Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Tác động của FDI đối với quá trình phát triển công nghiệp phụ trợ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (191.96 KB, 27 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
Thu hút đầu tư nước ngoài (FDI) và phát triển công nghiệp phụ trợ
không còn là vấn đề mới mẻ đối với nước ta nữa. nhưng vấn đề ở đây là thu
hút FDI như thế nào, phát triển công nghiệp phụ trợ ra sao?
Những năm gần đây số vốn FDI đầu tư vào Việt Nam tăng đáng kể
nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế xã hội của nước nhà.
Như vậy thì trong thời gian tới chúng ta cần đẩy nhanh hơn nữa quá trình này.
Một vấn đề đặt ra là vốn đầu tư vào Việt Nam còn nhiều bất cập: các nhà đầu
tư chỉ chú trọng vào các ngành có lợi nhuận cao, rào cản gia nhập thấp chủ
yếu là lĩnh vực bất động sản chứ chưa chú trọng vào các ngành công nghệ cao
hay các ngành thiết yếu mà chúng ta chưa phát triển được dẫn tới mất cân
bằng trong phát triển kinh tế, không nâng cao được năng lực công nghệ. Do
vậy trong thời gian tới chúng ta cần chú trọng thu hút đầu tư nước ngoài FDI
cả về chất và lượng.
Ngành công nghiệp phụ trợ ở nước ta xuất hiện khá sớm, nhưng cho tới
thời điểm hiện tại thì nó chưa khẳng định được vai trò và vĩ thế của mình
trong nghành công nghiệp nói riêng và ngành kinh tế nói chung: tốc độ phát
triển chậm chạp, khả năng cạnh tranh rất yếu so với các nước trong khu vực
và trên thế giới. trong khi đó phát triển công nghiệp phụ trợ là nền tảng để
phát triển công nghiệp công nghệ cao, đặc biệt là trong lĩnh vực chế tạo máy
móc. Sự non yếu của ngành này đã trở thành những lực cản rất rõ ràng đối
với việc phát triển các ngành công nghiệp nói chung cũng như các ngành
công nghiệp mũi nhọn nói riêng.
Chúng ta đang đề cập đến 2 vấn đề hoàn toàn khác nhau một bên là phát
triển công nghiệp phụ trợ một bên là thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài(FDI).
Tác động của hai quá trình lên nền kinh tế theo những chiều hướng khác
nhau.Nhưng thực ra hai quá trình này có quan hệ mật thiết với nhau, cụ thể là
quan hệ bổ sung cho nhau. Nghiên cứu vấn đề này giúp ta hiểu rõ mối quan
hệ đó để có thể đưa ra một số chính sách, đường lối, biện pháp khai thác hiệu
quả mối quan hệ bổ sung này nhằm thúc đẩy cả hai quá trình trên phát triển.
1


Đề cương
I. Các khái niệm cơ bản
1. Công nghiệp phụ trợ
1.1 Công nghiệp phụ trợ là gì?
1.2 Đặc điểm và vai trò của công nghiệp phụ trợ
2. FDI và thu hút FDI
I.1 FDI
I.2 Thu hút FDI
I.3 Đặc điểm và vai trò của FDI
II. Mối liên hệ giữa phát triển công nghiệp phụ trợ và
thu hút FDI
1. Tác động của phát triển công nghiệp phụ trợ đối với
thu hút FDI
2. Tác động của FDI đối với quá trình phát triển công
nghiệp phụ trợ
III. Thực tiễn Việt Nam
1. Thực trạng phát triển công nghiệp phụ trợ nước ta
2. Thu hút FDI ở nước ta.
IV. Một số giải pháp
2
I. Các khái niệm cơ bản
1 . Công nghiệp phụ trợ
1.1 Công nghiệp phụ trợ là gì?
Công nghiệp phụ trợ (supporting industries) là khái niệm chỉ toàn bộ
những sản phẩm công nghiệp có vai trò hỗ trợ cho việc sản xuất các thành
phẩm chính. Cụ thể là những linh kiện, phụ liệu, phụ tùng, sản phẩm bao bì,
nguyên liệu để sơn, nhuộm, v.v., và cũng có thể bao gồm cả những sản phẩm
trung gian, những nguyên liệu sơ chế. Nếu kể các sản phẩm tương tự thì phạm
vi sẽ rất rộng nhưng nếu thêm một đặc tính nữa sẽ thấy phạm vi rõ ràng hơn:
Sản phẩm công nghiệp phụ trợ thường được sản xuất với quy mô nhỏ, thực

hiện bởi các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Do đó, trong ngành xe hơi chẳng hạn,
các bộ phận như đầu máy xe, thân xe, bánh xe thường không được kể là
công nghiệp phụ trợ vì chủ yếu do các công ty lớn sản xuất với quy mô lớn.
Trong ngành này, công nghiệp phụ trợ là những linh kiện, những phụ liệu ở
cấp thấp hơn được cung cấp để sản xuất ra đầu máy xe, thân xe
Theo định nghĩa trên thì công nghiệp phụ trợ có đầu ra cũng là các sản
phẩm công nghiệp. Nhưng các sản phẩm này không trực tiếp bán ra thị trường
tiêu dùng mà chúng được bán cho các nhà sản xuất các sản phẩm chính. Các
nhà sản xuất ra những sản phẩm chính do hạn chế về một số nguồn lực có thể
gặp khó khăn trong việc sản xuất ra một số bộ phận ,linh kiện hoặc không có
khả năng sản xuất ra chúng nên họ cần một nhà sản xuất khác đảm nhiệm việc
này. Nói cách khác là cần một nhà sản xuất và cung ứng những bộ phận và
linh kiện mà họ chưa sản xuất được. Đây cũng chính là lí do ra đời của ngành
công nghiệp phụ trợ.
1. 2 Đặc điểm và vai trò của công nghiệp phụ trợ
Công nghiệp phụ trợ có 3 đặc điểm cơ bản:
Thứ nhất, công nghiệp phụ trợ chỉ sản xuất ra những sản phẩm công
nghiệp có vai trò hỗ trợ cho quá trình sản phảm chính chứ không trực tiếp sản
3
xuất ra các sản phẩm chính. Do vậy những sản phẩm này không có giá trị tiêu
dùng, nó chỉ có tác dụng hoàn thiện sản phẩm cho các nhà sản xuất chính.
Thứ hai, việc sản xuất công nghiệp phụ trợ phụ thuộc vào việc sản xuất
của các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm chính. Quá trình sản xuất của các
doanh nghiệp phụ trợ chỉ tồn tại khi tồn tại ngành sản xuất sản phẩm chính
cần đến những sản phẩm hỗ trợ từ nó.
Thứ 3, sản phẩm công nghiệp phụ trợ thường được sản xuất với quuy
mô nhỏ, thực hiện bởi các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Đây là một quy ước cho
khái niệm công nghiệp phụ trợ, những sản phẩm hỗ trợ mà được sản xuất bởi
các nhà sản xuất lớn và quy mô lớn không được coi là công nghiệp hỗ trợ.
Chẳng hạn như trong nghành xe hơi sản xuất đầu máy, bánh xe, thân xe …

