Tải bản đầy đủ (.doc) (50 trang)

Giải pháp phát triển dịch vụ Logistics trong hệ thống phân phối hàng hóa ở nước ta

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (354.99 KB, 50 trang )

Giải pháp phát triển dịch vụ Logistics trong hệ thống phân phối hàng hóa ở nước ta
MỤC LỤC
Lê Mạnh Cường CQ490286
1
Giải pháp phát triển dịch vụ Logistics trong hệ thống phân phối hàng hóa ở nước ta
LỜI MỞ ĐẦU
Phân phối là một trong những hoạt động cơ bản và quan trọng của mỗi doanh
nghiệp khi tiến hành sản xuất kinh doanh. Trong nền kinh tế thị trường ngày nay các
công ty sử dụng nhiều trung gian phân phối thực hiện các chức năng khác nhau để
đảm bảo hiệu quả trong việc đưa sản phẩm của công ty đến tay người tiêu dùng sau
cùng. Vì thế, để một công ty hoạt động có hiệu quả thì ban lãnh đạo công ty phải tìm
mọi cách để quản lý tốt nhất hệ thống phân phối của mình, làm sao đảm bảo hệ thống
phân phối hoạt động hiệu quả nhất, luôn đưa được hàng hoá tới người tiêu dùng sau
cùng một cách thuận tiện nhất, đồng thời thoả mãn lợi ích của các thành viên trong
kênh phân phối tốt nhất.
Quyết định về phân phối trở thành một trong những quyết định quan trọng
nhất mà ban lãnh đạo công ty phải thông qua. Các kênh phân phối mà công ty lựa
chọn sẽ ảnh hưởng tới các quyết định khác trong chính sách marketing hỗn hợp của
công ty, ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. Vì thế
việc thường xuyên nghiên cứu, nắm rõ tình hình hoạt động của hệ thống phân phối là
hết sức cần thiết đối với bất cứ công ty nào.
Mục đích nghiên cứu của đề tài là đưa ra các giải pháp phát triển dịch vụ
logistics nhằm hoàn thiện mạng lưới phân phối hàng hóa ở nước ta hiện nay dựa trên
cơ sở thực trạng hệ thống phân phối trong quá trình phát triển của nền kinh tế nước
ta.
Đối tượng nghiên cứu là việc tìm ra các giải pháp phát triển dịch vụ logistics
trong hệ thống phân phối hàng hóa dựa trên phân tích thực trạng của hệ thống phân
phối hàng hóa nước ta hiện nay.
Kết cấu đề tài gồm ba chương:
Chương I: Tổng quan về dịch vụ logistics trong hệ thống phân phối hàng
hóa


Chương II: Thực trạng dịch vụ logistics trong hệ thống phân phối hàng
hóa ở nước ta hiện nay
Chương III: Giải pháp phát triển dịch vụ phân phối bán buôn, bán lẻ ở
Việt Nam
Đề án được hoàn thành vẫn còn nhiều thiếu sót do hạn chế về kinh nghiệm.
Em mong thầy chỉ bảo và giúp đỡ em để hoàn thành tốt đề tài này
Em xin chân thành cảm ơn GS.TS Đặng Đình Đào, giảng viên khoa Thương
mai và kinh tế quốc tế đã tận tình giúp đỡ em trong việc hoàn thiện đề tài này!
Hà Nội, tháng 10 năm 2010
Sinh viên
Lê Mạnh Cường
Lê Mạnh Cường CQ490286
3
Giải pháp phát triển dịch vụ Logistics trong hệ thống phân phối hàng hóa ở nước ta
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ DỊCH VỤ LOGISTICS TRONG
HỆ THỐNG PHÂN PHỐI HÀNG HÓA
I- Phân phối hàng hóa và đặc điểm dịch vụ logistics trong hệ thống
phân phối hàng hóa
1. Quan niệm chung về phân phối và hệ thống phân phối hàng hóa
1.1. Quan niệm về phân phối hàng hóa
Thuật ngữ phân phối, theo tiếng Anh được viết là distribution và tiếng Đức
được viết là die Verteilung, và được hiểu là việc phân phối hàng hóa từ người sản
xuất hoặc nhập khẩu tới người tiêu dùng thông qua các kênh phân phối, thông thường
là thông qua những người bán sỉ và những người bán lẻ.
Trong từ điển tiếng Việt, phân phối được định nghĩa là việc “(1). Phân chia
cho nhiều người, nhiều đơn vị, thường theo những nguyên tắc nhất định nào đó; (2).
Phân chia sản phẩm xã hội thành nhiều phần khác nhau theo những mục đích khác
nhau, là một khâu của quá trình tái sản xuất xã hội…”
Hiện nay, trong các giáo trình chuyên ngành kinh tế, thuật ngữ phân phối vẫn

còn có quan niệm khác nhau. Mặc dù vậy, nhưng tất cả đều có một số quan niệm
chung là:
- Nhấn mạnh đến vai trò của phân phối hàng hóa, đều coi phân phối hàng hóa
là nội dung quan trọng trong tổ chức hoạt động kinh doanh.
- Coi phân phối là hình thức vận động hàng hóa từ người sản xuất đến người
tiêu dùng hoặc người sử dụng cuối cùng, là các hình thức liên kết lỏng lẻo của các
công ty để cùng thực hiện một mục đích thương mại, là các hình thức bán buôn, bán
lẻ, bán đại lý …
- Hoạt động phân phối cơ bản bao gồm việc khởi tạo tổ chức nguồn hàng,
quản lý dự trữ, tổ chức và thiết kế kênh phân phối bán lẻ hay bán qua trung gian, vận
chuyển hàng hóa, quan hệ với các tổ chức, cá nhân bên ngoài doanh nghiệp.
Từ đó có thể hiểu: “Phân phối là hoạt động liên quan đến quá trình đưa sản
phẩm từ người sản xuất (người nhập khẩu) đến người sử dụng (tiêu dùng) cuối cùng”.
1.2 Quan niệm về hệ thống phân phối hàng hóa
Theo lý thuyết Macxit về thương mại (phân phối và lưu thông) được trình bày
trong nhiều tác phẩm, mà cơ sở lý luận của nó là lý luận về phân công lao động xã
hội, lý luận giá trị và lý luận giá trị thặng dư. Trong những tác phẩm đó, các nhà kinh
điển của Chủ nghĩa Mác-Lênin, đặt thương mại (mà trực tiếp là hệ thống phân phối
Lê Mạnh Cường CQ490286
4
Giải pháp phát triển dịch vụ Logistics trong hệ thống phân phối hàng hóa ở nước ta
hàng hóa) là một khâu trong tổng thể 4 khâu của quá trình tái sản xuất xã hội, là kết
quả tất yếu của phân công lao động xã hội. Quá trình tái sản xuất xã hội theo Mác bao
gồm các khâu: sản xuất- phân phối- trao đổi và tiêu dùng. Lý luận và thực tế cho thấy
các khâu của quá trình tái sản xuất xã hội, mỗi khâu có một vị trí nhất định song giữa
chúng có mối quan hệ hữu cơ với nhau. Trong đó, sản xuất là khâu xuất phát có vai
trò quyết định đối với các khâu tiếp theo. Tiêu dùng là khâu cuối cùng của quá trình
tái sản xuất xã hội. Tiêu dùng gắn với khách hàng, giữ vai trò là mục đích của sản
xuất. Còn phân phối, trao đổi là khâu trung gian nối liền sản xuất với tiêu dùng. Vì
vậy hàng hóa sau khi sản xuất ra muốn đến tay người tiêu dùng nhất thiết phải thông

