Trờng đại học kinh tế quốc dân
Bộ môn: T tởng Hồ Chí Minh
Bài tiểu luận
Đề tài:
Triết lý phát triển trong t tởng Hồ Chí minh
về c lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa
xã hội. ý nghĩa đối với Việt Nam.
Giảng viên:
Sinh viên: Nguyễn Phơng Hà
Lớp: T tởng Hồ Chí Minh 4
Mã sinh viên: CQ520952
Hà Nội, ngày tháng năm
A - MỞ ĐẦU
Với dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh là sự kết tinh những gì tốt đẹp, ưu
tú nhất của trí tuệ và tư tưởng, tình cảm và đạo đức, nhân cách và lối sống
của con người và dân tộc Việt Nam. Người tiêu biểu cho cốt cách và bản
lĩnh của dân tộc, cho bản sắc văn hoá của dân tộc Việt Nam từ truyền
thống đến hiện đại. Tinh hoa của dân tộc, lương tâm và khí phách của
thời đại đã được thể hiện chân thực và cảm động, trong sáng và đẹp đẽ,
cao thượng và bất khuất qua con người, cuộc đời và sự nghiệp của Hồ
Chí Minh. Khi đã tìm thấy con đường cách mạng và nhận thức được chân
lý của thời đại cách mạng nhờ giác ngộ chủ nghĩa Mác-Lênin, với sự thức
tỉnh và cổ vũ của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917, Nguyễn Ái
Quốc đã dồn tất cả nỗ lực và tinh lực của đời mình để thực hiện đến cùng
lý tưởng và mục tiêu cách mạng: độc lập dân tộc và CNXH.
Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH là tư tưởng chính trị đặc sắc, là sợi
chỉ đỏ xuyên suốt và bao trùm trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư
tưởng này vừa phản ánh quy luật khách quan của sự nghiệp giải phóng
dân tộc trong thời đại cách mạng vô sản, vừa phản ánh mối quan hệ
khăng khít giữa mục tiêu giải phóng dân tộc với mục tiêu giải phóng giai
cấp và giải phóng con người. Đến Hồ Chí Minh, chủ nghĩa yêu nước
truyền thống đã phát triển thành chủ nghĩa yêu nước hiện đại, độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Tư tưởng đặc sắc ấy thể hiện nhất quán
mục tiêu của con đường cách mạng mà Người đã lựa chọn, nó vừa đáp
ứng được yêu cầu bức xúc của dân tộc và khát vọng của quần chúng nhân
dân giành lấy độc lập, tự do, ấm no và hạnh phúc, giải phóng cuộc đời
lầm than, đói khổ dưới ách thống trị tàn bạo của chủ nghĩa thực dân, đế
quốc và bè lũ tay sai. Tư tưởng ấy đã đưa dân tộc ta đến độc lập, tự do,
nước nhà Bắc – Nam thống nhất và ngày nay, đó là nguồn sức mạnh
trong sự nghiệp xây dựng một xã hội Việt Nam mới xã hội chủ nghĩa: dân
giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh.
Trong công cuộc đổi mới đất nước, cả nước đang đi lên xây dựng chủ
nghĩa xã hội thì vấn đề độc lập dân tộc gắn liền với CNXH vẫn giữ
nguyên tính cấp thiết của nó. Vì vậy, bài tiểu luận này về “ Triết lý phát
triển trong tư tưởng HCM về độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Ý
nghĩa đối với Việt Nam” hi vọng sẽ giúp sinh viên có nhận thức đúng
đắn và sâu sắc hơn về vấn đề này.
1
B - NỘI DUNG
I/ Triết lý phát triển trong tư tưởng HCM về độc lập dân tộc gắn liền
với Chủ nghĩa xã hội.
1.Cơ sở hình thành về tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội.
1.1Truyền thống văn hóa dân tộc.
Là người con ưu tú nhất của dân tộc, Tư tưởng HCM bắt nguồn
trước hết từ những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, quê hương gia đình.
+ Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam:
Tinh thần anh hùng bất khuất trong công cuộc dựng nước và giữ nước là
dòng chảy xuyên suốt lịch sử, là niềm tự hào dân tộc, là bản sắc văn hóa
tạo thành động lực, thành sức mạnh tồn tại và phát triển của dân tộc suốt
4000 năm. Dân tộc ta có truyền thống yêu nước, anh dũng bất khuất, đã
từng chiến thắng nhiều phong kiến , đế quốc hung hãn.
+ Truyền thống đoàn kết tương thân tương ái:
Nhân nghĩa, thủy chung, cưu mang đùm bọc, lá lành đùm lá rách,…
truyền thống này bắt nguồn từ yêu cầu chống thiên tai thường xuyên của
dân tộc. Kế thừa nâng cao truyền thống này trong quá trình Cách mạng,
Hồ Chí Minh luôn yêu cầu cán bộ, Đảng viên, Nhân dân ta phải thực hiện
bốn chữ: Đồng lòng, Đồng sức, Đồng tình, Đồng minh.
+ Truyền thống thông minh, sáng tạo, cần cù, nhẫn nại: Trong lao
động sản xuất và chống xâm lược.
