A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Công cuộc đổi mới đất nước do Đảng Việt Nam khởi xướng và lãnh
đạo tại Đại hội toàn quốc lần thứ VI đã được thực hiện hơn 20 năm. Hơn 20
năm qua thế giới vàđất nước đã có rất nhiều biến đổi phức tạp, tạo ra cả thời
cơ và thách thức. Dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, công cuộc
đổi mới đất nước đã vàđang giành được những thành tựu to lớn và quan trọng,
góp phần ổn định chính trị, đưa đất nước không ngừng phát triển và có vị thế
xứng đáng trên trường quốc tế. Trong những thành tựu to lớn đạt được 20
năm đổi mới, những thành tựu đạt được trong lĩnh vực kinh tế là vô cùng
quan trọng, được Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đánh giá cao và ghi nhận
với đường lối thực hiện "nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
cósự quản lý của Nhà nước". Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
được Đảng cộng sản Việt Nam đưa ra từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI
vàđược coi như là đặc trưng của thời kỳ quá độ lên CNXH ở đất nước ta.
Kinh tế thị trường định hướng XHCN có sự quản lý của Nhà nước
được xuất phát từ thực tế của nước ta và sự vận dụng quan điểm của chủ
nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn cách mạng mới
Thực hiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được coi
như là một giải pháp cơ bản, quan trọng trong đường lối đổi mới đất nước mà
Đảng ta xác định trong suốt 20 năm qua từ Đại hội VI đó là: Dứt khoát từ bỏ
mô hình kinh tế phi hàng hóa, phi thị trường, mô hình kinh tế tập trung quan
liêu bao cấp. Chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần
còn được xác định rõ trong cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ năm 1991 đó là "Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo
định hướng XHCN vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước". Và cho đến Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII lại đưa ra quan niệm
mới và rất quan trọng "sản xuất hàng hóa không đối lập với chủ nghĩa xã hội
1
mà là thành mục tiêu phát triển nền văn minh nhân loại, tồn tại khách quan,
cần thiết cho công cuộc đã được xây dựng chủ nghĩa xã hội và cả khi CNXH
đã được xây dựng". Đến Đại hội IX khái niệm "Kinh tế thị trường" được
chính thức nêu lên trong văn kiện Đại hội - khẳng định kinh tế thị trường của
ta không phải là kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Đại hội IX đưa ra khái
niệm "Kinh tế thị trường định hướng XHCN" xem đó là mô hình tổng quát
trong suốt thời kỳ quá độ đi lên CNXH ở Việt Nam.
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH
TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
1. Sự phát triển các quan điểm đường lối chủ trương của Đảng ta
về phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩaở Việt Nam
Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, kinh tế Nhà nước
đóng vai trò chủđạo; kinh tế Nhà nước cùng với kinh tế tập thể tạo thành nền
tảng của nền kinh tế quốc dân; kinh tế tư nhân kể cả kinh tế tư bản tư nhân là
một bộ phận hợp thành của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Và thực tếđã chứng minh, ngày nay vai trò của nền kinh tế tư nhân
đang và sẽ có xu hướng tăng lên vì lợi ích của đất nước và chủ nghĩa xã hội,
Đảng và Nhà nước ta chủ trương khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân
trong mọi ngành nghề mà luật pháp không cấm kể cả kinh tế tư nhân qui mô
lớn. Vấn đềđặt ra là phải có những chính sách và giải pháp tạo điều kiện để
các thành phần kinh tế càng phát triển, phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt
tiêu cực vừa không làm mất động lực phát triển, vừa chủđộng khống chế phân
hóa hai đầu, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa.
Như vậy, đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa phải được thể hiện
ngay trong sự vận động của mỗi thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị
2
trường nước ta. Vàđặc trưng của đổi mới tư duy kinh tếở nước ta có thểđược
khẳng định khái quát như sau:
+ Từ tư duy hiện vật sang tư duy hàng hóa, tư duy thị trường.
+ Từ tư duy bao cấp ỷ lại, thụđộng sang tư duy chủđộng sáng tạo
+ Từ tư duy kinh tế "khép kín" sang tư duy mở, chủđộng hội nhập kinh tế
+ Từ tư duy đơn sở hữu, sang tư duy đa sở hữu, đa thành phần.