không được coi là công nghiệp phụ trợ.
Những vai trò của công nghiệp phụ trợ
Thứ nhất, CNPT đóng vai trò rất quan trọng trong việc tăng sức cạnh
tranh của sản phẩm công nghiệp chính và đẩy nhanh quá trình công nghiệp
hoá theo hướng vừa mở rộng vừa thâm sâu. CNPT không phát triển sẽ làm
cho các công ty lắp ráp và những công ty sản xuất thành phẩm cuối cùng khác
sẽ phải phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu. Dù những sản phẩm này có thể được
cung cấp với giá rẻ ở nước ngoài nhưng vì chủng loại quá nhiều, phí tổn
chuyên chở, bảo hiểm sẽ làm tăng phí tổn đầu vào. Đó là chưa nói đến sự rủi
ro về tiến độ, thời gian nhận hàng nhập khẩu. Vì lý do này, CNPT không phát
triển thì các ngành công nghiệp chính sẽ thiếu sức cạnh tranh và phạm vi cũng
giới hạn trong một số ít các ngành.
Thứ hai, CNPT có vai trò rất quan trọng trong việc thu hút dòng vốn FDI
vào lĩnh vực công nghiệp, đồng thời, kích thích phát triển doanh nghiệp nhỏ
và vừa trong nước. Muốn thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài FDI, CNPT
4
phải đi trước một bước, tạo nên cơ sở hạ tầng để cung cấp sản phẩm đầu vào
cần thiết cho các ngành công nghiệp lắp ráp bởi lẽ bản thân các tập đoàn và
các công ty lớn về lắp ráp hiện cũng chỉ giữ lại trong quy trình của mình các
khâu nghiên cứu, phát triển sản phẩm và lắp ráp thay vì tất cả gói gọn trong
một công ty hay nhà máy. Điều này đặc biệt đúng trong các ngành sản xuất
các loại máy móc, là những ngành đang phát triển mạnh tại Đông Á và là
những lĩnh vực Việt Nam có lợi thế so sánh động. Các mặt hàng này thường
có hàng trăm hoặc hàng ngàn bộ phận, linh kiện ở nhiều tầng lớp, từ những
loại thông thường đơn giản đến những loại có công nghệ rất cao. Đối với các
công ty nước ngoài đầu tư vào ngành sản xuất này, tỷ lệ nội địa hoá càng cao
càng có lợi. Trên thực tế, phí tổn về linh kiện, bộ phận và các sản phẩm trung
gian trong những sản phẩm thuộc các ngành sản xuất máy móc chiếm tới hơn
80% giá thành, lao động chỉ chiếm từ 5-10%, do đó khả năng nội địa hoá có
tính chất quyết định đến thành quả kinh doanh của doanh nghiệp. Nói cách

khác, tỷ lệ của chi phí về CNPT cao hơn nhiều so với chi phí lao động nên
một nước dù có ưu thế về lao động nhưng CNPT không phát triển sẽ làm cho
môi trường đầu tư kém hấp dẫn. Chừng nào các ngành phụ trợ sẵn có chưa
được cải thiện đồng loạt, nhiều DN của nước ngoài chưa đến đầu tư ồ ạt thì
FDI của các công ty lớn không thể tăng hơn.
Thứ ba, CNPT còn góp phần thúc đẩy việc chuyển giao công nghệ, áp
dụng các kỹ thuật tiên tiến vào sản xuất. Bởi lẽ, dưới áp lực cạnh tranh, các
công ty CNPT phải tỏ ra có tiềm năng cung cấp linh kiện, phụ liệu với chất
lượng và giá thành cạnh tranh được với hàng nhập. Tiềm năng đó sẽ thành
hiện thực nhờ chuyển giao công nghệ từ doanh nghiệp FDI.
Thứ tư, CNPT còn góp phần tạo công ăn việc làm, thu hút lao động dư
thừa trên các địa bàn sản xuất của doanh nghiệp và khu vực lân cận.
1. FDI
5
1.1 FDI là gì?
Có rất nhều định nghĩa khác nhau về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài
(FDI) . sau đây bài làm chỉ nêu ra một định nghĩa phổ biến nhất.
Định nghĩa về FDI của tổ chức thương mại quốc tế WTO:
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) xảy ra khi một nhà đầu tư từ một
nước (nước chủ đầu tư) có được một tài sản ở một nước khác (nước thu hút
đầu tư) cùng với quyền quản lý tài sản đó. Phương diện quản lý là thứ để
phân biệt FDI với các công cụ tài chính khác. Trong phần lớn trường hợp, cả
nhà đầu tư lẫn tài sản mà người đó quản lý ở nước ngoài là các cơ sở kinh
doanh. Trong những trường hợp đó, nhà đầu tư thường hay đựoc gọi là
"công ty mẹ" và các tài sản được gọi là "công ty con" hay "chi nhánh công
ty".
1.2. Thu hút FDI
Thu hút FDI là những biện pháp, nỗ lực nhằm giới thiệu đến các nhà đầu
tư trực tiếp nước ngoài thấy được những thế mạnh của nước thu hút đầu tư và
những lợi ích có được khi nhà đầu tư đầu tư FDI vào nước đó. Thu hút FDI là

hoạt động nhằm kêu gọi và kích thích đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Hoạt động thu hút FDI khá đa dạng và phức tạp nó yêu cầu nỗ lực chung
của nhà nước sở tại và các ngành liên quan, đặc biệt là sự nỗ lực từ các ngành
công nghiệp.nhà nước đóng vai trò là người đưa ra những chính sách về đầu
tư FDI .Có những cái là rào cản có những cái lại kích thích cho hoạt động đầu
tư. Với vai trò như vậy nhà nước có vai trò phải đưa ra những chính sách hợp
lý nhất để có thể thu hút được tối đa lượng vốn FDI. Các ngành kinh tế , đặc
biệt là ngành công nghiệp đóng vai trò là môi trường để vốn FDI có thể hoạt
động với vai trò như vậy các ngành này phải phát triển cân đối hài hòa tạo
môi trường tốt nhất để vốn FDI có thể thâm nhập và hoạt động có hiệu quả.
6
2.3. Đặc điểm và vai trò của FDI
Đặc điểm:
- Tìm kiếm lợi nhuận. FDI chủ yếu là đầu tư tư nhân với mục đích hàng
đầu là tìm kiếm lợi nhuận. Các nước nhận đầu tư đặc biệt là những nước đang
phát triển cần lưu ý điểm này khi thu hút FDI. Phải xây dựng cho mình một
hành lang pháp lý đủ mạnh và các chính sách thu hút FDI hợp lý để hướng
FDI váo phục vụ các mục tiêu kinh tế xã hội của nước mình. Tránh tình trạng
FDI chỉ nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuần của nhà đầu tư.
- Các chủ đầu tư nước ngoài phải đóng góp một tỷ lệ vốn tối thiểu trong
vốn pháp định hoặc vốn điều lệ phụ thuộc pháp luật từng nước để giành
quyền kiểm soát và tham gia kiểm soát doanh nghiệp nhận đàu tư. Luật các
nước thường không quy định giống nhau về vấn đề này.
- Tỷ lệ đóng góp của mỗi bên trong vốn điều lệ hoặc vốn pháp định sẽ
quy định quyền và nghĩa vụ của mỗi bên. Đồng thời lợi nhuận và rủi ro cũng
được phân chia theo tỷ lệ này.
- Thu nhập mà chủ đàu tư thu được phụ thuộc vào kết quả kinh của
doanh nghiệp mà họ bỏ vốn đầ tư, nó mang tính thu nhập kinh doanh chứ không
phải là lợi tức. chủ đầu tư quyết định đầu tư, quyết định sản xuất kinh doanh và
tự chịu trách nhiệm về lỗ lãi. Nhà đầu tư nước ngoài được chọn lĩnh vực đầu tư