qua một hệ thống hàng hóa hữu hiệu thì mới thực hiện được giá trị của hàng hóa và
mới có thể đảm bảo cho quá trình tái sản xuất xã hội được diễn ra liên tục.
Triết lý kinh doanh của nền kinh tế thị trường là sản phẩm sản xuất ra để bán
nhằm thu lợi nhuận. Do đó, phân phối như thế nào, bằng hình thức nào sao cho hiệu
quả nhất, chi phí ít nhất để có được lợi nhuận nhiều nhất là một trong những nội dung
quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp.
Theo Philip Kotler thì “hệ thống phân phối hàng hóa là tập hợp các tổ chức
phụ thuộc lẫn nhau, hỗ trợ việc chuyển nhượng quyền sở hữu một hàng hóa hay dịch
vụ nào đó, chuyển nó từ người sản xuất tới người tiêu dùng”.
Quan niệm của Stern & EL.Ansary: “hệ thống phân phối hàng hóa có thể xem
xét như những tập hợp các tổ chức phụ thuộc lẫn nhau liên quan tới quá trình tạo ra
sản phẩm hay dịch vụ hiện có để sử dụng hay tiêu dùng”.
GS.TS Đặng Đình Đào và GS.TS Hoàng Đức Thân (đồng chủ biên) của giáo
trình kinh tế thương mại -Trường Đại học kinh tế quốc dân -khi đề cập tới nội dung
cơ bản của thương mại cũng có quan niệm về hệ thống phân phối hàng hóa là: “Quá
trình tổ chức hợp lý các kênh phân phối và tổ chức chuyển giao hàng hóa, dịch vụ.
Đây là quá trình liên quan tới việc điều hành và vận chuyển hàng hóa, dịch vụ từ sản
xuất đến người sử dụng với những điều kiện hiệu quả tối đa. Quá trình này giải quyết
các vấn đề: thay đổi quyền sở hữu tài sản, di chuyển hàng hóa qua các khâu vận
chuyển, dự trữ, bảo quản, đóng gói, bốc dỡ, cung cấp thông tin thị trường nhà sản
xuất”. [Giáo trình kinh tế thương mại- nhà xuất bản thống kê 2003].
Trong quá trình Quản trị phân phối (kênh Marketting) của Trường Đại học
Kinh tế quốc dân, TS. Trương Đình Chiến cũng cho rằng: “Hệ thống phân phối hàng
hóa là tập hợp các quan hệ với các tổ chức, cá nhân bên ngoài doanh nghiệp để tổ
chức và quản lý các hoạt động tiêu thụ hàng hóa nhằm đạt được các mục tiêu của
Lê Mạnh Cường CQ490286
5
Giải pháp phát triển dịch vụ Logistics trong hệ thống phân phối hàng hóa ở nước ta
doanh nghiệp trên thị trường. Tham gia vào hệ thống hàng hóa thường có nhà sản
xuất (nhà nhập khẩu), trung gian bán buôn, trung gian bán lẻ, người tiêu dùng cuối

cùng và họ được gọi là các thành viên của hệ thống” [Quản trị kênh phân phối – nhà
xuất bản thống kê 2004].
Có thể nói trong nền kinh tế thị trường, các quan niệm trên thường nhấn mạnh
và đề cao vai trò của hệ thống phân phối hàng hóa đối với sự phát triển kinh tế - xã
hội nói chung và đối với hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp nói riêng. Với
cách đặt vấn đề như vậy, tôi quan niệm:
Hệ thống phân phối là một tập hợp các tổ chức, cá nhân, cơ sở vật chất kỹ
thuật tham gia vào quá trình đưa hàng hóa, dịch vụ từ người sản xuất (nhập khẩu)
đến người tiêu dùng; là quá trình tạo nguồn hàng, quản lý dự trữ, vận chuyển hàng
hóa, giao nhận và bán hàng hóa với chi phí thấp và tối đa hóa lợi nhuận.
2. Đặc điểm dịch vụ logistics trong hệ thống phân phối hàng hóa
Về bản chất, dịch vụ logistics trong hệ thống phân phối hàng hóa có những nét
rất khác biệt, khiến các nhà phân phối không thể bỏ qua. Những dặc điểm đó là:
- Là sản phẩm vô hình, chất lượng dịch vụ rất khó đánh giá, vì nó chịu nhiều
tác động như người bán, người mua và cả thời điểm mua bán dịch vụ ấy. Có những
sản phẩm là một quá trình thực hiện đồng thời rất nhiều khâu rất nhiều công việc. Ví
dụ như : logistics và dịch vụ logistics tron ghệ thống phân phối. Logistics là một quá
trình tối ưu hoá về vị trí và thời gian, vận chuyển và dự trữ nguồn tài nguyên từ điểm
đầu tiên của dây chuyền cung ứng cho tới tay người tiêu dùng cuối cùng, thông qua
hàng lọat các hoạt động kinh tế.
- Là sản phẩm vô hình, dịch vụ có sự khác biệt về chi phí so với các sản phẩm
vật chất. Nó là sản phẩm không thể cầm nắm được, không thể định mức được NVL
như đối với sản phẩm vật chất cho nên chi phí của nó cũng rất khác so với sản phẩm
vật chất thông thường.
- Dịch vụ không thể cất trữ trong kho, làm phần đệm điều chỉnh sự thay đổi
nhu cầu thị trường như các sản phẩm vật chất khác ... Do đặc điểm sản xuất và tiêu
dùng của sản phẩm dịch vụ phải diễn ra đồng thời, tức sản xuất được sản phẩm dịch
vụ nào sẽ tiêu thụ hết ngay nên đã nảy sinh thêm đặc điểm dịch vụ không thể cất trữ.
- Dịch vụ logistics là một hệ thống các hoạt động nhằm tối ưu hoá mọi công
việc, mọi thao tác từ khâu cung ứng , sản xuất, phân phối và tiêu dùng sản phẩm chứ

không phải chỉ là "kho" và "vận", "giao" và "nhận" như một số người lầm tưởng. Đây
là một chuỗi các dịch vụ chứ không phải là một dịch vụ đơn thuần.
Lê Mạnh Cường CQ490286
6
Giải pháp phát triển dịch vụ Logistics trong hệ thống phân phối hàng hóa ở nước ta
- Dịch vụ logistics hỗ trợ hoạt động phân phối của các doanh nghiệp: dịch vụ
logistics hỗ trợ toàn bộ quá trình hoạt động phân phối của doanh nghiệp từ cung ứng
các yếu tố đầu vào cho quá trình sản xuất cho tới phân phối các sản phẩm đầu ra,
ngay cả khi sản phẩm đã ra khỏi dây chuyền sản xuất của doanh nghiệp và đến tay
người tiêu dùng. Doanh nghiệp cung ứng có thể kết hợp bất cứ yếu tố nào của các
dịch vụ logistics với nhau hay tất cả các yếu tố logistics tuỳ theo yêu cầu của khách
hàng.
- Dịch vụ logistics trong hệ thống phân phối hàng hóa là sự phát triển cao,
hoàn chỉnh của dịch vụ vận tải giao nhận, vận tải giao nhận gắn liền và nằm trong
logistics.
Cùng với quá trình phát triển của mình, các dịch vụ logistics trong phân phối
đã làm đa dạng hóa khái niệm vận tải giao nhận truyền thống. Từ chỗ chỉ thay mặt
khách hàng để thực hiện các khâu rời rạc như nhận hàng, bao gói, bảo quản, vận
chuyển hàng hoá...cho đến cung cấp dịch vụ trọn gói. Từ chỗ đóng vai trò đại lý,
người uỷ thác trở thành một chủ thể chính trong các hoạt động vận tải giao nhận với
khách hàng, chịu trách nhiệm trước các nguồn luật điều chỉnh. Ngày nay, người giao
nhận vận tải trở thành người cung ứng dịch vụ thực hiện một loạt các nghiệp vụ,
quản lý một hệ thống đồng bộ từ giao nhận tới vận tải, cung ứng nguyên vật liệu
phục vụ sản xuất kinh doanh, bảo quản hàng hoá trong kho, phân phối hàng hoá đúng
nơi, đúng lúc, sử dụng thông tin điện tử để theo dõi kiểm tra...
Các dịch vụ logistics trong hệ thống phân phối hàng hóa là một chuỗi công
việc có tính chất liên hoàn, số lượng công việc nhiều, tính chất công việc phức tạp,
thời gian thực hiện kéo dài.
II-Các loại hình dịch vụ logistics trong hệ thống phân phối hàng hóa
(bán buôn, bán lẻ)

