Tải bản đầy đủ (.doc) (100 trang)

Hướng dẫn học sinh tự kiểm tra, đánh giá trong học tập lịch sử thế giới lớp 10 (chương trình chuẩn) ở trường Trung học phổ thông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (435.56 KB, 100 trang )

A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Vấn đề đổi mới phương pháp dạy học Lịch sử nói chung, phương
pháp kiểm tra, đánh giá và tự kiểm tra, đánh giá trong dạy và học Lịch sử
nói riêng là một trong những vấn đề mang tính chiến lược cấp thiết trước
những yêu cầu đổi mới toàn diện của đất nước. Đổi mới nền giáo dục và
đào tạo có ý nghĩa vô cùng lớn lao, là yếu tố quan trọng hàng đầu đáp ứng
việc “đào tạo bồi dưỡng và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để đáp ứng
yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá”. Cùng với việc đổi mới về nội
dung, chương trình giảng dạy, chúng ta cần đổi mới cả về phương pháp dạy
học trong đó có đổi mới phương pháp kiểm tra, đánh giá và tự kiểm tra,
đánh giá. Việc xác định phương pháp dạy học nói chung và dạy học Lịch
sử nói riêng là yêu cầu khách quan cấp thiết để thực hiện đúng mục tiêu
đào tạo của nước ta như trong hội nghị lần thứ II Ban chấp hành Trung
ương Đảng Cộng Sản Việt Nam khoá VIII đã đề ra nghị quyết về định
hướng phát triển giáo dục, đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại
hoá và nhiệm vụ đến năm 2010 như sau: “Nhằm xây dựng những con
người và thế hệ thiết tha gắn bó với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội, có đạo đức trong sáng, có ý chí kiên cường xây dựng và bảo vệ tổ
quốc; công nghiệp hoá, hiện đại hoá; gìn giữ và phát huy các giá trị văn hoá
của dân tộc và con người Việt Nam, có ý thức cộng đồng và phát huy tính
tích cực của cá nhân, làm chủ trí thức và khoa học công nghệ hiện đại, có
tư duy sáng tạo, có tính tổ chức và kỷ luật; có sức khoẻ, là những người
thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên” như lời căn
dặn của Bác Hồ”. Xuất phát từ mục tiêu trên, việc dạy học Lịch sử phải đáp
ứng được mục tiêu của Đảng và Nhà nước đề ra, nhất là việc đổi mới
phương pháp dạy học.
Như vậy, vấn đề đổi mới giáo dục đào tạo nói chung, đổi mới
phương pháp dạy học Lịch sử nói riêng trong đó có phương pháp kiểm tra,
đánh giá và tự kiểm tra, đánh giá trong dạy và học lịch sử luôn được Đảng
1


và nhà nước quan tâm. Mặt khác, việc đổi mới phương pháp dạy học là một
trong những biện pháp hữu hiệu để nhà trường và giáo viên thực hiện tốt
những mục tiêu trên.
Để thực hiện tốt những mục tiêu của Đảng và nhà nước về giáo dục,
đào tạo, nhà trường phổ thông đóng vai trò quan trọng. Bộ môn Lịch sử với
chức năng nhiệm vụ của mình góp phần tích cực vào việc thực hiện mục
tiêu đào tạo và Lịch sử được xem như là một môn học quan trọng và có ưu
thế trong việc giáo dục thế hệ trẻ. Tri thức Lịch sử là một trong những
phương tiện giáo dục có hiệu quả về tư tưởng tiến bộ, phẩm chất đạo đức
cách mạng. Lịch sử giáo dục cho con người lòng tin vào chính nghĩa và
chân lý, có tác dụng rất tốt trong việc giáo dục lòng yêu nước, tinh thần
quốc tế vô sản, lòng yêu lao động, rèn luyện ý thức năng lực thẩm mỹ.
Chính vì Lịch sử có vai trò lớn như vậy cho nên việc cải tiến phương pháp
dạy học Lịch sử là việc rất quan trọng nhằm góp phần phát triển toàn diện
học sinh. Chính vì vậy mà việc học tập và dạy học Lịch sử luôn đóng vai
trò không thể thiếu trong sự nghiệp xây dựng đất nước.
Tuy nhiên, hiện nay, việc dạy và học Lịch sử ở các trường phổ
thông, bên cạnh ưu điểm vẫn còn một số hạn chế cần được khắc phục như
chương trình dạy học Lịch sử vẫn còn nặng về lý thuyết, nhẹ về thực hành, chưa
tạo được điều kiện cho học sinh phát huy tính tích cực, vận dụng những kiến
thức đã học để tiếp thu kiến thức mới vào cuộc sống. Chính vì vậy cần phải đổi
mới phương pháp dạy học Lịch sử trong đó phải nhất thiết tiến hành đổi
mới phương pháp kiểm tra, đánh giá và tự kiểm tra đánh giá trong dạy và
học tập Lịch sử ở các trường phổ thông hiện nay.
Một trong những nội dung đổi mới phương pháp dạy học được nhiều
người quan tâm là đổi mới việc kiểm tra – đánh giá và tự kiểm tra, đánh giá
trong dạy và học tập lịch sử. Việc kiểm tra, đánh giá học sinh của thầy giáo
và tự kiểm tra, đánh giá của học sinh là một vấn đề hết sức quan trọng, bởi
vì nó chẳng những là khâu cuối cùng đánh giá độ tin cậy cao mà còn có tác
2

dụng điều tiết trở lại hết sức mạnh mẽ đối với quá trình đào tạo. Như chúng
ta đã thấy: Dạy học là quá trình khép kín, để điều chỉnh quá trình này một
cách có hiệu quả là cả người dạy và người học đều phải thu được những
thông tin ngược từ việc kiểm tra – đánh giá kết quả học tập. Việc hướng
dẫn học sinh tự kiểm tra, đánh giá kết quả học tập là một công việc rất khó
của phương pháp dạy học, giúp học sinh hình thành năng lực tự học, kỹ
năng, kỹ xảo của bộ môn. Qua việc tự kiểm tra, đánh giá của học sinh giúp
giáo viên sẽ thấy được những thành công và những vấn đề cần rút kinh
nghiệm trong giảng dạy, hiểu rõ mức độ kiến thức và kỹ năng của học sinh.
Từ đó có những biện pháp sư phạm tích cực, thích hợp nhằm nâng cao chất
lượng dạy học.
Vì vậy, tôi mạnh dạn lựa chọn đề tài: “Hướng dẫn học sinh tự kiểm
tra, đánh giá trong học tập lịch sử thế giới lớp 10 (chương trình chuẩn)
ở trường Trung học phổ thông”.
2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ
Vấn đề kiểm tra - kết quả học tập của học sinh từ lâu đã được nhiều
nhà nghiên cứu trên thế giới, trong nước quan tâm và sử dụng vào trong
dạy học.
2.1. Tài liệu nước ngoài.
Đến năm 1977, Becbi nhìn nhận vấn đề đánh giá theo khía cạnh
khác, khá chính xác và đầy đủ, theo ông: “Đánh giá giáo dục là sự thu thập
và lý giải một cạc có bằng chứng như một phần của quá trình dẫn tới sự
phán xét về giá trị theo quan điểm hành động”. Với quan niệm như vậy,
Becbi đã đưa ra định nghĩa tương đối hoàn chỉnh, nó phản ánh khá đầy đủ
bản chất của đánh giá giáo dục”.
Theo Mager (R.F.Mager) nhà nghiên cứu Pháp thì lại cho rằng: Đánh
giá là việc miêu tả tình hình của học sinh và giáo viên để dự đoán công việc
phải tiếp tục và giúp học sinh tiến bộ”.
3
Trong cuốn giáo dục học - tập I của Savin ở chương X “Kiểm tra,

