Tải bản đầy đủ (.docx) (79 trang)

Giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại Chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Thành Côngx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (495.9 KB, 79 trang )

Khoá luận tốt nghiệp Hạn chế rủi ro tín dụng
MỤC LỤC
Hồ Thị Kim Chi – Tài chính doanh nghiệp 46A
1
1
1
Khoá luận tốt nghiệp Hạn chế rủi ro tín dụng
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ
TRONG KHOÁ LUẬN
Trang
Sơ đồ 1. Quy trình cấp tín dụng của ngân hàng thương mại 24
Sơ đồ 2. Mô hình tổ chức của Ngân hàng Ngoại Thương
Việt Nam
31
Sơ đồ 3. Mô hình tổ chức của Chi nhánh Ngân hàng
Ngoại thương Thành Công 32
Biểu đồ 1. Tình hình huy động vốn của chi nhánh Ngân hàng
Ngoại thương Thành Công giai đoạn 2003 - 2007
Biểu đồ 2. Tình hình cho vay của chi nhánh Ngân hàng
Ngoại thương Thành Công giai đoạn 2003 - 2007 39
Biểu đồ 3. Tình hình thanh toán xuất nhập khẩu của
chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Thành Công
giai đoạn 2003 - 2007 40
Biểu đồ 4. Số lượng thẻ chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương
Thành Công phát hành giai đoạn 2003 - 2007 43
Biểu đồ 5. Số lượng khách hàng của chi nhánh Ngân hàng
Ngoại thương Thành Công giai đoạn 2003 – 2007 45
Bảng 1. Dư nợ tín dụng chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương
Thành Công 46
Bảng 2. Phân loại tín dụng theo thành phần kinh tế của
chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Thành Công


giai đoạn 2003 - 2007 47
Bảng 3. Phân loại tín dụng theo ngành nghề của chi nhánh
Ngân hàng Ngoại thương Thành Công 48
Hồ Thị Kim Chi – Tài chính doanh nghiệp 46A
2
2
2
Khoá luận tốt nghiệp Hạn chế rủi ro tín dụng
Bảng 4. Phân loại tín dụng phân theo kì hạn tại chi nhánh
Ngân hàng Ngoại thương Thành Công 2003 - 2007 49
Bảng 5. Phân loại tín dụng theo chất lượng của chi nhánh
Ngân hàng Ngoại thương Thành Công
giai đoạn 2003 - 2007 50
Bảng 6. Các khoản mục nợ có vấn đề của chi nhánh Ngân hàng
Ngoại thương Thành Công giai đoạn 2003 - 2007 53
Bảng 7. Nợ quá hạn phân theo thời gian của chi nhánh
Ngân hàng Ngoại thương Thành Công 2003 – 2007 54
Bảng 8. Nợ quá hạn phân theo khả năng thu hồi tại chi nhánh
Ngân hàng Ngoại thương Thành Công 2003 - 2007 55
Bảng 9. Nợ quá hạn phân theo loại tiền của chi nhánh
Ngân hàng Ngoại thương Thành Công 2003 - 2007 56
Hồ Thị Kim Chi – Tài chính doanh nghiệp 46A
3
3
3
Khoá luận tốt nghiệp Hạn chế rủi ro tín dụng
LỜI MỞ ĐẦU
Một trong những đặc điểm nổi bật của nền kinh tế thế giới trong những thập
niên gần đây là sự phát triển rầm rộ và sôi động trong lĩnh vực tài chính và ngân
hàng. Có thể thấy rằng phấn đấu cho một nền tài chính – ngân hàng ngày càng hưng

thịnh hiện đang thu hút nhiều sự quan tâm chú ý cũng như trí tuệ và tri thức của nhân
loại. Cùng hoà nhịp với xu thế của thế giới cũng như những chuyển biến tích cực của
đất nước, đặc biệt sau khi Việt Nam chính thức gia nhập Tổ chức Thương Mại quốc
tế (WTO), hệ thống ngân hàng Việt Nam trong thời gian qua đã có những sự thay đổi
đáng kể về cấu trúc, quy mô và về sự đa dạng hoá các loại hình tổ chức. Hệ thống
ngân hàng thương mại được kỳ vọng là sẽ tiếp tục phát huy vai trò trong việc khơi
thông những dòng chảy về vốn, đầu tư và các dịch vụ tài chính để phục vụ tăng
trưởng kinh tế ở mức cao và bền vững.
Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi mà sự hội nhập kinh tế thế giới mang lại,
hoạt động kinh doanh ngân hàng cũng phải đối mặt với nhiều rủi ro trong quá trình
hoạt động. Và một trong những rủi ro quan trọng nhất và có tác động lớn nhất đến
hoạt động ngân hàng là rủi ro tín dụng. Rủi ro tín dụng có ý nghĩa sống còn đối với
ngân hàng cũng như sự ổn định của cả nền kinh tế, đặc biệt trong hoàn cảnh Việt
Nam hiện nay, các tổ chức tín dụng về cơ bản vẫn đang ở giai đoạn đầu của quá trình
thực hiện các chính sách tín dụng chặt chẽ và các thông lệ tín dụng tốt nhất.
Thực tế, Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam là một ngân hàng lớn mạnh, có
kinh nghiệm và có uy tín trên thị trường tài chính tiền tệ Việt Nam. Tuy vậy, trong
thời gian gần đây do mức độ cạnh tranh ngày càng gay gắt giữa các ngân hàng, đặc
biệt do sự biến động không ngừng của thị trường thị trường khu vực và trên thế giới,
Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam nói chung và Chi nhánh Ngân hàng Ngoại
Thương Thành Công nói riêng cũng đang đối mặt với những khó khăn về rủi ro tín
dụng. Sau thời gian thực tập tại Chi nhánh Ngân hàng Ngoại Thương Thành Công,
trên cơ sở những kiến thức đã được tích lũy ở trường và qua nghiên cứu tài liệu, kết
hợp với những kinh nghiệm thực tiễn thu được trong quá trình thực tập, với mong
Hồ Thị Kim Chi – Tài chính doanh nghiệp 46A
4
4
4
Khoá luận tốt nghiệp Hạn chế rủi ro tín dụng
muốn phân tích các nguyên nhân của rủi ro tín dụng để góp phần đưa ra các giải pháp

nhằm hạn chế các rủi ro tín dụng và đóng góp một vài ý kiến nhỏ của mình nhằm
cùng tìm ra lởi giải đáp khoa học, em đã đi sâu nghiên cứu đề tài:
“Giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại Chi nhánh Ngân hàng Ngoại
thương Thành Công”
Kết cấu Khóa luận tốt nghiệp gồm 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về rủi ro tín dụng trong ngân hàng thương mại
Chương 2: Thực trạng hạn chế rủi ro tín dụng tại Chi nhánh Ngân hàng
Ngoại thương Thành Công
Chương 3: Giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại Chi nhánh Ngân hàng
Ngoại thương Thành Công
Do kiến thức, kinh nghiệm và thời gian nghiên cứu chưa nhiều nên bài viết sẽ
không tránh khỏi còn nhiều thiếu sót. Với lòng biết ơn sâu sắc, em mong muốn nhận
được những ý kiến phê bình, góp ý quý báu của các thầy cô, các cán bộ ngân hàng và
các bạn giúp em nâng cao trình độ hiểu biết về lý luận cũng như thực tiễn tốt hơn.
Hồ Thị Kim Chi – Tài chính doanh nghiệp 46A
5
5
5
Khoá luận tốt nghiệp Hạn chế rủi ro tín dụng
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành Khóa luận tốt nghiệp, em xin gửi lời cám ơn chân thành tới
thầy giáo-PGS.TS Nguyễn Hữu Tài vì sự hướng dẫn và những nhận xét quý báu của
thầy trong suốt quá trình em thực hiện Khóa luận tốt nghiệp. Em cũng xin chân thành
cám ơn các cán bộ của Chi nhánh Ngân hàng Ngoại Thương Thành Công, đặc biệt là
Chị Đậu Thị Thúy Vân, Trưởng phòng Quan hệ khách hàng; Anh Phí Đặng Hùng,
Phó phòng Quan hệ Khách hàng. Nếu không có khoảng thời gian thực tập cùng
những lời chỉ bảo của thầy giáo và các anh chị thì em khó có thể thực hiện được
Khóa luận tốt nghiệp này. Sau cùng em xin được gửi lời cám ơn tới tất cả các thầy
giáo, cô giáo trong khoa Ngân hàng – Tài chính, những người đã dạy bảo em trong
suốt bốn năm học vừa qua.

