc hoặc sao nhãng việc chăm sóc , bị ngược đãi hoặc bóc lột, gồm
cả lạm dụng tình dục trong khi trẻ em vẫn nằm trong vòng chăm sóc của
cha mẹ hoặc cả cha lẫn mẹ, một hay nhiều người giám hộ pháp lý, hoặc
của bất kỳ người nào khác được giao việc chăm sóc trẻ em.
2. Những biện pháp bảo vệ như vậy, trong chừng mực thích hợp cần bao
gồm các thủ tục hữu hiệu để thành lập những chương trình xã hội nhằm
dành sự hỗ trợ cần thiết cho trẻ em và cho những người chăm sóc trẻ em,

cũng như cho các hình thức phòng ngừa khác và cho việc xác định, báo
cáo, chuyển cấp, điều tra xử lý và tiến hành những bước tiếp theo trong
các trường hợp ngược đãi trẻ em như đã mô tả trước đây và nếu thích hợp
cho việc tham gia của pháp luật.
Điều 20
1. Những trẻ em tạm thời hay vĩnh viễn bị tước mất môi trường gia đình
của mình, hoặc vì những lợi ích tốt nhất của chính bản thân mình mà
không được phép tiếp tục ở trong môi trường ấy, có quyền được hưởng sự
bảo vệ và giúp đỡ đặc biệt của Nhà nước.
2. Các quốc gia thành viên phải bảo đảm cho các trẻ em như thế được
hưởng sự chăm sóc thay thế tương ứng phù hợp với luật pháp quốc gia.
3. Sự chăm sóc như thế có thể bao gồm nhiều hình thức gồm việc gửi
nuôi, hình thức Kafala của luật đạo Hồi, nhận làm con nuôi hoặc nếu cần
thiết gửi vào các cơ sở chăm sóc trẻ em thích hợp. Khi cân nhắc các giải
pháp, phải quan tâm thích đáng đến việc mong muốn liên tục trong việc
nuôi dạy trẻ em và đến xuất xứ dân tộc, tôn giáo, văn hoá và ngôn ngữ
của trẻ em.
Điều 36
Các quốc gia thành viên phải bảo vệ trẻ em chống tất cả các hình
thức bóc lột khác phương hại đến bất kì những phương diện nào của phúc
lợi trẻ em.
Điều 41
5

×