1. Sơ lược về logistics
Thuật ngữ logistics đã có từ khá lâu trong lịch sử.Lần đầu tiên logistics được
phát minh và ứng dụng không phải trong hoạt động thương mại mà là trong lĩnh vực
quân sự.Logistics được các quốc gia ứng dụng rất rộng rãi trong hai cuộc Đại chiến
thế giới để di chuyển lực lượng quân đội cùng các vũ khí có khối lượng lớn và đảm
bảo hậu cần cho lực lượng tham chiến.Sau khi chiến tranh thế giới kết thúc, các
chuyên gia logistics trong quân đội đã áp dụng các kỹ năng logistics của họ trong
hoạt động tái thiết kinh tế thời hậu chiến. Trải qua dòng chảy lịch sử, logistics ngày
càng được nghiên cứu và áp dụng sâu vào lĩnh vực kinh doanh.Có rất nhiều khái
Lê Mạnh Cường CQ490286
7
Giải pháp phát triển dịch vụ Logistics trong hệ thống phân phối hàng hóa ở nước ta
niệm khác nhau về logistics cũng như dịch vụ logistics được đưa ra bởi các tổ chức,
cá nhân nghiên cứu về lĩnh vực này.
Theo Hội đồng quản trị Logistics của Mỹ (CLM) thì "Quản trị logistics là quá
trình hoạch định, thực hiện và kiểm soát một cách hiệu quả chi phí lưu thông, dự trữ
nguyên vật liệu, hàng tồn kho trong quá trình sản xuất sản phẩm cùng dòng thông tin
tương ứng từ điểm xuất phát đầu tiên đến điểm tiêu dùng cuối cùng nhằm mục đích
đáp ứng yêu cầu của khách hàng".
Dưới góc độ quản trị chuỗi cung ứng, thì logistics là quá trình tối ưu hoá về vị
trí, lưu trữ và chu chuyển các tài nguyên/yếu tố đầu vào từ điểm xuất phát đầu tiên là
nhà cung cấp, qua nhà sản xuất, người bán buôn, bán lẻ, đến tay người tiêu dùng cuối
cùng, thông qua hàng loạt các hoạt động kinh tế (xem logistics and supply chain
management, tác giả Ma Shuo, tài liệu giảng dạy của World Maritime University,
1999).
Theo ông Nguyễn Hùng, Phó Tổng Giám Đốc Công ty Kho vận miền Nam
(Sotrans): Logistics là quá trình lập kế hoạch, thực hiện, kiểm soát một cách hiệu quả
những luồng lưu thông và khối lượng tồn kho của hàng hóa, dịch vụ và những thông
tin liên quan đến chúng.
Theo quan điểm "5 đúng" thì :"Logistics là quá trình cung cấp đúng sản phẩm

đến đúng vị trí, vào đúng thời điểm với điều kiện và chi phí phù hợp cho khách hàng tiêu
dùng sản phẩm".Còn theo giáo sư David Simchi-Levi (MIT, USD) thì hệ thống Logistics
là một nhóm các cách tiếp cận được sử dụng để liên kết các nhà cung cấp, nhà sản xuất,
kho, cửa hàng một cách hiệu quả để hàng hóa được sản xuất đúng số lượng, đúng địa
điểm và đúng thời điểm nhằm mục đích giảm thiểu chi phí trên toàn bộ hệ thống đồng
thời đáp ứng được các yêu cầu về mức độ phục vụ".
Theo luật Thương mại Việt Nam được Quốc hội thông qua ngày 14/6/2005 và
Nghị định 140/2007NĐ-CP của Chính phủ qui định chi tiết luật Thương mại về điều
kiện kinh doanh dịch vụ logistics có đưa ra khái niệm: Dịch vụ logistics là hoạt động
thương mại. Theo đó, thương nhân tổ chức thực hiện một hoặc nhiều công việc bao
gồm nhận hàng, vận chuyển, lưu kho, lưu bãi, làm thủ tục hải quan, các thủ tục giấy
tờ khác, tư vấn khách hàng, đóng gói bao bì, ghi kí mã hiệu, giao hàng hoặc các dịch
vụ khác có liên quan đến hàng hoá theo thoả thuận với khách hàng để hưởng thù lao
Lê Mạnh Cường CQ490286
8
Giải pháp phát triển dịch vụ Logistics trong hệ thống phân phối hàng hóa ở nước ta
Nguyên vật liệu
Phụ tùng
Máy móc, thiết
bị
Bán thành phẩm
Dịch vụ
Đầu vào khác
Cung ứng Quản lý vật tư
Phân phối

Dòng chu chuyển vận tải
Dòng thông tin lưu thông
Hình 1: Các hoạt động cơ bản của chuỗi dịch vụ logistics
Qua sơ đồ trên có thể thấy dịch vụ logistics là một chuỗi các dịch vụ xuyến

suốt từ quá trình sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm của các doanh nghiệp.
Qua các quan niệm ở trên có thể chia khái niệm dịch vụ logistics thành hai
nhóm như sau:
Thứ nhất, nhóm định nghĩa hẹp mà tiêu biểu là định nghĩa của Luật Thương
mại 2005, coi logistics gần tương tự với giao nhận hàng hoá. Tuy nhiên trong đó có
tính mở, thể hiện trong đoạn "hoặc các dịch vụ khác có liên quan đến hàng hoá".
Theo nhóm này, bản chất của dịch vụ logistics là việc tập hợp các yếu tố hỗ trợ cho
quá trình vận chuyển sản phẩm từ nơi sản xuất đến nơi tiêu thụ. Theo đó, dịch vụ
logistics mang nhiều yếu tố vận tải, người cung cấp dịch vụ logistics không có nhiều
khác biệt so với người cung cấp dịch vụ vận tải đa phương thức(MTO).
Thứ hai, nhóm định nghĩa dịch vụ logistics theo phạm vi rộng, có tác động từ
giai đoạn tiền sản xuất cho tới khi hàng hoá tới tay người tiêu dùng cuối cùng. Theo
nhóm định nghĩa này, dịch vụ logistics gắn liền cả quá trình nhập nguyên, nhiên vật
liệu làm đầu vào cho quá trình sản xuất, sản xuất ra hàng hoá và đưa vào các kênh
lưu thông, phân phối để tới tay người tiêu dùng cuối cùng. Nhóm định nghĩa này về
Lê Mạnh Cường CQ490286
Quá
trình
sản
xuất
(sản
xuất và
lắp ráp)
Đóng
gói
Kho
lưu
trữ
thành
phẩm