Hồ Thị Kim Chi – Tài chính doanh nghiệp 46A
6
6
6
Khoá luận tốt nghiệp Hạn chế rủi ro tín dụng
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ RỦI RO TÍN DỤNG TRONG
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Tín dụng ngân hàng
1.1.1. Khái niệm về tín dụng ngân hàng
Tín dụng là một giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hoá) giữa bên cho vay và
bên đi vay. Trong đó, bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong
một thời gian nhất định theo thoả thuận và bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều
kiện vốn gốc và lãi cho bên vay khi đến hạn.
Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa ngân hàng, các tổ chức tín dụng
và các tổ chức kinh tế, cá nhân theo nguyên tắc hoàn trả. Việc hoàn trả được nợ gốc
trong tín dụng có nghĩa là việc thực hiện được giá trị hàng hoá trên thị trường, còn
việc hoàn trả được lãi vay trong tín dụng là việc thực hiện được giá trị thặng dư trên
thị trường.
Giáo trình Ngân hàng Thương mại của trường Đại học Kinh tế Quốc dân định
nghĩa: “Ngân hàng thương mại là một tổ chức tài chính cung cấp một doanh mục các
dịch vụ tài chính đa dạng nhất, đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và
thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào
trong nền kinh tế”. Như vậy, hoạt động của ngân hàng thương mại là hoạt động kinh
doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi từ
khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để đầu tư thu lợi nhuận
như cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán. Lượng vốn của các ngân hàng
thường nhỏ hơn nhiều so với nhu cầu vay vốn của các khách hàng, bởi thế ngân hàng
thương mại phải huy động vốn từ nhiều nguồn khác nhau trong xã hội. Những nguồn
vốn này là cơ sở để ngân hàng thương mại đầu tư lại cho nền kinh tế. Đây là chính
nguồn gốc của hoạt động tín dụng ngân hàng.

1.1.2. Vai trò của tín dụng ngân hàng
Các ngân hàng thương mại là các tổ chức kinh doanh tiền tệ, hoạt động chủ
yếu là nhận gửi và cho vay. Chúng đóng góp vai trò quan trọng trong việc khơi nguồn
Hồ Thị Kim Chi – Tài chính doanh nghiệp 46A
7
7
7
Khoá luận tốt nghiệp Hạn chế rủi ro tín dụng
vốn đến những người vay tiền có khả năng kinh doanh thu lợi, chúng đảm bảo cho
nền kinh tế hoạt động nhịp nhàng, hữu hiệu thông qua hoạt động tín dụng.
1.1.2.1. Đối với Nhà nước
Hoạt động tín dụng tạo ra thu nhập chủ yếu cho ngân hàng, tạo ra nguồn thu
cho ngân sách nhà nước. Tín dụng ngân hàng là công cụ để ngân hàng điều tiết khối
lượng tiền tệ trong lưu thông. Thông qua việc cấp tín dụng cho nền kinh tế, ngân
hàng đã tạo nên cung tiền tệ. Đó chính là khả năng tạo tiền của ngân hàng. Như ta đã
biết, một khoản tiền ban đầu khi gửi vào ngân hàng, sau khi đã trừ đi khối lượng dự
trữ, sẽ được ngân hàng sử dụng để cấp tín dụng. Sau đó, khoản tiền này lại quay trở
lại ngân hàng một cách lặp đi lặp lại. Khối lượng tiền gửi được ghi tại ngân hàng sẽ
tăng lên so với số tiền gửi ban đầu. Vì thế, cung tiền trong nền kinh tế tăng lên. Tỷ lệ
cấp tín dụng của ngân hàng so với khối lượng vốn huy động càng lớn thì mức cung
tiền tệ hay khối lượng tiền tệ thực trong lưu thông càng lớn. Do vậy, bằng các chính
sách của mình, Ngân hàng Nhà nước dễ dàng thay đổi lượng tiền trong lưu thông
bằng cách điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc hoặc hạn mức tín dụng đối với các Ngân
hàng thương mại.
Mặt khác, tín dụng ngân hàng góp phần tài trợ nguồn vốn sản xuất kinh doanh,
mở rộng sản xuất của doanh nghiệp sẽ góp phần thúc đẩy nền sản xuất xã hội phát
triển. Khi các doanh nghiệp mở rộng sản xuất kinh doanh sẽ tạo điều kiện cho một bộ
phận lao động không nhỏ trong xã hội có công ăn việc làm, tăng thu nhập, cải thiện
đời sống, làm hạn chế các tệ nạn trong xã hội. Đây cũng là một nhân tố thúc đẩy kinh
tế-xã hội phát triển.

Ngoài ra, với chức năng là chiếc cầu nối trung gian giữa những người cho vay
đầu tiên và những người đi vay cuối cùng. Tín dụng ngân hàng đã tập trung một khối
lượng lớn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế, do đó đã làm giảm khối lượng tiền mặt tồn
đọng trong lưu thông. Nếu lượng vốn này tồn đọng mà không được huy động một
cách hợp lý và kịp thời thì có thể ảnh hưởng đến tình trạng lưu thông tiền tệ, dẫn đến
mất cân đối trong quan hệ tiền - hàng và hệ thống giá cả bị biến động là điều khó
tránh khỏi. Bởi vậy, tín dụng ngân hàng góp phần ổn định tiền tệ, giá cả.
Hồ Thị Kim Chi – Tài chính doanh nghiệp 46A
8
8
8
Khoá luận tốt nghiệp Hạn chế rủi ro tín dụng
1.1.2.2. Đối với ngân hàng thương mại
Tín dụng là hoạt động chủ yếu của Ngân hàng thương mại. Phần lớn vốn do
Ngân hàng thương mại huy động được là dùng để cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài
hạn đối với nền kinh tế.
Hoạt động tín dụng cũng là nguồn thu nhập chủ yếu của các Ngân hàng
thương mại. Bởi vậy, hoạt động tín dụng có vai trò quyết định sự tồn tại và phát triển
của các Ngân hàng thương mại.
Hoạt động tín dụng cũng là cơ sở quan trọng để Ngân hàng thương mại phát
triển các hoạt động khác như huy động vốn, dịch vụ thanh toán và các dịch vụ khác
cho tổ chức, doanh nghiệp và cá nhân.
1.1.2.3. Đối với các doanh nghiệp
Với chức năng chính là “đi vay để cho vay”, ngân hàng đứng ra huy động tiền
gửi từ dân cư và các doanh nghiệp. Mỗi cá nhân và tổ chức, khi có nguồn vốn nhàn
rỗi tạm thời, có thể gửi vào ngân hàng như một sự lựa chọn an toàn và là quyết định
đầu tư ít rủi ro. Ngân hàng dùng số vốn tạm thời này để cung cấp cho các cá nhân và
các doanh nghiệp khác đang có nhu cầu về vốn. Do có ngân hàng đứng ra làm trung
gian cho quá trình luân chuyển vốn nên các nguồn vốn có thể được tập trung và đến
với người cần vốn, giảm được các chi phí xã hội và đảm bảo ba bên cùng có lợi.

