Tải bản đầy đủ (.doc) (73 trang)

Quan hệ thương mại Việt Nam và Nhật Bản những năm đầu thế kỷ XXI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (544.94 KB, 73 trang )

LỜI CẢM ƠN
Để có được khóa luận ngày hôm nay cho phép em bày tỏ lòng biết ơn chân
thành, sâu sắc tới:
Trước tiên, em xin chân thành cảm ơn đến các Thầy (cô) giáo của Khoa
Quan hệ quốc tế, Trường Đại Học Đông Đô, những người đã truyền thụ và trang
bị cho chúng em những kiến thức nền tảng cũng như chuyên môn cần thiết và bổ
ích giúp chúng em tự tin hơn với công việc trong tương lai.
Em cũng xin được cám ơn các thầy cô giáo bộ môn, những người đã truyền đạt
cho em những kiến thức cơ bản cần thiết để trở thành cử nhân Quan hệ quốc tế!
Đặc biệt, em xin gửi lời cám ơn sâu sắc tới PGS.TS Ông Thị Đan Thanh cô
đã truyền đạt cho em kiến thức về thương mại trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc
tế, đã giúp đỡ và tận tình hướng dẫn em hoàn thành khóa luận này.
Cuối cùng, em xin cảm ơn gia đình, người thân và bạn bè đã luôn luôn động
viên, và giúp đỡ em trong suốt thời gian vừa qua.
Do hạn chế về thời gian, khóa luận không tránh khỏi những sai sót và hạn
chế, em rất mong được sự đóng góp ý kiến của thầy cô giáo và các bạn.
Em xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, ngày 26 tháng 03 năm 2012
Sinh viên
Dương Thị Vân
MỤC LỤC
NHẬP KHẨU 23
TỶ LỆ SO VỚI NĂM TRƯỚC (%) 23
CÁN CÂN MẬU DỊCH 23
STT 40
TÊN HÀNG 40
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
STT
CHỮ
VIẾT
NGHĨA ĐẦY ĐỦ


TIẾNG ANH TIẾNG VIỆT
1 APEC Asia-Pacific Economic
cooporation
Diễn đàn hợp tác kinh tế
châu Á Thái Bình Dương
2 ASEAN Association of Southeast
Asian Nations
Hiệp hội các quốc gia Đông
Nam Á
3 EU European Union Liên minh châu Âu
4 FDI Foreign Direct Investmen Đầu tư trực tiếp nước ngoài
5 GDP Gross Domestic Product Tổng sản phẩm quốc nội
6 KNXK Foreign Direct Investmen Kim ngạch xuất khẩu
7 NK Nhập khẩu
8 ODA Official Development
Assistance
Hỗ trợ phát triển chính thức
9 XK Xuất khẩu
10 VCCI Việt Nam Chamber of
Commerce and Industry
Phòng Thương mại và công
nghiệp Việt Nam
11 VJEPA Viet Nam – JaPan Economic
Partnership Agreement
Hiệp định đối tác kinh tế Việt
Nam – Nhật Bản
12 WTO World Trade Organization Tổ chức thương mại thế giới
DANH MỤC BẢNG BIỂU
BẢNG
NHẬP KHẨU 23

TỶ LỆ SO VỚI NĂM TRƯỚC (%) 23
CÁN CÂN MẬU DỊCH 23
STT 40
TÊN HÀNG 40
BIỂU
Biểu đồ 1.1: Cơ cấu giá trị xuất khẩu hàng hóa phân theo nhóm hàng (%)
(2005- 2008 - 2010) Error: Reference source not found
Biểu đồ 1.2: Cơ cấu giá trị nhập khẩu hàng hóa phân theo nhóm hàng (%)
(2005 - 2008 - 2010) Error: Reference source not found
Biểu đồ 2.1: So sánh cán cân mậu dịch của Việt Nam - Nhật Bản và của
Việt Nam 1991 - 2010 Error: Reference source not found
Biểu đồ 2.2: Tỷ trọng hàng xuất khẩu Việt Nam sang Nhật Bản từ 2008 – 2010
Error: Reference source not found
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ngày nay trên thế giới xu hướng toàn cầu hóa và khu vực hóa đang diễn ra
mạnh mẽ. Trong điều kiện đó việc củng cố và mở rộng các quan hệ kinh tế vả kinh
doanh quốc tế có ý nghĩa rất quan trọng.
Nền kinh tế thế giới đang chuyển hướng mạnh mẽ từ bờ Đại Tây Dương sang
bờ Thái Bình Dương. Với sự phát tiển mạnh mẽ của nhiều nền kinh tế khu vực cho
phép ta đánh giá và nhìn nhận sự chuyển biến tích cực trong cục diện kinh tế khu
vực. Trong đó Châu Á là một trung tâm kinh tế lớn của thế giới với sự phát triển
vượt bậc kinh tế của khu vực này trong những năm gần đây đã gây ngạc nhiên cho
thế giới với hiện tượng bốn con rồng Châu Á, ASEAN Trong sự phát triển đó có
đóng góp lớn của Nhật Bản, một siêu cường kinh tế trên thế giới, với sự phát triển
thần kỳ về kinh tế và với nền công nghệ hiện đại Nhật Bản đã và đang có vai trò
ngày càng lớn trong việc thu xếp, điều chỉnh các mối quan hệ quốc tế và khu vực.
Thương mại của Nhật Bản cũng đóng vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế
quốc dân của nước này. Nhật Bản là nước nghèo tài nguyên cho nên không có con
đường nào khác tốt hơn để đưa quốc gia đi lên bằng việc hướng các hoạt động

kinh tế của mình ra bên ngoài và Nhật Bản đã thành công trong việc lựa chọn
đường lối phát triển hướng ra xuất khẩu. Xuất khẩu trở thành động lực của sự
tăng trưởng kinh tế. Nhật Bản là nước có tổng kim ngạch xuất nhập khẩu lớn
thứ tư thế giới và là nước xuất siêu, mặc dù mấy năm gần đây kinh tế Nhật Bản
còn gặp nhiều khó khăn.
Nằm trong cùng khu vực, Việt Nam có nhiều điều kiện thuận lợi để mở rộng
mối quan hệ kinh tế đối ngoại đặc biệt là thương mại với Nhật Bản nhờ đó Việt
Nam tận dụng được nguồn vốn, đào tạo được nguồn nhân lực và phát triển kinh tế.
Nhưng hiện nay sự trao đổi thương mại giữa Việt Nam và Nhật Bản đã tương
xứng với tiềm năng và xu hướng diễn ra như thế nào? Làm thế nào để thúc đẩy
quan hệ thương mại giữa hai nước? Đó là vấn đề được rất nhiều người quan tâm,
có ý nghĩa thiết thực và lâu dài.
1
Là sinh viên khoa Quan hệ quốc tế, nghiên cứu mối quan hệ thương mại giữa
các nước là rất cần thiết để phục vụ cho công tác sau này áp dụng lý luận đã học
vào thực tiễn công việc và chính những lý do trên em chọn đề tài nghiên cứu của
mình là: "Quan hệ thương mại Việt Nam và Nhật Bản những năm đầu thế kỷ
XXI".
2. Mục đích của đề tài
Thông qua việc phân tích, đánh giá thực trạng trong quan hệ thương mại giữa
Việt Nam và Nhật Bản nhằm phân tích, phán đoán xu hướng phát triển và đưa ra
những biện pháp nhằm thúc đẩy mối quan hệ này.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Trên cơ sở những mục tiêu trên, đề tài tập trung vào các vấn đề sau:
- Tổng quan một số cơ sở lý luận và thực tiễn về quan hệ thương mại Quốc tế
và mối quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Nhật Bản.
- Thực trạng quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Nhật Bản trong những
năm đầu thế kỷ XXI.
- Triển vọng phát triển trong quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Nhật Bản
những năm tới định ra một số giải pháp để thúc đẩy quan hệ thương mại giữa Việt