Bến
bãi
chứa
T.T
phân
phối
Khách hàng
9
Giải pháp phát triển dịch vụ Logistics trong hệ thống phân phối hàng hóa ở nước ta
dịch vụ logistics góp phần phân định rõ ràng giữa các nhà cung cấp từng dịch vụ đơn
lẻ như dịch vụ vận tải, giao nhận, khai thuê hải quan, phân phối, dịch vụ hỗ trợ sản
xuất, tư vấn quản lý...với một nhà cung cấp dịch vụ logistics chuyên nghiệp, người sẽ
đảm nhận toàn bộ các khâu trong quá trình hình thành và đưa hàng hoá tới tay người
tiêu dùng cuối cùng.Như vậy, nhà cung cấp dịch vụ logistics chuyên nghiệp đòi hỏi
phải có chuyên môn, nghiệp vụ vững vàng để cung cấp dịch vụ "trọn gói" cho các
nhà sản xuất. Đây là một công việc mang tính chuyên môn hoá cao. Ví dụ, khi một
nhà cung cấp dịch vụ logistics cho một nhà sản xuất thép, anh ta sẽ chịu trách nhiệm
cân đối sản lượng của nhà máy và lượng hàng tồn kho để nhập phôi thép, tư vấn cho
doanh nghiệp về chu trình sản xuất, kỹ năng quản lý và lập kênh phân phối, các
chương trình marketing, xúc tiến bán hàng để đưa sản phẩm đến với người tiêu dùng.
2. Các loại hình dịch vụ logistics trong hệ thống phân phối hàng hóa
Dịch vụ logistics bao gồm rất nhiều hoạt động, dựa trên các tiêu thức khác
nhau có thể phân hệ thống dịch vụ logistics như sau:
- Theo toàn bộ quá trình cung ứng dịch vụ logistics, các dịch vụ logistics bao
gồm:
+ Dịch vụ logistics đầu vào
+ Dịch vụ logistics đầu ra
+ Dịch vụ logistics ngược
- Mỗi loại hàng hoá có các dịch vụ logistics tương ứng:
+ Dịch vụ logistics cho hàng tiêu dùng có thời hạn sử dụng

ngắn:quần áo, giầy dép, thực phẩm...
+ Logistics cho ngành ôtô
+ Logistics cho ngành hoá chất
+ Logistics cho ngành điện tử.
+ Logistics cho ngành dầu khí...
- Theo nghị định số 140/2007/NĐ-CP của Chính phủ, dịch vụ logistics được
phân thành 3 nhóm:
+ Các dịch vụ logistics chủ yếu, bao gồm:
 Dịch vụ bốc xếp hàng hoá, bao gồm cả hoạt động bốc xếp container;
 Dịch vụ kho bãi và lưu giữ hàng hoá, bao gồm cả hoạt động kinh doanh
kho bãi container và kho xử lý nguyên liệu, thiết bị;
 Dịch vụ đại lý vận tải, bao gồm cả hoạt động đại lý làm thủ tục hải quan
và lập kế hoạch bốc dỡ hàng hoá.
Lê Mạnh Cường CQ490286
10
Giải pháp phát triển dịch vụ Logistics trong hệ thống phân phối hàng hóa ở nước ta
 Dịch vụ bổ trợ khác, bao gồm cả hoạt động tiếp nhận, lưu kho và quản lý
thông tin liên quan đến vận chuyển và lưu kho hàng hoá trong suốt cả chuỗi logistics;
hoạt động xử lý lại hàng hoá bị khách hàng trả lại, hàng hoá tồn kho, hàng hoá quá
hạn, lỗi mốt và tái phân phối hàng hoá đó; hoạt động cho thuê và thuê mua container.
+ Các dịch vụ logistics liên quan đến vận tải, bao gồm:
 Dịch vụ vận tải hàng hoá
 Dịch vụ vận tải thuỷ nội địa;
 Dịch vụ vận tải hàng không;
 Dịch vụ vận tải đường sắt;
 Dịch vụ vận tải đường bộ;
 Dịch vụ vận tải đường ống;
+ Các dịch vụ logistics liên quan khác, bao gồm:
 Dịch vụ kiểm tra và phân tích kỹ thuật;
 Dịch vụ bưu chính;

 Dịch vụ thương mại buôn bán;
 Dịch vụ thương mại bán lẻ, bao gồm cả hoạt động quản lý hàng lưu kho,
thu gom, tập hợp, phân loại hàng hoá, phân phối lại và giao hàng.
 Các dịch vụ hỗ trợ vận tải khác.
- Theo phạm vi hoạt động
 Dịch vụ logistics nội địa;
 Dịch vụ logistics quốc tế.
II- Các yếu tố tác động đến sự phát triển của dịch vụ logistics trong
phân phối hàng hóa
1. Yếu tố đặc thù
Vận tải giao nhận nội địa ở Việt Nam thời gian qua chủ yếu là đường sắt và
đường ôtô vì đường sắt và đường ôtô có cơ sở hạ tầng, hệ thống bến bãi tương đối
hoàn chỉnh. Hàng hoá vận chuyển nội địa chủ yếu là các mặt hàng thủ công mỹ nghệ,
nông sản, hàng rời, nguyên vật liệu cho sản xuất và xây dựng...nên xe thùng được sử
dụng phổ biến hơn cả. Các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ vận tải đều có đội xe để
tham gia vận tải nội địa, đồng thời để vận chuyển hàng hoá xuất nhập khẩu từ các
cảng, các sân bay về kho của khách hàng và ngược lại từ kho của khách hàng ra
cảng, sân bay để bắt đầu hành trình. Những năm qua, cơ sở hạ tầng giao thông vận tải
được cải thiện cho nên vận tải giao nhận hàng hoá bằng container nội địa cũng được
phát triển.Ngoài các đội xe chuyên dụng truyền thống thông thường, các doanh
Lê Mạnh Cường CQ490286
11
Giải pháp phát triển dịch vụ Logistics trong hệ thống phân phối hàng hóa ở nước ta
nghiệp đã trang bị xe chuyên dụng chở container từ Hải Phòng đi các tỉnh phía Bắc,
Đà Nẵng đi các tỉnh miền Trung và Sài Gòn đi các tỉnh đồng bằng Nam bộ. Ngoài
ôtô, ngành đường sắt cũng tổ chức chuyên chở hàng hoá học tuyến Bắc Nam tạo sự
liên kết chặt chẽ các địa phương, các vùng, các miền trong lưu thông hàng hoá và tích
cực tham gia chuyên chở hàng hoá xuất nhập khẩu. Từ chỗ chưa có toa xe chuyên
dụng chở container đến nay xe chuyên dụng của đường sắt đã đáp ứng yêu cầu vận
chuyển container của khách hàng trên toàn tuyến.

Về phân phối hàng hoá, các doanh nghiệp lớn có thế mạnh trong việc cung
ứng dịch vụ vận chuyển hàng hoá có khối lượng lớn, hàng theo kế hoạch, hàng siêu
trường, siêu trọng thì các doanh nghiệp nhỏ lại có lợi thế trong cung ứng dịch vụ vận
chuyển hàng thông thường như hàng bách hoá, hàng rời, hàng container có khối
lượng nhỏ và đặc biệt là thầu việc phân phối các sản phẩm từ nơi sản xuất đến nơi
tiêu thụ trong nội địa cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hoặc vận chuyển
máy móc, thiết bị, hàng công trình ra vào các cảng Việt Nam theo yêu cầu của khách
hàng.
2. Nhóm những nhân tố chung
2.1.Yếu tố chính trị, pháp luật
Trong kinh doanh hiện đai, các yếu tố chính trị, pháp luật ngày càng có ảnh
hưởng lớn đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Nền kinh tế thị trường có sự
điều tiết của Nhà nước hiện nay là nền kinh tế phổ biến trên thế giới. Khi tham gia
vào kinh doanh, để thành công trên thương trường thì các doanh nghiệp phải không
những nắm vững pháp luật trong nước mà còn phải hiểu và nắm vững pháp luật quốc
tế tại thị trường mà mình kinh doanh. Đồng thời với việc nắm vững luật pháp thì các
doanh nghiệp cũng phải chú ý tới môi trường chính trị. Chính trị có ổn định thì sẽ
giúp các doanh nghiệp chủ động hơn trong hoạt động kinh doanh của mình. Các yếu
tố cơ bản thuộc môi trường chính trị, pháp luật là:
- Sự ổn định về chính trị và đường lối ngoại giao.
- Sự cân bằng của các chính sách của Nhà nước.
- Quan điểm, mục tiêu, định hướng phát triển kinh tế xã hội.
- Hệ thống pháp luật và mức độ hoàn thiện của hệ thống pháp luật...
Trước năm 2005, luật pháp Việt Nam chưa hề có quy định về việc kinh doanh
dịch vụ logistics cũng như các hình thức dịch vụ logistics. Đến tận khi luật Thương
mại được Quốc hội thông qua ngày 14/6/2005 và nghị định 140/2007/NĐ-CP của
Lê Mạnh Cường CQ490286
12
Giải pháp phát triển dịch vụ Logistics trong hệ thống phân phối hàng hóa ở nước ta
Chính phủ mới có quy định chi tiết về các dịch vụ logistics và điều kiện kinh doanh