Chính các lợi ích đó đã khuyến khích các cá nhân, tổ chức gửi vốn vào ngân hàng.
Hợp đồng tín dụng càng phát triển thì càng thúc đẩy quá trình tích tụ vốn.
Các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh dựa trên vốn chủ sở hữu và
vốn vay. Một trong những nguồn đi vay là từ ngân hàng. Đây là nguồn tài trợ hiệu
quả bởi vì nó thoả mãn nhu cầu vốn về cả số lượng và thời hạn. Hơn nữa, để có thể
vay vốn được từ ngân hàng, các doanh nghiệp buộc phải nâng cao uy tín của mình để
đảm bảo được các nguyên tắc tín dụng. Nó đòi hỏi các doanh nghiệp phải tìm hiểu thị
trường, khai thác thông tin, định lượng hoạt động kinh doanh của mình sao cho có
hiệu quả. Điều đó làm tăng hiệu quả của các dự án và phương án.
Đứng trước xu thế quốc tế hoá, các doanh nghiệp không chỉ có quan hệ mua
bán với các thành phần kinh tế trong nước mà còn quan hệ xuất nhập khẩu với các
Hồ Thị Kim Chi – Tài chính doanh nghiệp 46A
9
9
9
Khoá luận tốt nghiệp Hạn chế rủi ro tín dụng
doanh nghiệp nước ngoài. Tín dụng ngân hàng có thể thúc đẩy mối quan hệ này thông
qua hình thức bảo lãnh, cho vay đối với doanh nghiệp để từ đó nâng cao uy tín của
doanh nghiệp trên trường quốc tế.
1.1.3. Các hình thức tín dụng ngân hàng
Ngân hàng cung cấp rất nhiều hình thức tín dụng cho nhiều đối tượng khách
hàng với nhiều mục đích sử dụng khác nhau. Để tránh nhầm lẫn và có cái nhìn tổng
quát về các loại hình tín dụng, người ta có thể phân loại tín dụng theo một số tiêu
thức nhất định. Theo điều 49 mục 2 Luật các tổ chức tín dụng thì tín dụng ngân hàng
được thể hiện dưới các hình thức sau:
1.1.3.1. Hình thức cho vay
Quy chế cho vay của các tổ chức tín dụng quy định: cho vay là một hình thức
của cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng cho khách hàng vay một khoản tiền để sử
dụng vào một mục đích và thời gian nhất định theo thoả thuận với nguyên tắc hoàn
trả cả gốc và lãi. Tổ chức tín dụng cho các tổ chức, cá nhân vay ngắn hạn nhằm đáp

ứng nhu cầu cho sản xuất kinh doanh, dịch vụ và đời sống, cho vay trung và dài hạn
nhằm thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, dịch vụ và đời sống.
1.1.3.2. Hình thức chiết khấu
Trong nền kinh tế thị trường, các giấy tờ có giá được phát hành và lưu thông
theo quy định của Pháp luật. Người giữ các giấy tờ có gía này nếu cần tiền mặt khi
các giấy tờ có giá chưa đến hạn thì có thể mang giấy tờ đó đến ngân hàng thương mại
để xin chiết khấu. “ Tổ chức tín dụng được cấp tín dụng dưới hình thức chiết khấu
thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác. Chủ sở hữu thương phiếu và các
giấy tờ có giá ngắn hạn khác phải chuyển giao ngay mọi quyền lợi và lợi ích hợp
pháp phát sinh từ các giấy tờ có giá đó cho tổ chức tín dụng” ( Điều 57 mục 2 Luật
các tổ chức tín dụng ).
Như vậy về bản chất kinh tế, chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá
ngắn hạn khác là tín dụng ngắn hạn mà ngân hàng chuyển tiền cho người chủ sở hữu
các giấy tờ có giá đó khi nó chưa đến hạn thanh toán. Khách hàng muốn bán thương
phiếu cho ngân hàng phải lập đầy đủ thủ tục giống như vay vốn, làm đơn xin chiết
Hồ Thị Kim Chi – Tài chính doanh nghiệp 46A
10
10
10
Khoá luận tốt nghiệp Hạn chế rủi ro tín dụng
khấu thương phiếu, ngâ hàng kiểm tra khả năng thanh toán nợ khi đến hạn của người
phát hành thương phiếu, nếu được chấp nhận và quyết định mức chiết khấu. Thông
thường các ngân hàng chỉ chiết khấu các thương phiếu có thời gian đến ngắn hạn từ 3
– 6 tháng. Ưu điểm đặc biệt của hình thức tín dụng chiết khấu là nếu trong trường
hợp khó khăn về khả năng thanh toán thì có thể đem các giấy tờ có giá đó đến Ngân
hàng Trung ương xin tái triết khấu.
1.1.3.3. Hình thức nhận trả
Là hình thức tín dụng mà ngân hàng nhận trả nợ thay cho người phát hành kỳ
phiếu khi đến hạn thanh toán mà người phát hành kỳ phiếu không có khả năng thanh
toán. Đây là sự đảm bảo chắc chắn cho người sở hữu kỳ phiếu rằng họ sẽ nhận được

tiền khi đến hạn thanh toán cũng như có thể dễ dàng đem kỳ phiếu đi chiết khấu. Để
có được sự đảm bảo đó, doanh nghiệp phát hành kỳ phiếu sẽ phải trả cho ngân hàng
một khoản hoa hồng. Trong hợp đồng tín dụng giữa người phát hành kỳ phiếu và
ngân hàng có quy định người phát hành kỳ phiếu phải giao số tiền của kỳ phiếu chậm
nhất trước ngày kỳ phiếu đến hạn. Ngân hàng phải thẩm định khả năng thanh toán
của doanh nghiệp trước khi ngân hàng đảm bảo cho doanh nghiệp đó phát hành kỳ
phiếu.
1.1.3.4. Tín dụng trả nhiều lần
Là hình thức cho vay mà việc trả nợ được phân ra làm nhiều thời hạn, mỗi lần
trả nợ bao gồm một phần gốc và một phần lãi. Loại tín dụng này rất phù hựp với đặc
điểm sử dụng vốn của doanh nghiệp là thu hồi vốn làm nhiều lần. Tín dụng trả nhiều
lần bao gồm bao gồm cácloại tín dụng ngắn, trung và dài hạn. Doanh nghiệp và ngân
hàng thoả thuận mức cho vay, lãi suất cho vay và kỳ hạn trả nợ cũng như số lãi và
gốc cho mỗi lần trả nợ. Tín dụng trả nhiều lần có thị trường rộng lớn nhưng cần có
điều kiện đảm baỏ để thực hiện loại hình cho vay này.
1.1.3.5. Hình thức bảo lãnh
Đây là hình thức tín dụng phát sinh do ngân hàng nhận bảo lãnh dùng uy tín
của mình để đảm bảo thanh toán cho người bán hàng trong trường hợp người mua
hàng ( người được bảo lãnh ) không có khả năng thanh toán nợ.
Hồ Thị Kim Chi – Tài chính doanh nghiệp 46A
11
11
11
Khoá luận tốt nghiệp Hạn chế rủi ro tín dụng
Có 2 loại bảo lãnh:
Bảo lãnh bằng thư: ngân hàng phát hành một thư bảo lãnh để khách hàng có
thể mua vật tư hàng hoá, bao thầu ... Ttrong thư bảo lãnh ngân hàng cam kết sẽ trả
thay cho khách hàng khi khách hàng không trả tiền, nộp thuế...
Bảo lãnh bằng hình thức chấp nhận: ngân hàng có thể dùng cách ký chấp nhận
vào một thương phiếu do nhà cung cấp lập khi bán chịu cho khách hàng hay do một