+ Truyền thống hiếu học, cầu tiến, hòa hợp, lạc quan yêu đời:
Luôn sẵn sàng đón nhận những tinh hoa văn hóa của nhân loại, những tư
tưởng bài ngoại, thủ cựu, hẹp hòi, cực đoan đều xa lạ với truyền thống
con người Việt Nam, Bác Hồ là biểu hiện sống động của truyền thống tốt
đẹp này. Hồ Chí Minh tiếp thu truyền thống tốt đẹp của dân tộc bắt đầu từ
truyền thống quê hương, gia đình.
+ Truyền thống gia đình: Tư tưởng Hồ Chí Minh bắt nguồn trước
hết từ truyền thống gia đình bên nội, ngoại, nhất là Tư tưởng, phong cách
của Nguyễn Sinh Sắc - Thân sinh Hồ Chí Minh.
Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc là người bị mồ côi cha, mẹ từ nhỏ, nhà
nghèo, thông minh, có ý chí kiên cường, nghị lực quả cảm phi thường,
khắc phục mọi khó khăn quyết thực hiện bằng được chí hướng của mình,
chiếm lĩnh đỉnh cao của trí tuệ, là người sống gần gũi với dân, có lòng
thương dân sâu sắc, ông chủ trương dựa vào dân để thực hiện mọi cải
cách Chính trị, xã hội, thường xuyên trăn trở con đường cứu nước, cứu
2
dân, luôn liên hệ với Phan Bội Châu, Nguyễn Thiệu Quý, Trần Thâu, …
những người có tư tưởng yêu nước mưu đại sự.
Hồ Chí Minh chịu ảnh hưởng sâu sắc lòng vị tha, nhân hậu, thủy
chung cần mẫn của người mẹ, tình yêu thương nhân hậu sâu nặng của ông
bà ngoại,…
Tất cả những nhân cách gần gủi, thân thương đó là tác động mạnh mẽ
tới việc hình thành nhân cách Hồ Chí Minh từ tấm bé.
1.2Tinh hoa văn hóa nhân loại.
+ Tinh hoa văn hóa phương Đông:
Trước hết là Nho giáo: Hồ Chí Minh coi trọng kế thừa và phát triển
những mặt tích cực của Nho giáo. Đó là thứ triết học hành động, tư tưởng
nhập thế, hành đạo, giúp đời, triết lý nhân sinh: tu thân, dưỡng tính, đề
cao văn hóa, đạo đức, lễ giáo, nhân nghĩa, Trí, Tín, Cần, Kiệm, Liêm,
Chính. Người phê phán những hạn chế, tiêu cực của Nho giáo như tư
tưởng đẳng cấp, quân tử, tiểu nhân, chính danh định phận, coi khinh phụ
nữ, lao động chân tay, thuế nghiệp doanh lợi,…
Với Phật giáo, người tiếp thu tư tưởng vị tha, chân, thiện, từ bi, cứu
nạn, cứu khổ, thương người như thể thương thân, lối sống đạo đức, trong
sạch giản dị, chăm làm điều thiện (không nói dối, không tà dâm, không
sát sinh, không trộm cắp, không uống rượu,…)
Người tiếp thu lòng nhân ái, hi sinh cao cả của Thiên chúa giáo.
Người tiếp thu chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn (dân tộc độc
lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc)
+ Tinh hoa văn hóa Phương Tây:
Ba mươi năm sống ở nước ngoài, chủ yếu ở Châu Âu, người chịu
ảnh hưởng sâu rộng những giá trị văn hóa dân chủ và cách mạng của
phương Tây.
Người tiếp thu tư tưởng tự do, bình đẳng, bác ái của đại Cách mạng
Pháp ( Khi học ở Vinh, ở Huế, người đã chủ tâm tìm hiểu những tư tưởng
này, sau này khi trở lại Pháp 1917, người tiếp thu tận gốc những phương
pháp này trong các tác phẩm của các nhà khai sáng Pháp: Mông Teskiô,
Rút xô, Vin Tie)
Nghiên cứu Cách mạng Tư sản Mỹ 1776, người tiếp thu tư tưởng
tự do, nhân quyền. Trong tuyên ngôn độc lập của Mỹ, người gia nhập
3
công đoàn thủy thủ và tham gia các cuộc đấu tranh của chủ nghĩa chống
Tư bản (lần đầu bước vào hoạt động chính trị)
Cuộc sống, lao động và hoạt động Cách Mạng của Người gắn liền
với những người lao động, giai cấp Công nhân ở các nước chính quốc,
thuộc địa đã mang lại cho Người tình yêu thương giai cấp, yêu thương
những người lao động, những người cùng khổ một cách sâu sắc.
Nhờ tiếp thu tư tưởng dân chủ Cách mạng, phương pháp, phong
cách làm việc khoa học và được rèn luyện trong phong trào CN, sinh hoạt
ở Đảng xã hội, Đảng Cộng Sản Pháp, được sự dìu dắt của các nhà văn
hóa, khoa học, lịch sử, trí thức Pháp như M Ca Sanh, P.Cuturie, G Mông
Mut Xê, Long Ghê, Lion Blum,… Nguyễn Ái Quốc trưởng thành dần về
chính trị, tư tưởng và tổ chức.