và hình thức đầu tư, thị trường đầu tư, quy mô đầu tư cũng như công nghệ cho
mình. Do đó sẽ tự lựa chon những quyết định có lợi nhất cho họ.
- FDI thường đi kèm chuyển giao công nghệ cho các nước nhận đầu tư.
Thông qua hoạt động FDI nước chủ nhà có thể tiếp nhận được công nghệ kỹ
thuật tiên tiến, học hỏi kinh nghiệm quản lý.
Vai trò:
- Tăng cường vốn đầu tư cho tăng trưởng. Để đáp ứng cũng như kích
thích tốc độ tăng trưởng nền kinh tế cần một lượng vốn đầu tư lớn. Trong khi
7
nguồn vốn trong nước còn khá hạn chế và rất khó huy động thì vốn đầu tư
nước ngoài là một biện pháp hữu hiệu giả quyết vấn đề này.Ở Việt nam hiện
nay FDI chiếm trên 10% tổng vốn đầu tư xã hội con số này thương trung bình
khoảng 15%.
- Chuyển giao công nghệ qua các dự án FDI là một trong những kênh
chủ yếu, có tính đột phá để nâng cao năng lực công nghệ của nước nhận đầu
tư. Chuyển giao công nghệ qua các dự án FDI luôn đi kèm với đào tạo nhân
lực vận hành, quản lý và nhờ học qua làm (learning by doing), nhờ đó đã hình
thành được đội ngũ cán bộ, công nhân kỹ thuật có trình độ, tay nghề khá cao.
Khảo sát cho thấy, có 44% doanh nghiệp FDI thực hiện đào tạo lại lao động
với các mức độ khác nhau (cho khoảng 30% số lao động tuyển dụng). Đối với
một số khâu chủ yếu của dây chuyền công nghệ tiên tiến hoặc đặc thù, lao
động sau khi tuyển dụng được
đưa đi bồi dưỡng ở các doanh nghiệp mẹ ở nước ngoài
2
. Đến nay, hầu
hết các công nghệ có trình độ tiên tiến và đội ngũ cán bộ, công nhân kỹ
thuật cao ở các nước phát triểnđược tập trung trong khu vực có vốn FDI.
- Đẩy mạnh xuất khẩu cũng là đóng góp nổi bật, thể hiện rõ nét vai trò
của FDI. Ở Việt Nam, trong suốt 20 cải cách kinh tế vừa qua. Thời kỳ 1996-
2000, xuất khẩu của khu vực FDI đạt10,6 tỷ USD (không kể dầu thô), tăng

hơn 8 lần so với 5 năm trước, chiếm 23% kim ngạch xuất khẩu cả nước; năm
2000 chiếm 25%, năm 2003 chiếm 31%, tính cả dầu thô thì tỷ trọng này đạt
khoảng 54% năm 2004 và chiếm trên 55% trong các năm 2005, 2006 và 2007
- FDI có vai trò quan trọng trong việc tạo việc làm cho người lao động
nước sở tại. Khi đầu tư vào các lĩnh vực kinh doanh các nhà đầu tư cần một
lượng lớn lao động để đạt được mục đích kinh doanh của mình. Đây là một cơ
hội việc làm hấp đẫn cho người lao động nước sở tại. Ở Việt Nam tính đến
năm 2007 khu vự FDI đã tạo ra khoảng 1.2 triệu việc làm cho người lao động.
- FDI góp phần làm tăng thu ngân sách nhà nước. Ở Việt Nam, Thời kỳ
8
1996-2000, không kể thu từ dầu thô, các doanh nghiệp FDI đã nộp ngân sách
đạt 1,49 tỷ USD; gấp 4,5 lần 5 năm trước. Trong 5 năm 2001-2005, thu ngân
sách
trong khối doanh nghiệp FDI đạt hơn 3,6 tỷ USD, tăng bình quân
24%/năm. Riêng 2 năm
2006 và 2007 khu vực kinh tế có vốn FDI đã nộp
ngân sách đạt trên 3 tỷ USD, gấp đôi thời kỳ 1996-2000 và bằng 83% thời kỳ
2001-2000.
2 Mối liên hệ giũa phát triển công nghiệp phụ trợ và thu hút đầu tư FDI
1. Tác động của quá trình phát triển công nghiệp phụ trợ đối với
thu hút FDI
Để dảm bảo phát triển kinh tế xã hội hài hòa cân đối chúng ta cần phải
thu hút FDI cho công cuộc xây dựng đổi mới cơ sở hạ tầng và nâng cao năng
lực công nghệ. Trong đó nâng cao năng lực công nghệ là vô cùng quan trọng.
như vậy thu hút FDI vào công nghiệp là hết sức cần thiết, đặc biệt là các
ngành công nghệ cao.
Ở các nước phát triển ngoài hiệu quả tạo nhiều công ăn việc làm, thu hút
lao động dư thừa, công nghiệp phụ trợ đóng vai trò rất quan trọng trong việc
tăng sức cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp chính và đẩy nhanh quá trình
công nghiệp hoá theo hướng vừa mở rộng (broadening) vừa thâm sâu

(deepening). Công nghiệp phụ trợ không phát triển sẽ làm cho các công ty lắp
ráp và những công ty sản xuất thành phẩm cuối cùng khác sẽ phải phụ thuộc
nhiều vào nhập khẩu. Dù những sản phẩm này có thể được cung cấp với giá rẻ
ở nước ngoài nhưng vì chủng loại quá nhiều, phí tổn chuyên chở, bảo hiểm sẽ
làm tăng phí tổn đầu vào. Đó là chưa nói đến sự rủi ro về tiến độ, thời gian
nhận hàng nhập khẩu. Công ty đa quốc gia sẽ gặp khó khăn trong việc quản lý
dây chuyền cung cấp (supply chain management) nếu phải nhập khẩu phần
lớn linh kiện, bộ phận, và các sản phẩm công nghiệp phụ trợ khác. Vì lý do
này, công nghiệp phụ trợ không phát triển thì các ngành công nghiệp chính sẽ
9
thiếu sức cạnh tranh và phạm vi cũng giới hạn trong một số ít các ngành.
Từ phân tích ở trên ta thấy ngay là CNPT phải phát triển mới thu hút
FDI, nhất là FDI trong các ngành sản xuất các loại máy móc, là những ngành
đang phát triển mạnh tại Đông Á và là những lĩnh vực Việt Nam có lợi thế so
sánh động. Tỷ lệ của chí phí về CNPT cao hơn nhiều so với chi phí lao động
nên một nước dù có ưu thế về lao động nhưng CNPT không phát triển sẽ làm
cho môi trường đầu tư kém hấp dẫn.
Ví dụ về ngành sản xuất và lắp ráp ô tô Việt Nam:
Ngày nay nhu cầu sử dụng ô tô ngày càng lớn. Do vậy quy mô thị trường
ô tô ngày càng mở rộng nhưng năng lực sản xuất và lắp ráp của các doanh
nghiệp nội địa lại rất hạn chế. Theo thống kê năng lực sản xuất và lắp ráp của
các doanh nghiệp trong nước có công suất thiết kế khoảng 500 000 xe/năm,
nhu cầu sử dụng xe khoảng 120000 xe/năm nhưng tình trạng khan hàng vẫn
xảy ra liên tục. chứng tỏ các doanh nghiệp sản xuất và lắp ráp ô tô trong nước
hoạt động kém hiệu quả. Mà nguyên nhân chính ở đây là do công nghiệp phụ
trợ ngành công nghiệp ô tô còn kém phát triển. Hiện tại trong nước mới chỉ có
200 doanh nghiệp sản xuất phụ tùng linh kiện đơn giản như: kính ghế ngồi,
dây diện khung gầm. Các loại vật liệu như thép tấm, thép hình , thép đặc biệt
đẻ làm phụ tùng nội địa hóa vẫn chưa làm được. Với năng lực hạn chế như
vậy các doanh nghiệp chính trong nước còn phụ thuộc vào nguồn phụ tùng