ngân hàng lập cho người muốn vay tiền. Bảo lãnh vay tiền cuả một ngân hàng khác
còn là cách san sẻ rủi ro cho nhiều ngân hàng.
1.1.3.6. Hình thức cầm cố bất động sản
Đây là hình thức cho vay dài hạn trên cơ sở đảm bảo bằng bất động sản như
nhà cửa, đất đai, xưởng máy.... Tài sản cầm cố phải được chuyển cho người cho vay,
do đó người cho vay là người sở hữu trực tiếp còn gnười vay chỉ còn là người sở hữu
gián tiếp tài sản cầm cố.
1.2. Rủi ro tín dụng ngân hàng
1.2.1. Các loại rủi ro trong kinh doanh Ngân hàng
Trong nền kinh tế thị trường, kinh doanh và rủi ro là hai phạm trù cặp đôi.
Kinh tế thị trường làm đa dạng hoá các thành phần kinh tế, bình đẳng hoá hoạt động
của các thành phần này và thúc đẩy cạnh tranh lẫn nhau. Rủi ro – tuy là là những khả
năng xảy ra tổn thất ngoài dự kiến song lại là hiện tượng đồng hành với các hoạt
động kinh doanh trong cơ chế thị trường cũng như trong quá trình cạnh tranh.
Hoạt động kinh doanh của ngân hàng cũng không nằm ngoài tác động trên,
với các hoạt động ngân hàng hầu như không có loại nghiệp vụ nào, không có loại
dịch vụ nào của ngân hàng là không có rủi ro. Bởi lẽ, ngân hàng được coi là một loại
doanh nghiệp kinh doanh hàng hoá đặc biệt – hàng hoá tiền tệ, do đó thường xuyên
đối mặt với nhiều loại rủi ro. Các ngân hàng được coi là thành công khi mức độ rủi ro
họ tham gia vào ở mức hợp lý, được kiểm soát trong phạm vi và năng lực tài chính
của họ. Có nhiều cách hiểu rủi ro khác nhau, có nhiều định nghĩa về rủi ro của các
nhà kinh tế và các nhà kinh doanh. Thật khó mà thâu tóm được một định nghĩa rủi ro
chuẩn xác cho mọi môi trường kinh doanh cũng như mọi giai đoạn phát triển của
Hồ Thị Kim Chi – Tài chính doanh nghiệp 46A
12
12
12
Khoá luận tốt nghiệp Hạn chế rủi ro tín dụng
kinh tế - xã hội. Tuy khó tìm được một định nghĩa rủi ro hoàn hảo, song có thể biết
được rằng rủi ro thường có hai đặc tính sau:

- Thứ nhất, biên độ rủi ro, đó là sự thiệt hại từ rủi ro gây ra ở mức độ nào.
- Thứ hai, tần số xuất hiện của rủi ro nhiều hay ít.
Là một doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ, Ngân hàng thương mại cũng gánh
chịu các rủi ro do các tác động của môi trường vĩ mô và vi mô gây nên như các doanh
nghiệp khác. Rủi ro trong kinh doanh ngân hàng về cơ bản có thể chia thành 2 loại:
rủi ro môi trường và rủi ro đặc thù.
(1) Rủi ro môi trường hay còn gọi là rủi ro thị trường:
Rủi ro về môi trường luôn luôn tồn tại trong tổ chức và ngoài tổ chức, hay nói
cách khác, rủi ro môi trường gồm 2 loại: rủi ro môi trường vĩ mô và rủi ro môi trường
cạnh tranh.
+ Rủi ro môi trường vĩ mô: Môi trường mà ngân hàng hoạt động chứa đầy
muôn vàn rủi ro, chúng tác động đến ngân hàng bằng nhiều cách: hoặc là suy yếu khả
năng chịu đựng rủi ro của ngân hàng, hoặc gây cho ngân hàng những thiệt hại về tài
chính. Những rủi ro này rất khoa kiểm soát nên chúng được gọi là “rủi ro không kiểm
soát được”. Trong thực tế, người ta có thể kiểm soát chúng ở mức độ hạn chế trên cơ
sở dự báo. Các rủi ro môi trường vĩ mô mà ngân hàng thường gặp là:
- Rủi ro tự nhiên hay rủi ro bất khả kháng: lũ lụt, hỏa hoạn, động đất,…
- Rủi ro về luật pháp liên quan đến việc thay đổi các luật lệ gây bất lợi cho
ngân hàng. Ở các nước đang phát triển, đây là rủi ro có thể gây thiệt hại lớn cho nền
kinh tế, do thiếu các quy định cần thiết.
- Rủi ro về kinh tế liên quan đến sự vận động của nền kinh tế và chu kỳ kinh
doanh: lạm phát, thất nghiệp, suy thoái kinh tế, khủng hoảng…Ảnh hưởng của các
yếu tố này đến ngân hàng thường rất lớn.
- Rủi ro về điều chỉnh: nhằm thực hiện các chính sách vĩ mô, các nhà lãnh đạo
đưa ra các chính sách tiền tệ, lãi suất,… đôi khi gây thiệt hại cho ngân hàng.
Hồ Thị Kim Chi – Tài chính doanh nghiệp 46A
13
13
13
Khoá luận tốt nghiệp Hạn chế rủi ro tín dụng

+ Rủi ro môi trường cạnh tranh: một ngân hàng trong hoạt động kinh doanh
thường chịu tác động của khách hàng hoặc các đối thủ từ nhiều phía, từ đó luôn nhận
rất nhiều các tác động đầy rủi ro.
(2) Rủi ro đặc thù:
Rủi ro đặc thù luôn tồn tại trong lĩnh vực hoặc ngành nghề kinh doanh. Rủi ro
đặc thù là rủi ro do bản chất của ngành hay lĩnh vực kinh doanh đó tạo ra. Trong lĩnh
vực ngân hàng, rủi ro đặc thù thường bao gồm các yếu tố:
- Rủi ro về quản lý: Rủi ro này có thể bắt nguồn từ ban quản lý ngân hàng do
thiếu kiến thức, thiếu kinh nghiệm hoặc thiếu khả năng điều hành. Nó cũng có thể
xảy ra do sự yếu kém về năng lực hay đạo đức của nhân viên ngân hàng.
- Rủi ro cung cấp các dịch vụ tài chính hay rủi ro kinh doanh bao gồm: rủi ro
về hoạt động, rủi ro về sản phẩm, rủi ro về văn hóa, rủi ro về công nghệ, rủi ro đòn
cân nợ và rủi ro do thiếu nỗ lực nghiên cứu và phát triển.
- Rủi ro thích ứng vốn: nó thể hiện ngân hàng có quy mô vốn nhỏ thường ít
an toàn hơn ngân hàng có qui mô vốn lớn.
- Rủi ro tài sản thế chấp: tài sản thế chấp không đủ giá trị để bù đắp thiệt hại
cho ngân hàng…
Trên thực tế, các loại rủi ro cần được nghiên cứu trong mối liên hệ không thể
tách rời. Một loại rủi ro này có thể đưa tới một loại rủi ro khác, các loại rủi ro có mối
liên quan chặt chẽ với nhau trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại.
Ngày nay các loại rủi ro không chỉ xảy ra ở các lĩnh vực truyền thống như cho vay
hay đầu tư chứng khoán, mà còn có thể xảy ra trong đảm bảo tín dụng và các hoạt
động ngoại bảng khác. Việc nghiên cứu một cách tỉ mỉ khái niệm các loại rủi ro trong
hoạt động ngân hàng góp phần làm phong phú thêm lý luận kinh doanh và góp phần
áp dụng một cách có nhận thức khái niệm này trong thực tiễn hoạt động ngân hàng
khi thông qua quyết định trên thương trường. Thực ra không thể loại trừ tuyệt đối rủi
ro ra khỏi hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại, tuy nhiên có thể soạn
thảo những biện pháp nhằm hạn chế đến mức thấp nhất các rủi ro này.
Hồ Thị Kim Chi – Tài chính doanh nghiệp 46A
14

