Tải bản đầy đủ (.doc) (62 trang)

Thực trạng và giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư - Phát triển Tây Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (350.92 KB, 62 trang )

MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
NHTM : Ngân hàng thương mại
NHĐT&PT : Ngân hàng đầu tư và phát triển
QHKH : Quan hệ khách hàng
CN : Cá nhân
TCKT : Tổ chức kinh tế
DPRR : Dự phòng rủi ro
TSĐB : Tài sản đảm bảo
NQH : Nợ quá hạn
QD : Quốc doanh
NQD : Ngoài quốc doanh
LNTT : Lợi nhuận trước thuế
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU
SƠ ĐỒ
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Trong những năm qua, Nước ta đã thực hiện vận hành nền kinh tế theo cơ chế
thị trường. Môi trường kinh tế cạnh tranh đã tạo ra triển vọng và điều kiện thuận
lợi cho các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp ngân hàng nói riêng. Sau
khi hệ thống ngân hàng được tổ chức lại, trở thành hệ thống ngân hàng hai cấp theo
nghị định 53/HĐBT, các ngân hàng thương mại đã được tách ra với tư cách là đơn
vị kinh doanh tiền tệ mà mục tiêu chủ yếu của nó là tối đa hoá lợi nhuận. Nhưng
đồng thời cơ chế thị trường với đầy dẫy những rủi ro bất trắc lại đặt các doanh
nghiệp (trong đó có doanh nghiệp ngân hàng) trước những thử thách khốc liệt,
ngiệt ngã bởi sự cạnh tranh để tồn tại và phát triển.
Rủi ro luôn là căn bệnh bẩm sinh vốn có của nền kinh tế thị trường. Gắn liền
với khả năng thu lợi nhuận cao thì bao giờ cũng xuất hiện những tiềm tàng khả
năng rủi ro lớn đối với nó. Đáng chú ý là trong lĩnh vực kính doanh tiền tệ khả
năng rủi ro đối với các doanh nghiệp ngân hàng là con số cộng khả năng rủi ro các
doanh nghiệp trong các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân. Bởi vì trong


điều kiện cơ chế thị trường, nguồn vốn vay ngân hàng để tiến hành hoạt động sản
xuất kinh doanh - dịch vụ của các doanh nghiệp bao giờ cũng chiếm tỷ trọng lớn
trong tổng nguồn vốn sản xuất kinh doanh của họ.
Như vậy, bất kỳ sự rủi ro nào dù lớn hay nhỏ, xảy ra ở bất kỳ một doanh nghiệp
sản xuất kinh doanh nào có quan hệ giao dịch tín dụng với ngân hàng cũng đều gây ra
rủi ro cho ngân hàng. Điều đó cho thấy rủi ro và vấn đề phòng ngừa rủi ro trong hoạt
động kinh doanh tín dụng của ngân hàng bao giờ cũng là một vấn đề được quan tâm
hàng đầu vì nó có liên quan và tác động trực tiếp đến sự sống còn của các ngân hàng.
Qua học tập tại Đại học Đại Nam và nghiên cứu thực tế tại Chi nhánh Ngân
hàng đầu tư và phát triển Tây Hà Nội em nhận thấy tầm quan trọng của công tác
giám sát và phòng ngừa rủi ro đối với hoạt động kinh doanh ngân hàng. Do đó, em
lựa chọn đề tài: "Thực trạng và giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại Chi nhánh
Ngân hàng Đầu tư - Phát triển Tây Hà Nội" để nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu của chuyên đề:
- Hệ thống lại những vấn đề có tính lý luận về rủi ro đối với cho vay mà các
ngân hàng gặp phải.
- Phân tích thực trạng hoạt động cho vay tại chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và
Phát triển Tây Hà Nội.
1
- Đánh giá tình hình rủi ro của chi nhánh Ngân hàng Đầu từ và Phát triển Tây
Hà Nội và đưa ra các giải pháp cụ thể.
3. Đối tượng nghiên cứu
Phân tích rủi ro tín dụng tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Tây
Hà Nội
4 Phương pháp nghiên cứu:
Chuyên đề sử dụng các biện pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, các
phương pháp so sánh, thống kê…
5. Kết cấu của đề tài:
Phần 1: Lời mở đầu
Phần 2: Bao gồm 3 chương:

- Chương 1 : Những lý luận cơ bản về ngân hàng thương mại và rủi ro tín
dụng trọng hoạt động kinh doanh ngân hàng.
- Chương 2 : Thực trạng rủi ro tín dụng trong hoạt động kinh doanh tại Chi
nhánh Ngân hàng đầu tư và phát triển Tây Hà Nội.
- Chương 3 : Các giải pháp nhằm hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng của
chi nhánh Ngân hàng đầu tư và phát triển Tây Hà Nội.
Phần 3: Kết luận

2
CHƯƠNG 1
NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ RỦI RO TÍN DỤNG
TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH NGÂN HÀNG
1.1. Rủi ro tín dụng trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
1.1.1. Khái niệm tín dụng.
Lịch sử ra đời và phát triển tín dụng gắn liền với lịch sử sản xuất hàng hoá. Hình
thức sơ khai của tín dụng là tín dụng nặng lãi, có được như vậy là do sự phân chia của
tập đoàn người thành những người có nhiều người hơn và những người có ít người hơn
dẫn đến sự xuất hiện quan hệ vay mượn do có sự chênh lệch dư thừa sản phẩm. Người
đi vay không những phải trả vốn mà còn phải trả lãi cho người vay, đó là tín dụng nặng
lãi. Hình thức này chỉ tồn tại ở xã hội trước tư bản và mục đích của nó là duy trì cuộc
sống cho những người cần vay. Đến phương thức tư bản chủ nghĩa tín dụng nặng lãi
không còn phù hợp, sản xuất phát triển, đi vay không những để cho tiêu dùng mà còn để
phát triển sản xuất. Lãi cho vay cũng phải thấp hơn do có nhiều nhà cho vay hơn và để
cho nhà tư bản đi vay đảm bảo sản xuất có lợi nhuận. Vay mượn không chỉ đơn thuần là
tiền mà còn là các máy móc thiết bị, tư liệu sản xuất Lãi suất không còn bị áp đặt bởi
những người cho vay mà phải là sự thoả thuận giữa người mua và người bán. Các hình
thức tín dụng mới ra đời.
Từ đó có thể định nghĩa tín dụng là quan hệ vay mượn dựa trên nguyên tắc hoàn
trả. Đó là quan hệ giữa hai bên trong đó có một bên( Trái chủ hay người cho vay) chu
cấp tiền hay hàng hoá, dịch vụ dựa vào lời hứa thanh toán lại trong tương lai của người

phía bên kia ( người thụ trái hay người đi vay).
Cùng với sự phát triển của sản xuất hàng hoá, tín dụng ngày càng có những phát
triển cả nội dung và hình thức, từ tín dụng nặng lãi đến tín dụng thương mại và cao nhất
là tín dụng ngân hàng. Tín dụng ngân hàng đã thực sự mở rộng các mối quan hệ, thay
thế giữa quan hệ cá nhân với nhau bằng mối quan hệ giữa cá nhân với tổ chức, giữa các
tổ chức với nhau và cao nhất là tín dụng quốc tế.
Tín dụng ngân hàng là một hình thức phát triển cao của tín dụng, tuy nhiên nó vẫn
giữ nguyênđược bản chất ban đầu của quan hệ tín dụng. Tín dụng ngân hàng được hiểu
là quan hệ vay mượn lẫn nhau theo nguyên tắc hoàn trả cả gốc và lãi theo một thơì gian
nhất định, giữa một bên là ngân hàng thương mại và một bên là các cá nhân, các tổ
chức kinh tế, tổ chức chính trị xã hội, tổ chức tín dụng, ngân hàng thương mại khác.
3
Để quản lý tốt các khoản tín dụng người ta phân tín dụng ra làm nhiều hình
thức khác nhau: dựa trên kỳ hạn các khoản tín dụng, theo tính chất đảm bảo của
khoản vay, theo những hình thái tồn tại của vốn tín dụng
Sản xuất hàng hoá ngày càng phát triển và ngày càng có nhiều hình thức tín
dụng mới ra đời, đáp ứng nhu cầu gửi tiền và đi vay của các đối tượng khác nhau.
Tín dụng trở thành một hoạt động chủ yếu của các ngân hàng thương mại.
1.1.2. Nội dung các nguyên tắc đảm bảo an toàn vốn.
Như đã trình bày ở trên, các rủi ro phát sinh liên quan đến đồng vốn tín dụng
ngân hàng có thể xảy ra cả phía người đi vay và ngân hàng. Để hạn chế đến mức
tối đa các loại rủi ro xảy đến với khoản vay, trước tiên đòi hỏi cả phía ngân hàng
lẫn phía khách hàng vay vốn phải tuân thủ theo đúng các nguyên tắc tín dụng.
1.1.2.1. Nguyên tắc vốn vay phải được sử dụng đúng mục đích như đã cam kết
trong hợp đồng tín dụng.
Vốn vay ngân hàng cấp cho các doanh nghiệp nhằm đáp ứng nhu cầu sản
xuất kinh doanh. Nhu cầu vay vốn của các doanh nghiệp phải gắn với mục đích
hoạt động sản xuất kinh doanh. Để được vay vốn, bên đi vay phải có trách nhiệm
giải trình với ngân hàng về mục đích xin vay, kế hoạch vay vốn, số tiền vay, kế
hoạch sản xuất kinh doanh Trên cơ sở xem xét các điều kiện vay vốn và phương