+ Từ không thừa nhận đến thừa nhận đa dạng hóa hình thức phối, kể cả
phân phối theo vốn, tài sản.
+ Từ tư duy "Nhà nước làm tất cả, độc quyền" sang tư duy đa dạng hóa các
chủ thể làm kinh tế, giảm độc quyền Nhà nước, xóa bỏđộc quyền doanh nghiệp.
Việc Đảng, Nhà nước ta quyết định lựa chọn giải pháp "Thực hiện nền
kinh tế thị trường - định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước
là một quyết định đúng đắn. Đây là một bước đột phá lớn về nhận thức trong
đổi mới tư duy của Đảng ta, nó làm rõ mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế
thị trường và chủ nghĩa xã hội, khẳng định kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa phù hợp với các đặc điểm của dân tộc vàđịnh hướng XHCN là
vấn đề có tầm chiến lược lâu dài để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam. Khẳng định mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa là phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật
chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân. Muốn vậy phải
tập trung sức phát triển lực lượng sản xuất, giải phóng triệt để lực lượng sản
xuất - quan hệ sản xuất phải phù hợp với tinh thần và trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất.
2.Các chủ trương chính sách lớn của Đảng, Nhà nước đối với việc
xây dựng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Trước khi đổi mới, khi chưa xác định phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta không thừa nhận sản xuất hàng hóa, cơ
chế thị trường, chúng ta xe kế hoạch làđặc trưng quan trọng nhất của kinh tế
xã hội chủ nghĩa, phân bổ mọi nguồn lực theo kế hoạch là chủ yếu, coi thị
3
trường chỉ là công cụ thứ yếu bổ sung cho kế hoạch không thừa nhận trên
thực tế sự tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quáđộ - lấy kinh
tế quốc doanh và tập thể là chủ yếu - muốn nhanh chóng xóa bỏ sở hữu tư
nhân và kinh tế, cá thể, tư nhân xây dựng nền kinh tế khép kín. Sau đổi mới
xác định ở nước ta có 3 chếđộ sở hữu là sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể và sở
hữu tư nhân, từđó tạo thành nhiều hình thức sở hữu toàn thành phần kinh
tếđan xen hỗn hợp xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử giữa các thành phần
kinh tế. Xác định ngày càng rõ hơn nội dung, vai trò chủđạo của kinh tế Nhà
nước (thể hiện ở vai trò môi trường, điều kiện thúc đẩy và lực lượng vật chất
quan trọng để Nhà nước định hướng vàđiều tiết nền kinh tế không nhất thiết
phải có tỷ trọng lớn trong mọi ngành, mọi lĩnh vực kinh tế. Đổi mới mạnh mẽ
doanh nghiệp Nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư bản Nhà nước. Khẳng định
vai trò quan trọng của kinh tế tư nhân và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành
quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, cùng phát triển lâu
dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh từng bước chuyển cơ chế kế hoạch hóa
tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường cạnh tranh lành mạnh -
hình thành đồng bộ các yếu tố thị trường, tách quyền của chủ sở hữu và quyền
quản lý, sử dụng, Nhà nước quản lý, điều tiết nền kinh tế thị trường, định
hướng XHCN thông qua luật pháp, kế hoạch, chính sách các công cụ kinh tế
và lực lượng vật chất cần thiết mà Nhà nước nắm, có sự phân cấp ngày càng
nhiều hơn để phát huy tính chủđộng sáng tạo của địa phương và cơ sở, xóa bỏ
mọi hình thức bao cấp; hạn chế, kiểm soát và xóa bỏđộc quyền kinh doanh.