14
14
Khoá luận tốt nghiệp Hạn chế rủi ro tín dụng
Hoạt động ngân hàng là một trong những hoạt động kinh tế có nhiều rủi ro
hơn hết. Một hệ thống ngân hàng hoạt động tốt có thể làm giảm bớt tới mức tối thiểu
tất cả những khả năng rủi ro, ngoại trừ những “rủi ro vì tai họa: (như động đất…),
những đợt suy thoái lớn về kinh tế trên thế giới,…Việc nghiên cứu những rủi ro này
không thể tách rời với việc nghiên cứu luật lệ ngân hàng, vì mục đích chính của luật
lệ ngân hàng là bắt buộc các ngân hàng phải có thái độ thận trọng với các rủi ro. Dưới
đây là các loại rủi ro cơ bản của ngân hàng:
1.2.1.1. Rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra những tổn thất ngoài dự kiến cho ngân
hàng do khách hàng vay không trả đúng hạn, không trả, hoặc không trả đầy đủ vốn và
lãi.
Rủi ro tín dụng cũng được định nghĩa là khoản lỗ tiềm năng vốn có được tạo
ra khi cấp tín dụng cho một khách hàng.
Đây là rủi ro gắn liền với các hoạt động ngân hàng, cho vay bao giờ cũng bao
gồm rủi ro và xảy ra mất mát. Rủi ro tín dụng không giới hạn ở hoạt động cho vay,
mà còn bao gồm nhiều hoạt động mang tính chất tín dụng khác của ngân hàng như:
các hoạt động bảo lãnh, cam kết, chấp thuận tài trợ thương mại, cho vay ở thị trường
liên ngân hàng, …
1.2.1.2. Rủi ro lãi suất
Rủi ro lãi suất là khả năng xảy ra tổn thất cho ngân hàng khi lãi suất thay đổi
ngoài dự tính. Lãi suất ngân hàng (cả bên tài sản lẫn bên nguồn vốn) thường xuyên
biến động với các mức độ khác nhau có thể dẫn đến tổn thất. Rủi ro lãi suất có liên
quan chặt chẽ với rủi ro tín dụng.
Lãi suất cho vay của ngân hàng khác với lãi suất của các công cụ trên thị
trường tiền tệ, chẳng hạn như ngân khố phiếu và thương phiếu, ở chỗ là chúng được
đàm phán giữa người vay và ngân hàng hơn là được quyết định trong một thị trường
được tổ chức sẵn. Vì là kết quả của phương pháp xác định giá cả tín dụng được đàm

phán, các mức lãi suất cho vay của ngân hàng không đồng nhất. Chúng phản ánh cả
đặc tính cá biệt của khoản tín dụng lẫn cung cầu về tín dụng trên thị trường vốn và
Hồ Thị Kim Chi – Tài chính doanh nghiệp 46A
15
15
15
Khoá luận tốt nghiệp Hạn chế rủi ro tín dụng
tiền tệ. Lãi suất cũng thay đổi so với mức rủi ro tín dụng trên hàng loạt các yếu tố:
tiền cho vay, thời hạn, quy mô cho vay, chi phí thực hiện và giám sát khoản cho vay,
số dư tiền gửi của người vay và các chứng khoán. Hơn nữa, lãi suất còn bị ảnh hưởng
bởi phong tục tập quán, sự cạnh tranh giữa các ngân hàng và các nguồn vốn khác, lãi
suất khống chế tối đa và thái độ của các giám đốc ngân hàng và người vay, liên quan
đến các điều kiện kinh tế trong tương lai.
Lãi suất có thể cố định hoặc biến đổi. Lãi suất cố định là một lãi suất nguyên
như cũ suốt thời kỳ hợp đồng. Lãi suất biến đổi là một lãi suất có thể thay đổi suốt
thời hạn cho vay, tùy vào các thay đổi của lãi suất tham khảo được sử dụng cho hầu
hết những khoản cho vay có mức lãi biến đổi là lãi suất cơ bản, lãi suất áp dụng cho
vay kinh doanh. Mức lãi cơ bản tiếp tục là mốc tham khảo đối với hầu hết các khoản
cho vay kinh doanh qui mô nhỏ và vừa và thường được hiểu là mức lãi cho vay cơ
bản của một ngân hàng. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, nhiều khoản cho vay
kinh doanh lớn và ngắn hạn đã bị ghìm ở mức thị trường tiền tệ, mà nói chung thấp
hơn mức cơ bản. Sự thay đổi này xảy ra do sự cạnh tranh từ thị trường thương phiếu
và những người cho vay nước ngoài.
Rủi ro lãi suất ảnh hưởng đến tình hình ngân hàng theo hai cách. Cách thứ
nhất được biết rõ nhất và nghiên cứu nhiều nhất, là mối quan hệ trái ngược giữa lãi
suất – giá trị một tài sản tài chính. Nếu ta coi bảng cân đối ngân hàng như một bộ
chứng khoán tài chính, thì mỗi chứng khoán phản ứng khác nhau, thuận lợi hoặc bất
lợi đối với biến động về lãi suất. Cách thứ hai dẫn đến sự sai lệch lâu dài về thu nhập
của sử dụng vốn và chi phí của nguồn vốn trong tài khoản kết quả tài chính.
1.2.1.3. Rủi ro hối đoái

Rủi ro hối đoái là khả năng xảy ra những tổn thất ngoài dự kiến cho ngân
hàng khi tỷ giá hối đoái thay đổi vượt quá thay đổi dự tính. Trong cơ chế thị trường,
tỷ giá thường xuyên dao động. Sự thay đổi này cùng với trạng thái hối đoái của ngân
hàng tạo ra thu nhập thặng dư hoặc thâm hụt tạm thời. Tuy nhiên, có những thay đổi
tỷ giá ngoài dự kiến dẫn đến những tổn thất cho ngân hàng.
Hồ Thị Kim Chi – Tài chính doanh nghiệp 46A
16
16
16
Khoá luận tốt nghiệp Hạn chế rủi ro tín dụng
Một ngân hàng giao dịch ngoại hối, phải giới hạn việc tham gia vào các loại
tiền tệ khác nhau và thực hiện một khối lượng kinh doanh vừa đủ để các thiệt hại có
thể được bù đắp bằng các lợi tức. Hơn nữa, ngân hàng phải cảnh giác không chỉ với
những thay đổi về tỷ giá hối đoái, mà cả với các nguyên nhân của những thay đổi ấy
để có thể áp dụng các biện pháp giảm bớt rủi ro. Về các loại tiền tệ chủ yếu, các ngân
hàng hay các khách hàng có thể giảm bớt rủi ro với các giao dịch trong thị trường tỷ
giá hối đoái có kỳ hạn. Chúng ta sẽ thấy là rủi ro hối đoái và rủi ro lãi suất đan xen
với nhau vì trong một giao dịch hối đoái có kỳ hạn, giai đoạn đầu là bán ngoại tệ giao
ngay làm phát sinh rủi ro hối đoái và giai đoạn hai là đem đầu tư số nội tệ hay ngoại
tệ trên thị trường vốn làm phát sinh rủi ro lãi suất.
1.2.1.4. Rủi ro thanh khoản
Rủi ro thanh khoản là khả năng xảy ra tổn thất ngoài dự kiến cho ngân hàng
khi nhu cầu thanh khoản thực tế vượt quá (hoặc nhỏ hơn) khả năng thanh khoản dự
kiến làm gia tăng các chi phí để đáp ứng nhu cầu thanh khoản hoặc làm cho ngân
hàng mất khả năng thanh toán.
Sự an toàn của các ngân hàng vẫn luôn luôn là mối quan tâm với nhiều người,
từ các giới chức điều hành đến các nhà kinh doanh, các cổ đông ngân hàng và những
công dân của đất nước, vì những vụ phá sản ngân hàng có lẽ có ảnh hưởng bất lợi đối
với nền kinh tế hơn bất cứ vụ phá sản ở bất cứ loại hình doanh nghiệp nào khác.
Khả năng thanh toán của ngân hàng không phải là một đại lượng thống kê: nó