án sản xuất kinh doanh các luận chứng kinh tế có liên quan đến việc sử dụng vốn
mà ngân hàng quyết định cho vay vốn. Theo cơ chế thị trường, ngân hàng chỉ cho
vay vốn đối với những tổ chức kinh tế nào làm ăn có lãi, sử dụng vốn vay đúng
mục đích, đạt hiệu quả kinh tế. Thực hiện nội dung của nguyên tắc này sẽ giúp cho
ngân hàng và bên đi vay tiến hành hoạt động của mình được bình thường, tránh
tình trạng đầu tư vốn sai mục đích gây thất thoát lãng phí vốn.
1.1.2.2. Phải làm cho đồng vốn phát huy được hiệu quả.
Thực hiện vai trò trung gian của mình, ngân hàng vừa là người đi vay, vừa là
người cho vay. Với tư cách là người đi vay, ngân hàng có trách nhiệm hoàn trả đầy
đủ số tiền (cả gốc và lãi tiền gửi), với tư cách là người cho vay, ngân hàng là người
có quyền quyết định cho người khác vay và yêu cầu người vay phải hoàn trả đầy
đủ (tiền gốc và lãi tiền vay) theo đúng thời hạn như đã ghi trên hợp đồng tín dụng.
Đây là nguyên tắc áp dụng cho cả 2 phía ngân hàng và người đi vay. Dựa
trên nguyên tắc này đòi hỏi cả phía ngân hàng lẫn phía người vay phải làm cho
đồng vốn phát huy được hiệu quả.
Muốn vậy, trước khi triển khai cấp tín dụng cho các đối tượng khách hàng
yêu cầu đặt ra đối với ngân hàng đó là phải nghiên cứu kỹ về môi trường đầu tư,
phải xem xét cẩn thận phương án vay vốn của các khách hàng này, tránh tình trạng
4
đầu tư dàn trải vào các lĩnh vực không đúng với nhu cầu của thị trường, sản xuất
kinh doanh những mặt hàng mà thị trường không chấp nhận
Đây là vấn đề quan trọng nhất trong nguyên tắc tín dụng của ngân hàng.
1.1.2.3. Nguyên tắc vốn vay phải luôn được giá trị vật tư hàng hóa tương
đương làm đảm bảo.
Nguyên tắc này đòi hỏi khi vay vốn ngân hàng - khách hàng phải có một khối
lượng vật tư hàng hóa tương đối thuộc sở hữu của mình để đảm bảo cho vốn vay.
Vật tư làm đảm bảo cho tiền vay bao gồm các khoản vật tư trong giai đoạn dự trữ,
lưu thông (nguyên vật liệu, ) hay vật tư đang trong giai đoạn sản xuất (hàng hóa,
thành phẩm, bán thành phẩm).
Tuy nhiên, đảm bảo tín dụng không phải là điều kiện quyết định để ngân hàng

xét duyệt một khoản vay. Một dự án vay vốn được ngân hàng xét duyệt vay thường
căn cứ vào tính khả thi của dự án, dựa trên các nguyên tắc tín dụng, nghĩa là ngân
hàng quan tâm đến hiệu quả của việc sử dụng vốn vay. Đảm bảo tín dụng chỉ là một
căn cứ để ngân hàng có thêm quyết định khi xét duyệt cho vay và nó cần phải được áp
dụng linh hoạt, sáng tạo nhưng nghiêm túc theo đúng quy chế, phù hợp với từng
trường hợp.
Tính đến nay, trong quá trình giải quyết vay vốn của ngân hàng đối với khách
hàng đã có nhiều hình thức đảm bảo tín dụng khác nhau được áp dụng, song có 2
hình thức cơ bản được sử dụng phổ biến hiện nay. Đó là: đảm bảo hình thức đối
nhân, biểu hiện cụ thể của nó là hình thức: thế chấp tài sản, đảm bảo hình thức đối
nhân tức là bảo lãnh bằng tài sản.
*Thế chấp tài sản.
Thế chấp tài sản là hình thức đảm bảo tín dụng và tài sản thế chấp là bất
động sản, do người vay vốn hoặc người thứ ba trực tiếp nắm giữ, còn ngân hàng
chỉ giữ giấy tờ sở hữu và văn thư thế chất tài sản.
Đối tượng của thế chấp tài sản là bất động sản: nhà cửa, đất đai, công trình
xây dựng gắn liền với đất, kể cả các loại tài sản gắn liền với nhà ở, công trình xây
dựng Những bất động sản có tham gia bảo hiểm thì giá trị hợp đồng bảo hiểm cũng
thuộc tài sản thế chấp. Những bất động sản này, muốn được ngân hàng chấp nhận là
vật đảm bảo nợ vay, thì phải thỏa mãn các điều kiện của một tài sản đảm bảo.
Thế chấp tài sản có 2 chủ thể tham gia: người vay - gọi là người thế chấp và
người cho vay (ngân hàng) gọi là người nhận thế chấp. Hành vi thế chấp sẽ chấm
dứt khi món nợ đã thanh toán xong. Còn người thứ 3 là người trông coi hoặc người
đang thuê bất động sản.
Từ khái niệm trên, ta rút ra đặc điểm của thế chấp tài sản.
5
- Người thế chấp không chuyển giao bất động sản cho người nhận thế chấp,
mà chỉ chuyển giao giấy tờ sở hữu và văn thư thế chấp tài sản. Ngay bản thân việc
chuyển giao giấy tờ sở hữu cũng chia làm 2 loại tùy theo sự thỏa thuận giữa người
thế chấp và người nhận thế chấp.

- Người thế chấp chuyển giao quyền sở hữu bất động sản cùng văn thư thế
chấp cho ngân hàng.
- Người thế chấp chuyển giao giấy tờ sở hữu bất động sản cùng văn thư thế
chấp cho ngân hàng.
Người trực tiếp quản lý bất động sản là người thế chấp hoặc người thứ 3
* Cầm cố tài sản.
Cầm cố tài sản vay vốn ngân hàng là hành vi giao nộp tài sản là động sản
hoặc các chứng từ chứng nhận quyền sở hữu tài sản của người vay cho ngân hàng
để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ trả nợ (bao gồm nợ gốc, lãi và tiền phạt).
Trong hành vi cầm cố vay vốn ngân hàng thì người đi vay gọi là người cầm
cố, ngân hàng là người nhận cầm cố.
Hành vi cầm cố tài sản sẽ chấm dứt khi người đi vay đã hoàn trả đầy đủ các
khoản nợ được đảm bảo bằng cầm cố tài sản. Trường hợp đến hạn người đi vay
không hoàn trả nợ theo hợp đồng tín dụng đã ký kết thì ngân hàng được quyền bán
tài sản cầm cố và được ưu tiên thu nợ trước các chủ nợ khác.
* Bảo đảm đối nhân.
Đảm bảo tín dụng là một yêu cầu đối với những khách hàng có tình hình tài
chính yếu kém, thể hiện ở chỗ nợ vay nhiều, quản lý yếu kém, lợi tức thấp nên
không được ngân hàng tín nhiệm. Trong trường hợp như vậy người vay có thể tạo
cho ngân hàng sự tin tưởng bằng việc thế chấp cầm cố tài sản. Nếu không có tài
sản để thế chấp, cầm cố thì khách hàng có thể nhờ một người có khả năng thế chấp
mạnh và có uy tín với ngân hàng đứng ra bảo lãnh cho khách hàng vay vốn tại
ngân hàng. Như vậy, việc một người đứng ra đảm bảo cho khách hàng vay vốn tại
ngân hàng được gọi là đảm bảo đối nhân.
Bảo đảm đối nhân là sự cam kết của một hoặc nhiều người về việc trả nợ
ngân hàng thay cho khách hàng vay vốn khi người này không có khả năng trả nợ.
Người cam kết trong đảm bảo đối nhân gọi là người bảo lãnh. Người bảo lãnh
có thể là một thể nhân hoặc pháp nhân như một công ty, một xí nghiệp và cũng có
thể là một ngân hàng thương mại. Như vậy, trong đảm bảo đối nhân tồn tại 3 chủ
thể tham gia; người đi vay, ngân hàng, người bảo lãnh.