1.3 Chủ nghĩa Mác – Lênin.
Xuất phát từ đặc điểm một nước thuộc địa và truyền thống dân tộc,
Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo tư tưởng cách mạng không ngừng của
Mác, Ăngghen và Lênin bằng việc đề ra đường lối cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân tiến lên CNXH, không qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
Hơn thế nữa, trong hoàn cảnh lịch sử của chính đất nước và bản
thân, sinh ra và lớn lên trong thời đại mà những mâu thuẫn bên trong của
chủ nghĩa tư bản, đế quốc đang gay gắt và sự vùng dậy của cách mạng
phương Đông, phát triển song song với phong trào đấu tranh của giai cấp
vô sản và lao động ở các nước tư bản chủ nghĩa, Người sớm nhận ra mâu
thuẫn cơ bản giữa chủ nghĩa đế quốc với các dân tộc thuộc địa, giữa các
đế quốc với đế quốc và mối quan hệ giữa các thuộc địa với chính quốc và
giữa các thuộc địa với nhau. Người hiểu sâu sắc quan điểm nổi tiếng của
Lênin khi cho rằng bước vào thời đại của chủ nghĩa và cách mạng vô sản,
cách mạng thuộc địa tuy vẫn còn mang nội dung dân tộc dân chủ nhưng
không còn thuộc phạm trù cách mạng tư sản kiểu cũ mà đã trở thành cách
mạng vô sản, do Đảng của giai cấp vô sản lãnh đạo. Theo Hồ Chí Minh,
cách mạng vô sản với cách mạng giải phóng dân tộc là hai dòng thác cuả
một quá trình cách mạng. Hai dòng thác ấy không chắn ngang nhau hoặc
chảy ngược chiều nhau mà là hợp lưu trong dòng thác chung của cách
mạng thế giới. Với quan niệm đó, Người luôn tìm các nhân tố thống nhất
của hai dòng thác và chính Người là người đầu tiên thực hiện thành công
sự hợp lưu hai quá trình đó trong quá trình cách mạng Việt Nam từ cách
4
mạng tháng Tám 1945 đến hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và
đế quốc Mỹ, giải phóng hoàn toàn đất nước.
1.4 Những nhân tố chủ quan thuộc về phẩm chất cá nhân của Hồ Chí
Minh:
Là người có đầu óc thông minh sáng suốt, năng lực tư duy độc lập,
sáng tạo, học vấn uyên bác, năng lực phân tích, so sánh, đối chiếu, tổng
hợp sâu sắc.
Có sự khổ công học tập, rèn luyện nhằm chiếm lĩnh vốn trí thức đồ
sộ của nhân loại, tiếp thu kinh nghiệm, bề dày của phong trào cộng sản và
chủ nghĩa quốc tế, phong trào giải phóng dân tộc.
Có tấm lòng yêu nước, thương dân, thương yêu những con người
cùng khổ vô bờ bến, một chiến sĩ cộng sản quả cảm, nhiệt thành sẵn sàng
hy sinh cho tổ quốc, nhân dân, dân tộc và nhân loại.
Có ý chí nghị lực kiên cường, những phẩm chất được tôi luyện đã
quyết định việc Hồ Chí Minh tiếp thu, chọn lọc, chuyển hóa, phát triển
những tinh hoa của dân tộc, thời đại thành những tư tưởng đặc sắc độc
đáo của mình.
2. Vấn đề dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trong tư tưởng Hồ
Chí Minh.
2.1 Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa
xã hội thể hiện qua các giai đoạn lịch sử tiêu biểu.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa
xã hội xuất hiện từ năm 1920, khi Người bắt gặp chủ nghĩa Mác-Lênin,
và nó được thể hiện rõ nét từ năm 1930. Sự thể hiện tư tưởng của Người
về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội có thể phân thành 3 thời
kỳ chủ yếu.
+ Thời kỳ 1930 - 1945
Tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với CNXH của Hồ Chí Minh
thời kỳ này thể hiện rõ trong những Văn kiện do Hồ Chí Minh soạn thảo
được Hội nghị hợp nhất thông qua. Chánh cương vắn tắt của Đảng chỉ rõ
Đảng chủ trương "làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng
để đi tới xã hội xã hội cộng sản". Hồ Chí Minh khẳng định sự nghiệp giải
phóng dân tộc ở Việt Nam được thực hiện bằng con đường cách mạng vô
sản: "Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào
khác con đường cách mạng vô sản".
+ Thời kỳ 1945 - 1954
5
Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH ở thời kỳ này được thể hiện ở
những chủ trương, đường lối chiến lược do Hồ Chí Minh khởi xướng
"vừa kháng chiến, vừa kiến quốc", "kháng chiến đi đôi với kiến quốc",
"kháng chiến hóa văn hóa, văn hóa hóa kháng chiến".
Kháng chiến tức là bảo vệ nền độc lập dân tộc, chống sự xâm lược lần
thứ hai của thực dân Pháp theo phương châm trường kỳ kháng chiến nhất
định thắng lợi.
Kiến quốc theo Hồ Chí Minh là xây dựng, củng cố Nhà nước dân
chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á, xây dựng đời sống mới, xây dựng
những cơ sở đầu tiên của chủ nghĩa xã hội.