không được đánh giá một cách trực tiếp. Trái lại, người ta dễ dàng có thể hiểu được
những biến đổi của khả năng thanh toán của ngân hàng biểu hiện cái gì. Một ngân
hàng đều có một khả năng thanh toán càng nhiều hơn, nếu nó càng có nhiều tiền tệ
trung ương hơn, có nghĩa là số dư cao hơn trong tài khoản vãng lai ở ngân hàng trung
ương, hay là tài sản có của chúng đều dễ dàng chuyển sang tiền trung ương, cùng với
khả năng tăng vốn nhanh từ các nguồn khác nhau nhiều khiến nó có khả năng đáp
ứng các nghĩa vụ chi trả và các ràng buộc tài chính, theo một phương pháp thích hợp.
Nên giữ bao nhiêu thanh khoản, giữ nó dưới hình thức nào là mối quan tâm thường
xuyên của các nhà quản lý ngân hàng. Các ngân hàng phải tuân theo các yêu cầu dự
Hồ Thị Kim Chi – Tài chính doanh nghiệp 46A
17
17
17
Khoá luận tốt nghiệp Hạn chế rủi ro tín dụng
trữ bắt buộc, các ngân hàng cần thanh khoản để đáp ứng các nhu cầu tín dụng bất ngờ
và theo thời vụ những dao động về tiền gửi. Đa số các giao dịch này có thể từ tiền
gửi, thu nợ… Để định được một cách thích hợp nào đó của thanh khoản, người ta
phải so sánh số thanh khoản đang nắm giữ với các nhu cầu về thanh khoản cần đến.
Sự đánh giá về thanh khoản được đồng tình nhiều nhất xuất phát từ quan niệm cho
rằng, mức độ thanh khoản mà một ngân hàng riêng biệt nào đó cần đến tùy thuộc vào
lượng biến đổi xảy ra ở số dư tiền gửi và nhu cầu tín dụng trong một khoảng thời
gian nhất định được xác định.
1.2.1.5. Rủi ro hoạt động
Rủi ro hoạt động là loại rủi ro tổn thất tài sản xảy ra do hoạt động kém hiệu
quả, ví dụ như hệ thống thông tin không đầy đủ, hoạt động có vấn đề, có vi phạm
trong hệ thống kiểm soát nội bộ, có sự gian lận hay những thảm họa không lường
trước được.
1.2.2. Khái niệm về rủi ro tín dụng
Rủi ro trong hoạt động tín dụng là đặc trưng nhất và dễ xảy ra nhất và gây hậu
quả nặng nề nhất đối với hoạt động của ngân hàng. Sở dĩ như vậy vì hầu hết các ngân

hàng có dư nợ tín dụng chiếm quá nửa giá trị tổng tài sản và tạo ra từ ½ đến 2/3
nguồn thu của ngân hàng. Vì thế ở tất cả các nước, rủi ro tín dụng là vấn đề được đặc
biệt quan tâm không chỉ ở phạm vi các ngân hàng, mà cả trong toàn nền kinh tế. Các
ngân hàng luôn luôn tìm cực đại lợi nhuận qua việc tìm kiếm những lợi tức cao nhất
có thể có ở các món cho vay và chứng khoán, đồng thời cố gắng giảm thiểu rủi ro
liên quan đến các hoạt động cho vay, như: sàng lọc và giám sát khách hàng vay, thiết
lập mối quan hệ khách hàng lâu dài, qui định các mức tín dụng, vật thế chấp, số dư
bù và hạn chế tín dụng. Tuy nhiên, không một ngân hàng nào nghĩ được hết mọi sự
bất ngờ khi viết ra những qui định hạn chế vào một hợp đồng cho vay, sẽ luôn luôn
có những hoạt động rủi ro của người vay tiền, chưa có một qui định hạn chế nào loại
bỏ được chúng cả.
Rủi ro tín dụng xảy ra thường tạo cho ngân hàng những tổn thất về tài chính.
Những những thiệt hại về uy tín của ngân hàng, về mất lòng tin của xã hội là những
Hồ Thị Kim Chi – Tài chính doanh nghiệp 46A
18
18
18
Khoá luận tốt nghiệp Hạn chế rủi ro tín dụng
tồn thất còn lớn hơn rất nhiều lần. Rủi ro tín dụng giống như là “ngòi nổ” tự mình nó
sự phá hoại chỉ giới hạn trong phạm vi hẹp, nhưng khi có những chất kích nổ sự phá
hoại lan truyền và sự tàn phá khủng khiếp sẽ diễn ra. Rủi ro tín dụng lúc đó có thể là
đầu mối của những cuộc khủng hoảng tài chính hoặc khủng hoảng kinh tế - xã hội.
Rủi ro tín dụng luôn đứng vị trí đầu bảng được các ngân hàng quan tâm. Từ
xưa đến nay, rủi ro tín dụng luôn là mối quan tâm hàng đầu của các nhà ngân hàng
trên toàn thế giới. Tín dụng là hoạt động mang tính sơ khai, tính bản chất của ngân
hàng và là cơ sở chủ yếu để đánh giá chất lượng hoạt động ngân hàng. Hoạt động tín
dụng giữ một vai trò cực kỳ quan trọng đối với bất kỳ một ngân hàng nào. Nó xứng
đáng nhận được sự chú ý đặc biệt trong quản trị ngân hàng cũng như trong công tác
giám sát, điều chỉnh hoạt động ngân hàng của ngân hàng trung ương. Việc quản trị tín
dụng có ảnh hưởng rất lớn đến sự thành công hay thất bại của ngân hàng. Hoạt động

tín dụng đòi hỏi ngân hàng phải tìm mọi cách để kiểm soát được khả năng trả nợ của
khách hàng, ít nhất cũng là dự tính, phán đoán khả năng này. Không phải bao giờ dự
tính này cũng chính xác tuyệt đối và thời gian qua đi thì khả năng phán đoán lại càng
trở nên khó hơn.
1.2.3. Phân loại rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng được phân loại theo nhiều cách khác nhau tùy thuộc vào mục
đích nghiên cứu và mục đích quản lý. Đối với ngân hàng, việc phân loại có ý nghĩa
rất quan trọng trong việc thiết kế chính sách, quy trình, thủ tục và mô hình tổ chức
nhằm đảm bảo nhận biết đầy đủ các yếu tố làm phát sinh rủi ro và phân biệt trách
nhiệm rõ ràng giữa các bộ phận và giữa các khâu.
1.2.3.1. Theo đối tượng sử dụng
• Rủi ro khách hàng cá thể
• Rủi ro công ty/ tổ chức kinh tế
• Rủi ro quốc gia hay khu vực địa lý
1.2.3.2. Theo phạm vi
• Rủi ro đơn lẻ/giao dịch (được hiểu là rủi ro gắn với một giao dịch cụ
thể nào đó, như đối với một khoản vay của khách hàng. Loại rủi ro này
Hồ Thị Kim Chi – Tài chính doanh nghiệp 46A
19
19
19
Khoá luận tốt nghiệp Hạn chế rủi ro tín dụng
gắn liền và xuất phát chủ yếu do đặc điểm cá biệt của một khoản
vay/khách hàng).
• Rủi ro hệ thống (rủi ro gắn liền với một nhóm khách hàng, chẳng hạn
đối với một ngành, thậm chí cả một nền kinh tế. Loại rủi ro này mang
tính chất vĩ mô và liên quan đến việc quản lý danh mục tín dụng).
1.2.3.3. Theo giai đoạn phát sinh rủi ro
• Rủi ro trong thẩm định, tức là đánh giá sai khách hàng.
• Rủi ro khi cho vay, chẳng hạn như giải ngân sai mục đích làm cho