* Mục đích của đảm bảo tín dụng.
Thiết lập đảm bảo tín dụng để ngân hàng có cơ sở pháp lý là thêm một nguồn
6
thu nợ thứ hai ngoài nguồn thu nợ thứ nhất. Nguồn thu nợ thứ nhất là doanh thu
bán hàng đối với cho vay vốn lưu động hoặc là nguồn khấu hao cơ bản và lợi
nhuận đối với cho vay vốn cố định mang lại. Trong cho vay tiêu dùng nguồn thu
nợ thứ nhất của ngân hàng là thu nhập của cá nhân như tiền lương phân tích đánh
giá năng lực tài chính và hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng. Nếu thấy
rằng nguồn thứ nhất chưa có cơ sở chắc chắn thì buộc ngân hàng phải thiết lập cơ
sở pháp lý để có thêm nguồn thu nợ thứ hai. Nguồn thu nợ thứ hai chính là đảm
bảo nợ vay, nó giúp cho ngân hàng phòng ngừa được những diễn biến không thuận
lợi trong quá trình kinh doanh.
Trong trường hợp khách hàng vay vốn của ngân hàng nhưng không sử dụng
với mục đích như đã ghi trong hợp đồng tín dụng, việc sử dụng vốn của khách hàng
vào những mục đích không phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của họ sẽ gây khó
khăn cho ngân hàng khi thu hồi nợ. Nhưng khi thực hiện đảm bảo tín dụng khách
hàng phải dao cho ngân hàng tài sản hoặc giấy tờ sở hữu tài sản, họ chỉ có thể nhận
lại tài sản hoặc giấy tờ sở hữu tài sản khi đã trả hết nợ gốc và lãi cho ngân hàng.
Chính điều này đã hướng cho khách hàng phải sử dụng vốn vay có hiệu quả để có
khả năng trả nợ ngân hàng và nhận lại tài sản. Như vậy, đảm bảo tín dụng đã gắn
trách nhiệm vật chất của người vay vốn trong việc sử dụng vốn vay đem laị hiệu
quả cao nhất.
Việc thực hiện đảm bảo tín dụng đối với khách hàng vay vốn giúp cho ngân
hàng ngăn ngừa, hạn chế rủi ro, đảm bảo an toàn vốn trong kinh doanh, tạo điều
kiện cho hoạt động kinh doanh ngân hàng phát triển, uy tín ngân hàng ngày một
nâng cao là cơ sở cho ngân hàng đứng vững trong cạnh tranh. Vì vậy, đảm bảo tín
dụng được coi là một tiêu chuẩn khi xét duyệt cho vay nhưng không phải là tiêu
chuẩn mang tính nguyên tắc vì trên thực tế ngân hàng thường cấp tín dụng không
có đảm bảo cho những khách hàng tốt, đã được thực tế kiểm chứng trong một thời
gian tương đối dài. Còn những khách hàng khác phải có đảm bảo thì mới quyết

định cấp tín dụng.
Tóm lại, mục đích của đảm bảo tín dụng là ngăn ngừa hạn chế rủi ro, đảm
bảo an toàn vốn trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mai.
1.1.3. Rủi ro trong hoạt động tín dụng và nguyên nhân rủi ro .
1.1.3.1.Khái niệm và ảnh hưởng của rủi ro tín dụng .
Theo Quyết định 493/2008/QĐ-NHNN ngày 22/04/2008 của Thống đốc
NHNN thì rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng là khả
năng xảy ra tổn thất trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng do khách
hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo
7
cam kết.
Rủi ro tín dụng được định nghĩa là khoản lỗ tiềm tàng vốn có được tạo ra khi
ngân hàng cấp tín dụng cho khách hàng, có nghĩa là khả năng khách hàng không
trả được nợ theo hợp đồng gắn liền với mỗi khoản tín dụng ngân hàng cấp cho họ.
Cụ thể hơn, luồng thu nhập dự tính được mang lại từ các tài sản có sinh lời của
ngân hàng có thể không được hoàn trả đầy đủ xét cả về mặt số lượng và thời hạn.
Các ngân hàng sẽ không bị đe dọa bởi rủi ro tín dụng nếu luôn nhận lại được cả
gốc và lãi của các khoản cho vay đúng thời hạn, ngược lại nếu người vay gặp khó
khăn về tài chính, thì cả gốc và lãi khoản vay bị đặt trong tình trạng rủi ro, có thể
không thu hồi được. Trong điều kiện bình thường, phần lớn các tài sản tài chính do
các doanh nghiệp phát hành và được đầu tư bởi các ngân hàng đều được đảm bảo
với mức xác suất cao, lãi thu được thường dưới dạng lãi suất cố định. Nhưng khi có
rủi ro, mặc dù xảy ra với xác suất thấp, mức vốn có thể mất lại không có giới hạn.
Có thể lấy các trái phiếu lĩnh lãi cố định do doanh nghiệp phát hành và các khoản
cho vay của ngân hàng để minh chứng cho mâu thuẫn giữa thu nhập và rủi ro tín
dụng. Trong cả hai trường hợp, nếu không có rủi ro tín dụng, nguồn thu nhập của
ngân hàng là có giới hạn dưới dạng lãi suất trái phiếu hoặc lãi suất các khoản cho
vay, ngược lại ngân hàng thường mất toàn bộ phần lãi suất và có thể một phần hay
toàn bộ vốn gốc, điều này còn phụ thuộc vào khả năng bồi hoàn của tài sản thế
chấp và kết quả của việc thanh lý tài sản trong trường hợp người đi vay bị phá sản.

Nhìn chung, hoạt động tín dụng là một trong những hoạt động chủ yếu của
NHTM nên rủi ro tín dụng là loại rủi ro chiếm tỷ lệ lớn, thường xuyên xảy ra và
gây hậu quả nặng nề nhất đối với hoạt động của ngân hàng. Rủi ro tín dụng là rủi
ro phức tạp nhất, quản lý và phòng ngừa khó khăn nhất. Nó đòi hỏi ngân hàng phải
có những giải pháp đồng bộ, hữu hiệu mới có thể hạn chế, ngăn ngừa bớt rủi ro,
giảm tối thiểu những thiệt hại có thể xảy ra.
Khi rủi ro tín dụng xảy ra, ngân hàng sẽ phải gánh chịu một khoản tổn thất
trong lợi nhuận đạt được, thậm chí có thể dẫn đến phá sản ngân hàng. Không dừng
lại đó, tác động dây chuyền trong hệ thống ngân hàng có thể dẫn đến những ảnh
hưởng xấu đối với hệ thống ngân hàng và với toàn bộ nền kinh tế.
• Ảnh hưởng của rủi ro tín dụng tới hoạt động của ngân hàng.
- Rủi ro tín dụng làm giảm khả năng thanh toán của ngân hàng.
Nền tảng của hoạt động ngân hàng là dùng nguồn vốn huy động được từ các
tổ chức, dân cư trong nền kinh tế để tài trợ cho các hoạt động của mình, trong đó
cấp tín dụng là một hoạt động chủ yếu. Do đó, khi rủi ro xảy ra trong hoạt động tín
dụng, nó ảnh hưởng trực tiếp tới nguồn vốn của ngân hàng. Lúc này, ngân hàng sẽ
8
phải bù tiền ra để trả cho các khoản huy động đã đến hạn, cũng như thu hẹp một số
hoạt động khác do khó khăn về nguồn vốn. Đến một giới hạn nào đó, khi ngân
hàng không còn khả năng bù đắp cho những thiếu hụt đó thì ngân hàng sẽ đổ vỡ và
phá sản. Như vậy, RRTD ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của ngân hàng, làm
giảm tính thanh khoản của ngân hàng.
- Rủi ro tín dụng làm giảm lợi nhuận của ngân hàng.
Tín dụng là một hoạt động mang lại phần lớn lợi nhuận cho ngân hàng. Khi
rủi ro tín dụng xảy ra tức là ngân hàng đã không thể thu được lãi của các khoản nợ
vay để làm tăng thu nhập cho ngân hàng. Hơn nữa, khi phát sinh các khoản nợ quá
hạn, ngân hàng phải trích lập dự phòng rủi ro từ lợi nhuận sau thuế, phải tốn thời
gian và chi phí cho việc thu hồi nợ. Do đó, RRTD ảnh hưởng trực tiếp đến doanh
thu, lợi nhuận của ngân hàng.
- Rủi ro tín dụng làm giảm uy tín của ngân hàng.