+ Thời kỳ 1954 - 1969
Ở thời kỳ này độc lập dân tộc gắn liền với CNXH trong tư tưởng
Hồ Chí Minh thể hiện qua chủ trương: một Đảng Cộng sản lãnh đạo thực
hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược ở hai miền: xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở miền Bắc, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam,
tiến tới thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đây là
một sáng tạo lý luận của Hồ Chí Minh.
2.2 Quan niệm của Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội.
* Độc lập dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh là gì?
Độc lập dân tộc là quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm. Theo tư
tưởng cuả Hồ Chí Minh, độc lập thực sự, độc lập hoàn toàn, độc lập trong
sự thống nhất với hòa bình, độc lập phải gắn liền với tự do, dân chủ, ấm
no hạnh phúc của nhân dân.Độc lập, trong tư tưởng Hồ Chí Minh không
hcir hạn hẹp ở góc độ độc lập dân tộc, dẫu rằng độc lập dân tộc luôn luôn
là nỗi ám ảnh nghìn đời của dân tộc ta. Độc lập, ở Hồ Chí Minh còn một
tầng nghĩa nữa sâu sắc hơn, đó là vị thế của mỗi con người, trước hết là
cái quyền suy nghĩ độc lập và công khai nói lên tiếng nói độc lập.
*Chủ nghĩa xã hội theo tư tưởng Hồ Chí Minh là gì?
Theo Hồ Chí Minh, CNXH là làm cho dân giàu, nước mạnh, ai cũng
có công ăn, việc làm, được ăn no, mặc ấm, được học hành, các dân tộc
trong nước bình đẳng đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau. Về mặt phân phối sản
phẩm lao động thì chủ nghĩa xã hội là ai làm nhiều hưởng nhiều, ai làm ít
hưởng ít, ai có sức lao động mà không làm thì không hưởng, những người
già, đau yếu, tàn tật và trẻ em thì xã hội và cộng đồng có trách nhiệm chăm
sóc nuôi dưỡng. Trong chủ nghĩa xã hội, văn hóa, khoa học kỹ thuật, chính
trị và kinh tế, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được quan tâm và
ngày một nâng cao. Về mặt đối ngoại, CNXH là hòa bình, hữu nghị, làm
bạn với tất cả các nước. Chủ nghĩa xã hội với những đặc trưng đó không chỉ
6
bảo vệ những thành quả của độc lập dân tộc mà cơ bản tạo nên sự phát triển
mới vế chất. Hồ Chí Minh khẳng định chỉ có CNXH, chủ nghĩa cộng sản
mới bảo đảm cho một nền độc lập dân tộc chân chính, mới giải phóng các
dân tộc một cách thực sự, hoàn toàn.
* So sánh tư tưởng Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ
nghĩa xã hội?
Theo các nhà kinh điển Mác- Lênin, chủ nghĩa xã hội là một xã hội
có nhựng đặc trưng cơ bản sau:
Xóa bỏ từng bước chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa, thiết lập chế độ
sở hữu công cộng, để giải phóng cho sức sản xuất phát triển
Thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động, thể hiện sự công
bằng bình đẳng về lao động và hưởng thụ.
Khắc phục dần sự khác biệt về giai cấp, giữa nông thôn và thành
thị, giữa lao động trí óc và lao động chân tay, tiến tới một xã hội tương
đối thuần nhất về giai cấp.
Giải phóng con người khỏi mọi áp bức, bóc lột, nâng cao trình độ
tư tưởng và văn hóa cho nhân dân, tạo điều kiện cho con người tận lực
phát triển mọi khả năng sẵn có của mình.
Sau khi đạt được những điều nói trên, khi giai cấp không còn nữa
thì chức năng chính trị của nhà nước sẽ tự tiêu vong, v v…
Trên cơ sở kế thừa quan niệm của các nhà kinh điển Mác- Lênin về
đặc trưng bản chất của chủ nghĩa xã hội và phù hợp với điều kiện thực tế
của Việt Nam, tâm lý, tập quán, truyền thống văn hóa củ người Việt
Nam, Hồ Chí Minh đã đưa ra quan niệm của mình về đặc trưng bản chất
của chủ nghĩa xã hội như sau:
-Chính trị:
Do nhân dân lao động làm chủ.
Nhà nước của dân, do dân và vì dân, dựa trên cơ sở liên minh công
– nông- tri thức làm nền tảng, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản.
Đảm bảo mọi quyền lực thuộc về nhân dân.
-Kinh tế:
Kinh tế phát triển cao, lực lượng sản xuất hiện đại, công hữu về tư
liệu sản xuất chủ yếu.
Sản xuất có kế hoạch, sử dụng có hiệu quả các đòn bẩy kinh tế như
thuế, tài chính, ngân hàng,…
Không ngừng đáp ứng và nâng cao đời sống vật chất cho nhân dân.
-Văn hóa- Xã hội
Văn hóa tiên tiến, trong đó văn hóa dân tộc làm gốc, trên nền tảng
đó tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại.