Nam và Nhật Bản trong những năm tới.
4. Giới hạn đề tài
4.1. Về nội dung: Tập trung nghiên cứu vào hoạt động xuất nhập khẩu của
Việt Nam và Nhật Bản
4.2. Về thời gian: Đề tài sẽ tập trung vào mối quan hệ thương giữa Việt Nam
và Nhật Bản trong những năm đầu thế kỷ XXI.
5. Quan điểm nghiên cứu
5.1. Quan điểm tổng hợp
5.2. Quan điểm hệ thống
5.3. Quan điểm lịch sử - viễn cảnh
6. Các phương pháp nghiên cứu
6.1. Phương pháp làm việc trong phòng
6.2. Phương pháp thống kê
6.3. Phương pháp so sánh, phân tích, đánh giá, tổng hợp
2
6.4. Phương pháp biểu đồ
Là trực quan và tổng hợp kết quả nghiên cứu.
7. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, luận văn bao gồm ba chương:
- Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển Quan hệ thương mại Quốc tế.
- Chương 2: Quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản giai đoạn 2000 - 2010
- Chương 3: Triển vọng phát triển quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản
và một số giải pháp đẩy mạnh việc xuất khẩu hàng hóa Việt Nam sang Nhật Bản.
3
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN
QUAN HỆ THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Khái niệm chung về thương mại Quốc tế
Thương mại Quốc tế là hoạt động trao đổi, mua, bán hàng hóa và dịch vụ

vượt biên giới một quốc gia, thông qua các hoạt động xuất - nhập khẩu. Trong đó,
xuất khẩu là việc bán hàng hóa và dịch vụ ra nước ngoài, còn nhập khẩu là việc
mua hàng hóa và dịch vụ từ nước ngoài.
Xuất khẩu: là hoạt động đem hàng hóa và dịch vụ sản xuất trong nước đi tiêu
thụ ở nước ngoài.
Nhập khẩu: cũng là một hoạt động của thương mại Quốc tế, đó là hàng hóa và
dịch vụ sản xuất ở nước ngoài được tiêu thụ ở trong nước.
Thương mại Quốc tế là hoạt động kinh tế có từ lâu đời (từ thời cổ đại nhưng
quy mô lúc đó còn nhỏ bé). Thương mại Quốc tế chỉ thực sự phát triển trong thời
đại tư bản chủ nghĩa và trở thành động lực phát triển quan trọng của phương thức
sản xuất tư bản chủ nghĩa. Ngày nay, thương mại Quốc tế không chỉ là quan hệ
mua bán với bên ngoài mà còn có ý nghĩa là cùng với quan hệ kinh tế đối ngoại
khác giúp một quốc gia, vùng lãnh thổ tham gia vào phân công lao động quốc tế và
khu vực.
Thương mại quốc tế bao gồm thương mại hàng hóa hữu hình như xe hơi, máy
móc, quần áo, nguyên nhiên vật liệu, hàng nông sản ; thương mại hàng hóa vô
hình như bằng phát minh sáng chế, dịch vụ bảo trì máy móc , gia công thuê cho
nước ngoài và thuê nước ngoài gia công, tái xuất khẩu, chuyển khẩu và xuất khẩu
tại chỗ. Trong đó, quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Nhật Bản chủ yếu là
thương mại hàng hóa hữu hình, tái xuất khẩu, chuyển khẩu và xuất khẩu tại chỗ.
1.1.2. Cơ sở để hình thành và phát triển quan hệ Thương mại Quốc tế
Thứ nhất, thương mại Quốc tế bắt nguồn từ sự đa dạng về điều kiện tự nhiên
của các quốc gia. Mỗi quốc gia có những điều kiện đất đai, khí hậu, khoáng sản,
4
khác nhau dẫn đến một thực tế là mỗi quốc gia có lợi thế riêng trong việc sản xuất
một số mặt hàng nào đó. Nhưng nhu cầu của con người là rất đa dạng do vậy các
quốc gia phải thông qua trao đổi hàng hóa để thỏa mãn nhu cầu của người tiêu
dùng trong nước, đồng thời cân bằng phần dư thừa loại sản phẩm trong nước sản
xuất được với sự thiếu hụt các loại sản phẩm khác.
Thứ hai, do sự phát triển không đồng đều về kinh tế, khoa học - kỹ thuật giữa

các quốc gia dẫn đến sự khác nhau về điều kiện tái sản xuất (chẳng hạn: nguồn
vốn, trình độ kỹ thuật, công nghệ, trình độ quản lý, nhân lực ). Điều đó đòi hỏi
các quốc gia phải trao đổi với nhau thông qua thương mại Quốc tế cũng như các
hoạt động kinh tế quốc tế khác, nhằm đạt tới sự phát triển cân bằng.
Thứ ba, dựa trên lý thuyết về lợi thế so sánh. Những lợi ích của hoạt động
ngoại thương, về lý thuyết đã được chỉ ra trong cuốn Những nguyên tắc về kinh tế
chính trị và đánh thuế năm 1897 của nhà kinh tế học người Anh David Racardo.
Mô hình của ông về lợi thế so sánh là tư tưởng kinh tế thống lĩnh trong suốt thế kỷ
19. Mô hình này cho thấy rằng thương mại là một cuộc chơi không có người thua,
tức là tất cả các bên tham gia thương mại đều được hưởng lợi, kể cả trong trường
hợp một bên có lợi thế tuyệt đối về tất cả các loại hàng hóa và dịch vụ.
Chúng ta đều biết rằng khi tham gia vào hoạt động ngoại thương nghĩa là các
quốc gia đã tham gia vào sự phân công lao động quốc tế và như vậy, họ có thể lựa
chọn cho mình những ngành mang lại lợi ích kinh tế cao hơn. Mỗi nước sẽ được
hưởng lợi hơn khi thay vì phải sản xuất những hàng mình không có điều kiện thuận
lợi để phát triển thì họ sản xuất những mặt hàng có điều kiện thuận lợi rồi đem trao
đổi lấy những thứ mình cần. Ngay cả trong trường hợp một nước có điều kiện
thuận lợi, có khả năng sản xuất tất cả các sản phẩm với giá thành thấp hơn tất cả
các nước khác thì hoạt động thương mại vẫn đem lại lợi ích cho họ. Bằng chứng là
các nước phát triển nhất lại là những nước có kim ngạch ngoại thương lớn nhất và
chính lợi ích kinh tế lại thôi thúc họ mở rộng quy mô hoạt động ngoại thương.
Lý thuyết về lợi thế so sánh chính là nguyên nhân quan trọng khiến cho
thương mại Quốc tế ngày càng phát triển theo chiều sâu.
5
Thứ tư, ngoài lợi ích về kinh tế, ngoại thương còn đem lại nhiều lợi ích khác.
Ngoại thương đảm bảo cung cấp cho các quốc gia những sản phẩm đáp ứng nhu
cầu chiến lược, mang tính thời đại, sống còn của nền kinh tế. Ví dụ: Dầu khí đối
với những quốc gia không có dầu mỏ; máy móc, thiết bị đối với những nước đang
phát triển; kim loại màu đối với các nước công nghiệp, Ngoại thương cũng là con
đường để du nhập các tiến bộ khoa học - kỹ thuật; tạo ra nhân tố để thúc đẩy sự