Là một trung gian tài chính, một trong những chức năng tài chính cơ bản
của ngân hàng là huy động vốn trong dân cư và các tổ chức kinh tế để chuyển đến
những đối tượng có nhu cầu sử dụng, góp phần lưu thông vốn trong nền kinh tế.
Một ngân hàng muốn huy động được nhiều vốn trong nền kinh tế thì cần tạo được
sự tín nhiệm của khách hàng. Ngân hàng với nguy cơ xảy ra rủi ro tín dụng cao sẽ
đặt ra câu hỏi về năng lực và hiệu quả hoạt động của ngân hàng, cũng như sự an
toàn của đồng vốn huy động. Khi đó, các cá nhân, tổ chức sẽ không còn muốn gửi
tiền của mình ở ngân hàng đó nữa do lo ngại cho sự an toàn đồng vốn của mình,
điều này sẽ kéo theo nhiều rủi ro không mong muốn khác cho ngân hàng.
- Rủi ro tín dụng có thể dẫn đến phá sản ngân hàng.
Khi rủi ro tín dụng ở mức độ nhẹ sẽ làm giảm lợi nhuận của ngân hàng,
nghiêm trọng hơn, RRTD ảnh hưởng đến khả năng thanh toán và khi vấn đề không
được giải quyết nhanh chóng, ngân hàng có thể đi đến phá sản. Khi RRTD xảy ra
liên tiếp khiến ngân hàng không kiểm soát được, các khoản tiền bù đắp sẽ làm
giảm tính thanh khoản của ngân hàng, làm giảm dần vốn chủ sở hữu. Trong khi đó,
uy tín của ngân hàng giảm sút có thể dẫn tới tình trạng rút tiền ồ ạt, gây ra rủi ro
thanh khoản cho ngân hàng. Một ngân hàng mất tính thanh khoản sẽ phải đối mặt
với nguy cơ phá sản là rất lớn.
• RRTD ảnh hưởng tới toàn bộ nền kinh tế.
Ngân hàng là một định chế tài chính quan trọng trong nền kinh tế, đóng góp
một phần lớn trong GDP của đất nước. Mặt khác, Chính phủ và NHNN thông qua
hệ thống NHTM để thực hiện các chính sách tiền tệ nhằm ổn định thị trường tiền
tệ, ổn định nền kinh tế đất nước. Do vậy, một sự sụp đổ trong hệ thống ngân hàng
9
sẽ kéo theo những hệ quả xấu đối với các ngành khác và toàn nền kinh tế.
Hoạt động tín dụng của ngân hàng dựa trên cơ sở huy động các nguồn tiền
nhàn rỗi của dân cư và của nền kinh tế và sau đó dùng nguồn tiền này để cho vay
với lãi suất cao hơn lãi suất huy động vốn nhằm thu lợi nhuận. Khi một ngân hàng
gặp khó khăn, nó có thể ảnh hưởng đến nền kinh tế, gây nên các cuộc khủng hoảng
tài chính tiền tệ. Rủi ro tín dụng xảy ra sẽ làm ảnh hưởng đến khả năng thanh toán

của ngân hàng, khi đó làm người gửi tiền mất lòng tin và họ sẽ đồng loạt rút tiền
gửi. Vì vậy, ngân hàng sẽ lâm vào tình trạng khó khăn, gây mất ổn định trong toàn
hệ thống ngân hàng và hệ thống tài chính của quốc gia đó. Nếu một ngân hàng sụp
đổ thì khi đó thiếu đi một phần vốn cung cấp cho các doanh nghiệp, cá nhân vay,
vì vậy một phần làm nền kinh tế chậm lại. Rủi ro tín dụng xảy ra làm cho ngân
hàng chậm hoặc không có khả năng thu hồi vốn để tiếp tục cho vay. Do đó, RRTD
làm giảm khả năng quay vòng vốn của nền kinh tế, giảm khả năng cung cấp vốn và
tốc độ lưu chuyển vốn trong nền kinh tế.
• RRTD ảnh hưởng tới khách hàng.
Rủi ro xảy ra sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới khách hàng, khi mà họ phải đối mặt
với nguy cơ mất vốn, mất nguồn tài trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh hay mất
quyền sử dụng những dịch vụ tiện ích mà ngân hàng cung cấp. Khách hàng của
ngân hàng là những đối tượng hết sức đa dạng trong nền kinh tế, từ hộ gia đình,
người hưu trí, tổ chức xã hội hay các tổ chức kinh tế. Cho dù là đối tượng khách
hàng nào và bất kì loại hình sản phẩm, dịch vụ nào của ngân hàng mà họ đang sử
dụng, RRTD xảy đến cho ngân hàng cũng có những ảnh hưởng nhất định đến
những đối tượng khách hàng này.
Nói tóm lại, rủi ro tín dụng của một ngân hàng xảy ra ở mức độ khác nhau:
nhẹ là ngân hàng bị giảm lợi nhuận do không thu hồi được lãi cho vay; nặng là
ngân hàng không thu được vốn, nợ thất thu với tỷ lệ cao dẫn đến ngân hàng bị lỗ
và mất vốn. Nếu tình trạng này kéo dài không khắc phục được, ngân hàng sẽ bị phá
sản, gây hậu quả nghiêm trọng cho hệ thống ngân hàng nói riêng và nền kinh tế nói
chung. Chính vì vậy đòi hỏi các nhà quản trị ngân hàng phải hết sức thận trọng và
có những biện pháp thích hợp nhằm giảm thiểu rủi ro trong hoạt động cho vay.
1.1.3.2. Các nguyên nhân của rủi ro tín dụng.
a. Nguyên nhân về phía người vay.
Các yếu tố chủ quan từ phía khách hàng vay chính như: khả năng kinh doanh
và quản lý yếu kém hay khách hàng có hành vi lừa đảo, vi phạm pháp luật… cũng
có thể gây ra các tổn thất cho ngân hàng. Trong trường hợp này, nếu ngân hàng
cho vay phát hiện ra sớm thì rủi ro có thể được ngăn chặn.