đánh giá tri thức kỹ năng, kỹ xảo của học sinh” ông đã nêu rõ quan niệm về
kiểm tra – đánh giá. Theo ông: “Kiểm tra là một phương tiện quan trọng
không chỉ để ngăn ngừa việc lãng quên mà còn để nắm được tri thức một
cách vững chắc hơn…”. “Đánh giá có thể trở thành một phương tiện quan
trọng để điều khiển sự học tập của học sinh, đẩy mạnh sự phát triển về
công tác giáo dục của các em. Đánh giá được thực hiện trên cơ sở kiểm tra,
đánh giá theo hệ thống 5 bậc Xuất sắc (điểm 5), Tốt (điểm4), Trung bình (3
điểm), Xấu (điểm 2) và Rất xấu (điểm 1). Như vậy, Savin đã quan niệm
kiểm tra – đánh giá là hai hoạt động khác nhau nhưng có mối quan hệ biện
chứng. Đặc biệt ông nhấn mạnh việc kiểm tra không dừng ở việc kiểm tra
tri thức mà còn kiểm tra kỹ năng, kỹ xảo của học sinh.
Theo tiến sĩ N.G. Đairi trong cuốn: “Chuẩn bị giờ học Lịch sử như
thế nào”, bằng những kinh nghiệm quý báu trong thực tế giảng dạy lịch sử
ở nhà trường phổ thông, ông đã cho thấy tầm quan trọng, vị trí, ý nghĩa của
việc kiểm tra – đánh giá kết quả học tậo bộ môn ở nhà trường. Đông thời,
ông chỉ rõ: “Kiểm tra không chỉ giới hạn ở chỗ phát hiện và cho điểm kiến
thức, mà kiểm tra còn thúc đẩy học sinh học tập. Ngoài những chức năng
kiểm tra và giáo dục, kiểm tra còn có chức năng giáo dưỡng và phát triển
tư duy”.
Cùng với Savin và Đairi, T.A.Ilina cũng nghiên cứu về hình thức
kiểm tra – đánh giá. Ilina nhấn mạnh đến vai trò của kiểm tra – đánh giá,
theo bà: “Kiểm tra – đánh giá kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo là rất quan trọng
và là thành phần cấu tạo cần thiết của quá trình dạy học”. Từ đó, Ilina nêu
lên các chức năng của kiểm tra – đánh giá gồm: chức năng kiểm tra, chức
năng dạy học, chức năng giáo dục. Ngoài ra bà cũng đề cập đến vấn đề
đánh giá, theo bà: “Việc đánh giá là một phương tiện kích thích mạnh mẽ
và có ý nghĩa giáo dục lớn trong điều kiện nếu như nó được giáo viên sử
dụng đúng đắn”. Như vậy, cũng như Savin và Đairi, Ilina đánh giá cao vấn
4
đề kiểm tra – đánh giá, đều coi kiểm tra – đánh giá để nâng cao chất lượng

dạy học.
Như vậy, vấn đề kiểm tra – đánh giá được nhiều học giả nước ngoài
nghiên cứu, tìm hiểu. Mặc dù, có các quan điểm, cách nhìn nhận khác nhau
các tác giả đã đưa ra những định nghĩa khác khá khoa học góp phần vào lý
luận của kiểm tra, đánh giá.
2.2. Tài liệu trong nước
Cùng với nhiều học giả nước ngoài, các học giả, các nhà nghiên cứu
giáo dục nước ta cũng tìm hiểu và nghiên cứu khá sâu sắc về vấn đề kiểm
tra – đánh giá.
Theo Hà Thế Ngữ - Đặng Vũ Hoạt trong cuốn giáo trình giáo dục học
tập I (nhà xuất bản giáo dục học 1987) đã đưa ra các quan niệm về kiểm tra
– đánh giá như sau: “Kiểm tra – đánh giá tri thức, kỹ năng, kỹ xảo của học
sinh là một khâu quan trọng của quá trình dạy học. Xét theo các cách thức
thực hiện hệ thống của các khâu quan trọng của quá trình dạy học. Kiểm tra
– đánh giá có thể xem xét như là một nhóm phương pháp dạy học”. Đồng
thời hai ông còn nêu rõ ý nghĩa của việc kiểm tra – đánh giá các mặt khác.
Theo Đức Minh trong bài “Một số vấn đề lý luận về việc kiểm tra –
đánh giá học sinh” trong tạp chí Nghiên cứu giáo dục số 36 – 1975. Ông
quan niệm “Kiểm tra và đánh giá là những khâu tất yếu của mọi quá trình
hoạt động xã hội và là hai mặt gắn bó mật thiết với nhau của một vấn đề:
xác định chất lượng của sản phẩm hoạt động. Bởi vậy, đó là việc làm rất
cần thiết và có ý nghĩa xã hội quan trọng”. Trong bài viết này mặc dù tác
giả chưa đưa ra định nghĩa riêng biệt về kiểm tra – đánh giá, nhưng thể
hiện quan điểm đánh giá chỉ có thể thực hiện được khi có kiểm tra.
Còn theo PTS. Trần Kiều - Viện khoa học giáo dục với bài: “Đổi mới
đánh giá, đòi hỏi bức thiết của đổi mới phương pháp dạy học”. Trong tạp
chí Nghiên cứu giáo dục số 11 – 1995, ông cho rằng: “Kiểm tra – đánh giá
là khâu cuối cùng, song cũng có thể là bước khởi đầu cho chu trình tiếp
5
theo với chất lượng mới hơn của cả một quá trình. Từ một phương diện

khác có thể xem đánh giá là hoạt động nhằm rút ra những phán đoán về giá
trị đạt được và những quyết định cần thiết trên cơ sở thông tin về số liệu
thu thập được. Do đó, đánh giá không chỉ nhằm mục đích phân loại, sàng
lọc, cũng không chỉ nhằm phát hiên kết quả mà còn phải tìm ra được các
nguyên nhân đa dạng của một thực trạng nào đó”.
Theo GS.TS Nguyễn Thị Côi, trong các công trình của mình đã đi sâu
nghiên cứu về vấn đề kiểm tra – đánh giá kết quả học tập Lịch sử như
(chươnng XIII trong Giáo trình phương pháp dạy học Lịch sử - tập 2, Nxb
ĐHSP 2002), “Tài liệu hội nghị đổi mới phương pháp giảng dạy và học tập
môn Lịch sử ở trường phổ thông trung học tháng 4 năm 1999” và trong
cuốn “Một số vấn đề Lịch sử” (trường ĐHSP Hà Nội, Nxb ĐHQG – 2001).
Trong các công trình kể trên, tác giả đã đề cập đến những vấn lý luận cơ
bản của kiểm tra – đánh giá và gợi mở phương hướng đổi mới hoạt động
này trong dạy học Lịch sử ở trường phổ thông. Theo tác giả: “Nếu thực
hiện tốt khâu kiểm tra – đánh giá sẽ góp phần nâng cao chất lượng dạy học
bộ môn”.
Nhìn chung, các nhà giáo dục học đều thống nhất kiểm tra – đánh
giá là một khâu quan trọng không thể thiếu được trong quá trình dạy
hoc, nó là một yếu tố cần phải được chú ý khi đổi mới phương pháo dạy
học vì kiểm tra, đánh giá có vị trí, ý nghĩa lớn đối với việc giáo dưỡng,
giáo dục và phát triển.
Ngoài ra, vấn đề kiểm tra – đánh giá cũng được các học viên, sinh
viên tìm hiểu và nghiên cứu về mặt lý luận và thực tiễn của vấn đề này qua
một số luận văn. Tuy nhiên, trong các công trình đó vẫn nằm trong phạm vi
nhỏ mang tính lý thuyết, chưa đề cập tới việc đổi mới việc kiểm tra – đánh
giá kết quả học tập của học sinh trong dạy học Lịch sử ở trường trung học
phổ thông.
6
Tóm lại, vấn đề kiểm tra – đánh giá đã được nhiều nhà giáo dục và
giáo dục Lịch sử ở trong và ngoài nước đề cập tới nhiều mức độ khác nhau.