nguyên liệu nhập ngoại. Trong khi thuế nhập khẩu đối với bộ phận động cơ là
15%, hộp số chưa sản xuất hoàn chỉnh là 20%,… với tỷ suất thuế lớn như vậy
chi phí nhập khẩu linh kiện là rất lớn chưa kể chi phí vận chuyển và bảo quản,
chi phí bảo hiểm,…
Hiện tại thuế nhập khẩu xe lên tới 60% giá thành xe,gv nhưng tỷ lệ nội
địa của ngành công nghiệp ô tô chưa đến 10%. Đây chính là thách thức cho
công cuộc phát triển ngành công nghiệp ô tô. Với một môi trường kém cạnh
tranh như vậy nguồn vốn FDI đầu tư vào công nghiệp sản xuất lắp ráp ô tô
10
Việt Nam là rất hạn chế. Thẫm chí có một số nhà đầu tư vào sản xuất linh
kiện ở Việt Nam nhưng sản phẩm sản xuất ra lại đem đi xuất khẩu, điều này
thể hiện sư bất lực và yếu kém của ngành công nghiệp phụ trợ ô tô Việt Nam.
Với một quy mô lớn ngành công nghiệp ô tô Việt Nam được coi là rất tiềm
năng và hấp dẫn nhưng với thực trạng hiện tại thì nó đang mất dàn sức hấp
dãn với FDI.
2. Tác động của FDI đến quá trình phát triển ngành công nghiệp
phụ trợ
Không phải lúc nào công nghiệp phụ trợ phát triển rồi mới thu hút
được FDI mà đôi khi FDI đi trước lôi kéo ngành công nghiệp phụ trợ
phát triển. Tác động của FDI lên công nghiệp phụ trợ có thể hiểu thông
qua 3 giai đoạn phát triển của ngành công nghiệp phụ trợ:
1) Trước khi FDI vào đã có nhiều công ty trong nước sản xuất sản phẩm
công nghiệp phụ trợ cung cấp cho các công ty lắp ráp, sản xuất sản phẩm
chính cho thị trường nội địa. Khi có FDI, một bộ phận những công ty sản xuất
công nghiệp phụ trợ sẽ phát triển mạnh hơn nếu được tham gia vào mạng lưới
chuyển giao công nghệ của các doanh nghiệp FDI. Sự liên kết (linkage) này
không phải tự nhiên hình thành mà các công ty công nghiệp phụ trợ phải tỏ ra
có tiềm năng cung cấp linh kiện, phụ liệu với chất lượng và giá thành cạnh
tranh được với hàng nhập. Tiềm năng đó sẽ thành hiện thực nhờ chuyển giao
công nghệ từ doanh nghiệp FDI.

(2) Đồng thời với sự gia tăng của FDI, nhiều doanh nghiệp bản xứ ra đời
trong các ngành công nghiệp phụ trợ chủ yếu để phục vụ cho hoạt động của
các doanh nghiệp FDI. Những doanh nghiệp sớm hình thành sự liên kết với
doanh nghiệp FDI sẽ được chuyển giao công nghệ và sẽ phát triển nhanh.
(3) Sau một thời gian hoạt động của doanh nghiệp FDI với lượng sản
xuất ngày càng mở rộng, tạo ra thị trường ngày càng lớn cho công nghiệp phụ
trợ, nhiều công ty nhỏ và vừa ở nước ngoài sẽ đến đầu tư. Ở đây có trường
11
hợp các công ty con hoặc các công ty có quan hệ giao dịch lâu dài của các
doanh nghiệp FDI đến đầu tư do sự khuyến khích của các doanh nghiệp FDI;
cũng có trường hợp các công ty nhỏ và vừa ở nước ngoài độc lập với các
doanh nghiệp FDI nhưng thấy thị trường của công nghiệp phụ trợ đã lớn
mạnh nên đến đầu tư.
Như vậy FDI tác động đến cả 3 quá trình phát triển của công nghiệp phụ
trợ.
Ở giai đoạn mới hình thành thì công nghiệp phụ trợ còn non yếu cả về
năng lực công nghệ và quản lý. Khi FDI vào sẽ cải thiện năng lực công nghệ
và quản lý của các doanh nghiệp trong nước bằng cách cho các doanh nghiệp
trong nước tham gia vào mạng lưới chuyển giao công nghệ. Điều này thể hiện
rất rõ ở các hợp đồng liên doanh sản xuất linh kiện. Hiện nay trong ngành sản
xuất lắp ráp các phương tiện giao thông vận tải xu hướng này diễn ra phổ
biến. Trong ngành công nghiệp ô tô có hàng loạt các liên doanh lớn như:
Vietsan, Vinastar, HonDa VN, Ford VN, Toyota Vn, Hino Motors Việt Nam ,
GM Dewoo VN, ô tô Trường Hải, ô tô Hòa Bình… các doanh nghiệp , tổ
chức kinh doanh trong nước khi tham gia và liên doanh sẽ được chuyển giao
công nghệ sản xuất một số linh kiện như: lốp vành xe, ghế , ống xả, cabin…
Giai đoạn 2, giai đoạn này là giai đoạn lớn mạnh và chuyên mô hóa của
các doanh nghiệp công nghiệp phụ trợ trong nước. Khi đó xuất hiện các công
ty chuyên phục vụ cho các doanh nghiệp FDI. Một ví dụ điển hình là Trường
Hải ô tô chuyên sản xuất khung gầm và thùng xe và lắp ráp các dòng xe cho

KIA MOTORS. Công ty ô tô MEKONG chuyên lắp ráp , sản xuất linh kiện
và bảo hành cho các sản phẩm của MEKONG AUTO. Còn rât nhiều doanh
nghiệp hoạt động dưới hình thức này.
Ở giai đoạn 3, hiện nay hàng loạt các nhà sản xuất ô tô lớn đang ra sức
kêu gọi các nhà đầu tư vừa và nhỏ nước ngoài đầu tư vào công nghiệp phụ trợ
sản xuất linh kiện phụ tùng tại Việt Nam. Dự kiến không xa sẽ có hàng loạt
12
doanh nghiệp nước ngoài vừa và nhỏ đâu tư vào công nghiệp phụ trợ nước ta.
II. Thực tiễn Việt Nam
1. Thực trạng phát triển công nghiệp phụ trợ nước ta
Cho đến nay, phải khẳng định rằng, ngành CNPT của Việt Nam còn cực
kỳ sơ khai, thể hiện ở các mặt sau:
Thứ nhất, số lượng các doanh nghiệp hoạt động trong khu vực này còn
rất hạn chế. Các doanh nghiệp này chủ yếu là các doanh nghiệp nhỏ và vừa,
thuộc sở hữu nhà nước, vẫn còn thói quen bao cấp nên rất thụ động trong việc
tìm kiếm khách hàng và "ngại" đổi mới.
Thứ hai, chất lượng của các sản phẩm của các doanh nghiệp sản xuất
trong ngành CNPT rất thấp và kém ổn định. Một mặt, các sản phẩm không
đáp ứng yêu cầu về chất lượng của nhà cung cấp. Sản phẩm CNPT chủ yếu do
doanh nghiệp nhà nước (DNNN) hoặc do các hộ kinh doanh cá thể sản xuất,
chất lượng kém và giá thành cao (vì công nghệ lạc hậu, khó khăn về vốn,
trình độ quản lý kém,…) nên chỉ tiêu thụ được trong nội bộ các DNNN. Mặt
khác, ngay cả trong trường hợp đáp ứng, chất lượng của các lô hàng đều bị
giảm dần sau các lần cung ứng. Chính điều đó khiến các công ty e ngại đối
với các nhà cung cấp của Việt Nam.
Thứ ba, tỷ lệ nội địa hóa trong các ngành công nghiệp của Việt Nam là
rất thấp. Hiện nay ở Việt Nam, một số ngành như dệt may, da giày, điện tử
đều phải nhập nguyên liệu từ nước ngoài. Do vậy, họ luôn phải phụ thuộc vào
nguồn nguyên liệu nhập khẩu, không thể chủ động được hoạt động sản xuất
kinh doanh, giá trị gia tăng của các doanh nghiệp Việt Nam chỉ đạt vỏn vẹn