10
Hiện nay, trong nền kinh tế thị trường, cùng với chính sách chuyển dịch cơ
cấu kinh tế, khách hàng đi vay thường gặp rủi ro sau:
- Thiệt hại từ phía thị trường đầu vào: Giá cả của các yếu tố đầu vào: nguyên
vật liệu, nhân công cùng với các chi phí phục vụ cho sản xuất tăng làm giảm đi
nguồn thu dự tính của khách hàng. Vì thế việc trả nợ cho ngân hàng sẽ gặp nhiều
khó khăn.
- Thị trường đầu ra biến động: Thị trường đầu ra nếu có những biến động
phức tạp, giá cả giảm xuống thấp cũng sẽ làm nguồn thu của khách hàng giảm
xuống. Ngoài ra, sự thay đổi thị hiếu tiêu dùng, cung vượt quá cầu, hoạt động
marketing yếu kém… cũng gây nên tình trạng ứ đọng sản phẩm làm ảnh hưởng tới
nguồn trả nợ cho ngân hàng của khách hàng.
- Rủi ro về khả năng tài chính của khách hàng: Nguồn vốn tự có thấp hay thu
nhập của khách hàng không ổn định, khách hàng sẽ không có khả năng tự khôi
phục khi gặp khó khăn. Vì vậy cũng sẽ mất khả năng thanh toán nợ cho ngân hàng.
11
- Ý thức trả nợ của bên đi vay nhiều khi chưa tốt, nhiều khách hàng sau khi
nhận được tiền vay đã bỏ trốn gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho các ngân hàng.
Hoặc đơn giản hơn, để đạt mục đích được vay vốn ngân hàng, nhiều khách hàng
sẵn sàng tìm mọi thủ đoạn để ứng phó với ngân hàng như mua chuộc hoặc cung
cấp các báo cáo tài chính sai lệch. Trong trường hợp này, nếu không phát hiện ra,
ngân hàng sẽ đánh giá sai về khả năng tài chính của khách và cho vay vốn với khối
lượng và thời hạn không hợp lý, dẫn đến rủi ro tiềm ẩn là rất cao.
b. Nguyên nhân về phía ngân hàng .
- Do chính sách của ngân hàng không phù hợp, đặt mục tiêu lợi nhuận quá
cao, đặc biệt là thiếu sự kiểm soát chặt chẽ. Cán bộ tín dụng cần có sự phê duyệt
của lãnh đạo trước khi giải ngân. Vì vậy, nếu cấp trên không có sự kiểm tra, đánh
giá xem quyết định của cán bộ có thực sự chính xác không thì nguy cơ xảy ra rủi ro
tín dụng rất cao. Hơn nữa, sau khi giải ngân, cán bộ tín dụng vẫn phải tiếp tục theo
dõi khách hàng để kịp thời phát hiện ra dấu hiệu của những khoản nợ có vấn đề.

Tuy nhiên đối với nhiều cán bộ, việc theo dõi này chỉ mang tính hình thức. Do đó,
nếu các cấp quản lý không có sự giám sát chặt chẽ đối với cán bộ tín dụng, hoạt
động của các cán bộ tín dụng sẽ không hiệu quả, thậm chí dẫn đến những sai phạm
đạo đức trong cho vay và thu nợ.
- Trình độ, năng lực, phẩm chất đạo đức của đội ngũ cán bộ tín dụng yếu
kém, dẫn đến cán bộ tín dụng không đánh giá chính xác về khách hàng và phương
án vay vốn, từ đó làm phát sinh những hợp đồng tín dụng kém an toàn. Cùng với
sự hạn chế về trình độ là vấn đề phẩm chất đạo đức của cán bộ tín dụng. Đặc thù
nghề nghiệp buộc một cán bộ tín dụng phải không những có trình độ mà còn phải
có đạo đức tốt. Cán bộ tín dụng có phẩm chất đạo đức kém, không có tinh thần
trách nhiệm, dễ bị cám dỗ bởi vật chất thì sẽ gây thiệt hại rất lớn cho ngân hàng
bằng cách cho vay chỉ dựa trên mối quan hệ với khách hàng, dựa trên lợi ích cá
nhân mà bỏ qua những điều kiện, quy định và thủ tục cần thiết.
- Rủi ro từ vấn đề bảo đảm tiền vay. Trong hoạt động tín dụng, việc đảm
bảo tài sản cho các khoản vay được định giá gốc và ký kết giữa ngân hàng và
khách hàng. Rủi ro có thể xảy ra khi ngân hàng không đánh giá đúng giá trị tài sản
đảm bảo hoặc khi giá trị tài sản thế chấp có biến động theo chiều hướng xấu.
- Ngân hàng chưa đa dạng hoá các danh mục đầu tư. Việc đa dạng hoá các
danh mục làm cân đối và kiềm chế rủi ro bằng cách dự báo và kiểm soát mức độ
rủi ro với từng thị trường, khách hàng, loại sản phẩm và điều kiện hoạt động khác
nhau. Nhiều chuyên gia ngân hàng cho rằng, đa dạng hoá là giải pháp phòng ngừa
rủi ro tín dụng hữu hiệu nhất. Mặc dù biết rõ tầm quan trọng của việc đa dạng hoá
12
danh mục đầu tư nhưng nhiều ngân hàng chỉ cho vay một hoặc hai ngành hoặc một
vài doanh nghiệp lớn, nhóm kinh doanh đơn lẻ. Một danh mục đầu tư phụ thuộc
chủ yếu vào một ngành hay một loại mặt hàng là rất nguy hiểm vì không ngành
nào là không có rủi ro.
- Định giá khoản vay không theo mức độ rủi ro của khách hàng. Về cơ cấu,
lãi suất của một khoản vay phải được xác định ở mức đảm bảo bù đắp được chi phí
đầu vào, chi phí quản lý, phần lợi nhuận mong muốn và đặc biệt, phần bù đắp rủi

ro của khoản vay. Khách hàng được đánh giá có mức độ rủi ro càng cao thì phần
bù rủi ro càng lớn. Nhưng vì cạnh tranh nên một số ngân hàng có thể chấp nhận
mức giá cho vay thấp, thậm chí chỉ đủ chi phí đầu vào và chi phí quản lý chứ
không tính đến phần bù rủi ro. Việc làm đó trong dài hạn không những làm giảm
lợi nhuận mà còn làm tăng tính rủi ro trong hoạt động tín dụng của ngân hàng.
c. Nguyên nhân bất khả kháng
Đây là những nguyên nhân gây nên rủi ro cho hoạt động tín dụng của ngân
hàng do môi trường bên ngoài tác động vào. Nguyên nhân này xuất hiện đột ngột,
khó đoán, khó kiểm soát, nó thường gây ra những thiệt hại lớn cho khách hàng và
ngân hàng. Bao gồm các nguyên nhân cụ thể sau:
- Do sự thay đổi chính sách của chính phủ
Mỗi khi nền kinh tế có biến động thì ngay lập tức chính phủ phải đưa ra các
chính sách kinh tế mới phù hợp với điều kiện hiện hành nhằm hạn chế những ảnh
hưởng xấu tới toàn bộ nền kinh tế. Các chính sách của chính phủ thường xuyên
quan tâm và có sự thay đổi kịp thời gồm có:
+ Chính sách tài chính: Chính sách này có liên quan đến cơ chế thu chi ngân
sách chính phủ.
+ Chính sách tiền tệ: Chính phủ sử dụng các công cụ như: lãi suất chiết
khấu, tỷ lệ dự trữ bắt buộc, nghiệp vụ thị trường mở… để điều chỉnh mức cung tiền
tệ khi có biến động xảy ra.
+ Chính sách đầu tư phát triển: Đây là những chính sách mà khi chính phủ điều
chỉnh sẽ gây ảnh hưởng trực tiếp cho các ngân hàng thương mại, thường là những ảnh
hưởng không tích cực cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại.
- Nguyên nhân từ phía môi trường pháp lý
Hoạt động của các ngân hàng thương mại liên quan đến nhiều lĩnh vực khác
nhau của nền kinh tế, nó mang tính xã hội cao. Do đó, khi hệ thống pháp luật ổn
định, lành mạnh thì môi trường kinh doanh của ngân hàng sẽ có nhiều thuận lợi.
Ngược lại, nếu môi trường pháp lý thiếu đồng bộ, có nhiều khe hở thì rất dễ bị lợi
dụng, gây nên tình trạng tham ô, chiếm đoạt tài sản…
13