Con người sống vui tươi, lành mạnh, các hủ tục phải được xóa bỏ
7
Người lao động phải đảm bảo tự do tư tưởng, tự do sáng tạo và
hưởng thụ những giá trị văn hóa
Không còn chế độ áp bức giai cấp, áp bức xã hội, tạo điều kiện
phát triển con người toàn diện.
Xóa bỏ mâu thuẫn cách biệt giữa thành thị và nông thôn, chân tay,
trí óc, miền núi phải theo kịp miền xuôi.
Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết giúp đỡ nhau.
2.3 Mối quan hệ giữa độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội
+ Tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, giành độc lập
dân tộc là mục tiêu trực tiếp, là tiền đề để tiến hành cách mạng xã hội
chủ nghĩa.
Độc lập dân tộc và CNXH tác động biện chứng, tạo tiền đề cho
nhau. Có giành được độc lập dân tộc mới có cơ sở xây dựng CNXH; xây
dựng CNXH là cơ sở để củng cố nền độc lập tự do của Tổ quốc. Bản chất
của CNXH là thực hiện triệt để giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc,
giải phóng xã hội, giải phóng con người. Chỉ với CNXH, độc lập dân tộc
mới đạt tới mục tiêu phục vụ lợi ích và quyền lực của mọi người lao
động, làm cho mọi thành viên của cộng đồng dân tộc trở thành người chủ
thực sự, có cuộc sống vật chất ngày càng đầy đủ và đời sống tinh thần
ngày càng phong phú.
+ Chủ nghĩa xã hội là con đường bảo vệ và phát triển thành quả
của độc lập dân tộc.
Độc lập dân tộc tiến lên CNXH thể hiện mối quan hệ giữa mục tiêu
trước mắt và mục tiêu lâu dài. Theo lôgíc của sự phát triển, hai mục tiêu
ấy quan hệ chặt chẽ với nhau. Không thể đi đến mục tiêu cuối cùng nếu
không thực hiện được mục tiêu trước mắt. Chỉ thực hiện được mục tiêu
cuối cùng mới bảo vệ và phát triển được những thành quả của mục tiêu
trước mắt. Vì vậy, nếu độc lập dân tộc tạo cơ sở, tiền đề để đi lên chủ
nghĩa xã hội là con đường tốt nhất để giữ vững và phát triển lên một tầm
cao mới - thành quả của độc lập dân tộc.
Hồ Chí Minh cho rằng cách mạng, cả cách mạng giải phóng dân
tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa là việc khó, là cuộc đấu tranh gay go,
ác liệt, lâu dài. Giành độc lập dân tộc đã khó, xây dựng chủ nghĩa xã hội
còn khó khăn hơn. Hồ Chí Minh so sánh: thắng đế quốc phong kiến là
tương đối dễ, thắng bần cùng lạc hậu khó khăn hơn. Hồ Chí Minh nhấn
mạnh: "Đánh đổ giai cấp địch đã khó, đấu tranh xây dựng chủ nghĩa xã
hội còn gian khổ, khó khăn hơn nhiều". Từ những khó khăn gian khổ ấy,
Hồ Chí Minh luôn đòi hỏi Đảng, Nhà nước và mỗi người dân phải kiên trì
mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
8
2.3 Những sáng tạo và cống hiến lịch sử của Hồ Chí Minh về độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội thể hiện ở những điểm nổi bật sau đây:
+ Một là, nhận thức sáng tạo về chủ nghĩa Mác và chủ nghĩa Mác-
Lênin.
Người nhận rõ chủ nghĩa Mác-Lênin là biểu hiện và kết tinh tinh
hoa trí tuệ và tư tưởng của thời đại, của văn hoá nhân loại. Song, Người
cũng đặt ra một vấn đề hết sức nghiêm túc về nhận thức khoa học: “Mác
đã xây dựng học thuyết của mình trên một triết lý nhất định của lịch sử,
nhưng lịch sử nào? Lịch sử châu Âu. Mà châu Âu là gì? Đó chưa phải là
toàn thể nhân loại.” Đó là lý do giải thích vì sao Người chủ trương đoàn
kết tất cả các giai cấp trong dân tộc để tạo ra sức mạnh giải phóng.
Nhận thức đúng đắn và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin
vào hoàn cảnh, điều kiện lịch sử đặc thù của Việt Nam là điểm xuất phát
về lý luận và thực tiễn, về ý thức hệ của Hồ Chí Minh. Đó chẳng những là
cơ sở để có những phát kiến sáng tạo, những cống hiến của Hồ Chí Minh
về tư tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, mà còn là sự cống hiến
đặc sắc của Người, góp phần làm phong phú chủ nghĩa Mác - Lênin và
kho tàng lý luận cách mạng thế giới.
+ Hai là, vạch trần bản chất của chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế
quốc, thực dân và nêu lên tư tưởng về cách mạng giải phóng dân tộc
ở thuộc địa phải phối hợp chặt chẽ với cách mạng vô sản ở chính
quốc.
+ Ba là, Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh đã giải quyết thành công mối
quan hệ giữa dân tộc với giai cấp, giữa giải phóng dân tộc với giải
phóng giai cấp trên lập trường giai cấp công nhân.