Song đều làm sáng tỏ: Vai trò, vị trí của kiểm tra – đán giá, nội dung của
kiểm tra – đánh giá, mối quan hệ mật thiết giữa kiểm tra – đánh giá…và
xem đó là khâu không thể thiếu trong quá trình dạy học. Những lý luận trên
là cơ sở quý báu giúp chúng tôi thực hiện đề tài.
Qua tìm hiểu và nghiên cứu lịch sử vấn đề, tôi thấy có những ý kiến
sau: Hầu hết những công trình nghiên cứu của các nhà nghiên cứu trong và
ngoài nước đều nêu lên được những vấn đề lí luận quan trọng của việc
kiểm tra, đánh giá nói chung và tự kiểm tra, đánh giá trong học tập Lịch sử
của học sinh nói riêng. Tuy nhiên, đó mới chỉ là những lí luận chung,
những lí luận cơ sở và nền tảng, còn những biện pháp cụ thể thì chưa thực
sự được nghiên cứu, đi sâu tìm hiểu một cách cụ thể, nhằm biến những vấn
đề lí luận đó gắn bó, phục vụ hiệu quả hơn công tác dạy học Lịch sử hiện nay
ở các trường phổ thông.
Vì vậy, “cái mới” của đề tài không phải nhằm đi sâu nghiên cứu lại
những lí luận đã có ở phần trên, mà quan trọng hơn là trên cơ sở nền tảng lí
luận sẵn có, người viết muốn hiện thực hoá những lí luận đó trở thành
những biện pháp sư phạm cụ thể. Những biện pháp này sẽ được áp dụng
trong một bài, một chương trình của một lớp học cụ thể thông qua phương
pháp quan sát và thực nghiệm là chủ yếu để nhằm giúp cho giáo viên có
được những gợi ý về phương pháp hướng dẫn học sinh tự kiểm tra, kiểm
tra, đánh giá, giúp hình thành ở học sinh kĩ năng tự kiểm tra, đánh giá trong
học tập bộ môn nói riêng và các môn học khác nói chung.
Qua đó để khẳng định rằng những vấn đề lí luận trên là đúng đắn,
khoa học và những biện pháp, cách thức tổ chức, hướng dẫn trên của giáo
viên cho học sinh trong hoạt động tự kiểm tra, đánh giá một cách thường
xuyên trong học tập Lịch sử được đề xuất trong đề tài vừa có giá trị lí luận,
7
vừa có giá trị thực tiễn cao nhằm góp phần nâng cao chất lượng dạy học bộ
môn và thực hiện mục tiêu đổi mới trong giáo dục hiện nay.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI

Đối tượng nghiên cứu chính của đề tài là những hướng dẫn của giáo
viên (bằng những biện pháp cụ thể) giúp cho học sinh tự kiểm tra, đánh giá
một cách thường xuyên quá trình học tập môn Lịch sử của mình ở trường
phổ thông, mà cụ thể ở đây là học sinh lớp 10 với phần kiến thức Lịch sử
thế giới. Như vậy, đối tượng nghiên cứu của đề tài có những khác biệt so
với những công trình nghiên cứu trước đó – chủ yếu là những quan niệm,
vai trò, ý nghĩa, cách thức tổ chức kiểm tra, đánh giá nói chung trong dạy
học Lịch sử theo phương hướng đổi mới giáo dục hiện nay. Đối tượng
nghiên cứu của đề tài có thể nói là một phần nhỏ trong vấn đề lớn – vấn đề
kiểm tra, đánh giá. Tuy nhiên, với đối tượng nghiên cứu như trên, cho phép
đề tài đi sâu vào những biện pháp cụ thể trong việc hướng dẫn học sinh tự
kiểm tra, đánh giá trong học tập lịch sử. Đây có thể nói là một nội dung
quan trọng trong phương hướng đổi mới giáo dục hiện nay, nhằm phát huy
tính tích cực, chủ động của người học trên cơ sở những điều khiển, hướng
dẫn của giáo viên.
4. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ CỦA ĐỀ TÀI
4.1. Mục đích:
Mục đích nghiên cứu của đề tài là đề xuất những biện pháp nhằm
hướng dẫn cho học sinh tiến hành tự kiểm tra, đánh giá trong học tập Lịch
sử. Xuất phát từ những mục đích trên, phạm vi nghiên cứu chủ yếu của đề
tài là khối học sinh ở các trường phổ thông, cụ thể ở đây là học sinh lớp 10
trong phần học Lịch sử thế giới. Lí do mà tôi chọn phạm vi nghiên cứu là
học sinh lớp 10, bởi đây là giai đoạn đầu tiên của giáo dục phổ thông, vì
vậy hướng dẫn các em kĩ năng tự kiểm tra, đánh giá trong học tập ở giai
đoạn này rất quan trọng, là cơ sở cho các em học tập ở những giai đoạn tiếp
theo. Phần kiến thức mà tôi lựa chọn là phần Lịch sử thế giới trong sách
giái khoa lớp 10 (chương trình chuẩn). Đây cũng là một mảng kiến thức
quan trọng và đặc biệt đây là những kiến thức rất trừu tượng nên học sinh
8
rất khó nắm bắt, chưa kể đến việc tự học, tự kiểm tra, đánh giá việc học tập

của học sinh. Chính vì lí do đó, mà cần những biện pháp hướng dẫn rất cụ
thể của giáo viên, giúp cho học sinh tự kiểm tra, đánh giá việc học tập của
mình đạt hiệu quả cao, nhằm nâng cao chất lượng dạy học bộ môn và phát
huy năng lực tự học trong học tập của học sinh.
4.2. Nhiệm vụ:
Để đạt được mục đích trên, đề tài phải giải quyết các nhiệm vụ sau:
- Tìm hỉểu lý luận về kiểm tra – đánh giá và tự kiểm tra – đánh giá
về khái niệm, nội dung, yêu cầu, ý nghĩa, biện pháp và các hình thức kiểm
tra – đánh giá và tự kiểm tra – đánh giá của học sinh.
- Khai thác và nghiên cứu nội dung lịch sử thế giới lớp 10 (chương
trình chuẩn) ở trường trung học phổ thông.
- Điều tra, quan sát thực tế dạy học Lịch sử ở trường phổ thông.
- Đề xuất biện pháp hướng dẫn học sinh tự kiểm tra – đánh giá trong
học tập Lịch sử thế giới lớp 10 ở trường phổ thông.
- Tiến hành khảo sát và thực nghiệm sư phạm để khẳng định tính khả
thi của đề tài nghiên cứu.
5. CƠ SỞ PHƯƠNG PHÁP LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
5.1. Cơ sở lý luận
Đề tài được thực hiên trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng về giáo dục và những vấn đề
liên quan đến lý luận dạy học, Sử học, phương pháp dạy học Lịch sử và các
tài liệu liên quan đến kiểm tra – đánh giá kết quả học tập của học sinh.
5.2. Phương pháp nghiên cứu:
5.2.1 Nghiên cứu lý thuyết
Nghiên cứu các tác phẩm của các tác giả kinh điển, chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh bàn về giáo dục.
Nghiên cứu các văn bản, nghị quyết của Đảng và Nhà nước, Bộ giáo
dục và đào tạo liên quan đến đề tài.
9