dịch vụ logistics.
Trước kia, các dịch vụ logistics mà chủ yếu là dịch vụ vận tải, giao nhận thì Nhà
nước nắm quyền chi phối.Gần đây, việc kinh doanh dịch vụ logistics được Nhà nước cho
phép mọi thành phần kinh tế đều có thể tham gia kinh doanh. Điều này tạo nên sự cạnh
tranh gay gắt trong ngành cung ứng dịch vụ logistics đồng thời cũng tạo nên sự đa dạng,
phong phú của các dịch vụ logistics, chất lượng dịch vụ cũng tốt hơn.
2.2.Yếu tố công nghệ
Trong thời đại khoa học-công nghệ phát triển như vũ bão, việc áp dụng các
tiến bộ này vào sản xuất kinh doanh làm cho hiệu quả ngày càng cao hơn. Các doanh
nghiệp cung ứng dịch vụ logistics nghiên cứu và áp dụng các tiến bộ khoa học công
nghệ không những cho chính doanh nghiệp mình mà còn nhằm thực hiện dịch vụ tư
vấn cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh. Sự phát triển của thương mại điện tử
đã đưa các doanh nghiệp tiên tiến đến việc ứng dụng thương mại điện tử vào hoạt
động kinh doanh của mình. Điều đó đã làm cho chất lượng dịch vụ logistics của các
doanh nghiệp cung ứng tăng lên rõ rệt và sẽ mang lại sức cạnh tranh cao cho các
doanh nghiệp có ứng dụng dịch vụ mới vào kinh doanh.
2.3.Yếu tố cơ sở hạ tầng và điều kiện tự nhiên
Đối với sự phát triển của các dịch vụ logistics thì yếu tố cơ sở hạ tầng và điều
kiện tự nhiên có ảnh hưởng rất lớn. Cơ sở hạ tầng bao gồm hệ thống giao thông vận
tải ( đường, phương tiện, bến bãi...), hệ thống thông tin, hệ thống bến cảng nhà kho,
điện nước...hệ thống cơ sở hạ tầng tốt là điều kiện thuận lợi cho phát triển dịch vụ
logistics, đặc biệt là dịch vụ vận tải. Điều kiện tự nhiên là yếu tố cần được các doanh
nghiệp kinh doanh dịch vụ logistics đặc biệt quan tâm. Bởi các yếu tố như nắng, mưa,
hạn hán, lụt, dịch bệnh...ảnh hưởng trực tiếp đến việc cung ứng dịch vụ, đặc biệt là
dịch vụ vận tải đường biển vì nếu điều kiện không thuận thì sẽ không thực hiện được
dịch vụ này, thậm chí còn gây thiệt hại lớn bởi rủi ro trong vận tải biển là rất cao. Bên
cạnh đó cũng phải kể đến ảnh hưởng của sự khan hiếm của các nguyên,nhiên vật liệu,
sự gia tăng của chi phí năng lượng...
2.4.Sự cạnh tranh trong ngành dịch vụ Logistics
Cạnh tranh trong ngành dịch vụ logistics càng gay gắt thì loại hình dịch vụ

logistics càng phong phú, chất lượng dịch vụ logistics càng được nâng cao. Khi đề
Lê Mạnh Cường CQ490286
13
Giải pháp phát triển dịch vụ Logistics trong hệ thống phân phối hàng hóa ở nước ta
cập đến vấn đề cạnh tranh, các doanh nghiệp cung ứng dịch vụ logistics phải xem xét
xem đối thủ của mình là ai, số lượng bao nhiêu, mức độ cạnh tranh thế nào. Trong
thời gian qua cùng với sự tăng trưởng mạnh mẽ của nền kinh tế trong nước là định
hướng mở cửa kinh doanh dịch vụ logistics. Số lượng các doanh nghiệp logistics
được mở ngày càng nhiều và dẫn đến cạnh tranh trong ngành ngày một gay gắt hơn
không chỉ các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ logistics trong nước mà còn có sự
góp mặt của nhiều doanh nghiệp logistics nước ngoài.
2.5. Yếu tố khách hàng
Khách hàng chiếm vị trí trung tâm trong mọi hoạt động kinh doanh của các
doanh nghiệp. Đối với các doanh nghiệp cung ứng dịch vụ logistics, để hoạt động có
hiệu quả thì các doanh nghiệp phải bán được hàng tức là phải có khách hàng thuê
dịch vụ logistics. Khách hàng của các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ logistics chủ
yếu là các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp này có nhu cầu sử dụng dịch vụ logistics
lớn thì ngành dịch vụ logistics mới phát triển được. Hiện nay không ít doanh nghiệp
tự mình thực hiện các hoạt động logistics mà không thuê dịch vụ ngoài. Vì vậy,
ngành dịch vụ logistics muốn phát triển thì phải cho các doanh nghiệp sản xuất kinh
doanh thấy được lợi ích to lớn của việc sử dụng dịch vụ logistics.
2.6. Hệ thống thông tin
Doanh nghiệp phải xây dựng hệ thống thu thập thông tin về các yếu tố thuộc
môi trường vĩ mô, khách hàng, đối thủ cạnh tranh, nguồn hàng...Đối với doanh
nghiệp kinh doanh dịch vụ logistics thì yếu tố thông tin là quan trọng.Thu thập được
thông tin thiết thực, kịp thời giúp doanh nghiệp nắm bắt được nhiều cơ hội tốt trong
kinh doanh. Cũng từ đó có các quyết định, các chính sách và chiến lược kinh doanh
thích hợp.
3. Kết luận
Như vây, qua nghiên cứu tổng thể các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển của