phát triển trong nước thông qua việc tạo ra một thực thể cạnh tranh mới. Thương
mại từ lâu không chỉ đơn thuần là thương mại hàng hóa mà còn bao gồm dịch vụ,
trí tuệ. Là một hoạt động kinh tế nhưng ngày nay, ngoại thương không chỉ ảnh
hưởng tới sự phát triển kinh tế mà còn có vai trò chính trị. Nhiều nước thông qua
ngoại thương để phát huy ảnh hưởng của mình ra ngoài biên giới.
Thứ năm, thành tựu của cuộc khoa học - kỹ thuật đã thúc đẩy mạnh mẽ sự hội
nhập quốc tế. Trước hết, tiến bộ khoa học - kỹ thuật làm cho nền kinh tế - xã hội
phát triển, đồng thời làm nảy sinh những nhu cầu mới không thể thỏa mãn bằng
những gì con người có trên quê hương, đất nước mình. Một trong những nhu cầu ấy là
nhu cầu kinh tế, bao gồm việc tìm kiếm nguồn tài nguyên bổ sung và mở rộng thị
trường tiêu thụ. Mặt khác, tiến bộ khoa học - kỹ thuật tạo ra kỳ tích quan trọng hàng
đầu là khắc phục có hiệu quả trở ngại về không gian địa lý. Tiến bộ trong ngành giao
thông vận tải, thông tin liên lạc dường như biến thế giới từ "tròn" sang "phẳng" như
cách nói của T.L.Friedman, tác giả của những cuốn sách nổi tiếng như: "Thế giới
phẳng" hay "Chiếc Lexus và cây ô liu", cho rằng thế giới hiện nay đang trở thành một
thực thể thống nhất, mọi ranh giới địa lý trở nên không còn ý nghĩa.
Như vậy, cơ sở để phát triển quan hệ thương mại quốc tế không chỉ do sự
khác biệt về nguồn lực (tự nhiên, kinh tế - xã hội), mà còn do sự đa dạng trong nhu
cầu; không chỉ mang lại lợi ích kinh tế mà còn lợi ích chính trị - xã hội; được thúc
đẩy bởi các thành tựu rực rỡ của cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật. Việc phát
triển quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản cũng không nằm ngoài những cơ
sở nói trên. Đặc biệt, trong bối cảnh Việt Nam là nước đang phát triển còn Nhật
Bản là nước có nhiều thế mạnh về kinh tế - xã hội và thương mại Quốc tế thì động
lực thúc đẩy quan hệ hai nước càng mạnh mẽ.
6
1.1.3. Vai trò của thương mại Quốc tế đối với sự phát triển kinh tế của mỗi
quốc gia
Trong bối cảnh khu vực hóa - toàn cầu hóa đang trở thành một xu hướng phát
triển tất yếu của nền kinh tế các nước thì vai trò của ngoại thương (thương mại
Quốc tế) rất quan trọng. Đặc biệt đối với các nước đang phát triển như Việt Nam

thì việc phát triển các quan hệ kinh tế đối ngoại nói chung và ngoại thương nói
riêng có ý nghĩa quan trọng hơn bao giờ hết. Nó làm nền kinh tế của mỗi nước
thực sự là một bộ phận khăng khít của nền kinh tế thế giới, thông qua hai hoạt
động cơ bản là xuất khẩu và nhập khẩu.
Hoạt động xuất - nhập khẩu đóng vai trò quan trọng cho sự phát triển, tăng
trưởng của nền kinh tế và có ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống kinh tế, xã hội thị
trường nội địa. Cụ thể là:
Thứ nhất, khai thác lợi thế trong nước
Mỗi quốc gia trên thế giới có những lợi thế riêng về các điều kiện tự nhiên
cũng như kinh tế - xã hội. Phát triển hoạt động ngoại thương giúp các nước khai
thác tốt được các lợi thế của mình, tiến hành trao đổi với các nước khác. Thông
qua sự trao đổi đó tạo ra được các nguồn lực mới (như vốn, công nghệ, kinh
nghiệm quản lý,…) tác động trở lại, thúc đẩy kinh tế trong nước phát triển.
Thứ hai, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế đất nước theo hướng hiện đại
Đối với các nước đang phát triển, thương mại Quốc tế tạo cơ sở cho quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo những bước đi
thích hợp là một biện pháp khắc phục tình trạng đói nghèo và chậm phát triển ở
các nước này.
Để công nghiệp hóa đất nước trong một thời gian ngắn cần có vốn, trang thiết
bị, máy móc, công nghệ tiên tiến. Những yếu tố này có thể có được thông qua
nhiều con đường khác nhau như: thu hút vốn đầu tư nước ngoài, vay nợ, tự nghiên
cứu,… và đặc biệt là thông qua hoạt động xuất nhập khẩu. Ở các nước đang phát
triển, quy mô và trình độ nền sản xuất còn hạn chế, do vậy nhu cầu nhập khẩu là
rất lớn. Hơn nữa, trong giai đoạn đầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đòi hỏi
phải nhập khẩu một lượng lớn các nguyên vật liệu, máy móc thiết bị hiện đại mà
7
trong nước chưa có đủ khả năng để sản xuất. Đây chính là biện pháp hữu hiệu để thực
hiện chiếc lược "đi tắt, đón đầu" nhằm tránh nguy cơ tụt hậu quá xa. Vì vậy, thương
mại Quốc tế chính là nhân tố quan trọng tạo cơ sở cho tiến trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, góp phần xây dựng cơ cấu kinh tế hiện đại hơn cho các nước đang phát