Trong những năm 20 - 30 của thế kỷ XX, không phải tất cả những
người cách mạng và yêu nước, dù đứng trên lập trường cộng sản, đã ý
thức đầy đủ và thật sự quan tâm tới vận động cách mạng giải phóng
dân tộc ở các thuộc địa. Song, đây lại là vấn đề cốt tử mà Nguyễn Ái
Quốc đặc biệt chú ý, từ khi tham gia hoạt động trong Đảng Cộng sản
Pháp.Người đã thẳng thắn phê phán thái độ thờ ơ hoặc lãng quên
phong trào cách mạng ở thuộc địa và đòi hỏi Đảng Cộng sản phải xác
định rõ trách nhiệm của Đảng đối với việc thúc đẩy và phối hợp hành
động với các phong trào cách mạng ở thuộc địa. Người đã sớm đi đến
9
một kết luận quan trọng: sự nghiệp giải phóng dân tộc phải đồng thời
gắn liền với sự nghiệp giải phóng giai cấp công nhân và giải phóng xã
hội; cả hai cuộc giải phóng đó đều là sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân, là sự nghiệp của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
Cái mới và bản lĩnh sáng tạo của Hồ Chí Minh về vấn đề độc lập
dân tộc và cách mạng vô sản là ở chỗ:
- Không tách rời giai cấp khỏi dân tộc.
- Giải phóng dân tộc trên lập trường giai cấp công nhân, trên nền
tảng ý thức hệ của giai cấp công nhân nên cách mạng giải phóng dân
tộc với mục tiêu giành độc lập dân tộc phải do giai cấp công nhân và
đội tiên phong của nó là Đảng Cộng sản lãnh đạo. Cũng do đó, con
đường tiến lên của dân tộc và của xã hội Việt Nam chỉ có thể là con
đường xã hội chủ nghĩa, gắn liền độc lập dân tộc với CNXH bằng
cách quá độ lên CNXH, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
+ Bốn là, nhờ có lý luận và phương pháp cách mạng đúng đắn, Hồ
Chí Minh đã cùng với Đảng lãnh đạo nhân dân và dân tộc ta đánh bại
chủ nghĩa thực dân kiểu cũ và mới, đưa dân tộc ta vào hàng ngũ các
dân tộc tiên phong của thế giới, xây dựng CNXH phù hợp với hoàn
cảnh và điều kiện của nước ta. Tư tưởng Hồ Chí Minh về CNXH cũng
có những nét sáng tạo đặc sắc, có giá trị và ý nghĩa hiện đại, không chỉ
với nước ta mà còn đối với các nước xã hội chủ nghĩa khác trong loại
hình “phát triển rút ngắn” và “quá độ gián tiếp,” do bỏ qua chế độ tư
bản chủ nghĩa, thực hiện từng bước từ dân chủ nhân dân tới chủ nghĩa
xã hội.
+ Năm là, tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội thể hiện một
quan hệ biện chứng, thấm nhuần sâu sắc quan điểm thực tiễn - phát
triển và đổi mới. Những luận giải cô đọng, hàm xúc của Hồ Chí Minh
cho thấy, độc lập dân tộc là tiền đề, là điều kiện của chủ nghĩa xã hội,
đó là nền tảng chính trị, là cơ sở dân tộc và chủ quyền nhân dân của
chủ nghĩa xã hội.
Theo đó, chủ nghĩa xã hội sinh thành, phát triển và hoàn thiện là
đảm bảo thực chất, đầy đủ và bền vững nhất của độc lập dân tộc. Đó
cũng là thước đo dân chủ và tự do của phát triển xã hội, một xã hội
10
văn minh, hiện đại mà lịch sử tìm thấy sự biểu hiện tốt nhất ở chủ
nghĩa xã hội.
2.4 Những điều kiện bảo đảm cho độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội của cách mạng Việt Nam.
Thứ nhất, trong suốt quá trình cách mạng, sự lãnh đạo của Đảng
phải được giữ vững, củng cố và tăng cường. Xuất phát từ quan điểm xây
dựng chủ nghĩa xã hội là một nhiệm vụ khó khăn hơn đánh đổ đế quốc,
phong kiến, Hồ Chí Minh khẳng định trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa
xã hội Đảng phải mạnh hơn bao giờ hết.
Thứ hai, khối đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh công -
nông - trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng phải được củng cố và mở rộng.
Hồ Chí Minh luôn đòi hỏi Đảng, Nhà nước và mỗi người dân cần nêu cao
trách nhiệm trong việc làm cho "rừng cây đại đoàn kết ấy đã nở hoa kết
trái và gốc rễ nó đang ăn sâu lan rộng khắp toàn dân, và nó có một cái
tương lai 'trường xuân bất lão'".
Thứ ba, sự ủng hộ giúp đỡ của các lực lượng cách mạng, hòa bình,
dân chủ và tiến bộ trên thế giới được giữ vững và phát triển. Để làm được
việc đó, ngay từ 1947, Hồ Chí Minh đã nêu cao chủ trương: "Làm bạn
với tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán với một ai".
Ba nhân tố trên luôn được giữ vững và tăng cường, tác động qua lại,
liên quan chặt chẽ với nhau là điều kiện bảo đảm cho sự thắng lợi của mục
tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Hồ Chí Minh nhấn mạnh: "Đó là
ba bài học lớn mà mỗi cán bộ và đảng viên cần ghi sâu vào lòng và phát huy
thêm mãi".