các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ logistics, chúng ta cũng thấy được ảnh hưởng
của các nhân tố này đến sự phát triển của các dịch vụ logistics. Các doanh nghiệp
kinh doanh dịch vụ logistics càng phát triển thì các dịch vụ logistics cũng ngày càng
phát triển.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG DỊCH VỤ LOGISTIC TRONG HỆ THỐNG PHÂN PHỐI
HÀNG HÓA Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
I- Hệ thống phân phối hàng hóa ở nước ta qua các thời kì phát triển
Lê Mạnh Cường CQ490286
14
Giải pháp phát triển dịch vụ Logistics trong hệ thống phân phối hàng hóa ở nước ta
Trong lịch sử phát triển thương mại ở các nước XHCN nói chung, trong đó có
Việt Nam cho đến nay, việc vận dụng khái niệm phân phối và hệ thống phân phối
hàng hóa trong nghành thương mại, dựa vào 2 tiêu thức trước và sau chuyển đổi mô
hình và cơ chế kinh tế có thể khái quát chia làm 2 thời kỳ khác nhau:
-Thời kỳ hệ thống phân phối hàng hóa gắn với cơ chế kế hoạch hóa tập trung
(ở nước ta tính từ trước năm 1986)
-Thời kỳ hệ thống phân phối hàng hóa gắn với cơ chế thị trường (ở nước ta
tính từ năm 1986 đến nay)
1. Hệ thống phân phối hàng hóa trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung (từ
năm 1945 tới năm 1986)
Trong thời kỳ này sự hình thành và phát triển hệ thống phân phối hàng hóa nước
ta, chịu ảnh hưởng bởi nhiều nguyên nhân: Do quá độ đi lên xã hội mới từ một nước
nông nghiệp lạc hậu, thuộc địa nửa phong kiến, nền kinh tế mang nặng tính tự cung tự
cấp, sản xuất hàng hóa mới phôi thai; lại chịu ảnh hưởng lâu dài bởi 2 cuộc chiến tranh
chống Đế quốc Pháp và Đế quốc Mỹ; và do nhận thức còn đơn giản về CNXH và con
đường đi lên CNXH nên đã vận dụng một cách máy móc mô hình và cơ chế vận hành
nền kinh tế theo kiểu của Liên Xô (trước đây), đó là mô hình kinh tế kế hoạch hóa chỉ
huy tập trung, quan liêu vận hành theo cơ chế bao cấp.
Hệ thống phân phối hàng hóa của thương mại trong thời kỳ này gắn với những

đặc trưng chủ yếu sau đây:
Thứ nhất: nhà nước quản lý hệ thống phân phối hàng hóa (mà thực chất là
phân phối hiện vật) bằng mệnh lệnh hành chính là chủ yếu gắn với hệ thống chỉ tiêu
pháp lệnh chi tiết dội từ trên xuống dưới. Do đó hoạt động phân phối hàng hóa của
các doanh nghiệp chủ yếu dựa vào các chỉ tiêu pháp lệnh hoặc là các quyết định của
cơ quan quản lý nhà nước cấp trên từ phương hướng sản xuất, nguồn vật tư, đến địa
chỉ phân phối, địa chỉ tiêu thụ sản phẩm, đến việc xác định giá cả, và cả đến việc sắp
xếp tổ chức bộ máy.
Thứ hai: các cơ quan hành chính kinh tế can thiệp quá sâu vào hệ thống phân
phối, nhưng lại không chịu trách nhiệm về vật chất đối với các quyết định không
đúng của mình. Với cách làm đó, nhà nước đã vi phạm yêu cầu của các quy luật kinh
tế khách quan vi phạm quyền tự chủ của các doanh nghiệp đang thực thi chức năng
phân phối lưu thông, gây ra những thiệt hại buộc ngân sách nhà nước phải gánh chịu.
Thứ ba: Trong mô hình và cơ chế kế hoạch hóa chỉ huy tập trung quan liêu bao
cấp, các phạm trù kinh tế và các quy luật kinh tế của kinh tế tập trung hầu như bị lãng
Lê Mạnh Cường CQ490286
15
Giải pháp phát triển dịch vụ Logistics trong hệ thống phân phối hàng hóa ở nước ta
quên. Chính nó đã làm cho hệ thống phân phối hàng hóa bị biến dạng, sự vận động của
hệ thống phân phối hàng hóa ngày càng xa rời bản chất đích thực vốn có của quan hệ
hàng hóa – tiền tệ, làm mất đi tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của doanh nghiệp đưa nền
kinh tế chìm sâu trong chế độ bao cấp, trong cơ chế ”xin cho” và cơ chế “lãi nộp nhà
nước, lỗ nhà nước chịu” kéo dài. Điều kiện này biểu hiện:
-Bao cấp qua giá là hình thức mang tính phổ biến và nghiêm trọng nhất đối
với hệ thống phân phối hàng hóa vật tư, máy móc thiết bị.
-Bao cấp qua tiền lương, biến tiền lương thành tiền lương hiện vật, làm phá vỡ
nguyên tắc phân phối theo lao động, vi phạm quy luật giá trị bởi việc thiết lập một hệ
thống qua phân phối hàng hóa với giá quá thấp so với giá trị của nó được thực hiện
dưới hình thức tem phiếu đối với hàng tiêu dùng.
-Bao cấp qua chế độ cấp phát vốn từ ngân sách nhà nước theo cơ chế “xin cho”,

mà không có sự ràng buộc trách nhiệm về vật chất trong việc bảo tồn và sinh lợi của vốn
đối với người được cấp vốn. Nó cũng gây ra hệ lụy về sự hàm ơn và đặc quyền đối với
những người có quyền cấp vốn và tất yếu nảy sinh cái gọi là “có đi có lại” hay “lại quả”,
một hiện tượng tiêu cực làm thiệt hại tới vốn ngân sách, làm hư hỏng một bộ phận cán
bộ, nhất là những người có chức quyền của cả 2 bên “xin và cho”.
Thứ tư: Làm cho bộ máy quản lý nói chung và bộ máy quản lý của hệ thống
phân phối hàng hóa trong ngành thương mại nói riêng cồng kềnh, nhiều tầng nấc,
nhiều cấp trung gian, từ đó tạo ra đội ngũ cán bộ kém năng lực quản lý, mang trong
lòng họ phong cách quan liêu, cửa quyền. Một đội ngũ như vậy họ sẽ ngỡ ngàng hẫng
hụt và trở thành lực cản khi hệ thống phân phối hàng hóa chuyển sang hệ thống hàng
hóa theo cơ chế thị trường.
Tóm lại, hệ thống phân phối hàng hóa ngành thương mại trong thời kỳ này chỉ
thích ứng với nền thương mại gắn với chiến tranh, gắn với nền kinh tế phát triển theo
chiều rộng, và gắn với trình độ thấp kém của sản xuất hàng hóa khi trạng thái cung
luôn luôn nhỏ hơn cầu trên thị trường, chính nó làm cho hệ thống phân phối hàng hóa
bị xơ cứng, kém năng động và hầu như không có hiệu quả kinh tế nếu có cũng chỉ là
hình thức – vì “lãi giả, lỗ thật”. Do vậy, khi mô hình và cơ chế vận hành nền kinh tế
nước ta chuyển sang nền kinh tế kế hoạch hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ
chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN, và Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ IX khái quát gọi là thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN,
thì hệ thống phân phối hàng hóa nghành thương mại nước ta cũng chuyển đổi sang hệ
Lê Mạnh Cường CQ490286
16
Giải pháp phát triển dịch vụ Logistics trong hệ thống phân phối hàng hóa ở nước ta
thống phân phối hàng hóa theo cơ chế thị trường, tất nhiên có sự quản lý vĩ mô của
nhà nước theo định hướng XHCN.
2. Hệ thống phân phối hàng hóa trong cơ chế kinh tế thị trường (từ 1986
tới nay)
Để đánh giá khách quan hệ thống phân phối hàng hóa trong thời kỳ này, trước
hết cần tiếp cận cơ chế vận hành của nền kinh tế thị trường, với tính cách là môi