triển, tăng tỷ lệ xuất khẩu hàng hoá của các ngành côn nghiệp đòi hỏi hàm lượng khoa
học cao, giảm tỉ lệ các ngành nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế.
Thứ ba, thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển
Xuất nhập khẩu góp phần tạo ra những tiền đề kinh tế - kỹ thuật nhằm cải tạo
và nâng cao năng lực sản xuất trong nước. Qua hoạt động xuất nhập khẩu, mỗi
nước có thêm nguồn vốn để đầu tư cho sản xuất, có điều kiện hiện đại hóa và mở
rộng quy mô sản xuất trong nước, tạo ra năng lực sản xuất mới. Nó tạo ra khả năng
mở rộng thị trường, góp phần giữ vững và nâng cao năng lực sản xuất.
Thông qua xuất nhập khẩu, hàng hóa được tham gia vào cuộc cạnh tranh trên
thị trường thế giới về giá cả, chất lượng, dịch vụ kèm theo. Nó đòi hỏi mỗi nước
phải tổ chức sản xuất hình thành cơ cấu sản xuất thích nghi với thị trường, các
doanh nghiệp phải năng động, nhạy bén với sự thay đổi của thị trường, thường
xuyên đổi mới công nghệ, hoàn thiện công tác quản lý, cải tiến mẫu mã, nâng cao
chất lượng sản phẩm, tạo dựng thương hiệu để nâng cao sức cạnh tranh của hàng
hóa trên thị trường. Nhờ đó sản xuất ngày càng phát triển.
Mặt khác, hoạt động xuất nhập khẩu còn góp phần thúc đẩy sự phát triển của
các ngành kinh tế khác như: dịch vụ, giao thông vận tải, thông tin liên lạc…
Với sự tác động toàn diện đến các ngành kinh tế như vậy, thương mại Quốc tế
sẽ góp phần vào việc thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại và
hình thành cơ cấu kinh tế tối ưu cho mỗi quốc gia.
Thứ tư, tác động tích cực giải quyết công ăn việc làm, cải thiện đời sống
nhân dân
Hiện nay, thất nghiệp đang trở thành vấn đề gay gắt đối với tất cả các quốc
gia trên thế giới. Nó gây ra những tác động tiêu cực đến quá trình phát triển kinh tế
- xã hội: lãng phí nguồn nhân lực, nghèo đói, tệ nạn xã hội…
8
Để giải quyết vấn đề này, đẩy mạnh xuất nhập khẩu là một biện pháp hữu
hiệu. Thông qua các hoạt động này, quy mô các ngành sản xuất được mở rộng,
nhiều ngành nghề mới ra đời. Đồng thời, khi hoạt động ngoại thương phát triển sẽ
thúc đẩy các mối quan hệ đối ngoại khác: du lịch, xuất khẩu lao động, đầu tư nước

ngoài… Do đó sẽ thu hút nhiều lao động, góp phần giải quyết công ăn việc làm.
Xuất nhập khẩu làm đa dạng, phong phú thêm chủng loại hàng hóa tiêu dùng,
phục vụ ngày càng tốt nhu cầu của nhân dân.
Bên cạnh đó, xuất khẩu là nguồn thu ngoại tệ chính của các doanh nghiệp, khi
nguồn thu ngoại tệ ngày càng lớn, các nhà sản xuất sẽ đầu tư để mở rộng quy mô
sản xuất, khi đó nhu cầu lao động sẽ tăng lên. Ngày nay, trước sự cạnh tranh khốc
liệt của nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp phải tăng cường đầu tư, đổi mới
dây chuyền công nghệ để nâng cao chất lượng sản phẩm. Qua đó, yêu cầu lao động
có kỹ thuật cao tăng lên, thay thế dần lao động chân tay, lao động trình độ thấp.
Như vậy, xuất khẩu không chỉ giải quyết một số lượng lớn lao động cho mỗi quốc
gia mà còn góp phần nâng cao trình độ lao động, cải thiện tiền lương và nâng cao
chất lượng cuộc sống cho người dân.
Thứ năm, nâng cao vị thế, vai trò của đất nước đối với nền kinh tế thế giới
Thương mại Quốc tế là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy quan hệ kinh tế đối
ngoại. Xuất nhập khẩu và các hoạt động kinh tế đối ngoại có quan hệ chặt chẽ, tác
động qua lại với nhau. Xuất nhập khẩu xuất hiện sớm hơn các hoạt động khác, sự
phát triển của nó thúc đẩy các hoạt động kinh tế đối ngoại khác phát triển. Chẳng
hạn, khi xuất nhập khẩu phát triển sẽ tạo điều kiện mở rộng quy mô và năng lực
sản xuất trong nước, nhờ đó thúc đẩy các quan hệ tín dụng, đầu tư quốc tế, chuyển
giao công nghệ… Ngược lại, hoạt động kinh tế đối ngoại khác phát triển cũng kích
thích hoạt động xuất nhập khẩu phát triển.
Như vậy, hiện nay đẩy mạnh quan hệ kinh tế đối ngoại nói chung và hoạt
động xuất nhập khẩu nói riêng được coi là vấn đề có ý nghĩa chiến lược đối với
mỗi quốc gia nói chung và Việt Nam nói riêng. Vì vậy, việc xây dựng và phát triển
quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản là rất cần thiết và có cơ sở vững chắc,
phù hợp với xu thế thời đại.
9
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Quan hệ thương mại của Việt Nam với các nước trên thế giới và khu
vực qua các giai đoạn

 Hoàn cảnh trong nước và Quốc tế
a. Trước đổi mới (1986)
Trước cách mạng tháng 8/1945, quan hệ buôn bán của Việt Nam thời kỳ phong
kiến chủ yếu là với Trung Quốc, Nhật Bản, Hà Lan, Bồ Đào Nha… Hàng hóa bán ra
bao gồm nông lâm hải sản quý hiếm có sẵn trong tự nhiên như ngà voi, nấm hương,…
hàng thủ công như lụa, đồ mỹ nghệ… Hàng hóa buôn bán không phải do công nghiệp
sản xuất mà chỉ là những sản phẩm thủ công, phụ thuộc vào người mua đặt hàng. Thời
kỳ này, hàng hóa mua chia làm ba loại: để thỏa mãn tiêu dùng xa hoa của vua quan
phong kiến như lụa là, gấm vóc hổ phách…, để gìn giữ xã tắc như vũ khí…, để phục
vụ tiêu dùng trong nhân dân như gương lược, thuốc men…
Nhìn chung, tính chất của thương mại quốc tế thời kỳ này không có cơ sở
kinh tế thúc đẩy, hoạt động thương mại quốc tế hầu như chỉ mang tính bị động,
phụ thuộc vào bên mua.
Sang thời kỳ Pháp thuộc, nền kinh tế nước ta là nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu,
công nghiệp chỉ tập trung vào khai thác tài nguyên thiên nhiên (Chủ yếu là công nghiệp
khai khoáng); công nghiệp chế biến nhỏ bé, tập trung vào những ngành sử dụng nhiều
lao động và nguyên liệu tại chỗ hoặc những ngành đầu tư ít vốn, thu nhiều lợi nhuận,
thu hồi vốn nhanh. Với nền kinh tế như vậy, thương mại quốc tế kém phát triển cả về
quy mô, chủng loại mặt hàng và thị trường. Xuất khẩu chủ yếu của nước ta thời kỳ này
là nông sản và khoáng sản với 3 mặt hàng chủ yếu là gạo, cao su, than đá. Nhập khẩu
chủ yếu là hàng tiêu dùng và một số nhiên liệu như xăng dầu, bông vải. Máy móc thiết
bị cũng có nhập nhưng chiếm tỷ lệ thấp, từ 1,4% đến 8,8%.
Từ 1954 - 1975 Đất nước chia hai miền vừa xây dựng kinh tế ở Miền Bắc
Từ 1975 - 1986 thống nhất đất nước.
b. Sau đổi mới
Từ sau năm 1986, hoạt động ngoại thương ủa Việt Nam có nhiều chuyển biến
quan trọng diễn ra trong bối cảnh trong nước và Quốc tế có nhiều biến động.
Ngay những năm đầu khi đất nước bước vào công cuộc đổi mới, hoạt động
ngoại thương đã vấp phải những khó khăn khi đất nước đang trong thời kỳ quá độ
10