10% - một con số quá thấp so với các nước có ngành CNPT phát triển khác.
Theo Báo cáo tháng 6/2006 của VDF, tỷ lệ nội địa hoá của các nhà sản xuất
Nhật Bản tại Việt Nam mới chỉ đạt 22,6% vào năm 2003, trong khi ở
Malaixia và Thái Lan tỷ lệ này là trên 45%. Còn theo nghiên cứu của Viện
Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương (CIEM), 32/80 doanh nghiệp FDI
13
khi được hỏi đều cho rằng việc cung ứng nguyên vật liệu và các hoạt động
kinh tế phụ trợ của Việt Nam rất kém. Các doanh nghiệp FDI rất muốn phối
hợp với các nhà cung cấp trong nước để giảm chi phí sản xuất, nâng cao sức
cạnh tranh của sản phẩm, nhưng rất khó có thể tìm được nhà cung cấp thích
hợp.
Tỷ lệ nội địa hóa trong một số ngành công nghiệp chế tác Việt Nam
Ngành công
nghiệp
Quy mô sản xuất
(nghìn chiếc)
Tỷ lệ nội địa hoá
(%)
Xe máy (2003) 1.290 (Thái Lan: 1.740) 75
Tivi (2002) 1.600 (Thái Lan: 6.500) 20-40
Ôtô (2005) 35 (Thái Lan: 1.000) 5-10
Nguồn: Diễn đàn Phát triển Việt Nam (VDF)
Thực trạng phát triển CNPT có thể được đánh giá thông qua khả năng cung
cấp linh phụ kiện và tỷ lệ nội địa hóa trong một số ngành công nghiệp chế tác
của Việt Nam như sau:
- Ngành ô tô theo lộ trình, các nhà sản xuất ôtô trong nước cần phải tăng
dần tỷ lệ nội địa hóa nhằm từng bước phát triển công nghiệp ôtô Việt Nam.
Tuy nhiên, cho đến nay, phần lớn các nhà sản xuất trong nước chưa chú trọng
đến việc này mà thường chỉ nhập linh kiện rồi tiến hành lắp ráp, khiến chi phí
sản xuất tăng cao. Sự yếu kém của CNPT trong ngành sản xuất ô tô đang là

trở lực lớn để có thể phát triển ngành công nghiệp non trẻ này. Hiện Việt Nam
có tới 50 doanh nghiệp lắp ráp ôtô, nhưng chỉ có trên 60 doanh nghiệp cung
cấp linh kiện, quá thấp so với con số 385 doanh nghiệp ở Malaixia và 2.500
doanh nghiệp ở Thái Lan.
Theo tính toán, một doanh nghiệp ôtô phải cần tối thiểu 20 nhà cung cấp
các loại linh kiện khác nhau. Nhưng trên thực tế, thời gian qua, các doanh
14
nghiệp lắp ráp ôtô chỉ có 2-3 nhà cung cấp linh kiện trong nước. Do vậy,
nhiều doanh nghiệp phải phụ thuộc vào nguồn linh kiện nhập khẩu. Ngay như
Toyota, năm 2005 nhập khẩu linh kiện trị giá 460 triệu USD trong khi giá trị
linh kiện sản xuất trong nước chỉ đạt 2,3 triệu USD.
- Ngành xe máy Việt Nam hiện có trên 230 doanh nghiệp sản xuất linh kiện,
phụ tùng cung cấp cho các doanh nghiệp lắp ráp xe máy, trong đó có hơn 80
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Tỷ lệ nội địa hóa đối với một số loại
xe máy sản xuất tại Việt Nam đạt mức khá cao (từ 40-70%) do trong những
năm gần đây nhu cầu xe máy tăng đột biến tạo nên thị trường rộng lớn cho
CNPT.
Tuy nhiên, các linh phụ kiện sản xuất trong nước chủ yếu do các liên doanh
sản xuất xe máy tự sản xuất hoặc mua từ các công ty có vốn đầu tư nước
ngoài khác. Số doanh nghiệp thuần túy trong nước có đủ năng lực cung cấp
linh phụ kiện cho lắp ráp xe máy rất ít. Đơn cử, trong hàng trăm doanh nghiệp
nội địa, hãng Honda đến năm 2003 chỉ chọn ra được 13 doanh nghiệp có khả
năng cung cấp đủ chất lượng.
- Ngành dệt may
CNPT cho ngành dệt may còn nhiều bất cập và yếu kém. Năng lực các
nhà máy cơ khí chuyên ngành dệt may hiện tại quá nhỏ bé, chưa đáp ứng
được nhu cầu phát triển của các doanh nghiệp trong ngành. Các doanh nghiệp
dệt may vẫn phải nhập 70-80% nguyên phụ liệu từ nước ngoài.
- Ngành điện tử, điện máy
Tính đến 2005, mới chỉ có 1/4 số doanh nghiệp trong ngành sản xuất phụ

tùng linh kiện, nhưng phần lớn lại là các doanh nghiệp FDI và sản phẩm chủ
yếu lại để xuất khẩu. Thêm vào đó, tỷ lệ nội địa hoá sản phẩm trong ngành rất
thấp, mới chỉ đạt được khoảng 20%, chủ yếu là bao bì, linh kiện nhựa. Trong
khi đó, chất lượng sản phẩm của ngành này còn yếu và không ổn định. Công
ty Daihatsu đã từng sang Việt Nam tìm kiếm nhà cung cấp ốc vít, nhưng khảo
15
sát tới 64 doanh nghiệp mà không lựa chọn được nhà cung cấp nào đạt tiêu
chuẩn quốc tế. Canon cũng phải mất một thời gian dài mới tìm được nhà cung
cấp tại Việt Nam, song 90% trong số đó lại là doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài.
Sau 30 năm phát triển, ngành điện tử Việt Nam vẫn trong tình trạng lắp
ráp cho các thương hiệu nước ngoài. Các doanh nghiệp điện tử trong nước
vẫn gần như chỉ khai thác sản phẩm cũ, lợi nhuận rất thấp và giá trị gia tăng
chỉ ước tăng 5-10%/năm. Theo kết quả khảo sát của Hiệp hội Doanh nghiệp
điện tử Việt Nam, các doanh nghiệp FDI có "tên tuổi" đều phải nhập khẩu
trên 90% linh kiện của nước ngoài, thậm chí có doanh nghiệp nhập khẩu cả
100% như Công ty Fujitsu Việt Nam. Điều này vừa gây thiệt thòi cho ngành
công nghiệp Việt Nam, khiến chúng ta khó thoát khỏi tình trạng gia công, lắp
ráp, vừa giảm sức cạnh tranh của các doanh nghiệp sản xuất, lắp ráp hàng
điện tử trong nước. Việc thiếu vắng các nhà cung cấp linh phụ kiện cũng
khiến nhiều nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực này có xu hướng ngại đầu
tư vào Việt Nam và đây là điểm yếu căn bản trong thu hút FDI vào lĩnh vực
điện - điện tử.
Nói tóm lại, có thể thấy rằng, quá trình phát triển CNPT ở Việt Nam
chưa diễn ra một cách có hiệu quả. Doanh nghiệp trong nước đã có nhưng
chưa đáp ứng yêu cầu của thị trường. Do vậy, chưa có sự liên kết chặt chẽ
giữa doanh nghiệp FDI và các công ty trong nước. Mặc dù, các doanh nghiệp
ngoài nhà nước ra đời khá nhiều sau Luật Doanh nghiệp 2000, trong đó có lẽ
có khá nhiều doanh nghiệp thuộc các ngành CNPT, nhưng có nhiều báo cáo
cho thấy, các doanh nghiệp này đang gặp khó khăn trong việc tiếp cận vốn và