- Môi trường tự nhiên
Những biến động về thời tiết, khí hậu gây ảnh hưởng đến hoạt động sản
xuất kinh doanh của khách hàng. Đặc biệt là trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp,
điều kiện tự nhiên là yếu tố khó dự đoán, thường xảy ra bất ngờ, với thiệt hại lớn
ngoài tầm kiểm soát của con người. Vì vậy, khi có thiên tai địch họa xảy ra khách
hàng sẽ có nguy cơ tổn thất lớn, dự án kinh doanh không có nguồn thu… Điều đó
đồng nghĩa với việc ngân hàng phải chia sẻ rủi ro với khách hàng của mình.
- Môi trường kinh tế - xã hội
Những biến động về kinh tế - xã hội trong một nước chịu ảnh hưởng của
những biến động từ nền kinh tế thế giới. Đó là nguyên nhân làm phát sinh những
rủi ro trong hoạt động kinh doanh của nền kinh tế, từ đó ảnh hưởng tới các lĩnh vực
kinh tế, trong đó hoạt động kinh doanh tiền tệ chứa nhiều nguy cơ rủi ro lớn nhất.
1.1.3.3. Các loại rủi ro chủ yếu mà ngân hàng thương mại thường gặp.
Chúng ta đều biết rằng hoạt động của ngân hàng là loại hình hoạt động rất
cần sự cận trọng song vẫn thường gặp phải rủi ro. Một ngân hàng thành công trong
hoạt động của nó không chỉ có những cán bộ chuyên môn giỏi mà cần phải am hiểu
nhiều lĩnh vực và đặc biệt phải có phẩm chất đạo đức tốt , có tinh thần trách nhiệm
với công việc. Tuy nhiên vẫn phải khẳng định rằng kinh doanh ngân hàng là lĩnh
vực gặp nhiều rủi ro nhất, trong đó tập trung vào 5 loại rủi ro sau:
* Rủi ro thuần tuý.
Đó là các rủi ro do tác động của thiên nhiên mang lại như: Thiên tai, hoả
hoạn, động đất, hoặc những rủi ro như lừa đảo, trộm cắp, tham nhũng Làm thiệt
hại hoặc gây thất thoát tài sản của ngân hàng.
* Rủi ro lãi suất:
Loại này xảy ra khi có sự thay đổi lãi suất trực tiếp tác động tới lợi nhuận của
nhà ngân hàng. Ví dụ, khi lãi suất tiền vay giảm trong khi lãi suất trả cho tiền gửi
hoặc trái phiếu giữ nguyên làm giảm thu nhập của nhà ngân hàng. Những thiệt hại
do rủi ro lãi suất gây ra làm giảm chi phí cho nguồn vốn cao hơn thu nhập sử dụng
vốn dẫn đến kinh doanh của ngân hàng bị lỗ.
* Rủi ro tín dụng.

Đó là loại rủi ro xảy ra khi ngân hàng không thu hồi được các khoản vay chủ
yếu do tình trạng nợ khó đòi và nợ không có khả năng thu hồi. Chúng bao gồm tất
cả các khoản cho vay của ngân hàng, các khoản đầu tư chứng khoán, tín dụng tài
trợ đến kỳ hạn mà khách hàng, người phát hành không thanh toán hoặc trả nợ
được cho ngân hàng. Đây là loại rủi ro lớn nhất và thường xuyên xảy ra. Bởi vậy
việc đánh giá rủi ro này là trách nhiệm của chính các ngân hàng, hơn 2/3 số tài sản
có của ngân hàng là các món nợ cho vay và đầu tư chứng khoán, đem lại thu nhập
14
chủ yếu cho nhà ngân hàng. Thêm vào đó các hoạt động ngoại bảng tổng kết tài
sản như: Các giao dịch trên thị trường hối đoái, các hợp đồng trao đổi, bảo lãnh tín
dụng, tín dụng tài trợ đều rất dễ bị rủi ro, thua lỗ và mất mát.
Nếu các món vay hoặc chứng khoán đến kỳ hạn mà không được hoàn trả
ngân hàng sẽ mất cả vốn lẫn laĩ. Nếu giá trị số thiệt hại quá lớn, vượt quá số vốn
tự có của ngân hàng thì chắc chắn ngân hàng sẽ không hoạt động được nữa và lâm
vào tình trạng khủng hoảng, có nguy cơ bị phá sản.
*Rủi ro hối đoái.
Đây là loại rủi ro do biến động của thị trường ngoại hối gây ra. hiện nay các
ngân hàng thương mại thường có xu hướng hoạt động đa năng thực hienẹ cả nghiệp
vụ kinh doanh ngoại tệ do đó khi có sự biến động về tỷ giá hối đoái thì thường phải
chịu ảnh hưởng ở một mức độ nào đó (nếu sự biến động đó nằm ngoài dự kiến của
ngân hàng) Nhất là với các Ngân hàng thương mại Việt Nam, hiện nay mới đang
trong thời kỳ sơ khai, còn nhiều bỡ ngỡ, kinh nghiệm còn hạn chế do đó vẫn đề rủi
ro hối đoái đang được các ngân hàng quan tâm một cách thích đáng.
* Rủi ro nguồn vốn
Thể hiện trên 2 phương diện: Rủi ro do bị đọng vốn và rủi ro thiếu vốn khả dụng.
- Rủi ro bị đọng vốn: là trường hợp ngân hàng huy động vốn mà không cho
vay ra được xảy ra tình trạng mất cân đối giữa việc huy động và sử dụng vốn. Rủi
ro này xảy ra có thể do tác động của lãi suất, của công cụ hạn mức tín dụng hoặc
do chất lượng kinh doanh của bản thân ngân hàng.
- Rủi ro thiếu vốn khả dụng xảy ra khi ngân hàng không đáp ứng được nhu

cầu thanh toán của khách hàng. Nó xuất phát từ chức năng chuyển hoán các kỳ hạn
sử dụng vốn và nguồn vốn của ngân hàng. Rủi ro này thể hiện ngân hàng thiếu vốn
hoạt động. Do sự cạnh tranh giữa các thể chế tài chính trên thị trường vốn, nếu khả
năng thanh toán của ngân hàng kém, ngân hàng lại càng khó lòng huy động được
một nguồn vốn dồi dào, từ đó phạm vi hoạt động của ngân hàng bị thu hẹp, Ngân
hàng càng có nguy cơ rủi ro, vỡ nợ. Vì thế loại rủi ro này rất nguy hiểm đối với
nhà quản lý ngân hàng.
Với loại rủi ro này, Ngân hàng luôn đề phòng bằng việc tính toán, duy trì một
hệ thống vốn khả dụng phù hợp với ngân hàng mình. Hệ số này được xây dựng
trên cơ sở phân tích cụ thể tình hình nguồn vốn và sử dụng vốn theo tính chất khả
chi và khả dụng thực sự của chúng. Chẳng hạn tiền gửi có kỳ hạn thường ổn định
hơn tiền gửi không kỳ hạn; tiền gửi giữa các ngân hàng thường bấp bênh hơn tiền
gửi của khách hàng
Như vậy, trong năm loại rủi ro kể trên, rủi ro tín dụng là có tác động mạnh
15
mẽ đến sự tồn tại của ngân hàng. nếu như cho vay là chức năng chính của nhà ngân
hàng và nó đem lại nguồn lợi nhuận lớn thì đi kèm với nó rủi ro tín dụng cũng luôn
thường trực và khi đã xảy ra thì sức công phá của nó cũng rất nghiêm trọng, nó có
thể biến Ngân hàng từ trạng thái phát dạt đến nguy cơ bị phá sản. Chính vì vậy
nghiên cứu về rủi ro tín dụng và tìm ra các giải pháp cho nó luôn là một đề tài
không bao giờ cũ đối với các nhà phân tích, kinh doanh trong lĩnh vực ngân hàng.
Đối với Việt Nam nói chung và ngân hàng Đầu tư - Phát triển Hà nội nói riêng thì
hơn bao giờ hết, vấn đề này lại càng trở lên nóng hổi và bức thiết. Sở dĩ có điều
này vì dư nợ tín dụng của các Ngân hàng thương mại Việt Nam trong giai đoạn
qua liên tục tăng nhưng con số đó chưa đủ để làm cơ sở yên tâm vào sự lớn mạnh
cuả các Ngân hàng này. Vấn đề ở chỗ số vốn cho vay đó có hoạt động hiệu quả
hay không và có thực hiện đúng mục đích hay không. Chúng ta đang tiến hành
công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước vì vậy nhu cầu về vốn là rất lớn.
Lý do đó đòi hỏi không chỉ có giải pháp huy động vốn đáp ứng nhu cầu mà còn
phải xem xét thực trạng các nguồn vốn vay đang hoạt động ra sao và có an toàn