chuyển hướng từ nền kinh tế vận hành theo cơ chế kế hoạch tập trung quan liêu bao
cấp sang nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường. Cùng với hoạt động kinh tế,
việc quản lý nhà nước về hoạt động ngoại thương cũng có những thay đổi quan trọng.
Chuyển hoạt động ngoại thương từ cơ chế tập trung, bao cấp sang hạch toán
kinh doanh.
Mở rộng quyền kinh doanh xuất nhập khẩu trực tiếp cho các cơ sở sản xuất
thuộc các thành phần kinh tế, xóa bỏ độc quyền.
Tăng cường sự quản lý thống nhất của nhà nước đối với mọi hoạt động xuất
nhập khẩu bằng pháp luật và chính sách, chủ yếu là thông qua chính sách thuế.
Do nhận thấy lợi ích của hoạt động ngoại thương như một nhân tố quyết định
đưa nền kinh tế Việt Nam thoát khỏi khủng hoảng nền Đảng ta đã xác định "Việt
Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng Quốc tế".
Trên thực tế Việt Nam đang hội nhập ngày càng sâu, rộng vào nền kinh tế thế
giới trong trào lưu hội nhập kinh tế khu vực và thế giới đang diễn ra như một xu
thế khách quan.
Ngay từ giữa những năm 70 của thế kỷ XX, nước ta đã gia nhập Hội đồng
tương trợ kinh tế (SEV), tích cực tham gia phong trào không liên kết và đặc biệt là
tổ chức Liên Hợp Quốc đồng thời tham gia tích cực vào các liên kết kinh tế -
thương mại Quốc tế như ASEAN, APEC, WTO. Đã ký kết hiệp định thương mại
với hơn 80 quốc gia trên thế giới và thực hiện chế độ tối huệ quốc với 72 quốc gia.
Nếu năm 1990 Việt Nam mới có quan hệ buôn bán với 72 nước và vùng lãnh thổ
thì đến năm 1995 con số này là trên 100, đến năm 2001 là trên 170, năm 2005 là
210 trong đó xuất khẩu là 195 và nhập khẩu là 202.
Quá trình hội nhập của Việt Nam chủ yếu được thực hiện dần dần từng bước
theo ba lĩnh vực trọng tâm là tự do hóa thương mại, tự do hóa đầu tư nước ngoài và
mở cửa thu nhận tri thức nước ngoài thông qua công nghệ thông tin. Quá trình hội
nhập của nước ta được xác định qua các mốc cơ bản sau:
Năm 1987, ban hành luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam nhằm thu hút các
doanh nghiệp nước ngoài vào sản xuất kinh doanh.
Năm 1993, Việt Nam khai thông quan hệ với IMF, WB, ADB tạo niềm tin

11
cho các nhà đầu tư nước ngoài và cộng đồng Quốc tế về đường lối chính sách phát
triển kinh tế của Việt Nam.
Tháng 6/1996 Việt Nam được công nhận là quan sát viên Hiệp định chung về
Thuế quan và Thương mại (GATT).
Tháng 7/1995, Việt Nam gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
(ASEAN). Điều này đã tạo ra thế và lực mới cho nước ta trong quan hệ với các
nước trên thế giới. Đồng thời cùng tham gia hàng loạt các chương trình hợp tác về
thương mại và đầu tư trong khu vực, Việt Nam đã ký nghị định thư về thực hiện
Chương trình cắt giảm Thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) nhằm hoàn thành Khu
vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA). Tham gia khu vực mậu dịch tự do, Việt Nam
cam kết giảm dần và tiến tới loại bỏ hàng rào thuế quan và phi thuế quan.
Thông qua ASEAN, Việt Nam ngày càng mở rộng mối quan hệ thương mại
với Nhật Bản bằng việc tham gia vào Hiệp định thương mại giữa Nhật Bản -
ASEAN. Tham gia vào Hiệp định này sẽ đem lại cho Việt Nam nhiều lợi ích đáng
kể, cả về chính trị và kinh tế, đồng thời mở ra những cơ hội hợp tác và phát triển to
lớn về thương mại hàng hóa.
Tháng 11/1998 Việt Nam gia nhập Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu Á - Thái
Bình Dương (APEC), tham gia vào diễn đàn này Việt Nam cam kết tự do hóa
thương mại và đầu tư vào năm 2020 trên 15 lĩnh vực: Thuế quan và phi thuế quan,
thủ tục hải quan,…
Ngày 13/7/2000 tại Washington, Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ
đã chính thức được ký kết. Đây là một sự kiện lớn, đánh dấu một bước quan trọng
trong việc mở rộng quan hệ hợp tác thương mại giữa hai quốc gia.
Cuối năm 2006 Hoa Kỳ đã thông qua Quy chế thương mại bình thường vĩnh
viễn (PNTR) đối với Việt Nam.
Ngày 7/1/2007 Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Tổ chức thương
mại thế giới (WTO). Đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong quan hệ của hai
nước.
Ngày 01/01/2010 Khu vực Mậu dịch tự do (FTA) giữa Trung Quốc và Asean