công nghệ.
16
Chính vì thực trạng yếu kém của CNPT mà đến nay, Việt Nam vẫn chưa
hấp dẫn được các công ty đa quốc gia đầu tư trực tiếp sản xuất các loại hàng
điện tử gia dụng, các sản phẩm của công nghệ thông tin phần cứng như máy
tính cá nhân, điện thoại di động, các loại xe hơi, xe máy, v.v… nói chung là
các loại máy móc, các ngành cơ khí.
Bên cạnh đó, việc thiếu ngành CNPT còn dẫn đến tình trạng nhập siêu.
Như ở Việt Nam, theo Bộ Công thương, trong 8 tháng đầu năm 2007, nhập
siêu cả nước đang ở mức 6,4 tỉ USD. Tỉ lệ nhập siêu tính theo kim ngạch xuất
khẩu bằng 20,5%, cao gần bằng tỉ lệ này cùng kỳ năm 2003 (25,3%) và tăng
gần gấp đôi năm 2006 (10,41%). Theo các chuyên gia kinh tế, tình trạng này
là do Việt Nam thiếu ngành CNPT, dẫn đến trong cơ cấu nhập khẩu, nguyên
vật liệu sản xuất chiếm tỉ trọng lớn, đặc biệt là các ngành dệt may, da giày,
điện tử, gỗ phải nhập nguyên phụ liệu từ 70%-90%.
2. Nguyên nhân
Sự yếu kém của bản thân các DN
Nguyên nhân của những yếu kém kể trên trước hết xuất phát từ sự kém
năng động và nhạy bén của các nhà cung cấp Việt Nam trong việc tiếp cận
khách hàng, chưa tự tin và chưa có khái niệm “xây dựng quan hệ” trong kinh
doanh. Nhiều trường hợp khách hàng lại là người tìm đến doanh nghiệp để đề
nghị cung cấp sản phẩm. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp còn thiếu nguồn
nhân lực kỹ thuật cao cho CNPT.
Tình trạng thiếu vốn và công nghệ của các Doanh nghiệp
Các doanh nghiệp trong lĩnh vực CNPT gặp khó khăn về vốn và kỹ thuật
cũng như đầu ra trong điều kiện quy mô thị trường quá nhỏ. Thực tế là, luôn
tồn tại một khoảng cách quá lớn giữa yêu cầu về chất lượng sản phẩm, giá bán
cũng như thời hạn giao hàng của các doanh nghiệp nước ngoài so với khả
năng đáp ứng của các doanh nghiệp Việt Nam. Không phải các doanh nghiệp
17

Việt Nam không hiểu được thực trạng trên mà nguyên nhân sâu xa bắt nguồn
từ đặc điểm của ngành CNPT, yêu cầu vốn đầu tư lớn, sản lượng phải nhiều
để có thể giảm giá thành và đảm bảo chất lượng. Đây có lẽ là khó khăn lớn
nhất của nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ hoạt động trong ngành CNPT. Khó
khăn này càng tăng lên khi không có những hỗ trợ cần thiết về kỹ thuật, công
nghệ cho các công ty linh kiện phụ tùng Việt Nam từ phía các cơ quan chức
năng. Bản thân hệ thống các trung tâm kiểm soát và kiểm định chất lượng linh
kiện phụ tùng cũng gần như không có ở nhiều địa phương hoặc nếu có thì
cũng hoạt động cực kỳ kém hiệu quả.
Các khó khăn về quy mô cầu
Thị trường Việt Nam cho các nhà lắp ráp đặc biệt là các nhà sản xuất ô
tô còn khá nhỏ. Hơn nữa, mức độ tăng trưởng của thị trường nội địa thấp. Với
quy mô thị trường quá nhỏ, nhiều doanh nghiệp lớn trong nước đã tỏ ra e ngại
khi được đề nghị trở thành vệ tinh của các tập đoàn lớn. Nguyên do là họ phải
bỏ vốn lớn ra đầu tư nâng cấp thiết bị dây chuyền cho phù hợp với yêu cầu
chất lượng, trong khi chưa thấy hiệu quả trước mắt. Thêm vào đó, với quy mô
thị trường trong nước nhỏ bé, các nhà đầu tư nước ngoài cũng ít quan tâm đầu
tư vào CNPT.
Thiếu thông tin
Một nguyên nhân nữa bắt nguồn từ tình trạng thiếu các kênh thông tin
giữa các doanh nghiệp FDI/nhà lắp ráp và các công ty nội địa có khả năng và
các tập đoàn lớn bên ngoài đặc biệt là các tập đoàn của Nhật Bản. Bên cạnh
đó là việc thiếu cơ sở dữ liệu phù hợp và đầy đủ về các công ty nội địa, các
công ty FDI, các nhà lắp ráp và thiếu thông tin về các liên kết khác nhau giữa
các nhà lắp ráp và các công ty cung cấp linh kiện trong nước. Chính vì vậy
các nhà sản xuất phải rất khó khăn trong việc tìm kiếm đơn vị cung cấp linh
kiện và dịch vụ hỗ trợ cho mình cũng như doanh nghiệp phải vất vả trong việc
tìm kiếm đầu ra cho sản phẩm.
18
3.Thu hút FDI ở Việt Nam

Tình hình thu hút FDI vào Việt Nam gần đây đang có những động thái
tích cực mới, với sự cải thiện khá rõ về quy mô vốn đăng ký/dự án, cơ cấu
vốn đăng ký và mức giải ngân thực tế…
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, giải ngân vốn FDI đạt khoảng 900
triệu USD trong tháng 4, nâng tổng số vốn FDI giải ngân trong 4 tháng đầu
năm 2010 lên 3,4 tỷ USD, tăng tới 36% so với cùng kỳ năm 2009. Trung
bình, giải ngân vốn FDI đạt khoảng 850 triệu USD/tháng. Đây là mức khá cao
và tương đương giải ngân vốn FDI giai đoạn trước suy thoái kinh tế (năm
2009 Việt Nam thu hút FDI đạt 21,48 tỷ USD, bằng 24,6% so với năm 2008,
nhưng trong 2 năm 2008-2009, vốn FDI đăng ký và tăng thêm khoảng 85,5 tỷ
USD, vượt mức 83,1 tỷ USD của cả 20 năm trước đó. Trong năm 2009, có
839 dự án FDI đăng ký cấp mới với số vốn đạt 16,3 tỷ USD – tương ứng giảm
46,1% số dự án và 75,4% về vốn so với năm 2008 – và số lượt dự án tăng vốn
đạt 215 lượt, với số vốn đạt 5,1 tỷ USD, giảm không đáng kể so với năm
2008; còn số vốn thực hiện đạt ở mức khoảng 10 tỷ USD, giảm 13% so với
năm 2008. Theo đó, khoảng cách giữa vốn đăng ký và vốn thực hiện đã giảm
hơn so với năm trước. Tỷ lệ giữa vốn đăng ký và vốn thực hiện năm 2007 là
37,56%, năm 2008 giảm xuống còn 16%, thì năm 2009 đã tăng lên 46,55%).
Trong tổng số vốn đăng ký mới tính từ 1/1/2010 – 20/4/2010 là 5,9 tỷ USD
(tương đương 74,3% so với cùng kỳ năm 2009), thì có 5,6 tỷ USD vốn của
263 dự án đăng ký mới, tuy giảm 19,6% về số dự án, nhưng tăng 58,5% về
vốn cấp mới so với cùng kỳ năm 2009. Ngoài ra, có tới 92 lượt dự án đang
triển khai xin tăng vốn 325 triệu USD. Nhiều dự án chậm trễ triển khai vì tác
động của khủng hoảng tài chính toàn cầu cũng được các nhà đầu tư cam kết
khởi động ngay đầu năm nay, như: dự án Trung tâm Tài chính Việt Nam
(TP.HCM) có tổng vốn lên tới 930 triệu USD này do Berjaya Việt Nam làm
19
chủ đầu tư; dự án du lịch Saigon Atlantis Hotel 4,1 tỉ USD (Bà Rịa – Vũng
Tàu) của Mỹ; Lĩnh vực bán lẻ ở thị trường Việt Nam được các nhà đầu tư
nước ngoài quan tâm đặc biệt. Ông Tham Tuck Choy, Tổng giám đốc Parkson