Nghiên cứu các công trình của các nhà khoa học giáo dục, giáo dục
Lịch sử viết về kiểm tra – đánh giá có liên quan đến đề tài.
Nghiên cứu nội dung chương trình sách giáo khoa Lịch sử lớp
10 – THPT.
5.2.2. Sử dụng phương pháp quan sát và thực nghiệm sư phạm
Nghiên cứu, điều tra, khảo sát tình hình thực tiễn công tác kiểm tra –
đánh giá kết quả học tập Lịch sử để thấy được thực tiễn của công tác kiểm
tra, đánh giá ở trường phổ thông hiện nay.
Tiến hành thực nghiệm sư phạm để đánh giá tính khả thi của việc sử
dụng các phương pháp hướng dẫn học sinh tiến hành tự kiểm tra – đánh giá
kết quả học tập phần Lịch sử thế giới của học sinh lớp 10 ở trường trung
học phổ thông.
6. Ý NGHĨA CỦA LUẬN VĂN
6.1. Ý nghĩa khoa học
Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần là phong phú thêm về mặt lý
luận cũng như thực tiễn của việc kiểm tra – đánh giá nói chung và tự kiểm
tra – đánh giá nói riênng, khẳng định tầm quan trọng của việc kiểm tra –
đánh giá kết quả học tập của học sinh trong dạy học Lịch sử. Đồng thời, đề
xuất một số biện pháp nhằm hướng dẫn học sinh tiến hành tự kiểm tra –
đánh giá kết quả học tập phần Lịch sử thế giới lớp 10 trong trường trung
học phổ thông, giúp cho các em chuẩn bị tư thế tốt trước khi bước vào kì
thi, qua đó nhằm nâng cao chất lượng dạy học nói chung và dạy học Lịch
sử nói riêng.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Một số biện pháp nhằm hướng dẫn học sinh tự kiểm tra – đánh gia
kết quả học tập phần Lịch sử thế giới lớp 10 ở trường trung học phổ thông
đưa ra trong luận văn sẽ giúp bản thân và đồng nghiệp vận dụng vào quá
trình dạy học Lịch sử chung để nâng cao chất lượng dạy học bộ môn. Đồng
thời, cung cấp cho học sinh những biện pháp tự học có hiệu quả thông qua
việc tự kiểm tra, đánh giá kết quả học tập bộ môn Lịch sử Thế giới lớp 10

nói riêng và tiến tới hình thành năng lực và phương pháp tự học trong học
tập nói chung.
10
7. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN
Việc luận văn hoàn thành sẽ góp phần: khẳng định vai trò, ý nghĩa
của và hoạt động kiểm tra – đánh giá và làm sáng tỏ thực trạng của việc
kiểm tra – đánh giá trong việc học tập Lịch sử ở trường phổ thông hiện nay.
Đề xuất các biện pháp hướng dẫn học sinh tiến hành tự kiểm tra – đánh giá
trong học tập Lịch sử thế giới lớp 10 nhằm nâng cao chất lượng dạy học
đối với bộ môn Lịch sử và đồng thời hình thành, phát triển năng lực tự học
cho học sinh trong việc học tập ở trường trung học phổ thông.
8. CẤU TRÚC CỦA LUẬN VĂN
Ngoài Phần mở đầu, kết luận, các phụ lục, mục lục, tài liệu tham
khảo, nội dung luận văn gồm hai chương:
Chương I: Vấn đề kiểm tra – đánh giá kết quả học tập của học sinh
trong dạy học Lịch sử ở trường trung học phổ thông.
Chương II: Một số biện pháp giúp học sinh tiến hành tự kiểm tra,
đánh giá trong học tập Lịch sử thế giới lớp 10( chương trình chuẩn) ở
trường Trung học phổ thông.
11
B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I
VẤN ĐỀ HƯỚNG DẪN HỌC SINH TỰ KIỂM TRA, ĐÁNH GÍA
KẾT QUẢ HỌC TẬP TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ
Ở TRƯỜNG THPT
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VẤN ĐỀ
1. Cở sở xuất phát
1.1. Mục tiêu của bộ môn Lịch sử
Trong các môn học ở trường phổ thông, bộ môn Lịch sử có vị trí, ý nghĩa
quan trọng, nó góp phần cùng các môn học khác góp phần “…giúp học

sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và kỹ năng
cơ bản hinh thành nhân cách con người Việt Nam Xã hội chủ nghiac, xây
dựng tư cách và trách nhiệm công dân, chuẩn bị cho học sinh lên hoặc đi
vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ tổ quốc”.
Từ mục tiêu chung của giáo dục phổ thông, mục tiêu của cấp THPT
được xác định như sau: “Giáo dục trung học phổ thông nhằm giúp học sinh
củng cố và phát triển những kết quả của giáo dục trung học cơ sở, hoàn
thiện học vấn phổ thông và những hiểu biết thông thường về kỹ thuật và
hướng nghiệp để tiếp tục học đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp,
học nghề hoặc đi vào cuộc sống lao động”.
So với chương trình THCS, chương trình THPT yêu cầu cao hơn một
bước sự hiểu biết về những vấn đề lý thuyết, nâng cao hơn nhận thức lý
luận của học sinh. Trên cơ ở mục tiêu giáo dục của các cấp học, quan điểm
của Đảng về sử học và giáo dục, mục tiêu của môn học cũng căn cứ vào nội
dung, đặc trưng của hiện thực Lịch sử, yêu cầu của tình hình và nhiệm vụ
của cách mạng hiện nay. Mục tiêu của môn Lịch sử ở trường THPT phải
thực hiện những nhiệm vụ cơ bản sau đây: Về mặt giáo dưỡng Lịch sử
nhằm cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản của khoa học, bao
12
gồm: sự kiện Lịch sử cơ bản, các khái niệm, thuật ngữ, tên người, tên đất,
niên đại, nhữn hiểu biết về quan điểm lý luận sơ giản, những vấn đề về
phương pháp nghiên cứu và học tập, phù hợp với yêu cầu và trình độ học
sinh. Giáo dục: Giáo dục cho học sinh quan điểm tư tưởng, lập trường,
phẩm chất đạo đức, nhân cách, tình cảm thông qua học tậo lịch sử là một
yêu cầu quan trọng cần chú ý thực hiện. Tri thức Lịch sử không chỉ có tác
dụng giáo dục trí tuệ, tình cảm, tư tưởng, góp pần đào tạo cong người Việt
Nam toàn diện. Học sinh THPT được bồi dưỡng một cách có hệ thống, sâu
sắc hơn ở những điểm chủ yếu sau:
- Lòng yêu nước Xã hội chủ nghĩa, lòng yêu quê hương - một
biểu hiện của lòng yêu nước, trong lao động sản xuất cũng như trong đấu