đưa vào thực thi với 6 nước Asean cũ, Việt Nam, Lào, Campuchia và Mianma.
12
Việt Nam đang tiến hành đàm phán FTA với ba nước Đông Nam Á trong đó
có EU, Nga, Nhật, Ấn Độ.
Việc tích cực tham gia vào quá trình hội nhập Quốc tế, đẩy mạnh các hoạt
động kinh tế đối ngoại đặc biệt là ngoại thương, cho thấy Việt Nam đang rất coi
trọng vấn đè này nên đây chính là động lực mạnh mẽ để đẩy mạnh hơn nữa hoạt
động buôn bán giữa Việt Nam với các nước trên thế giới nói chung, với Nhật Bản
nói riêng.
Tuy xu hướng Quốc tế hóa nền kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ nhưng trên thế
giới còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động thương mại
của nước ta: như cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á năm 1997, sự kiện khủng bố
11/9 ở Mỹ, các cuộc xung đột, chiến tranh, khủng bố, mới đây nhất là cuộc khủng
hoảng tài chính bắt nguồn từ Mỹ sau đó lan rộng ra thế giới…, đang ảnh hưởng
trực tiếp đến hoạt động ngoại thương của Việt Nam.
 Đặc trưng nổi bật của ngoại thương Việt Nam hơn hai mươi năm qua
(1986 - 2008)
Tổng kim ngạch ngoại thương tăng nhanh
Năm 1986 khi đất nước ta mới bắt đầu mở cửa tổng mức lưu chuyển ngoại
thương mới là 2,944 tỷ USD, thì đến năm 2001 con số này đã tăng lên 31,247 tỷ
USD, năm 2005 là 69,11 tỷ USD gấp 24 lần năm 1986. Năm 2006 tổng giá trị xuất
nhập khẩu đạt 84 tỷ USD, con số này của năm 2008 là 143,3 tỷ USD. Với tốc độ
tăng trưởng trung bình 5 năm của tổng kim ngạch xuất khẩu luôn ở mức cao:
Năm 2011 Xuất khẩu là: 95 tỉ USD
Nhập khẩu: 105 tỉ USD
Trong khi đó tốc độ tăng trưởng luôn ở mức thấp hơn do đó hoạt động ngoại
thương xem như một động lực phát triển kinh tế.
Tuy nhiên vẫn có thời kỳ tổng kim ngạch ngoại thương suy giảm đó là năm
1991 do hậu quả của việc mất đi thị trường truyền thống là Đông Âu và Liên Xô. Ngay
sau đó, hoạt động ngoại thương có bước chuyển biến tích cực sau nhiều năm nhập siêu

thì đến năm 1992, cán cân xuất nhập khẩu nước ta tiến tới sự cân đối và lần đầu tiên
trong lịch sử ngoại thương Việt Nam xuất siêu được 40 triệu USD. Từ năm 1993 chúng
13
ta tiếp tục nhập siêu nhưng về bản chất đã có sự khác biệt với thời kỳ trước đó. Trước
đây chúng ta nhập chủ yếu là hàng tiêu dùng, lương thực thực phẩm thì trong giai đoạn
sau chúng ta chủ yếu nhập các tư liệu sản xuất, mặt hàng tiêu dùng đã giảm xuống từ
đây kim ngạch xuất nhập khẩu của nước ta luôn giữ ở mức cao.
Như vậy, sự đẩy mạnh hoạt động ngoại thương, nhất là xuất khẩu đã trở thành
một động lực quan trọng để đẩy nhanh sự tăng trưởng kinh tế.
Biểu đồ 1.1: Cơ cấu giá trị xuất khẩu hàng hóa phân theo nhóm hàng (%)
(2005- 2008 - 2010)
Năm 2005
Năm 2008
Năm 2010
14
Trong cơ cấu giá trị xuất khẩu hàng hóa phân theo nhóm, thì các mặt hàng
phụ thuộc vào nguồn tài nguyên thiên nhiên còn nhiều như mặt hàng nông - lâm -
thủy sản có xu hướng giảm xuống từ 63% (2005) xuống còn 26% (2008) và năm
2010 con số này là khoảng 16,3% nhưng nhóm hàng này vẫn giữ vai trò quan trọng
trong xuất khẩu. Trong khi đó hàng công nghiệp nhẹ - tiểu thủ công nghiệp và
hàng công nghiệp nặng - khoáng sản tăng lên, hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ
công nghiệp có xu hướng tăng nhanh từ 29% (2005) lên 40% (2008) và 52,7%
(2010) do tận dụng được lợi thế ban đầu của quá trình công nghiệp hóa. Trong cơ
cấu hàng xuất khẩu đã bắt đầu xuất hiện các sản phẩm công nghiệp đòi hỏi hàm
lượng khoa học cao như đồ điện, điện tử, công nghệ thông tin,… tuy tỷ trọng còn
nhỏ bé nhưng có nhiều triển vọng.
Về nhập khẩu
Biểu đồ 1.2: Cơ cấu giá trị nhập khẩu hàng hóa phân theo nhóm hàng
(%) (2005 - 2008 - 2010)
Năm 2005

Năm 2008
15
Năm 2010
Trong cơ cấu hàng nhập khẩu, chiếm tỷ trọng cao là nhóm tư liệu sản xuất.
Do sự tăng nhanh của nhóm tư liệu tiêu dùng nên tỷ trọng của nhóm tư liệu sản
xuất giảm xuống, sau năm 2000 lại tiếp tục tăng do sự đẩy mạnh các hoạt động hợp
tác và đổi mới công nghệ. Tỷ trọng các mặt hàng tiêu dùng giảm mạnh do việc
kiểm soát nhập khẩu chặt chẽ hơn.
Trong tư liệu sản xuất, chiếm tỷ trọng cao nhất là nguyên, nhiên, vật liệu xu
hướng tiếp tục tăng do nhu cầu trong nước, mặt khác do các mặt hàng này có thể
cạnh tranh khốc liệt với việc sản xuất nhiều loại nguyên liệu trong nước.
Như vậy có thể nhận thấy tỷ lệ nhập siêu so với xuất khẩu đã có xu hướng
giảm xuống mặc dù giá trị tuyệt đối vẫn tăng.
Điều đó chứng tỏ ngành ngoại thương đang có chuyển biến tích cực nâng dần
tỷ trọng xuất khẩu để tiến đến sự cân bằng trong cán cân thương mại.
Với định hướng đẩy mạnh xuất khẩu, trong đó tăng nhanh tỷ trọng xuất khẩu
các sản phẩm chế biến có giá trị tăng thêm cao, giàu hàm lượng công nghệ, có sức
cạnh tranh, tạo thêm các sản phẩm xuất khẩu chủ lực mới nhưng trong cơ cấu hàng
xuất khẩu của nước ta trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hóa là những
mặt hàng tận dụng được thế mạnh ban đầu đó là những sản phẩm dựa trên nguồn
lao động, nguồn tài nguyên thiên nhiên sẵn có,… hàm lượng chế biến thấp. Do đó
các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của nước ta gồm: khoáng sản, công nghiệp nhẹ và
nông - thủy sản. Tỷ trọng của các mặt hàng này thường chiếm tỷ trọng cao từ 60 -
80% tổng giá trị xuất khẩu.
16
Thị trường có những chuyển biến quan trọng Việt Nam ngày càng mở rộng
quan hệ buôn bán với nhiều quốc gia trên thế giới với phương châm đa dạng hóa
và đa phương hóa các thị trường xuất khẩu cũng như nhập khẩu. Nếu như năm
1986 Việt Nam mới có quan hệ thương mại với 43 quốc gia và vùng lãnh thổ
(trong đó xuất khẩu là 33 nước, nhập khẩu là 38 nước) thì đến năm 2005 con số