trường mà ở đó hệ thống phân phối hàng hóa ngành thương mại hoạt động.
2.1. Một số vấn đề cơ bản về cơ chế kinh tế vận hành của nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN – cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước XHCN
2.1.1. Cơ chế thị trường
• Khái niệm: cơ chế thị trường là kiểu điều tiết sự vận hành nền kinh tế mà
trong đó các nhà sản xuất, nhà kinh doanh và các hộ tác động qua lại với nhau để giải
quyết các vấn đề cơ bản của nền kinh tế đặt ra.
Cơ chế thị trường phát sinh và phát triển cùng với sự hình thành và phát triển
của kinh tế thị trường. Do vậy, ở đâu có sản xuất và trao đổi hàng hóa thì ở đó có thị
trường và theo đó có cơ chế thị trường. Tổng quan các khái niệm của nhiều sách,
nhiều tác giả, luận văn cho rằng có thể hiểu cơ chế thị trường là tổng thể các yếu tố
tác động giữa các chủ thể tham gia mua bán trong nền kinh tế thị trường, chịu sự chi
phối bởi các quy luật kinh tế vốn có của kinh tế thị trường, để tự điều tiết mối quan
hệ cung cầu thông qua việc phân phối hàng hóa, dịch vụ từ nơi sản xuất tới người tiêu
dùng trong nền kinh tế thị trường.
• Cơ chế thị trường cấu thành bởi các yếu tố như cung, cầu, cạnh tranh và
giá cả thị trường tác động tới hoạt động kinh doanh thương mại, đến hệ thống phân
phối hàng hóa. Dưới đây là các yếu tố và tác động của nó:
Một là, cạnh tranh, một yếu tố cơ bản, một nguyên tắc, một quy luật kinh tế của
kinh tế thị trường. Cạnh tranh mà sự tác động của nó mang tính 2 mặt: động lực thúc
đẩy lực lượng sản xuất, khoa học kỹ thuật nghệ phát triển, đây là mặt mang tính trội
thể hiện một sự cạnh tranh lành mạnh và chỉ có sự cạnh tranh lành mạnh – một sự cạnh
tranh đúng pháp luật, hiệu quả và thẩm định tính nhân văn – mới là động lực, một sự
cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN cần coi trọng.
Hai là, giá cả thị trường, tín hiệu của cơ chế thị trường. Giá cả thị trường lấy
giá trị thị trường (của một ngành) làm cơ sở, đồng thời có tính đến giá cả sản xuất tức
giá trị thị trường liên ngành – vì giá cả thị trường đầu ra của ngành này là giá cả thị
trường đầu vào của ngành kia. Ví dụ: giá xăng dầu, giá điện cao hay thấp liên quan
Lê Mạnh Cường CQ490286
17

Giải pháp phát triển dịch vụ Logistics trong hệ thống phân phối hàng hóa ở nước ta
tới giá thành của các loại hàng hóa khác, liên quan tới sức mua của người tiêu dùng
và tất nhiên là liên quan tới cả doanh thu và hiệu quả hoạt động của hệ thống phân
phối hàng hóa.
Ba là, giá cả thị trường chịu sự tác động thường xuyên của 2 trạng thái cung
lớn hơn cầu hay cung nhỏ hơn cầu, hai trạng thái này mà sư tác động của nó đều liên
quan đến đầu ra và đầu vào của nhà sản xuất. Vì vậy thì như Mác nói, nếu cung cầu
ảnh hưởng tới giá cả thị trường, thì giá cả thị trường cũng ảnh hường ngược lại đến
cung cầu, do đó ảnh hưởng đến hệ thống phân phối hàng hóa.
Khi đó, bản chất của cơ chế thị trường và sự vận động của các yếu tố cấu
thành cơ chế thị trường, theo Mác chúng chịu sự chi phối của các quy luật kinh tế thị
trường đó là quy luật giá trị, quy luật lưu thông tiền tệ, quy luật cạnh tranh và quy
luật cung cầu. Bởi vậy, muốn nhận thức một cách sâu sắc sự tác động của các yếu tố
cấu thành cơ chế thị trường đối với hoạt động thương mại nói chung và hệ thống
phân phối hàng hóa nói riêng, nếu là các chủ thể kinh tế không nắm bắt và vận dụng
tốt các quy luật kinh tế thị trường trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở
nước ta.
2.1.2. Vai trò điều tiết, quản lý vĩ mô của nhà nước đối với nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN
• Cơ chế thị trường không phải là hiện thân của sự hoàn hảo, bên cạnh mặt
tích cực là chủ yếu, vẫn còn đâu có nhiều khuyết tật, do đó cần phải có vai trò điều
tiết, quản lý của nhà nước. Trong lịch sử bất cứ nhà nước nào cũng có vai trò kinh tế,
nhưng chỉ đến khi nền kinh tế hỗn hợp hay nền kinh tế thị trường hiện đại xuất hiện
thì sự điều tiết, quản lý cơ chế thị trường của nhà nước mới trở nên tất yếu khách
quan.
• Vai trò điều tiết, quản lý của nhà nước XHCN đối với nền kinh tế thị trường
nói chung thông qua các nội dung sau:
- Nhà nước điều tiết, quản lý nền kinh tế không phải bằng mệnh lệnh, trực tiếp
nếu như cơ chế cũ – cơ chế kế hoạch hóa tập trung bao cấp trước đây, mà thông qua
hệ thống mục tiêu kinh tế xã hội vĩ mô mang tính định hướng hay hướng dẫn.

- Nhà nước thực thi vai trò điều tiết nền kinh tế thông qua các chức năng như:
định hướng sự phát triển; vạch hành lang pháp lý; tạo môi trường kinh tế, chính trị,
xã hội thuận lợi cho các doanh nghiệp phát huy tính tự chủ trong sản xuất kinh
doanh; thực hiện chức năng công bằng xã hội.
Lê Mạnh Cường CQ490286
18
Giải pháp phát triển dịch vụ Logistics trong hệ thống phân phối hàng hóa ở nước ta
- Nhà nước thực hiện mục tiêu và chức năng của mình không phải bằng các
công cụ mang tính mệnh lệnh như cơ chế cũ, mà bằng các công cụ kinh tế vĩ mô như:
kế hoạch hóa, luật pháp, chính sách và cơ chế kinh tế, chính sách xã hội và thực lực
kinh tế của nhà nước trên cơ sở vận dụng các quy luật kinh tế khách quan.
Bằng những nội dung trên, nhà nước XHCN điều tiết, quản lý vĩ mô nền kinh
tế nói chung và các doanh nghiệp nói riêng phát triển theo mô hình kinh tế thị trường
định hướng XHCN trong từng thời kỳ ở nước ta.
2.2. Những đặc trưng của hệ thống phân phối hàng hóa ngành thương mại
trong thời kỳ cơ chế thị trường ở nước ta
Có thể nói hệ thống phân phối hàng hóa của ngành thương mại trong thời kỳ
này khác về cơ bản so với thời kỳ nền kinh tế vận hành theo cơ chế kế hoạch hóa tập
trung quan liêu bao cấp. Điều đó biểu hiện ở các đặc trưng sau:
• Chuyển hệ thống phân phối hàng hóa từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan
liêu bao cấp sang hệ thống phân phối hàng hóa dựa trên việc mua bán hàng hóa theo
cơ chế thị trường, giá cả thị trường được hình thành trên cơ sở giá trị thị trường và
quan hệ cung cầu. Hệ thống phân phối hàng hóa thời kỳ này đã chịu sự chi phối, tác
động theo quỹ đạo của các quy luật kinh tế thị trường, nên có tiêu chuẩn khách quan
để đánh giá kết quả hoạt động đúng đắn và khách quan hệ thống phân phối hàng hoá
trong các doanh nghiệp thương mại.
• Trạng thái chia cắt khép kín theo địa giới hành chính, mang nặng tính tự cấp
tự túc của hệ thống phân phối hàng hóa trước đây đã chuyển sang trạng thái mới,
trạng thái mà ở đó hệ thống phân phối hàng hóa dựa trên nguyên tắc tự do kinh tế (tự
chủ, tự do kinh doanh, tự do cạnh tranh, tự do lưu thông) và mở cửa theo các quy luật