tranh giành độc lập dân tộc, bảo vệ Tổ quốc.
- Tinh thần đoàn kết quốc tế, tình hữu nghị với các dân tộc
đấu tranh cho độc lập, tự do, văn minh, tiến bộ xã hội, hoà bình, dân chủ.
- Niềm tin vào sự phát triển hợp quy luật của xã hội loài người
và dân tộc dù trong tiến trình Lịch sử có những bước quanh co, khúc
khuỷu, tạm thờu thụt lùi hay dừng lại.
- Có ý thức làm nghĩa vụ công dân, sẵn sàng thực hiện nghĩa vụ
quốc tế.
- Những phẩm chất cần thiết trong cuộc sống cộng đồng….
Phát triển: Rèn luyện năng lực tư duy và thực hành trên cơ sở hoàn chỉnh
và nâng cao năng lực đã được hình thành ở trường THCS. Cụ thể là bồi
dưỡng:
- Tư duy biện chứng trong nhận thức và hành động, biết phân
tích, đánh giá, liên hệ ……
- Kỹ năng học tập và thực hành bộ môn: sử dụng sách giáo
khoa, các tài liệu tham khảo trình bày nói và viết, làm và sử dụng một số đồ
dùng trực quan quy ước, những hoạt động ngoại khoá của môn học.
- Vận dụng các kiến thức đã học vào cuộc sống hiện nay.
13
Tóm lại, mục tiêu của bộ môn Lịch sử ở trường THPT là cung cấp
kiến thức cơ bản, có hệ thống về Lịch sử phát triển hợp quy luật của Lịch
sử dân tộc và xã hội loài người. Trên cơ sở đó, giáo dục lòng yêu nước, tự
hào dân tộc, lý tưởng độc lập dân tộc và Chủ nghĩa xã hội, rèn luyện năng
lực tư duy và thực hành. Thực hành một cách hoàn chỉnh các nhiệm vụ
giáo dưỡng, giáo dục và phát triển việc dạy học Lịch sử ở THPT góp phần
nâng cao sự hiểu biết mà học sinh tiếp thu ở THCS, đặc biết trình độ lý
thuyết và năng lực tư duy, thực hành.
1.2. Đặc trưng của bộ môn Lịch sử ở trường phổ thông
Cũng như các môn học khác ở trường phổ thông, Lịch sử có nhiệm
vụ và khả năng góp phần vào việc thể hiện mục tiêu đào tạo ở trường phổ

thông nói chung. Đặc điểm của Lịch sử chi phối tới nhận thức Lịch sử. Bản
thân Lịch sử là một hiện thực khác quan đã xảy ra “hiện có” (song đã tồn
tại), vận động theo quy luật từ thấp đến cao, trải qua những bước quanh co,
khúc khuỷu, song phát triển không ngừng. Con người có khả năng nhận
thức Lịch sử - không thể “trực quan sinh động”, kể cả những sự kiện đang
diễn ra bên ngoài tầm mắt của người học tập, nghiên cứu. Lịch sử diễn ra
không nguyên vẹn như cũ “lặp lại trên cơ sở không lặp lại” nên nhận thức
lịch sử không thể quan sát trực tiếp và không thể tiến hành trong phòng thí
nghiệm. Sức mạnh của tri thức Lịch sử không chỉ giới hạn ở việc giúp học
sinh có biểu tượng đầy đủ, chính xác về quá khứ mà các em không sống,
không trực tiếp quan sát. Chỉ có một điều cũng rất khó đạt nếu không cố
gắng tích cực trong nhận thức. Sức mạnh của tri thức Lịch sử là làm cho
người học có ý thức về xã hội, suy nghĩ cảm thụ những gì đã xảy ra để có
trách nhiệm với hiện tại, tương lai vốn là sự phản ánh tồn tại xã hội, ý thức
xã hội được miêu tả trong nghệ thuật, trong những quy tắc của luật pháp và
đời sống. Ý thức xã hội được hoàn chỉnh và nâng cao hơn trong các nghành
khoa học, đặc biệt trong khoa học xã hội, trong đó có khoa học Lịch sử.
Học Lịch sử không chỉ để hiểu biết những giá trị to lớn của di sản văn hoá
14
và tinh thần mà còn đòi hỏi học sinh phải nhạy cảm với tất cả những gì
được xã hội, các giai cấp của xã hội ấy và cả nhân loại quan tâm, tăng thêm
ý thức trách nhiệm đối với xã hội. Việc học tập Lịch sử không phải là lượm
lặt sự kiệ quá khứ, thú vui trong sưu tầm đồ cổ, các bản chép tay cổ mà
phải hiểu được cuộc sống ngày nay, phải bỏ nhiều công sức để hiểu qúa
khứ mới nhận thức đúng, sâu sắc hiện tại, tương lai và ngược lại đúng như
Các Mác khẳng định: “Quá khứ thuộc về những người xây dựng tương lai”.
Với tư cách là một yếu tố của nền văn hóa, tri thức Lịch sử không
phải làm cho người học chỉ biết những gì đã xảy ra trong quá khứ để ngắm
nghía, kể chuyện mua vui, mà phải làm cho tầm nhìn đối với các vấn đề
quanh ta được rộng lớn hơn, có thể dự đoán và phát triển hợp quy luật xã

hội loài người. Tri thức Lịch sử cùng với sự hiểu biết nhiều lĩnh vực khác
của văn hoá có tác dụng giáo dục rất cao, ý nghĩa thẩm mỹ và giáo dục của
sử học cũng như của nhiều nghành văn hóa khác thường tách biệt nhau,
càng không thể đối lập với nhau. Hiệu quả thẩm mỹ và giáo dục tăng lên
khi người học tích cực trong việc tìm hiểu nắm chắc các kiến thức có liên
quan đến Lịch sử. Ngược lại, nắm vững kiến thức Lịch sử làm cho vốn văn
hoá của con người toàn diện, vững chắc hơn trong tư duy và hành động một
cách tích cực. Chính vì vậy, chúng ta khẳng định sự cần thiết của kiến thức
đối với việc giáo dục hình thành một con người tích cực trong xã hội. Để
nhấn mạnh đến vai trò của việc không thể thiếu được của tri thức Lịch sử
đối với việc đào tạo con người, nhà văn Dân chủ Nga thế kỷ XIX
Tsecnưepxki đã khẳng định: “Có thể không biết, không cảm thấy say mê
học tập môn toán, tiếng La tinh, Hoá học có thể không biết hàng nghìn môn
khoa học khác, nhưng dù sao đã là người có giáo dục mà không yêu thích
Lịch sử thì chỉ có thể là một con người phát triển không đầy đủ về trí tuệ”.
Học Lịch sử không chỉ biết lịch sử văn hoá nước mình mà còn hiểu
biêt lịch sử nước khác, từ đó hiểu rõ được sự phát triển của xã hội loài
người nói chung, của các dân tộc nhất là các dân tộc láng giềng trong khu
15
vực. Sự nhận thức một cách tích cực, đúng đắn như vậy sẽ giúp chúng ta đề
phòng các khuynh hướng tự ti dân tộc, làm mất bản sắc dân tộc trong mối
quan hệ với thế giới. Mặt khác, cũng khắc phục khuynh hướng sai lầm
đang phổ biến về việc: “xoá nhoà ranh giới giữa các dân tộc và giai cấp” để
xây dựng “một xã hội duy nhất trên hành tinh”, “một chính đảng của toàn
nhân loại…”. Như vậy, nếu không hiểu biết và suy nghĩ về Lịch sử đã qua,
tính lôgíc, thích hợp của tương lai nhất định sẽ nhận thức sai lầm và hành
động không đúng.
Lịch sử là bản thân cuộc sống gian nan, sáng tạo của con người trong
cuộc đấu tranh với tự nhiên để tồn tại và phát triển, với cuộc đấu tranh xã
hội ngày càng gay gắt khi xã hội phân chia thành các giai cấp đối kháng. Vì