trên là 210 nước (XK là 195 nước, nhập khẩu là 202 nước). Cùng với sự mở
rộng các thị trường xuất nhập khẩu.
1.2.2. Quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản
Mặc dù Việt Nam và Nhật Bản chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao vào
ngày 21/9/1973, song do nhiều nguyên nhân khác nhau mà quan hệ thương mại
giữa hai nước bắt đầu muộn và đã trải qua những thămg trầm qua các giai đoạn
khác nhau.
Sau năm 1975, hai bên trao đổi Đại sứ quán; ký thỏa thuận về việc chính phủ
Nhật Bản bồi thường chiến tranh với danh nghĩa viện trợ không hoàn lại của Chính
phủ Nhật Bản đối với Việt Nam 13,5 tỷ Yên (khoảng 49 triệu USD).
Giai đoạn 1979 - 1990: Do vấn đề Campuchia, Nhật Bản đông kết các khoản
viện trở đã thỏa thuận cho Việt Nam, lấy vấn đề rút quân Việt Nam khỏi
Campuchia là điều kiện cho việc mở lại viện trợ; phối hợp với Mỹ và Phương Tây
ngăn cản các tổ chức tài chính Quốc tế (IMF, WB, ADB…) cung cấp tài chính cho
Việt Nam. Quan hệ chính trị và thương mại rất hạn chế.
Từ đầu thập niên 90 của thế kỷ XX, bối cảnh thế giới đã có nhiều thay đổi
mới: Chiến tranh lạnh giữa hai hệ thống XHCN thế giới và TBCN thế giới đã kết
thúc sau khi Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu bị tan rã; toàn cầu hóa, khu vực
hóa là xu thế phát triển của thời đại, nhất là trong lĩnh vực kinh tế…
Các tác nhân bên ngoài này cùng với những nhu cầu phát triển nội sinh từ
chính mỗi nước Việt Nam và Nhật Bản, đặc biệt do Việt Nam khi này đã thực hiện
công cuộc đổi mới theo đường lối mở cửa, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan
hệ đối ngoại và kinh tế đối ngoại nên đã khiến cho quan hệ Việt Nam - Nhật Bản
trong giai đoạn này chuyển sang bước ngoặt mới và đã phát triển ngày càng mạnh
mẽ hơn trên tất cả mọi lĩnh vực khác nhau.
17
Thực tế là, sau khi những vướng mắc về vấn đề Campuchia được gỡ bỏ, tháng
11/1992 Chính phủ Nhật Bản đã là nước phát triển đầu tiên tuyên bố nối lại viện
trợ phát triển chính thức (ODA) cho Việt Nam. Cũng kể từ thời điểm này, Nhật
Bản đã luôn là đối tác kinh tế quan trọng hàng đầu của Việt Nam.

Hai nước đã giành cho nhau thuế suất tối huệ quốc bắt đầu năm 1999. Và thực
tế kể từ đầu thập niên 90 của thế kỷ XX đến nay Nhật Bản luôn là bạn hàng, thị
trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam. Những mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của
Việt Nam sang Nhật Bản là thủy sản, dệt may, dầu thô, cáp điện, đồ gỗ… Mặt
hàng nhập khẩu chủ yếu từ Nhật Bản là cơ khí, sắt thép, linh kiện điện tử, máy
tính, xe máy…
Hai nước đã tiến hành đàm phán chính thức về Hiệp định đối tác kinh tế song
phương (EPA) từ tháng 1/2007. Sau 9 phiên đàm phán, Hiệp định đối tác kinh tế
song phương (EPA) giữa Việt Nam và Nhật Bản đã được ký kết vào ngày
25/12/2008. Đây là một thỏa thuận song phương mang tính toàn diện, nhằm thúc
đẩy tự do hóa thương mại hàng hóa và dịch vụ, hợp tác kinh tế và đầu tư giữa Việt
Nam và Nhật Bản. Một trong những trọng tâm của Hiệp định là tăng cường hợp tác
kinh tế trong nhiều lĩnh vực như nông nghiệp, công nghiệp, thương mại, phát triển
nhân lực, du lịch, giao thông vận tải. Hiệp định được kỳ kết là sự kiện kinh tế -
chính trị lớn và được mong đợi trong lịch sử hơn 40 năm quan hệ Việt Nam - Nhật
Bản. Nó đánh dấu một chặng đường mới trong quan hệ thương mại giữa hai nước
và là một bước ngoặt lớn cho xuất khẩu của Việt Nam.
Quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản ngày càng tăng Nhật hiện là một
trong những nước thị trường lớn của Việt Nam nhập nhiều mặt hàng của Việt
Nam.
Sắp tới 2013 kỷ niệm 40 năm thiết lập quan hệ ngoại giao, quan hệ thương
mại giữa Việt Nam và Nhật Bản.
18
CHƯƠNG 2
QUAN HỆ THƯƠNG MẠI VIỆT NAM – NHẬT BẢN
NHỮNG NĂM ĐẦU THẾ KỶ XX
2.1. Chính sách phát triển quan hệ thương mại Việt Nam – Nhật Bản
Nhằm mục tiêu đưa kinh tế Việt Nam ngày càng phát triển sâu rộng và hội
nhập quốc tế manh hơn nữa, quan hệ thương mại song phương Việt Nam – Nhật
Bản được chính phủ hai nước đặc biệt quan tâm.

Sau một loạt những thay đổi của tình hình quốc tế và khu vực châu Á Thái
Bình Dương từ chính trị, đến an ninh, kinh tế, toàn cầu hóa và khu vực hóa trước
những năm 1992 đã tạo ra những cơ hội và thách thức cho các quốc gia cả song
phương và đa phương …, hối thúc các quốc gia thiết lập và mở rộng giao lưu kinh
tế song phương; Quan hệ kinh tế giữa hai nước Việt – Nhật được “tái lập” lại và
thúc đẩy mạnh mẽ hơn.
Nếu chúng ta coi bối cảnh quốc tế và khu vực là yếu tố tác động “bề ngoài”
thì yếu tố Việt Nam - tiếp tục đổi mới kinh tế, những lợi thế và nhu cầu lợi ích là
những yếu tố “bên trong” quan trọng thúc đẩy sự tái lập và phát triển quan hệ kinh
tế với Nhật Bản. Cả hai yếu tố này đều không thể thiếu, trong việc tạo ra cơ sở để
cho quan hệ giữa Việt Nam – Nhật Bản được phát triển.
Yếu tố Nhật Bản cũng là yếu tố “bên trong” không kém phần quan trọng trong
việc thúc đẩy quan hệ giữa hai nước. Nói khác đi chính tiềm lực kinh tế, chính sách
kinh tế đối ngoại hương về Châu Á, và lợi ích của Nhật Bản trong quan hệ với Việt
Nam đã tạo ra cơ sở trong quan hệ giữa Việt Nam – Nhật Bản được phát triển.
Trong những năm gần, đây chính phủ hai nước đặc biệt quan tâm và trú trọng
đến việc tạo những hành lang pháp lý, để tạo điều kiện thuận lợi nhất cho sự hợp
tác giữa hai bên trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt là hợp tác kinh tế. Tại hội nghị song
phương hồi tháng 10/2010 tại Hà Nội, người phát ngôn phía Nhật Bản đã nói “
hiện chính phủ Nhật Bản coi việc xúc tiến thương mại với Việt Nam là một ưu tiên
chính sách trong nỗ lực giúp các doanh nghiệp Nhật Bản làm ăn phát đạt ở thị
trường ngoài nước, trong đó có Việt Nam”.
Trong tháng 11 năm 2010, cựu Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe cũng đã đến
Việt Nam, tháp tùng theo là một đoàn những doanh nghiệp lớn, đến tìm hiểu thêm
về thị trường Việt Nam.
19
Gần đây nhất trong chuyến công du sang Việt Nam, Thủ tướng Nhật Bản
Naoto Kan và Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã có những cuộc hội đàm quan trọng
và đã ký tuyên bố chung về phát triển toàn diện quan hệ đối tác chiến lược Việt
Nam – Nhật Bản vì hòa bình và phồn vinh ở Châu Á. Những hoạt động ngoại giao