khoản vay không phát huy hiệu quả.
• Rủi ro trong khi quản lý, xử lý thu nợ.
1.2.3.4. Theo sản phẩm
• Rủi ro các sản phẩm nội bảng (cho vay, thấu chi)
• Rủi ro các sản phẩm ngoại bảng (chiết khấu, thư tín dụng, bảo lãnh).
1.2.3.5. Theo tính chất của rủi ro
• Rủi ro khách quan xảy ra do thiên tai, địch họa, người vay trốn chạy,
mất tích.
• Rủi ro chủ quan xảy ra do người vay hoặc người cho vay vô tình hoặc
cố ý làm cho thất thoát vốn vay.
1.2.3.6. Theo thời hạn khoản vay
• Rủi ro theo các khoản vay ngắn hạn
• Rủi ro theo các khoản vay trung dài dạn
1.2.4. Nguyên nhân của rủi ro tín dụng trong Ngân hàng thương mại
Các ngân hàng khi cho vay luôn phải đối mặt với rủi ro. Với khả năng cho
vay, các ngân hàng thương mại thúc đẩy quá trình đầu tư, sản xuất và lưu thông hàng
hóa, do đó góp một ý nghĩa quan trọng đối với nền kinh tế và đối với các doanh
nghiệp. Tuy nhiên, để xác định nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng cần tập trung vào
các nguyên nhân sau:
1.2.4.1. Các nhân tố khách quan
1.2.4.1.1. Nhân tố kinh tế
Hồ Thị Kim Chi – Tài chính doanh nghiệp 46A
20
20
20
Khoá luận tốt nghiệp Hạn chế rủi ro tín dụng
Môi trường kinh tế ảnh hưởng rất lớn đến sự thành công hay thất bại của các
ngân hàng. Sự biến động bất thường của một hoạt động kinh tế nào đó trong nền kinh
tế nói chung cũng đều ảnh hưởng đến việc sản xuất kinh doanh trong các lĩnh vực
còn lại. Bên cạnh đó, hoạt động của các ngân hàng thương mại có thể được coi là

chiếc cầu nối giữa các lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế. Bởi vậy, lạm phát cũng là
một vấn đề quan trọng mà các ngân hàng luôn phải cảnh giác vì người đi vay phải
vay một khoản lớn hơn cho mục đích của mình và chịu chi phí cũng lớn hơn. Trong
số các hoạt động của ngân hàng thì hoạt động tín dụng ngân hàng là hoạt động nhạy
cảm nhất đối với những biến động của nền kinh tế, do đó những biến động này sẽ tác
động mạnh mẽ tới hoạt động tín dụng của ngân hàng đối với các khách hàng. Khi nền
kinh tế ở trạng thái hưng thịnh, mọi hoạt động trong nền kinh tế diễn biến tích cực
như tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và ổn định, môi trường kinh doanh ít biến động
hấp dẫn nhà đầu tư thì nhu cầu vay vốn của doanh nghiệp tăng lên, do vậy tín dụng
ngân hàng có cơ hội phát triển, các khách hàng có điều kiện hoạt động kinh doanh tốt
thì các khoản vay được đảm bảo (nếu không gặp rủi ro khác). Ngược lại nếu nền kinh
tế đang trong tình trạng suy thoái, các doanh nghiệp có khuynh hướng co cụm trong
hoạt động sản xuất kinh doanh của mình thì tín dụng ngân hàng sẽ bị thu hẹp. Điều
đó đã ảnh hưởng mạnh mẽ tới hoạt động tín dụng của ngân hàng, rủi ro sẽ tăng lên.
1.2.4.1.2. Nhân tố xã hội
Các nhân tố xã hội như trật tự an ninh và an toàn xã hội, trình độ dân trí.... ảnh
hưởng trực tiếp tới các tác nhân chính tham gia vào quan hệ tín dụng ngân hàng là
ngân hàng và khách hàng. Quan hệ tín dụng ngân hàng dựa trên cơ sở tín nhiệm lẫn
nhau giữa ngân hàng và khách hàng, vì vậy uy tín có vai trò quan trọng trong quan hệ
này. Khách hàng hoạt động kinh doanh có hiệu quả, có uy tín với ngân hàng thì được
ưu đãi trong quan hệ tín dụng. Còn ngân hàng nào hoạt động an toàn, hiệu quả, nhanh
chóng đáp ứng được nhu cầu của khách hàng thì được khách hàng lựa chọn, tin cậy.
Niềm tin tưởng lẫn nhau trong quan hệ sẽ là cơ sở để mở rộng quan hệ của mình với
những đối tượng khác trong nền kinh tế. Bên cạnh đó, an ninh, an toàn xã hội, trình
độ dân trí ... có ảnh hưởng trực tiếp tới quan hệ tín dụng ngân hàng. Thực tế, nếu một
Hồ Thị Kim Chi – Tài chính doanh nghiệp 46A
21
21
21
Khoá luận tốt nghiệp Hạn chế rủi ro tín dụng

nơi nào đó mà an ninh trất tự không đảm bảo, an toàn xã hội kém, có nhiều trộm cắp
và các tệ nạn xã hội khác sẽ tạo tâm lý không an toàn cho các nhà đầu tư, và các nhà
đầu tư cũng sẽ không đầu tư vào nơi như vậy. Do đó nhu cầu vay vốn cũng hạn chế,
ảnh hưởng tới việc mở rộng tín dụng của ngân hàng. Ngược lại nơi nào có trật tự an
ninh tốt, ít trộm cướp và các tệ nạn xã hội sẽ an toàn cho hoạt động đầu tư. Điều đó
sẽ khuyến khích các chủ đầu tư mở rộng quy mô hoạt động của mình. Như vậy nhu
cầu tín dụng tăng lên và tín dụng ngân hàng có cơ hội phát triển
1.2.4.1.3. Nhân tố pháp lý
Môi trường pháp lý trong kinh doanh là tổng hợp các yếu tố pháp lý có tác
động đến hoạt động kinh doanh, bao gồm hệ thống pháp luật, hệ thống các biện pháp
đảm bảo cho pháp luật được thực thi và sự chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật của các
chủ thể tham gia hoạt động kinh doanh. Hoạt động tín dụng ngân hàng cũng vậy, phải
tuân theo quy định của ngân hàng Nhà nước, Luật các tổ chức tín dụng, Luật dân sự
và các quy định khác. Nếu các quy định của pháp luật không rõ ràng, không đồng bộ,
không kịp thời, không ổn định và có nhiều kẽ hở thì rất khó cho ngân hàng trong các
hoạt động nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng, bởi vì ngân hàng không có một
căn cứ pháp lý rõ ràng, đầy đủ và kịp thời để hoạt động. Điều này không đảm bảo sự
lành mạnh, hiệu quả và dễ gặp rủi ro. Ngược lại, một hành lang pháp lý vững chắc
bao gồm những văn bản pháp luật, những quy định rõ ràng đầy đủ, đồng bộ và ổn
định sẽ góp phần đẩy mạnh sự cạnh tranh lành mạnh giữa các ngân hàng trong hoạt
động tín dụng và đó cũng là cơ sở pháp lý để ngân hàng giải quyết các khiếu nại, tố
cáo khi có tranh chấp xảy ra trong hoạt động tín dụng. Điều đó sẽ giúp cho ngân hàng
mở rộng tín dụng một cách có hiệu quả cũng như hạn chế rủi ro tín dụng.
1.2.4.2. Các nhân tố chủ quan
1.2.4.2.1. Chính sách tín dụng:
Chính sách tín dụng được hiểu là đường lối, chủ trương, được thể hiện thông
qua văn bản, được hoàn thiện dần qua nhiều năm và là yếu tố căn bản, là nền tảng để
quản lí rủi ro tín dụng hiệu quả. Chính sách tín dụng phản ánh cương lĩnh tài trợ của
một ngân hàng, trở thành hướng dẫn chung cho cán bộ tín dụng và các nhân viên
Hồ Thị Kim Chi – Tài chính doanh nghiệp 46A