vậu, học Lịch sử không chỉ để biết, để “mua vui” mà để rút ra từ quá khứ
những bài học hiện tại và tương lai.
Như vậy, môn Lịch sử ở nhà trường phổ thông nhằm cung cấp cho
học sinh - những chủ nhân tương lai của đất nước những kiến thức cơ bản,
khoa học, hình thành thế giới quan khoa học, phẩm chất đạo đức chính trị
cho học sinh. Điều này giúp học sinh hiểu được sự phát triển hợp quy luật
của tự nhiên và xã hội, vận dụng sáng tạo những hiểu biết vào hoạt động
thực tiễn đáp ứng nhu cầu đòi hỏi của xã hội. Vì vậy, hoạt động kiểm tra –
đánh giá kết quả học tập của học sinh toàn diện về kiến thức, kết quả giáo
dục và phát triển.
1.3. Đặc điểm nhận thức của học sinh trong học tập Lịch sử
Quá trình nhận thức của học sinh cũng như quá trình nhận thức của
nhà khoa học hay quá trình nhận thức có tính chất xã hội lịch sử cuar loài
người, là quá trình phản ánh thế giới khách quan vào ý thức học sinh.
Quá trình nhận thức của học sinh về cơ bản cũng diễn ra theo quy luật
nhận thức chung của loài người. Quy luật này đã được Lênin chỉ rõ: “Từ trực
quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn, đó
là con đường biện chứng của nhận thức chân lý, nhận thức hiện thực khách
16
quan”. Đúng vậy, từ những yếu tố trực quan như các sự vật, hiện tượng có
thật hoặc các mô hình tranh vẽ, lời nói của giáo viên…học sinh xây dựng
được những biểu tượng về chúng. Đó là những tài liệu cảm tính. Từ những
tài liệu cảm tính, nhờ các thao tác tư duy của học sinh sẽ hình thành các
khái niệm.
Quá trình nhận thức của học sinh là quá trình phản ánh thế giới
khách quan vào ý thức học sinh và có tính độc đáo so với quá trình nhận
thức chung của loài người, của các nhà khoa học, nó được tiến hành trong
quá trình dạy học với những điều kiện sư phạm nhất định. Tính độc đáo
này được thể hiên ở chỗ, nếu quá trình nhận thức của nhà khoa học diễn ra
theo con đường mò mẫm, thử và sai thì quá trình nhận thức của học sinh lại

diễn ra theo con đường đã được khám phá. Nhà khoa học phải đảm đương
nhiệm vụ khó khăn là độc lập đi vào những bí ẩn của thế giới khách quan,
phát hiện và chứng minh những cái mà loài người chưa hề biết đến trong tự
nhiên, xã hội và tư duy, tìm ra chân lý mới làm sâu sắc và phong phú thêm
kho tàng tri thức của nhân loại. Trong khi đó, quá trình nhận thức của học
sính không phải tìm ra những cái mới cho nhân loại mà phải tái tạo những
tri thức của loài người trong bản thân mình. Nói cách khác học sinh nhận
thức được cái mới đối với bản thân mình rút ra từ kho tàng hiểu biết chung
của nhân loại.
Mặt khác, trong thời gian học ở trường phổ thông, học sinh không
phải nắm vững và không thể nắm vững toàn bộ kho tàng hiểu biết đó mà
chỉ có thể nắm vững được cái gọi là những tri thức phổ thông cơ bản phù
hợp với thực tiễn của đất nước, được rút ra từ các khoa học và được gia
công về mặt sư phạm. Nhờ vậy, trong thời gian học tập tương đối ngắn ở
trường phổ thông, học sinh nắm vững được một cách thụan lợi những cơ sở
khoa học được phản ánh trong môn học không phải trải qua con đường
nhận thức quanh co, gập ghềnh như các nhà khoa học khác.
17
Tính độc đáo của quá trình nhận thức của học sinh còn thể hiện ở
chỗ nó chứa đựng các khâu củng cố, kiểm tra – đánh giá các tri thức, kỹ
năng, kỹ xảo nhằm biến chúng thành vốn riêng của bản thân học sinh, khi
cần có thể tái hiện và vận dụng được. Tính độc đáo của quá trình nhận thức
của học sinh còn được thể hiên ở tính giáo dục của nó, nghĩa là trong quá
trình nhận thức thông qua việc nắm vững tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, phát
triển năng lực hoạt động trí tuệ, học sinh hình thành dần dần thế giới khách
quan khoa học và bồi dưỡng những phẩm chất đạo đức của con người mới.
chính ở đây thể hiện quy luật thống nhất biện chứng giữa dạy học giáo dục.
Lịch sử là môn học thuộc lĩnh vực khoa học xã hội, nó có những đặc
trưng riêng biệt. Lịch sử bao gồm những sự kiện, hiện tượng xảy ra trong
quá khứ, nó đòi hỏi tính trừu tượng vao và óc tưởng tượng rất phong phú

để dựng lại hình ảnh chân thực về một sự kiện đã trải qua mà nó không còn
tồn tại trong hiện tại, kể cả những sự kiện mà học sinh chưa bao giờ được
chứng kiến. Dạy học Lịch sử là giúp học sinh tái tạo bức tranh lịch sử đã
qua, nó không tác động vào sự vật, hiện tượng cụ thể, trực tiếp trước các
giác quan của học sinh mà chủ yếu là giúp học sinh tạo ra các biểu tượng
của sự kiện Lịch sử. Nhận thức một sự kiện trực diện, trực tiếp đã khó,
nhận thức một sự kiện trong biểu tượng, trong tưởng tượng còn khó hơn rất
nhiều. Để có được các biểu tượng, con người phải dựa trên hành loạt các
dữ kiện tương ứng, cùng loại đã từng được chứng kiến qua nhiều con
đường khác nhau. Các dữ liệu tương ứng càng phong phú bao nhiêu, sinh
động bao nhiêu thù biểu tượng sự kiện cần tái tạo càng có ý nghĩa bấy
nhiêu. Đặc trưng của lịch sử là các sự kiện thường được tái tạo nhiều lần
cho nên học sinh phải xây dựng trên những biểu tượng mà các dữ liệu
tương ứng hoàn toàn không còn tồn tại trên thực chỉ còn lại những dấu ấn
của sự kiện hiện thực. Trên cơ sở các biểu tượng chân thực, cụ thể, chính
xác bằng hoạt động của tư duy (phân tích, so sánh, đối chiếu, tưởng
18
tượng….) học sinh phải đi tới nắm bản chất của sự kiện, hiện tượng, khái
niệm rồi rút ra bài học, quy luật nếu có.
Như vậy, nhận thức Lịch sử không phải là nhận thức bên ngoài, ở
hình thức bản chất của sự kiện khoa học không đồng nhẩ với nhận thức bản
chẩ của các ngành khoa học khác. Nhận thức bản chất của sự kiện, của quá
trình Lịch sử mặc dù rất quan trọng nhưng chưa phải là mục tiêu cuối cùng
của nhận thức nói chung và hoạt động dạy học nói riêng. Vấn đề là ở chỗ
phải khai thác được tối ưu tiềm năng sự hiểu biết khoa học cho cuộc sống
của mỗi người, cho toàn xã hội. Bởi lẽ, những khoa học thường xuyên có
ảnh hưởng trực tiếp tới cuộc sồng của mọi thành viên trong cộng đồng thì
việc khai thác giá trị của nó thường có sức thuyết phục lớn hơn nhiều các
nghành khoa học có tình trừu tượng cao. Do đó, khi kiểm tra – đánh giá kết
quả học tập của học sinh về kiến thức không chỉ dừng lại ở việc ghi nhớ mà