này đã cho thấy rõ lập trường của hai bên; Quyết tâm xây dựng quan hệ thương
mại hợp tác song phương Việt –Nhật lên tầm đối tác chiến lược.
2.1.1. Mục tiêu phát triển
Mục tiêu mà cả hai bên đều hướng tới trong quan hệ thương mại giữa hai bên
đều là sự hợp tác toàn diện trên mọi lĩnh vực, đặc biệt là hợp tác thúc đẩy, trao đổi
thương mại mậu dịch giữa hai bên.
Nhật Bản đang thực hiện chiến lược kinh tế đối ngoại hướng vế Châu Á, trong
đó có Việt Nam, vì Nhật đã nhìn thấy được những cơ hội và thuận lợi, ưu thế về nhiều
mặt đặc biệt là về kinh tế. Trong bối cảnh như hiện nay, chính là cơ hội lớn cho các
nhà đầu tư Nhật Bản xâm nhập và kinh doanh tại thị trường rộng lớn này.
Trong bối cảnh nền kinh tế thế giới đang hội nhập sâu rộng, tình hình khu vực
đã tạo tiền đề cho Nhật Bản thực thi tốt chính sách mở rộng hợp tác kinh tế, chính
trị và văn hóa với các nước ASEAN trong đó có Việt Nam. Thiết lập quan hệ
thương mại với Việt Nam và đẩy mạnh hợp tác với Việt Nam mà Nhật Bản cần
phải đẩy mạnh hơn nữa nhằm đạt được mục tiêu chung mà chính phủ Nhật đặt ra.
Về phía Việt Nam vẫn kế thừa và phát huy có chọn lọc, những quan điểm đổi mới
của Đảng từ Đại Hội VI, Đại Hội VII của Đảng đề ra nhằm đưa kinh tế Việt Nam phát
triển. Với nhiều biện pháp cải cách mạnh mẽ và táo bạo, sau hơn 20 năm kiên trì thực
hiện đường lối đổi mới, và mở rộng quan hệ thương mại với Nhật Bản, đã đạt được
nhưng kết quả đáng kể (năm 2010 Tổng kim ngạch thương mại giữa Việt Nam – Nhật
Bản đã đạt hơn 16 Tỷ USD).
Sự hợp tác giữa Việt Nam và Nhật Bản đang được mở rộng không chỉ trong
quan hệ song phương, mà cả ở khu vực và trên trường quốc tế, tháng 12 năm 2008 hai
nước đã ký Hiệp định đối tác Kinh tế Việt Nam – Nhật Bản (VJEPA). Quyết tâm xây
dựng quan hệ đối tác chiến lược Việt Nam – Nhật Bản.
2.1.2. Nguyên tắc
Trong suốt mấy thập niên gần đây, quan hệ thương mại Việt – Nhật không
ngừng được thiết lập, và ngày càng mở rộng hợp tác trên rất nhiều lĩnh vực. Đạt được
20
những thành công như vậy là nhờ vào quá trình lỗ lực rất lớn của cả hai bên dựa trên

nguyên tắc; tăng cường hợp tác, giao lưu trao đổi và học hỏi lẫn nhau nhằm thúc đẩy
mạnh hơn nữa sự trao đổi mậu dịch giữa hai bên.
Mục tiêu phát triển kinh tế bền vững nhằm mở đường và tạo điều kiện thuận lợi
hơn cho những hoạt động giao lưu hợp tác trên tất cả các phương diện.
Hai bên phát huy tối đa những ưu thế và kinh nghiệm nhằm giúp đỡ và trao
đổi, chuyển giao về khoa học và công nghệ, cũng như những giá trị văn hóa truyền
thống làm tiền đề cho sự hợp tác rộng rãi về kinh tế.
Việt Nam sẽ không ngừng hoàn thiện thêm hệ thống Luật pháp để tạo điều
kiện thuận lợi nhất, thu hút hơn nữa các nhà đầu tư quốc tế vào Việt Nam, trong đó
có phần lớn là các công ty Nhật.
Theo những thông tin từ phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam, trong
thời gian tới cả hai nước sẽ tăng cường đầu tư hợp tác nhiều hơn nữa tạo ra bước
đột phá mới về hợp tác kinh tế trong tương lai. Trên nguyên tắc bình đẳng, hợp tác
thân thiện hướng tới quan hệ đối tác kinh tế thân thiện nhất. Hai bên đang xúc tiến
triển khai các dự án lớn như: Dự án xây dựng đường sắt cao tốc Bắc – Nam; Dự án
đường bộ cao tốc Bắc – Nam; Xây dựng 1 nhà máy điện hạt nhân tại Việt Nam. (sử
dụng vốn vay ODA của chính phủ Nhật Bản).
2.2. Tình hình xuất nhập khẩu của Việt Nam – Nhật Bản
Quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản kể từ sau chiến tranh thế giới thứ II
cho đến nửa cuối những năm 70 của thế kỷ trước đã phôi phai đi nhiểu. Từ sau
năm 1975 người Nhật muốn thông qua các quan hệ thương mại để tác động đến lập
trường của Việt Nam về các vấn đề an ninh, chính trị trong khu vực. Kể từ sau
1989 Nhật Bản đã đẩy mạnh các quan hệ buôn bán với Việt Nam lên một nấc
thang mới. Nét nổi bật trong quan hệ thương mại Việt Nam – Nhật Bản là sự tăng
nhanh chóng các quan hệ buôn bán mậu dịch. Điều này được thể hiện rất rõ ở kim
ngạch buôn bán hai nước ngày một tăng. Nó là kết quả của hàng loạt các cuộc
viếng thăm cấp nhà nước của quan chức cấp cao giữa hai nước, nhằm tăng cường
thúc đẩy hoạt động hợp tác thương mại giữa hai bên.
2.2.1. Tăng trưởng kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam và Nhật Bản
Từ năm 1986 đến nay, ngay sau khi Việt Nam thực hiện chính sách đổi mới

nền kinh tế chuyển hướng sang nền kinh tế thị trường và thực hiện chính sách mở
21

×