không.
1.1.4. Những dấu hiệu của rủi ro tín dụng
1.1.4.1. Nợ quá hạn
Nợ quá hạn là dấu hiệu đầu tiên và dễ gây ra rủi ro cho nhà ngân hàng . Vì
vậy nói đến ngân hàng , nói đến rủi ro tín dụng thì phải nói tới nợ quá hạn.
Có thể hiểu nợ quá hạn là một khoản tín dụng được nhưng không thể thu hồi
đúng thời hạn do một số nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nhau.
Như chúng ta đã biết, Ngân hàng thương mại là một trung gian tài chính, là
chiếc cầu giao lưu kinh tế nối bên thừ vốn với bến thiếu vốn tạo điều kiện cho sản
xuất và tái sản xuất diến ra trôi chảy, chính vì vậy hiệu quả hoạt động kinh doanh
của ngân hàng trực tiếp ảnh hưởng đến thu nhập của ngân hàng và khách hàng.
Song xét tầm vĩ mô, nó còn ảnh hưởng đến cả nền kinh tế. Do đó nếu nợ quá hạn
xảy ra sẽ gây ra khó khăn cho hoạt động của ngân hàng, khách hàng và rộng hơn
nền kinh tế sẽ thiếu vốn trong một phạm vi thời gian nhất định, nếu nợ quá hạn xảy
ra ở quy mô lớn và việc thu hồi gặp khó khăn có thể sẽ gây áp lực đến lạm phats,
làm giá cả tăng, nền kinh tế bất ổn.
Dựa vào khả năng có thể thu hồi chúng ta chia nợ quá hạn thành:
* Nợ quá hạn có khả năng thu hồi.
Trước khi thực hiện một mục đích kinh doanh nào đó, các cá nhân, doanh
nghiệp thường xây dựng một kế hoạch sản xuất kinh doanh trong đó các vấn đề
liên quan được xem xét cẩn thận đó là chi phí, thu nhập khi ngân hàng xem xét
16
thấy kế hoạch là khả thi, Ngân hàng sẽ cấp tín dụng cho khách hàng. Song trong
quá trình thực hiện kế hoạch kinh doanh của mình khách hàng có gặp những khó
khăn nhất thời thì cũng là điều dễ hiểu trong trường hợp này khách hàng thường
xin ra hạn nợ vì chưa có khả năng chi trả. Món tín dụng này được con là một món
nợ quá hạn có khả năng thanh toán vì trong thực tế khách hàng gặp phải sự bất
thuận lợi trong kinh doanh do thời điểm tung hàng ra bán không phù hợp với tính
thời vụ khiến hàng bị tồn kho; hàng đã bán được song bên mua còn chậm thanh
toán trong khi tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là tốt, không có

biến động lớn. Sau khi khách hàng (doanh nghiệp) thu hồi được nợ hoặc bán được
hàng sẽ thanh toán cho ngân hàng. Như vậy, Món nợ quá hạn này còn có khả năng
thu hồi.
* Nợ quá hạn không có khả năng thu hồi.
Loại này thường có ở các doanh nghiệp quốc doanh làm ăn thua lỗ, quản lý
yếu kém, vi phạm nguyên tắc chế độ tài chính, sử dụng vốn tín dụng sai mục đích,
tham ô cố ý làm trái một số khác do sự thay đổi của cơ chế chính sách, thiên tai
bão lụt các doanh nghiệp đến kỳ hạn trả nợ nhưng không có khả năng thanh toán
với ngân hàng, phải xin ra hạn hoặc tìm cách "đảo nợ". Khả năng thu hồi vốn của
ngân hàng trong những trường hợp này là rất hiếm.
1.1.4.2. Một số dấu hiệu khác của rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng thường ẩn chứa trong “những món vay có vấn đề “ được thể
hiện bằng nhiều dấu hiệu ,nhưng không có một mô hình nhất định nào có thể mô tả
chính xác ,đầy đủ những dấu hiệu cho thấy rủi ro tín dụng sẽ xảy ra trong tương lai
.Tuy nhiên ,trải qua quá trình thực tiễn hoạt động tín dụng ,người ta đa thống kê
dược một số dấu hiệu để chỉ ra những khó khăn về tài chính của người vay và nó
có vai trò cảnh báo đối với cán bộ tín dụng ,đó là:
-Việc trì hoãn nộp các báo cáo tài chính của người vay
Báo cáo tài chính là tài liệu quan trọng giúp ngân hàng hiểu được tình hình
tài chính của người vay ,thông qua đó dự báo về khả năng hoàn trả các khoản nợ
của họ
Việc trì hoãn nộp các báo cáo tài chính có thể do nhiều nguyên nhân khác
nhau nhưng chúng ta phải xem xét đến nguyên nhân chính đó là do tình hình hoạt
động kinh doanh của người vay đang có dấu hiệu không bình thường nên họ không
muốn để cho ngân hàng biết sớm tình hình tài chính đang sút kém của họ.
- Mối quan hệ giữa ngân hàng và người vay thay đổi
Đó là sự chậm chễ trong việc dàn xếp các cuộc viếng thăm của ngân hàng đối
với doanh nghiệp, nhằm giúp cho ngân hàng kiểm tra, giám sát những nghĩa vụ
17
của người vay đối với khoản vay. Vấn đề này biểu hiện bởi sự giảm sút bầu không

khí không tin cậy và hợp tác giữa cán bộ ngân hàng và người vay vốn có từ lâu
nay.
- Hàng tồn kho của người vay tăng lên quá mức bình thường, các khoản công
nợ cũng gia tăng
- Chất lượng sản phẩm hoặc dịch vụ của doanh nghiệp giảm sút ,khách hàng của
họ không còn tín nhiệm như trước nữa dẫn đến phải bán hàng với thời hạn trả tiền lâu
hơn, hoặc bán cho cả khách hàng yếu kém về tài chính, có khả năng thanh toán thấp.
- Hoản trả nợ vay không đúng hạn hoặc lãi vay không thanh toán đúng kỳ
hạn.
- Thay đổi về cơ cấu tổ chức quản lý kinh doanh.
Vấn đề này được biểu hiện qua một số hình thức như: Thu hẹp qui mô sản
xuất và chủng loại sản phẩm ,công nhân nghỉ việc,bán bớt tài sản hoặc một số vụ
việc như sa thải những can bộ chủ chốt trong doanh nghiệp.
- Các thảm hoạ về thiên nhiên như bão lụt, hoả hoạn ,cháy rừng v.v.
Khi các dấu hiệu phản ánh một khoản vay có vấn đề được nhận ra, biện pháp
đầu tiên mà các cán bộ tín dụng ngân hàng phải làm là xác định tính nghiêm trọng
của vấn đề. Dĩ nhiên để hoàn tất công việc này đòi hỏi phải có thêm thông tin và
sự cộng tác của người vay, thông tin thường lấy được từ các báo cáo tài chính, báo
cáo hoạt động kinh doanh của người vay. Các biện pháp sau đó sẽ tuỳ thuộc vào sự
nghiêm trọng của tình hình mà xử lý.
18
1.1.5. Tác hại của rủi ro tín dụng.
Rủi ro tín dụng nói chung và nợ quá hạn nói riêng xảy ra trong kinh doanh
của ngân hàng thương mại tuỳ theo mức độ mà có ảnh hưởng ít hay nhiều tới bản
thân Ngân hàng hay khách hàng của họ. Có thể khái quát trên hai phương diện:
1.1.5.1. Đối với nền kinh tế:
Ngân hàng thương mại hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ tín dụng
với tư cách là một trung tâm của đời sống kinh tế, nó có quan hệ trực tiếp và
thường xuyên với các tổ chức kinh tế, do đó khi Ngân hàng gặp phải những rủi ro
thì tất yếu sẽ gây ra những ảnh hưởng tiêu cực đối với nền kinh tế và đời sống xã