phải xem xét mức độ hiểu và vận dụng vào cuộc sống của học sinh.
1.4. Phương hướng đổi mới việc hướng dẫn học sinh tự kiểm tra,
đánh giá kết quả học tập của học sinh trong dạy học Lịch sử ở trường
THPT
Trong những năm gần đây nền giáo dục nước ta đã có những bước
phát triển mới. Việc giáo dục đã có những chuyển biến theo hướng đổi mới
nội dung chương trình và phương pháp giảng dạy nhằm hội nhập với hệ
thống giáo dục đào tạo trong khu vực, quốc tế. Hiện nay, đổi mới phương
pháp dạy học nói chung là những yêu cầu tất yếu của thời đại mới. Đó là
chuyển từ dạy học truyền thụ một chiều dựa vào trí nhớ và bắt chước sang
việc dạy học chủ yếu là tổ chức hướng dẫn quá trình tự học, tự khám phá,
tự tìm đến kiến thức của học sinh nhằm phát triển ở các em những phẩm
chất năng động sáng tạo, năng lực hành động thích nghi và tự khẳng định
mình. Để đạt được mục tiêu đó một trong những giải pháp đổi mới nội
dung chương trình và phương pháp dạy học. Để đổi mới phương pháp dạy
học cần thiết phải đổi mới vấn đề kiểm tra – đánh giá kết quả học tập Lịch
19
sử của học sinh bởi vì đây là một biện pháp không thể thiếu để nâng cao
chất lượng dạy học bộ môn.
Xuất phát từ những vấn đề lý luận và thực tiễn trên, chúng tôi cho
rằng để đổi mới hoạt động kiểm tra – đánh giá kết quả học tập của học sinh
phải đi theo phương hướng sau:
*Đổi mới quan niệm nhận thức:
Trước hết, để có kết quả học tập của học sinh đạt hiệu quả cao, cần
thiết phải đổi mới quan niệm về nhận thức về kiểm tra – đánh giá, đổi mới
quan niệm nhận thức là động lực thúc đẩy quá trình đổi mới kiểm tra –
đánh giá.
*Đổi mới nội dung kiểm tra – đánh giá
Cùng với đổi mới quan niệm cần phải đổi mới nội dung kiểm tra –
đánh giá. Việc kiểm tra – đán giá không chỉ dừng lại ở việc ghi nhớ sự kiện

mà nội dung kiểm tra phải toàn diện, phải đạt được ba mức độ: nhớ, hiểu,
vận dụng. Đổi mới nội dung phải đảm bảo cả yêu cầu về tư tưởng, tình
cảm, hành vi đạo đức của học sinh ở trên lớp và ngoài lớp. Mặt khác, trong
đổi mới nội dung kiểm tra – đánh giá phải nhằm phát triển kỹ năng thực
hành của học sinh.
*Đổi mới về hình thức, phương pháp kiểm tra – đánh giá
- Phải sử dụng đa dạng, phong phú, kết hợp các loại hình thức
và phương pháp kiểm tra – đánh giá.
- Tăng cường ra các bài tập về nhà
- Cần kết hợp phương pháp kiểm tra – đánh giá truyền thống
va(câu hỏi tự luận) với phương pháp kiểm tra mới.
*Tổ chức hiệu quả việc kiểm tra – đánh giá qua các khâu
- Làm đề thi
- Coi thi
- Chấm thi.
20
Chương trình cải cách giáo dục hiện nay, đổi mới phương pháp dạy
học và phương pháp kiểm tra, đánh giá trong học tập của học sinh là yếu tố
quan trọng bậc nhất, nhằm nâng cao hiệu quả, chất lượng giáo dục hiện
nay. Nếu học mà không thi, không có sự kiểm tra, đánh giá của thầy giáo,
cô giáo mà trong luận văn xin tạm gọi là khách quan, hay sự tự kiểm tra,
đánh giá của bản thân người học (mà trong luận văn tạm gọi là chủ quan)
của bản thân người học, thì quá trình tích luỹ kiến thức chỉ đơn thuần là sự
tiếp nhận một cách thụ động. Hơn nữa, vai trò của việc tự kiểm tra, đánh
giá của người học trong quá trình học tập cũng có tầm quan trọng như sự
kiểm tra, đánh giá của thầy, cô đối với quá trình nhận thức của học sinh.
Tuy nhiên, sự khác biệt quan trọng ở đây là: quá trình tự kiểm tra, đánh giá
của học sinh trong quá trình học tập mang tính chủ động, giống như quá
trình tự học, tự giác của học sinh trong việc tiếp thu kiến thức và biến kiến
thức đó thành của bản thân mình.

2.Thực trạng vấn đề hướng dẫn học sinh tự kiểm tra – đánh giá
kết quả học tập ở trường THPT hiện nay.
2.1. Đối với giáo viên
*Quan niệm
Vấn đề kiểm tra – đánh giá và tự kiểm tra, đánh giá kết quả học tập
của học sinh từ lâu đã được các nhà lý luận dạy học, các giáo viên phổ
thông quan tâm, chú ý. Họ đều thừa nhận rằng một trong những biện pháp
quan trọng để nâng cao chất lượng đào tạo là phải chú trọng đến vai trò của
vấn đề kiểm tra, đánh giá của giáo viên và tự kiểm tra, đánh giá của học
sinh trong dạy và học. Trong thực tế, ở các trường phổ thông, phần lớn các
giáo viên đều nhận thấy được tầm quan trọng của vấn đề kiểm tra, đánh giá
và tự kiểm tra, đánh giá của học sinh vì vậy cũng ít nhiều đã có sự cải tiến
nội dung kiểm tra – đánh giá, áp dụng thêm các hình thức kiểm tra hiện có
bên cạnh kiểm tra truyền thống là tự luận, trắc nghiệm kháchh quan, vấn
đáp….Điều đó chứng tỏ việc kiểm tra – đánh giá đã được thay đổi, các giáo
21
vien đã bỏ nhiều công sức để đổi mới về nội dung và phương pháp giảng
dạt Lịch sử nói hung và vấn đề kiểm tra – đánh giá nói riêng. Mặc dù, đã có
những chuyển biến nhất định như trên, nhưng việc kiểm tra, đánh giá nói
chung và hoạt động tự kiểm tra, đánh giá nói riêng kết quả học tập của học
sinh vẫn chưa đạt kết quả cao, nội dung kiểm tra – đánh giá ít phát huy
được tính độc lập suy nghĩ của học sinh, phương pháp kiểm tra – đánh giá
vẫn mang tính áp đặt, thiếu dân chủ và thiếu sự chủ động…
Sở dĩ còn tồn tạo vấn đề trên trước hết do một số quan niệm cũ của
giáo viên cho rằng: thầy là nguồn cung cấp kiến thức duy nhất, trò thụ động
tiếp thu và ghi nhớ mọi điều đã học. Do vậy, nội dung, cách thức kiểm tra –
đánh giá học sinh chỉ dừng lại ở việc ghi nhớ kiến thức, học thuộc lòng là
chủ yếu không chú trọng đến việc hiểu. Học sinh chấp nhận kiến thức mà
thầty truyền thụ là chân lý, không đòi hỏi việc hình thành các kỹ năng, kỹ
xảo. Chính vì thế, nội dung kiểm tra còn đơn giản, dễ và nhẹ hơn nhiều so

với yêu cầu. Thêm vào đó là tâm lý ngại chấm khi ra những đề kiểm tra có
chất lượng là phổ biến. Quan niệm ra đề dễ để học sinh đạt điểm khá, điểm
giỏi vẫn còn phổ biến. Thậm chí trong khâu coi thim chấm thi nhiều giáo
viên cũng tỏ ra dễ dãi cho rằng đây chỉ là môn phụ, môn học thuộc lòng. Vì
vậy, khi cho học sinh ôn thi giáo viên giới hạn nội dung cho học sinh. Kết
quả là học sinh có tư tưởng học đối phó, một là “học tủ”, hai là học sinh
làm tài liệu quay cóp, không trung thực khi làm bài. Khi coi thi giáo viên
lại hay xem nhẹ, thường làm ngơ trước các hoạt động thiếu trung thực của
học sinh khi làm bài như nhìn bài, ném bài…và đến khi chấm thi giáo viên
chỉ tìm chấm theo đáp án để cho điểm, không chấm cách hành văn, ngữ
pháp, các lỗi sai chính tả, cách trình bày….Như vậy, bài kiểm tra của học
sinh là những kiến thức rời rạc, gạch đầu dòng, bài thi là những đề cương
chi tiểt.
*Nội dung, phương pháp
Xuất phát từ những quan niệm cho rằng dạy cái gì thì kiểm tra cái
đó, kiểm tra – đánh giá là công việc có tính chất bắt buộc định kỳ. Chính vì
22
hiểu kiểm tra – đánh giá là một hoạt động: Để lấy điểm cho đủ, chứ không
phải xem xẻ tình hình học tập của học sinh, để có những điều chỉnh hoạt
động dạy của mình và hoạt động của học sinh, vì thế nên chất lương học
tập của học sinh chưa cao. Thêm nữa, nội dung kiểm tra không mang tính
hệ thống, toàn diện (giáo dưỡng, giáo dục và phát triển), chủ yếu mang tính
chất chủ quan của thầy (thích phần nào thì cho kiểm tra phần ấy), hoặc có
để xem học sinh nhớ kiến thức của thầy như thế nào cho nên chưa đòi hỏi
học sinh phải tư duy thông minh, độc lập, vận dụng kiến thức.
Nghiêm túc hơn là những bài kiểm tra học kỳ theo để của Sở giáo
dục ra nhưng lại mắc hạn chế là chưa học hết năm mà đã kiểm tra. Như
vậy, nội dung kiểm tra chưa toàn diện, hệ thống, không phát huy được tính
tích cực chủ động của học sinh.
Kiểm tra như vậy sẽ dẫn đến việc đánh giá chưa được chính xac quá