II/ Ý nghĩa của triết lý trong tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập
dân tộc và CNXH đối với nước ta hiện nay.
1.Đặc trưng của công cuộc đổi mới ở nước ta:
11
- Thứ nhất, sự nghiệp đổi mới được tiến hành theo định hướng xã
hội chủ nghĩa.
- Thứ hai, đổi mới toàn diện nhưng có trọng tâm trọng điểm được
tiến hành một cách tuần tự từng bước phù hợp với mỗi thời kì,
mỗi giai đoạn.
- Thứ ba, đổi mới kinh tế gắn liền với đổi mới hệ thống chính trị.
- Thứ tư, đổi mới để phát triển trong ổn định.
- Thứ năm, đổi mới đất nước gắn liền với mở cửa với thế giới bên
ngoài.
2.Triển vọng của sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam.
Đến nay, công cuộc đổi mới của Việt Nam đã đạt được những
thành tựu vô cùng to lớn và vững chắc. Như vậy có thể khẳng định triển
vọng của sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam nhấy định sẽ tiến triển tốt đẹp vì
những lí do sau:
Thứ nhất, sự nghiệp đổi mới đến nay luôn được đặt dưới sự lãnh
đạo tài tình của một Đảng duy nhất: Đảng Cộng sản Việt Nam.
Thứ hai, sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam xuất phát từ thực tiễn của
chính xã hội Việt Nam.
Thứ ba, thực tiễn đổi mới ở Việt Nam luôn được tiến hành tổng
kết, khái quát thành lí luận chung về xây dựng CNXH ở Việt Nam.
3.Nắm vững độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong hội nhập kinh
tế quốc tế.
3.1Độc lập về chính trị - kinh tế.
Độc lập trong kinh tế được Đảng ta khẳng định: “xây dựng nền
kinh tế độc lập, chủ động và tích cực hội nhập” Độc lập về kinh tế ở đây
không có nghĩa là biệt lập khép kín, tự cung tự cấp. Tự chủ không phải là
quyết định một cách cứng nhắc và tuyệt đối không tính đến tập quán của
các thể chế kinh tế - tài chính quốc tế, bất chấp luật pháp và thông lệ quốc
tế. Độc lập tự chủ vầ kinh tế phải được đặt trong mối quan hệ chặt chẽ
với độc lập tự chủ về chính trị và các mặt khác để tạo thành sức mạnh độc
lập tự chủ đầy đủ của đất nước, không bị chi phối, lệ thuộc vào bên ngoài
về đường lối, chính sách phát triển kinh tế - xã hội.
12
3.2Độc lập về văn hóa.
Thứ nhất, văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu,
vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội.
Thứ hai, nền văn hóa mà Việt Nam xây dựng là nền văn hóa tiến
tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Sự xuyên thấu vào nhau của hai nhân tố đó
tạo nên phẩm chất của nền văn hóa Việt Nam đương đại.
Thứ ba, nền văn hóa mà Việt Nam xây dựng là nền văn hóa thống
nhất mà đa dạng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam.Đó là nền văn
hóa chung của 54 dân tộc anh em sống trên đất nước Việt Nam, trong đó,
mỗi dân tộc đều có những sắc thái, những gía trị văn hóa độc đáo, đồng
thời chúng bổ sung cho nhau, làm phong phú nền văn hóa chung.
Thứ tư, xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân
do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo, trong đó đội ngũ trí thức giữ vai
trò quan trọng.
Thứ năm, văn hóa là một mặt trận; xây dựng và phát triển văn hóa là sự
nghiệp cách mạng lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì.
3.3 Độc lập về đối ngoại.
Sinh thời, chủ tịch Hồ Chí Minh nhận định rằng: ngoại giao là một
mặt trận không tiếng sung nhưng không kém phần gay go và quyết liệt.
Coi ngoại giao là một mặt trận kể cả trong điều kiện hòa bình có ý nghĩa
là đặt ngoại giao ngang hàng với các hoạt động nhà nước khác như kinh
tế, chính trị, quân sự, văn hóa, xã hội. Nhìn vào những biến cố của thế
giới mấy chục năm gần đây, chúng ta thấy rõ, ngoại giao ngày càng
chiếm giữ vị trí quan trọng, nó chi phối các lĩnh vực khác thông qua việc
cung cấp thông tin, giải mã tình thế “tạo thời cơ”hoặc vô hiệu hóa các
thách thức có chiều hướng phát triển thành thúc đẩy các lĩnh vực đó phát
triển. Trong điều kiện hiện nay, ngoại giao nước ta đã có những bước tiến
rất hiệu quả, không ngừng mở rộng quan hệ với tất cả các nước, đồng
thời phát triển các quan hệ bình thường thành các “đối tác kinh tế”, “đối
tác hợp tác lâu dài” “đối tác chiến lược”…
Tuy nhiên, trong những năm qua đã có không ít quan điểm phê phán
đường lối cách mạng Việt Nam, phủ nhận, xuyên tạc mục tiêu độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội mà và Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản
13
Việt Nam và nhân dân ta đã lựa chọn. Nhất là từ khi mô hình chủ nghĩa
xã hội ở Liên Xô và Đông Âu sự sụp đổ càng có nhiều quan điểm phủ
nhận con đường cách mạng Việt Nam, phủ nhận mục tiêu độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội. Họ đòi phán xét lại lịch sử, cho rằng Đảng ta đưa đất
nước tiến lên chủ nghĩa xã hội là vội vàng. Một số người cho rằng, không
thể đi theo con đường xã hội chủ nghĩa, rằng “đưa dân tộc đi theo con
đường xã hội chủ nghĩa là đưa dân tộc vào chỗ chết”, nên chọn con
đường tư bản chủ nghĩa…
Có những quan điểm cho rằng sau khi hoàn thành cách mạng dân tộc
chưa vội tiến lên chủ nghĩa xã hội mà cần thực hiện chế độ dân chủ nhân
dân. Và hiện nay, không nên kiên định con đường chủ nghĩa xã hội mà
hãy quay lại thực hiện chế độ dân chủ nhân dân. Một số người cho rằng
đổi mới đất nước theo kinh tế thị trường là đưa đất nước phát triển theo
con đường tư bản chủ nghĩa.