của kinh tế thị trường và theo pháp luật. Hệ thống phân phối hàng hóa mới này đã tạo
ra bước ngoặt cho ngành thương mại nước ta nhanh chóng hình thành thị trường
thống nhất, tạo điều kiện nối liền thị trường nước ta với thị trường khu vực và thế
giới, góp phần toàn cầu hóa, khu vực hóa hiện nay.
• Nếu hệ thống phân phối hàng hóa trước đây chỉ do các doanh nghiệp nhà
nước và tập thể tiến hành, thì hệ thống phân phối hàng hóa thời kỳ này lại dựa trên cơ
cấu nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần kinh tế, trong đó ngành kinh tế nhà nước
giữ vai trò chủ đạo, mà nòng cốt là các doanh nghiệp thương mại nhà nước. Chính sự
hình thành và phát triển của hệ thống phân phối hàng hóa này có tác dụng to lớn giải
phóng lực lượng sản xuất, khơi dậy, khai thác và phát huy các nguồn lực của nền
Lê Mạnh Cường CQ490286
19
Giải pháp phát triển dịch vụ Logistics trong hệ thống phân phối hàng hóa ở nước ta
kinh tế cho phép thay đổi quan hệ cung cầu hàng hóa theo hướng có lợi cho sản xuất
và tiêu dùng, tăng công ăn việc làm, tăng thu nhập, tăng cầu và thúc đẩy tăng cung,
thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước
• Nhà nước điều tiết, quản lý hệ thống phân phối hàng hóa trong thời kỳ này
khác về cơ bản so với thời kỳ trước đổi mới. Nhà nước điều tiết, quản lý hệ thống
phân phối hàng hóa đối với ngành thương mại trên cơ sở các quy luật của kinh tế thị
trường và tôn trọng quyền tự chủ của các doanh nghiệp thương mại; không điều tiết
bằng các chỉ tiêu mệnh lệnh, phương pháp quản lý hành chính mệnh lệnh mà bằng hệ
thống chỉ tiêu định hướng, bằng phương pháp quản lý hành chính kinh tế, bằng luật
pháp, chính sách, cơ chế kinh tế vĩ mô và bằng lực lượng kinh tế vật chất của nhà
nước. Với cách điều tiết này, làm cho các doanh nghiệp thương mại trong tất cả các
thành phần kinh tế sẽ phát huy tính tự chủ không ỷ lại, năng động, sáng tạo trong việc
tạo dựng và phát triển hệ thống phân phối hàng hóa, có khả năng cạnh tranh, có hiệu
quả không những cạnh tranh thắng lợi trên “sân nhà” mà còn có thể thắng lợi trên thị
trường khu vực và thế giới.
II- Thực trạng dịch vụ Logistics trong phân phối bán buôn (bán lẻ) từ
năm 2001 tới nay

1. Giai đoạn 2001-2005
Đây là thời kỳ hoạt động giao nhận kho vận, đặc biệt là giao nhận vận tải quốc
tế đã có những bước chuyển biến đáng kể, gần như các công ty nhà nước chiếm ưu
thế và làm đại lý cho các công ty giao nhận vận tải có quy mô toàn cầu nước ngoài.
Tuy vậy, khối lượng thuê ngoài dịch vụ giao nhận kho vận chỉ ở mức 25%, phần còn
lại các doanh nghiệp chủ hàng tự tổ chức đầu tư phương tiện hoặc tự làm.
Là một ngành kinh doanh còn mới mẻ trong phân phối hàng hóa, khó cạnh
tranh bình đẳng với các công ty nước ngoài nên ngành giao nhận kho nói chung và
giao nhận trong phân phối bán buôn bán lẻ nói riêng được nhà nước bảo hộ và
khuyến khích phát triển. Cùng với hệ thống 9.063 chợ truyền thống đang hoạt động,
các loại hình phân phối hàng hóa hiện đại theo mô hình của các nước tiên tiến (gồm
cả siêu thị, cửa hàng bách hóa, cửa hàng tiện dụng, trung tâm thương mại …) đã cải
cách mạnh mẽ hệ thống phân phối hàng hóa ở Việt Nam.
Nếu cuối năm 2000, tại Việt Nam mới chỉ có gần 50 siêu thị và trung tâm
thương mại nằm ở một vài tỉnh, thành phố thì sau 5 năm con số này đã tăng lên gần
200, đang hoạt động tại 25/64 tỉnh, thành phố và có khoảng 600 cửa hàng bán hàng
Lê Mạnh Cường CQ490286
20
Giải pháp phát triển dịch vụ Logistics trong hệ thống phân phối hàng hóa ở nước ta
theo phương thức tự chọn. Đó là chưa kể cả nước đang có khoảng 20 siêu thị và 35
trung tâm thương mại đang triển khai xây dựng.
Phương thức kinh doanh của các doanh nghiệp cũng hiện đại và chủ động
hơn, đó là tự xây dựng chiến lược đầu tư lâu dài cho sản xuất, tạo nguồn hàng ổn
định mang tính cạnh tranh cao. Do vậy, chỉ sau 5 năm hình thành và phát triển, loại
hình phân phối hàng hóa hiện đại đã làm một cuộc hành trình đảo ngược, từ 60%
hàng nhập khẩu trong thời gian đầu, đến nay đã giảm xuống chỉ còn khoảng 30%,
thậm chí ở một số ngành hàng, hàng VN đã chiếm tới 85%.
Bình quân mỗi hệ thống siêu thị có 2.000-3.000 nhà cung cấp hàng hóa là các
doanh nghiệp, cơ sở sản xuất trong nước. Siêu thị đang trở thành kênh quảng bá
thương hiệu quan trọng cho hàng Việt Nam và là một trong những mục tiêu mà nhiều

DN nhắm tới.
Ngay trong thời điểm này, các phòng ban của Saigon Co.op (Liên hiệp hợp tác
xã Thương mại TPHCM) đang tất bật với rất nhiều dự án từ xây dựng các siêu thị
mới đến việc tìm các đối tác làm đại lý phân phối hàng hóa, rồi liên kết với Tổng
Công ty Thương mại Sài Gòn (Satra) để hình thành chuỗi siêu thị thương hiệu mạnh
Co.opMart – Satra với tham vọng trở thành tập đoàn phân phối hùng mạnh nhất nhì
trong cả nước vào năm 2010.
Bên cạnh Saigon Co.op, trên thị trường đã xuất hiện một vài nhà phân phối
bán buôn tổng hợp do tư nhân đầu tư. Điển hình là Công ty TNHH Phú Thái với
chiến lược phát triển thành một tập đoàn phân phối hàng đầu tại VN vào năm 2007.
Công ty Cà phê Trung Nguyên cũng đang lập hệ thống phân phối sỉ và lẻ với thương
hiệu G7Mart để từng bước hướng tới hình thành một tập đoàn phân phối mạnh trên
cả nước.
Cơ cấu hàng chỉ định (nominated) và không chỉ định trong vận tải ngoại
thương mất cân đối trầm trọng bắt nguồn từ tập quán mua CÌ bán FOB, điều này dẫn
đến các doanh nghiệp Việ Nam chỉ khai thác vận tải và bảo hiểm được từ 10 đến
18% lượng hàng hóa xuất nhập khẩu.
2. Giai đoạn 2006-2010
Đây là giai đoạn mà thị trường dịch vụ logistics phát triển và chuyển biến
mạnh mẽ hơn với khoảng 1200 doanh nghiệp lớn và nhỏ hoạt động dịch vụ logistics,
số vốn vay và tay nghề hạn chế. Đối trọng là các công ty đa quốc gia có bề dày kinh
nghiệm, kỹ thuật, công nghệ và uy tín cả trăm năm. Rõ ràng, :miếng bánh” ngành
Lê Mạnh Cường CQ490286
21

×