trình học tập của học sinh, khi đánh giá chit đơn thuần cho điểm chứ không
có sửa chữa gì. Mặt khác, nhiều giáo viên chưa chủ động đến việc nhận xét,
trả bài cho học sinh, có khi cả học kỳ cô thầy mới trả bài cho học sinh một
lần, thậm chí có thầy không trả bài, cuối năm hoặc cuối kỳ mới thông báo
điểm. Như vậy, học sinh không rút được kinh nghiệm, không biết mình
đúng, sai chỗ nào, không biết mình học tập ra sao. Thậm chí, trong thực tế
có thầy cô đo gang xem tên, xem chữ cho điểm, chẳng cần xem học sinh
viết gì, trình bày đúng sai ra sao…Đặc biệt chưa thấy rõ tầm quan trọng của
công việc trên, khi kiểm tra – đánh giá giáo viên thường chú trọng vấn đề
Lịch sử, coi nhẹ việc hiểu Lịch sử của học sinh, cụ thể:
- Đối với việc kiểm tra miện trong các giờ học còn mang tính
chất chiếu lệ, có ý nghĩa thiết thực. Kết quả đánh giá cũng chỉ phản ánh
được yêu cầu kiến thức là học thuộc lòng mà không đánh giá được kỹ năng,
thái độ cũng như sự sáng tạo linh hoạt của học sinh.
- Đối với việc kiểm tra viết (gồm kiểm tra 15’, kiểm tra 45’
hay thi học kỳ) cũng rơi vài tình trạng là giáo viên chỉ đưa ra câu hỏi chủ
23
yếu dưới dạng trả lời các sự kiện mang tính chất học thuộc lòng, ít khi đưa
ra các câu hỏi yêu cầu học sinh trả lời: tại sao, phân tích, giải thích….
- Còn trong các kỳ thi tốt nghiệp (mấy năm gần đây) mặc dù
có nhiều thay đổi, song hầu hết các câu hỏi cũng chỉ đòi hỏi mức độ học
sinh học thuộc các sự kiện là chính, chỉ có một câu hỏi dành cho học sinh
giỏi.
Hiện nay, phương pháp kiểm tra còn đòi hỏi học sinh học ôm đồm,
nhồi nhét không phát huy được tư duy sáng tạo của các em, đánh giá kết
quả thì nặng về nhớ sự kiện không chú ý tới rè khả năng lập luận, kỹ năng
thực hành. Cá biệt còn có những giáo viên bộ môn dùng hình thức kiểm tra
để đe dọa học sinh, nâng ca vị trí của bộ môn, hoặc chạy theo thành tích,
ganh đua giữa lớp nọ với lớp kia. Điều này sẽ gây hậu quả nghiêm trọng về
mặt tâm lý đối với học sinh, các em bị ức chế, dẫn tới học đối phó và có

ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng dạy học bộ môn.
Qua điều tra về hình thức kiểm tra thực tế của gần 40 giáo viên các
trường phổ thông, chúng tôi đã thu được kết quả điều tra như sau:
STT Phương pháp kiểm tra Số giáo viên Phần trăm
1 Tự luận 29 72,5%
2 Trẵc nghiệm khách quan 6 15%
3 Kết hợp phương pháp tự luận và TNKQ 5 12,5%
Qua bảng điều tra trên thì thấy rằng hiện nay phương pháp kiểm tra
bằng câu hỏi tự luận vẫn được sử dụng phổ biến ở các trường phổ thông.
Điều đó chứng tỏ rằng những việc sử dụng các phương pháp dạy học, trong
có phương pháp trắc nghiệm khách quan (TNKQ) kết hợp với câu hỏi tự
luận còn rất ít. Bên cạnh những hạn chế trên nhưng cũng không phủ nhận
được rằng thực tế có nhiều giáo viên ý thức được về trách nhiệm của bộ
môn và vai trò của kiểm tra – đánh giá bắt nguồn từ quan niệm đúng về
kiểm tra – đánh giá. Ngoài việc hoàn thành các bài về kiểm tra – đánh giá
bắt buộc của sở giáo dục, họ cũng thực hiêhn những bài kiểm tra để tìm
hiểu tình hình học tập của học sinh. Họ nắm chắc lý luận về kiểm tra –
24
đánh giá nên thực hiện đúng nội dung, phương pháp kiểm tra – đánh giá
nên thực hiện đúng nội dung, phương pháp kiểm tra, vì vậy nên các hình
thức kiểm tra phong phú: kiểm tra miệng, kiểm tra viểt, kiểm ra hoạt động
tự học và ngoại khoá. Phương pháp kiểm tra là bằng câu hỏi tự luận, trắc
nghiệm khách quan được kết hợp khá phong phú. Công việc này được thực
hiện khá nghiêm túc, đánh giá đúng đắn, chính xác thậm chí có nhiều giáo
viên sửa chữa bài cho từng học sinh, có giờ trả bài, nhận xét rút kinh
nghiệm. Điều nay đã khuyến khích tinh thần học tập của học sinh rất tốt.
Làm được như vậy học sinh làm bài kiểm tra một cách hào hứng không lo
sợ và có hứng học tập bộ môn.
2.2. Đối với học sinh
* Quan niệm:

Trong thực tế giáo dục ở nước ta, vấn đề kiểm tra – đánh giá và tự
kiểm tra, đánh giá của học sinh có hiệu quả để giúp cho học sinh tự tìm tòi,
hiểu biết, phát triển ý chí, năng lực, bồi dưỡng rèn luyện viêc độc lập học
tập chưa cao. Vẫn chưa loại bỏ được cách kiểm tra – đánh giá mang tính
thực dụng, tiến hành, thực hiện không nghiêm túc. Đa số học sinh hiện nay
ở các trường phổ thông đều có tư tưởng phân biệt môn chính, môn phụ. Vì
thế các em chỉ tập trung vào các môn chuẩn bị cho khối thi, chuẩn bị cho
nghề nghiệp sau này. Quan niệm của các em là các môn xã hội, trong đó có
môn Lịch sử là môn học bắt buộc, phải học thì học chứ rất ít em học sinh
thấy được vai trò, ý nghĩa trong việc bồi dưỡng kiến thức, tư tưởng, tình
cảm trong các môn xã hội, trong đó có môn Lịch sử. Vì thế, dẫn tới tình
trạng các em học tập đối phó, không chú trọng tới các môn phụ.
*Nội dung, phương pháp:
Xuất phát từ nội dung và phương pháp kiểm tra – đánh giá của giáo
viên như trên, cho nên dẫn tới tình trạng các em học sinh không hứng thú.
Ví dụ, tới các kỳ kiểm tra, học sinh chỉ chú trọng tới việc học thuộc lòng
25

×