hội. Gặp rủi ro làm lợi nhuận trong kinh doanh Ngân hàng giảm, thậm chí Ngân
hàng phải lấy vốn tự có ra để bù đắp, có thể dẫn đến Ngân hàng thiếu vốn khả
dụng hoặc mất khả năng thanh toán làm giảm lòng tin của khách hàng vào ngân
hàng. mặt khác, các ngân hàng thương mại thường có quan hệ chặt chẽ với nhau,
khi một Ngân hàng gặp rủi ro có nguy cơ phá sản tất yếu sẽ kéo theo tình trạng
khủng hoảng của toàn bộ hệ thống các ngân hàng khác theo kiểu phản ứng dây
chuyền gây ra tình trạng mất ổn định trên thị trườngtiền tệ tín dụng. tình trạng này
có thể gây nên sự mất ổn định của nền kinh tế, giá trị đồng tiền giảm gây khó khăn
cho các doanh nghiệp trong sản xuất, tiêu thụ hàng hoá
1.1.5.2 Đối với bản thân ngân hàng.
Rủi ro xảy ra tác động trực tiếp đến lợi nhuận kinh doanh của ngân hàng. Khi
rủi ro ở mức nhỏ thì ngân hàng chỉ phải bù đắp bằng lợi nhuận kinh doanh, bằng
vốn tụ có nên ngân hàng chỉ bị giảm lợi nhuận kinh doanh hoặc thua lỗ. Song nếu
rủi ro gặp phải ở mức độ nghiêm trọng, nguồn vốn ngân hàng không đủ bù đắp thì
tất yếu sẽ dẫn ngân hàng đến bờ vực của sự phá sản. Như vậy rủi ro có thể làm đảo
lộn thành quả hoạt động trong nhiều năm và thậm chí trở thành vấn đề sống còn
của nhà ngân hàng.
1.2. Các chỉ tiêu đánh giá rủi ro tín dụng
1.2.1. Các chỉ tiêu định tính
Độ chính xác của việc đánh giá chất lượng tín dụng thông qua các chỉ tiêu
định tính tùy thuộc vào trình độ phân tích và kinh nghiệm của người đánh giá.
Một số chỉ tiêu thông dụng và dễ đánh giá:
a) Quy trình tín dụng
Quy trình tín dụng là chỉ tiêu quan trọng có ảnh hưởng quyết định đến chất
lượng tín dụng. Quy trình tín dụng bao gồm các bước và kỹ thuật cơ bản, cần thiết
mà các cán bộ ngân hàng, đặc biệt là cán bộ tín dụng phải tuân theo khi tiến hành
hoạt động tín dụng. Về mặt hiệu quả, một quy trình tín dụng hợp lý sẽ giúp cho
19
ngân hàng nâng cao chất lượng tín dụng và giảm thiểu rủi ro tín dụng.
b) Khả năng cạnh tranh

Khả năng cạnh tranh của một ngân hàng có liên quan rất lớn tới chất lượng
tín dụng của ngân hàng vì ngân hàng có khả năng cạnh tranh cao hơn thì sẽ chiếm
lĩnh được thị phần tốt hơn, có chất lượng tín dụng tốt hơn. Ngược lại, năng lực thị
trường của ngân hàng thấp thì ngân hàng phải chấp nhận phần thị trường có rủi ro
cao hơn.
c) Tính bền vững
Khi một khách hàng tin rằng ngân hàng đó có năng lực kinh doanh tốt thì họ
sẽ tìm đến với ngân hàng đó. Điều này đặc biệt đúng với người gửi tiền vì họ cho
rằng ngân hàng hoạt động lâu năm nên có nhiều kinh nghiệm hơn, khả năng kinh
doanh tốt hơn. Việc huy động nguồn vốn đa dạng và phong phú sẽ tạo điều kiện
cho ngân hàng trong việc cho vay được linh hoạt hơn và từ đó chất lượng tín dụng
của ngân hàng đó cũng tốt hơn.
1.2.2. Các chỉ tiêu định lượng
a) Tỷ lệ nợ quá hạn
Tỷ lệ nợ quá hạn =
Nợ quá hạn
x 100
Tổng dư nợ
Tỷ lệ nợ quá hạn cho ta biết trong một đồng dư nợ có bao nhiều đồng là nợ
quá hạn. Nợ quá hạn là khoản nợ mà một phần hoặc toàn bộ nợ gốc và/hoặc lãi đã
quá hạn. Tỷ lệ nợ quá hạn cao chứng tỏ chất lượng tín dụng thấp. Ngân hàng cần
có biện pháp kiểm tra, giám sát các khoản vay của mình thật chặt chẽ nhằm hạn
chế rủi ro tín dụng.
Mục tiêu phấn đấu của ngân hàng thương mại là không để xảy ra nợ quá
hạn. Tuy nhiên trong thực tế điều này rất khó thực hiện. Vì vậy, khi đánh giá về
chất lượng tín dụng cần phải xem xét đến chỉ tiêu tỷ lệ nợ quá hạn.
b) Tỷ lệ nợ xấu
Tỷ lệ nợ xấu =
Nợ xấu
x 100

Tổng dư nợ
Theo quyết định số 493/2008/QĐ-NHNN ngày 22/4/2008 của Thống đốc
NHNN Việt Nam, các khoản nợ được chia thành 5 nhóm:
- Nhóm 1: Nợ đủ tiêu chuẩn
- Nhóm 2: Nợ cần chú ý
- Nhóm 3: Nợ dưới tiêu chuẩn
- Nhóm 4: Nợ nghi ngờ
20
- Nhóm 5: Nợ có khả năng mất vốn
Nợ xấu là các khoản nợ thuộc nhóm 3, 4, 5. Tỷ lệ nợ xấu cho ta biết trong
một đồng dư nợ có bao nhiêu đồng nợ xấu. Tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ là tỷ lệ
đánh giá chất lượng tín dụng của tổ chức tín dụng. Nợ xấu có độ rủi ro rất cao, khả
năng thu hồi vốn là tương đối khó, khoản vốn của ngân hàng lúc này không còn là
rủi ro nữa mà đã gây thiệt hại cho ngân hàng. Một ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu cao
chứng tỏ chất lượng tín dụng của ngân hàng là rất thấp và lúc này cần phải xem
xét lại toàn bộ hoạt động tín dụng của mình nếu không hậu quả khó lường trước
được.
c) Tỷ lệ nợ không có khả năng thu hồi
Tỷ lệ nợ không có khả năng thu hồi =
Nợ nhóm 5
Tổng dư nợ
Nợ không có khả năng thu hồi chính là nợ nhóm 5. Tỷ lệ này cho thấy trong
tổng dư nợ tín dụng của ngân hàng trong tổng dư nợ quá hạn của ngân hàng có bao
nhiêu phần trăm có thể bị mất vốn. Tỷ lệ này càng cao chất lượng tín dụng càng
thấp, nguy cơ ngân hàng không thu hồi được khoản tín dụng đã cấp càng lớn, tổn
thất với ngân hàng càng cao.
d) Chỉ tiêu vòng quay vốn tín dụng
Vòng quay vốn tín dụng =
Doanh số thu nợ
Dư nợ bình quân

Chỉ tiêu này phản ánh tốc độ luân chuyển vốn tín dụng của một ngân hàng.
Vốn tín dụng quay được một vòng tức là tính từ thời điểm cấp tín dụng đến thời
điểm thu hồi đầy đủ cả gốc và lãi khi đến hạn như trong hợp đồng. Vòng quay vốn
tín dụng càng cao chứng tỏ khả năng quản lý vốn tín dụng cũng như chất lượng tín
dụng của ngân hàng càng tốt.
e) Hiệu suất sử dụng vốn
Hiệu suất sử dụng vốn vay =
Tổng dư nợ cho vay
x 100
Tổng nguồn vốn huy động
Chỉ tiêu hiệu suất sử dụng vốn cho ta biết trong một đồng vốn huy động
được thì bao nhiêu đồng được sử dụng trong cho vay. Đây là chỉ tiêu phản ánh quy
mô, khả năng tận dụng nguồn vốn trong cho vay của các ngân hàng thương mại.
Hiệu suất sử dụng càng cao thì hoạt động kinh doanh ngày càng có hiệu quả và
ngược lại.
f) Tỷ lệ trích lập dự phòng rủi ro tín dụng
Tỷ lệ trích lập DPRR tín dụng =
Số tiền trích lập quỹ dự phòng rủi ro
Tổng dư nợ
DPRR là khoản tiền được trích lập để dự phòng cho những tổn thất có thể xảy ra
21
do khách hàng của tổ chức tín dụng không thực hiện được nghĩa vụ theo cam kết.
Tỷ lệ trích lập DPRR của ngân hàng càng cao hay số tiền trích lập quỹ
DPRR càng chiếm tỷ lệ lớn trong tổng dư nợ của ngân hàng chứng tỏ chất lượng
tín dụng của ngân hàng càng thấp vì tỷ lệ trích lập dự phòng cụ thể chỉ tính dựa
trên dư nợ từ nhóm 2 đến nhóm 5. Nhóm nợ càng cao thì tỷ lệ dự phòng rủi ro
được trích càng lớn. Một ngân hàng có dự phòng rủi ro càng cao thì chi phí hoạt
động của ngân hàng này càng lớn, giảm khả năng sinh lời từ khoản dự phòng đã
trích.
22

×