Thực chất các quan điểm trên đều nhằm mục đích phủ nhận mục tiêu
độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Bác Hồ và nhân
dân ta đã lựa chọn. Toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta cần nêu cao tinh
thần cảnh giác, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá
của các thế lực phản động, cơ hội, xét lại dưới mọi màu sắc, đồng thời
phê phán, khắc phục những biểu hiện nhận thức không đúng, dao động về
con đường, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong một bộ
phận nhân dân ta.
Cần khẳng định rằng, công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng xã
hội chủ nghĩa là đòi hỏi tất yếu trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
để tạo những điều kiện, tiền đề cho chủ nghĩa xã hội. Thực hiện đường lối
đổi mới nhưng vẫn kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, không tạo ra một thời
kỳ “trung gian”, “thời kỳ quá độ từ độc lập dân tộc lên chủ nghĩa xã
hội”…
Hiện nay và trong những năm tới, thời cuộc có thể có nhiều đổi thay,
nhưng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội mãi mãi là mục tiêu,
con đường duy nhất đúng đắn, là tất yếu lịch sử của dân tộc ta trong thời
đại mới - thời đại Hồ Chí Minh.
C - KẾT LUẬN
Tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm của sự vận dụng và phát triển
sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện Việt Nam. Những nguồn
14
gốc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với
CNXH là những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, những tinh hoa văn hóa
nhân loại đã được chắt lọc qua tư duy độc lập và bản lĩnh chính trị vững
vàng, kiên định của Hồ Chí Minh; tiếp thu và kế thừa chủ nghĩa Mác –
Lênin. Độc lập dân tộc và CNXH, với Việt Nam không chỉ là mục tiêu,
là nhu cầu, là cương lĩnh hành động, là ngọn cờ hiệu triệu, mà còn
là động lực, là niềm tin sắt son của dân tộc Việt Nam ta. Độc lập dân tộc
gắn với chủ nghĩa xã hội là sự gắn kết hai sức mạnh thành một sức bật
mới; là cội nguồn thắng lợi của cách mạng Việt Nam hôm qua, hôm nay
và mai sau.
Trong thời đại ngày nay, đấu tranh cho độc lập dân tộc vẫn là mối
quan tâm lớn của các quốc gia dân tộc trên thế giới. Do tác động của tình
hình, cuộc đấu tranh giữ vững nền độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia,
chống lại mọi hình thức phụ thuộc và lệ thuộc có nhiều nét mới, ngày
càng phong phú đa dạng. Hướng tới CNXH không còn là vấn đề xa lạ,
mà trở thành vấn đề trực tiếp của nhiều quốc gia dân tộc trên thế giới.
Nhân dân các nước trên thế giới ngày càng nhận thấy rằng, CNXH là
biểu tượng cho hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội, cho những gía trị mà
nhân loại phải phấn đấu và hướng tới, vị thế CNXH ngày càng gắn với
phát triển của lịch sử nhân loại. Di sản Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc
gắn liền với CNXH vẫn còn nguyên giá trị thời sự, tiếp tục ảnh hưởng sâu
sắc đối với đời sống nhân loại với những biểu hiện mới.
Thế kỷ XXI mở đầu thiên niên kỷ thứ ba của một thế giới đầy biến động,
cũng đồng thời mở ra một kỷ nguyên hội nhập, đua tranh gay gắt của
cộng đồng quốc tế. Dù thời cuộc biến đổi xoay vần ra sao, dù phải đối
mặt với xu thế toàn cầu hoá, thì hệ giá trị độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội, trong ý thức và trong hành động vẫn là mục tiêu, lý tưởng, là quốc
bảo phù hợp với xu thế thời đại; sẽ đưa nhân dân ta tiếp tục giành thêm
nhiều thắng lợi to lớn hơn nữa trong sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng CNXH và bảo vệ vững chắc Tổ
Quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh, đưa đất nước ta sánh vai cùng các nước trong khu vực và trên thế
giới.
15