Việt Nam cho hay, kết quả kinh doanh của hệ thống Parkson tại Việt Nam
trong năm 2009 là tốt nhất trong số những nước mà tập đoàn này đầu tư, với
tăng trưởng doanh thu đạt 30%/năm, so với con số đó chỉ từ 10 – 15% mà
công ty này thu được ở Malaysia, Trung Quốc… “Kết quả đó khiến chúng tôi
tự tin hơn khi quyết định đầu tư thêm những dự án mới. Trung tâm Thương
mại (TTTM) Parkson thứ tư mới khai trương tại TP.HCM hồi cuối tháng
12/2009 và là TTTM thứ 6 ở Việt Nam chỉ trong vòng 5 năm. Năm 2010,
Parkson sẽ tiếp tục đầu tư hai TTTM tại Hà Nội và một ở Đà Nẵng, để đến
năm 2015 sẽ có khoảng 15 – 16 TTTM Parkson tại thị trường Việt Nam. Trên
thực tế, nếu thuận lợi hơn trong việc tìm kiếm mặt bằng, con số sẽ không
dừng lại ở đó”… Trong 4 tháng, cả nước có 31/ 63 tỉnh, thành thu hút được
vốn FDI, trong đó dẫn đầu là Quảng Ninh với hơn 2,1 tỷ USD (38,3% tổng
vốn đăng ký), tiếp theo là Nghệ An, Bà Rịa – Vũng Tàu, TP. HCM, Quảng
Ngãi và Hà Tĩnh. Trong 31 quốc gia, vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam 4
tháng đầu năm nay, các vị trí đầu bảng đã có sự thay đổi cả về đối tác đầu tư
và lượng vốn đăng ký. Từ chỗ không có đối tác nào đạt tổng vốn đăng ký đầu
tư quá 1 tỷ USD tại báo cáo tháng trước, đến nay đã có 3 đối tác vượt chỉ tiêu
này: Hà Lan chỉ thêm 1 dự án cấp mới trong tháng đã thế chỗ Hoa Kỳ giành
vị trí “quán quân”, với trên 2,15 tỷ USD vốn đăng ký. Nhật Bản từ vị trí thứ 8
đã lên thứ nhì, với 1,1 tỷ USD vốn đăng ký, Hoa Kỳ đứng thứ 3 với 1,02 tỷ
USD… (Hoa Kỳ từng là nhà đầu tư lớn nhất tại Việt Nam với số vốn đăng ký
9,8 tỷ USD, chiếm 45,6% tổng vốn đầu tư vào Việt Nam năm 2009), Hàn
Quốc, Quần đảo Virgin (Anh), Singapore…
Trong năm 2008, đầu tư trực tiếp nước ngoài tập trung chủ yếu vào
ngành công nghiệp, đạt 912 dự án cấp mới với 35,6 tỷ USD (chiếm 58,6% và
20
53,4% tổng số dự án và vốn cấp mới), trong đó ngành công nghiệp chế biến
đạt mức cao nhất với 764 dự án cấp mới và 35 tỷ USD (chiếm 49% tổng số
dự án và 52,7% tổng số vốn cấp mới). Bước sang năm 2009, dòng vốn tập
trung vào các ngành dịch vụ, đặc biệt là kinh doanh bất động sản và lĩnh vực

dịch vụ lưu trú và ăn uống. Số dự án cấp mới ngành dịch vụ năm 2009 đạt
498 dự án với 13,2 tỷ USD (tương ứng chiếm 59,3% và 81,2% tổng số dự án
cấp mới và vốn FDI), trong khi ngành công nghiệp chỉ đạt 325 dự án với 3,0
tỷ USD (tương ứng chiếm 38,7% và 18,3%). Còn trong năm 2010, theo Bộ
Kế hoạch và Đầu tư, Việt Nam sẽ chọn lọc để hướng dòng vốn FDI vào
những lĩnh vực quan trọng, ưu tiên, như công nghiệp phụ trợ, phát triển cơ sở hạ
tầng, phát triển nguồn nhân lực, chế biến nông sản, dịch vụ có giá trị gia tăng
cao, ngành sản xuất tiết kiệm năng lượng và các ngành có tỷ trọng xuất khẩu
lớn… Theo Tổng cục Thống kê, tính chung quý I/2010, kim ngạch xuất khẩu
của Việt Nam đạt 14 tỷ đô la Mỹ, giảm 1,6% so với cùng kỳ năm 2009, trong đó,
kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp FDI đạt hơn 8 tỷ đô la Mỹ, tăng
29,3%, nhập khẩu khoảng 7,1 tỷ đô la Mỹ. Còn nếu không kể dầu thô, trong 4
tháng đầu năm 2010, khối các doanh nghiệp FDI xuất khẩu 4,13 tỷ USD, tăng
35,7% so với cùng kỳ 2009 và nhập siêu khoảng 60 triệu USD…
Mặc dù tình hình thu hút FDI vào Việt Nam đang có nhiều khởi sắc
nhưng vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế: sự mất cân đối trong đầu tư ở các ngành
nghề, vùng lãnh thổ; tình trạng ô nhiễm môi trường, phá vỡ quy hoạch ngành,
đe dọa an ninh năng lượng, gia tăng đầu cơ trên thị trường bất động sản và sự
bất ổn trên thị trường vốn; việc chuyển giao và sử dụng công nghệ lạc hậu;
lạm dụng những ưu đãi về thuế, đất đai… Đặc biệt, Việt Nam cần khắc phục
căn bản những nút thắt gây nghẽn mạch và lệch hướng dòng vốn FDI thu hút,
nổi bật là tình trạng thủ tục hành chính rườm rà, quan liêu; hạ tầng cơ sở và
nguồn nhân lực yếu kém, chi phí đầu vào cao; công tác xúc tiến đầu tư thiếu
tính chuyên nghiệp.
21
chúng ta thu hút FDI vào để nhằm mục đích phát triển kinh tế xã hội một
cách bền vựng hài hòa và ổn định nhưng hiện tại các dự án FDI vào Việt Nam
lại có xu hướng tập trung vào các ngành có tỷ suất lợi nhuận cao như công
nghiệp khai khoáng, công nghiệp ô tô, công nghệ thông tin… Nói chung là
các ngành chế biến chế tạo. sự đầu tư tập trung như vậy dẫn đến sự mất cân