22
22
22
Khoá luận tốt nghiệp Hạn chế rủi ro tín dụng
ngân hàng, tăng cường chuyên môn hóa trong phân tích tín dụng, tạo sự thống nhất
chung trong hoạt động tín dụng nhằm hạn chế rủi ro tín dụng và nâng cao khả năng
sinh lời. Cụ thể, chính sách tín dụng đặt ra mục tiêu, tham số định hướng cho cán bộ
ngân hàng, những người làm công tác cho vay và quản lí danh mục đầu tư. Chính
sách tín dụng bao gồm các yếu tố hạn mức cho vay đối với khách hàng, các loại cho
vay được thực hiện, kỳ hạn của khoản tín dụng, sự đảm bảo và khả năng thanh toán
nợ của khách hàng, lãi suất cho vay và mức lệ phí, hướng giải quyết phần tín dụng
vượt giới hạn, các khoản vay có vấn đề... Việc hạn chế rủi ro tín dụng của ngân hàng
sẽ chịu tác động trực tiếp và mạnh mẽ từ những yếu tố này. Các yếu tố thuộc chính
sách tín dụng linh hoạt và đúng đắn, đáp ứng được nhu cầu của khách hàng về vốn sẽ
tạo điều kiện thuận lợi cho công tác quản lí rủi ro tín dụng. Các tổ chức tín dụng trên
thế giới đều coi một chính sách tín dụng được xây dựng đúng đắn là điều kiện thiết
yếu để quản lí tốt rủi ro tín dụng. Chính sách được hoạch định hợp lý và cẩn thận,
thông suốt từ trên xuống dưới sẽ tạo điều kiện cho ngân hàng duy trì tiêu chuẩn tín
dụng của mình, tránh rủi ro quá mức, đồng thời đánh giá đúng về cơ hội kinh doanh.
Tuy nhiên, các ngân hàng sẽ không thể đảm bảo an toàn về tín dụng nếu các yếu tố
của chính sách tín dụng cứng nhắc, không hợp lý, không đáp ứng được những nhu
cầu đa dạng về vốn của khách. Không chỉ thế, nếu các chính sách không ổn định, bị
thay đổi đột ngột, hay còn lỏng lẻo, chưa chú trọng đến phân tích khách hàng để tính
toán điều kiện và khả năng trả nợ hoặc phương pháp xem xét phân tích còn hạn chế,
chưa chính xác thì có thể gây ra những hậu quả rất nguy hiểm. Trong nền kinh tế thị
trường với sự cạnh tranh gay gắt giữa ngân hàng trong việc thu hút khách ngàng, một
chính sách tín dụng đúng đắn và linh hoạt đóng vai trò hết sức quan trọng.
1.2.4.2.2. Quy trình cấp tín dụng
Quy trình tín dụng là tập hợp những nghiệp vụ cơ bản và các bước trong quá
trình cho vay, thu nợ nhằm đảm bảo an toàn vốn tín dụng. Nó bao gồm các bước từ

khâu chuẩn bị cho vay, phát tiền vay, kiểm tra trong quá trình cho vay đến khi thu hồi
được nợ.
Hồ Thị Kim Chi – Tài chính doanh nghiệp 46A
23
23
23
Khoá luận tốt nghiệp Hạn chế rủi ro tín dụng
Trong quy trình tín dụng, bước chuẩn bị cho vay rất quan trọng (khách hàng
nhập hồ sơ xin vay vốn). Bao gồm 3 giai đoạn: khai thác và tìm kiếm thông tin về
khách hàng; hướng dẫn khách hàng về điều kiện tín dụng và lập hồ sơ vay vốn; phân
tích thẩm định khách hàng và dự án vay vốn, được khái quát thành bốn bước cụ thể
sau:
Sơ đồ 1: Quy trình cấp tín dụng của ngân hàng thương mại
Chất lượng tín dụng tùy thuộc nhiều vào chất lượng công tác thẩm định cũng
như các quy định về điều kiện và thủ tục cho vay của từng ngân hàng cụ thể. Kiểm
tra, giám sát quá trình sử dụng vốn vay giúp cho ngân hàng nắm bắt được tình hình
các khoản tín dụng đã được cấp cho khách hàng (có được sử dụng đúng mục đích hay
không) để có những biện pháp can thiệp kịp thời khi cần thiết, sớm ngăn ngừa hay
hạn chế được những rủi ro có thể xảy ra. Việc lựa chọn và áp dụng có hiệu quả các
hình thức kiểm tra sẽ thiết lập được một hệ thống phòng ngừa hữu hiệu, giảm thiểu
rủi ro tín dụng.
Khâu quyết định đến chất lượng tín dụng cũng như hạn chế rủi ro tín dụng là
thu hồi và giải quyết nợ. Sự nhanh nhạy của các cán bộ ngân hàng đối với việc phát
hiện kịp thời những biểu hiện bất lợi đối với khách hàng hay đề xuất những biện
pháp xử lí kịp thời và tư vấn cho khách hàng sẽ giảm thiểu được những rủi ro có thể
xảy ra (giảm thiểu được những khoản nợ quá hạn).
Công tác thông tin không tốt cũng đóng vai trò ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng.
Tuy nhiên, thông tin tín dụng nhanh nhạy, chính xác và toàn diện làm tăng khả năng
phòng ngừa rủi ro tín dụng. Thông tin tín dụng có thể thu thập được từ rất nhiều
nguồn khác nhau như trung tâm tín dụng của Ngân hàng Nhà nước (CIC), phòng

Quản lí thông tin tín dụng của chính các ngân hàng thương mại, từ báo chí, các
phương tiện truyền thông, các chuyên viên tư vấn, các cơ sở sản xuất kinh doanh của
khách hàng, hay qua các báo cáo tài chính của khách hàng.
Hồ Thị Kim Chi – Tài chính doanh nghiệp 46A
Quyết định
cấp tín dụng
Quản lí tín
dụng được cấp
Thẩm định
tín dụng
Lập hồ sơ xin
cấp tín dụng
24
24
24
Khoá luận tốt nghiệp Hạn chế rủi ro tín dụng
Quy trình tín dụng của ngân hàng thương mại linh hoạt, chủ động, thích hợp
với mỗi khách hàng khác nhau, thực hiện những bước trong quy trình tín dụng cho
phù hợp để bảo vệ được lợi ích của ngân hàng, của khách hàng và của toàn xã hội.
Có như vậy mới thu hút được nhiều khách hàng hơn và tăng được tính cạnh trạnh của
ngân hàng. Sự tôn trọng và sự kết hợp nhịp nhàng trong các bước trong quy trình tín
dụng sẽ giúp cho các ngân hàng phát hiện kịp thời các khuyết điểm, nắm được tình
hình của khoản tín dụng để có biện pháp can thiệp kịp thời, sớm ngăn ngừa hạn chế
rủi ro có thể xảy ra.
1.2.4.2.3. Thông tin tín dụng
Hoạt động tín dụng của các ngân hàng trong cơ chế thị trường luôn tiềm ần
những rủi ro. Một trong những nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng là
hệ thống thông tin tín dụng. Những thông tin tín dụng có chất lượng cao sẽ góp phần
giúp cho các nhà quản lí ngân hàng có thể đưa ra được các quyết định tín dụng đúng
đắn, quản trị rủi ro nói chung, rủi ro tín dụng nói riêng một cách hiệu quả. Những

thông tin về khách hàng cần được ngân hàng nắm bắt dựa trên các khía cạnh sau:
- Thông tin tài chính của khách hàng: tình hình tài chính, kết quả hoạt động
kinh doanh trong thời gian gần đây, , hiệu quả sản xuất kinh doanh của phương án,
công nợ, nhu cầu vốn hợp lý, khả năng trả nợ, giá trị tài sản thế chấp,…
- Thông tin gián tiếp như: thông tin về xu hướng phát triển và khả năng cạnh
tranh của ngành nghề trong nước cũng như ngoài nước, tình hình kinh tế xã hội.
- Thông tin phi tài chính, gồm có: năng lực quản lý, năng lực sản xuất kinh
doanh, uy tín, quan hệ xã hội....
Hệ thống thông tin tín dụng cần phải chính xác, kịp thời và đầy đủ. Bởi vậy
ngân hàng cần phải có nhiều thông tin khác nhau, không chỉ từ các tổ chức cho vay
mà còn từ các nguồn bên ngoài như các cơ quan thông tin tín dụng trong và ngoài
nước. Nguồn thông tin bên ngoài này có vai trò quan trọng trong việc đánh giá khách
hàng một cách toàn diện. Trên thực tế, những nguồn thông tin không chính xác đã
gây ra những khoản tín dụng bị rủi ro thất thoát, như trường hợp một khách hàng sử
dụng một tài sản để thế chấp đi vay vốn tại nhiều ngân hàng. Điều đó làm mất lòng
Hồ Thị Kim Chi – Tài chính doanh nghiệp 46A
25
25
25

×