bằng trong cơ cấu ngành nghề. Với lượng lao động phổ thông là chủ yếu và
đang còn thiếu các công nhân lao động lành nghề cũng như đội ngũ quản lý
tốt. trong khi đó bnhuwngx dự án FDI vào lại đòi hỏi đội ngũ lao động có
trình độ cao, một số lĩnh vực lại cần rất rất ít lao động, do vậy FDI vào thong
giả quyết được van đề việc làm, đồng thời phá vợ cơ cấu ngành theo định
hướng của nước nhà.
Đầu tư trực tiếp của nước ngoài được cấp giấy phép thời kỳ 1988 - 2010
Số dự
án
Tổng
vốn đăng ký
(Triệu đô la
Mỹ) (*)
Tổng số
vốn
thực hiện
(Triệu đô la
Mỹ)
Tổng số 13812 214315,6 77945,5
1988 37 341.7
1989 67 525.5
1990 107 735.0
1991 152 1291.5 328.8
1992 196 2208.5 574.9
1993 274 3037.4 1017.5
1994 372 4188.4 2040.6
1995 415 6937.2 2556.0
1996 372 10164.1 2714.0
1997 349 5590.7 3115.0
1998 285 5099.9 2367.4

1999 327 2565.4 2334.9
2000 391 2838.9 2413.5
22
2001 555 3142.8 2450.5
2002 808 2998.8 2591.0
2003 791 3191.2 2650.0
2004 811 4547.6 2852.5
2005 970 6839.8 3308.8
2006 987 12004.0 4100.1
2007 1544 21347.8 8030.0
2008 1557 71726.0 11500.0
2009 1208 23107.3 10000.0
Sơ bộ 2010 1237 19886.1 11000.0
(*)
Bao gồm cả vốn tăng thêm của các dự án đã được cấp giấy
phép từ các năm trước.
Dựa vào bảng trên ta có thể thây rằng vốn FDI đầu tư vào nước ta ngày
càng tăng. Tổng vốn đăng ký tăng từ 314,7 triệu ÚSD năm 1988 lên đến
71726 triệu USD năm 2009, tăng gấp 228 lần. tổng vốn thực hiện cũng tăng
tương ứng từ 328,8 triệu USD năm 1991 lên đến 11000 triệu USD năm 2010
tăng gấp 33 lần. có thể nói sau đổi mới lượng vốn đầu tư vào Việt Nam tăng
nhanh và ổn định. Trong đó tổng vốn đăng ký tăng mạnh trong giai đoạn
1991-> 1995 (gần 8 lần) và 2004->2009(5 lần). số lượng dự án cũng tăng
mạnh đặc biệt trong giai đoạn 1998-> 2008 nhưng từ năm 2008 đến nay có xu
hướng giảm mạnh cùng với lượng vốn đầu tư do ảnh hưởng của các cuộc
khủng hoảng kinh tế thế giới và khu vực.
23
Đầu tư trực tiếp của nước ngoài được cấp giấy phép phân theo ngành kinh tế (Luỹ
kế các dự án còn hiệu lực đến ngày 31/12/2010)
Số dự án

Vốn đăng

(Triệu đô la
Mỹ)
(*)
Tổng số 12463 194572,2
Nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản 478 3095,8
Khai khoáng 68 2943,4
Công nghiệp chế biến, chế tạo 7385 95148,3
Sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hoà
không khí 63 4870,4
Cung cấp nước; hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải 24 64,8
Xây dựng 707 11589,1
Bán buôn và bán lẻ; sử chữa ô tô, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác 517 1649,1
Vận tải, kho bãi 304 3181,5
Dịch vụ lưu trú và ăn uống 302 11390,9
Thông tin và truyền thông 656 4819,1
Hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm 75 1321,5
Hoạt động kinh doanh bất động sản 354 48043,2
Hoạt động chuyên môn, khoa học và công nghệ 991 707,6
Hoạt động hành chính và dịch vụ hỗ trợ 99 182,8
Giáo dục và đào tạo 136 342,4
Y tế và hoạt động trợ giúp xã hội 75 1093,2
Nghệ thuật, vui chơi và giải trí 124 3483,1
Hoạt động khác 105 646,0
(*)
Bao gồm cả vốn tăng thêm của các dự án đã được cấp giấy phép từ các năm trước.
Nhìn vào bảng thống kê trên ta có thể thấy được FDI tập trung chủ yếu vào
các ngành như: công nghiệp chế biến chế tạo(49%); kinh doanh bất động
sản(24,7%), xâydựng (6%); dịch vụ lưu trú và ăn uống(5,85%)…

Trong khi đó FDI vào các lĩnh vực mang tính xã hội cao là rất thấp: giáo
dục đào tạo(0,18%); y tế(0,56%); môi trường(0,033%); chuyên môn, khoa học
24
công nghệ(0,36%); nông , lâm nghiệp , thủy sản(1,6%)… những chỉ số trên cho
ta thấy sự thiếu hài hòa trong phát triển kinh tế xã hội của các dự án FDI.
Trong ngành công nghiệp phụ trợ thì lĩnh vực phụ trợ cho ô tô, xe máy,
phượng tiện vận tải nói chung chiếm một tỷ trọng khá lớn. Nhưng nhìn vào
bảng trên thì ta có thể thấy FDI vào lĩnh vực này chỉ chiếm 0,85%. Tỷ lệ này là
quá nhỏ để có tác dụng thúc đẩy ngành công nghiệp phụ try nước ta phát triển.
III. Một số giải pháp
Trước nhu cầu hội nhập và nhất là trước những thách thức từ AFTA và
Trung Quốc, ta không còn nhiều thời gian. Trong vòng 3-4 năm tới, với cố gắng
lớn và với các ưu tiên về mặt chính sách, lĩnh vực .Việt Nam có thể làm gấp và
có hiệu quả hơn việc đẩy mạnh phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ. Các
ngành này phát triển sẽ tạo ngay nhiều công ăn việc làm và dần dần thu hút FDI
từ các công ty đa quốc gia tầm cỡ lớn. Hơn nữa, việc nhà nước dồn hết nỗ lực
tập trung phát triển ngành này tự nó gây được niềm tin của các doanh nghiệp
nước ngoài vào thị trường đầu tư ở Việt Nam. Ngoài ra phải tận dụng tốt những
lợi ích mà nguồn vốn FDI mang lại. Đó là công nghệ, trình độ quản lý, công ăn
việc làm cho người dân…Sau một thời gian đầu tư ồ ạt ở Trung Quốc, hiện nay
nhiều công ty đa quốc gia muốn phân tán sang các nước khác và đang trong giai
đoạn chọn thị trường mới. Do đó Việt Nam cần phát tín hiệu càng sớm càng tốt
để chớp thời cơ.
Tóm lại, chính phủ cần quyết định ngay mũi đột phá chiến lược và trong
vòng 2-3 năm tới ưu tiên các nguồn lực trong nước và tận dụng hết các khả
năng từ bên ngoài để thực hiện thành công chiến lược này.
Sau đây là các chính sách cụ thể và biện pháp thực hiện:
•Giảm hoặc bãi bỏ các loại thuế đánh vào linh kiện nhập khẩu để giảm giá
thành sản phẩm lắp ráp, để các sản phẩm này xuất khẩu được. Mở rộng thị
trường ra các nước khác để tăng quy mô sản xuất thành phẩm cuối cùng mới

kích thích các công ty nhỏ và vừa nước ngoài đến đầu tư sản xuất sản phẩm
công nghiệp phụ trợ. Trong thời đại tự do thương mại không thể áp dụng chính
25

×