Đối với quan điểm về thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa cũng
được thay đổi một cách cơ bản về nhận thức từ công nghiệp theo kiểu cũ khép
kín, hướng nội, thiên về phát triển công nghiệp nặng chủ yếu dựavào lợi thế
về lao động , tài nguyên đất đai và nguồn ngoại viện của các nước xã hội chủ
nghĩa đi trước đã chuyển dần sang công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa trong
một nền kinh tế mở, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phát triển mạnh
4
công nghiệp và dịch vụ - gắn công nghiệp hóa, hiện đại hóa với từng bước
phát triển kinh tế tri thức. Từ chỗ xác định chủ lực thực hiện công nghiệp
hóa, hiện đại hóa là Nhà nước và doanh nghiệp Nhà nước, đã khẳng định đó
là sự nghiệp của toàn dân, của toàn xã hội mà mỗi thành phần kinh tếđồng
thời huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực từ công nghiệp hóa, từ
chỗ chủ yếu bằng cơ chế kế hoạch hóa tập trung của Nhà nước cơ chế thị
trường lấy tiêu chuẩn trước hết làhiệu quả kinh tếđểđầu tư. Nhà nước có chính
sách khuyến khích vàưu đãi cho một số ngành, lĩnh vực, địa bàn doanh nghiệp
vừa và nhỏ và một số mục tiêu như xuất khẩu, tạo việc làm, xóa đói, giảm
nghèo…
Cùng với việc đổi mới về nhận thức trong quá trình phát triển kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vai trò quản lý của Nhà nước đối với
nền kinh tế ngày càng rõ ràng, cụ thể và hiệu quả hơn khi Đảng và Nhà nước
ta chủ trương dần hình thành thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa thông qua việc đưa chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường vào qui
định trong hiến pháp năm 1992 và từng bước cụ thể hóa bằng các đạo luật,
pháp lệnh. Đối với Luật doanh nghiệp quyền tự do kinh doanh được đưa vào
Hiến pháp vàđược tổ chức thực hiện trong thực tế. Nhà nước đã ban hành
nhiều luật, pháp lệnh như Bộ luật dân sự, Luật thương mại, Luật đầu tư nước
ngoài, Luật khuyến khích đầu tư trong nước và hàng năm có sửa đổi, bổ sung
kịp thời vàđã tạo khung khổ pháp l ý ban đầu cho các yếu tố thị trường hình
thành và vận hành từng bước đồng thời cũng tạo điều kiện cho các cơ quan
chức năng của Nhà nước quản lý nền kinh tế có hiệu quả, góp phần tích cực
cho quá trình phát triển kinh tế thị trường trong suốt 20 năm qua.
Nhà nước cũng đã từng bước tách chức năng quản lý Nhà nước về kinh
tế của các cơ quan Nhà nước chức năng chủ sở hữu doanh nghiệp Nhà nước
của Nhà nước và chức năng kinh doanh của doanh nghiệp - chuyển từ quản lý
cụ thể các hoạt động can thiệp trực tiếp vào nền kinh tế sang can thiệp gián
5
tiếp thông qua hệ thống pháp luật, kế hoạch, cơ chế chính sách và các công
cụđiều tiết vĩ mô khác.
3. Sự phát triển của các ngành kinh tế trong quá trình thực hiện
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, và chính sách của Nhà
nước đối với các thành phần kinh tế
Trên cơ sở nhận thức đúng đắn, đầy đủ về lý luận - sự chủđộng, sáng
tạo trong lãnhđạo, điều hành có hiệu quả của Đảng, Nhànước ta về nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt là vai trò quản lý của Nhà
nước đối với nền kinh tế. Kinh tế nước ta đã có bước tăng trưởng nhanh, cơ
sở vật chất kỹ thuật được tăng cường. Đời sống của nhân dân không ngừng
được cải tiến. Từ thực tế những năm đầu của thập kỷ 90 khi bước vào thực
hiện chiến lược 10 năm (1991 - 2000) đất nước vẫn chưa ra khỏi khủng hoảng
kinh tế, xã hội nhờ triển khai mạnh mẽđường lối đổi mới toàn diện của Đảng
đến năm 1995 hầu hết các chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch 5 năm (1991- 1995)
được hoàn thành vượt mức, đất nước đã ra khỏi khủng hoảng, kinh tế xã hội
đã tạo được công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Từ năm 1996 - 2000 tăng trưởng kinh tếđạt nhịp độ cao, tốc độ GDP
bình quân của 10 năm (1991 - 2000) đạt 7,5% (năm 2000 so với năm 1990
GDP tăng hơn 2 lần). Trong năm (2001 - 2005) của nhiệm kỳĐại hội IX GDP
tăng gần 7,5% - cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch đáng kể. Nguồn lực phát
triển trong các thành phần kinh tếđãđược huy động khá hơn. Nhiều lợi thế so
sánh từng ngành cải thiện.
Đối với chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần Đảng, Nhà
nước ta xác định trong kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, kinh tế
Nhà nước đóng vai trò chủđạo. Để nâng cao vai trò chủđạo của kinh tế Nhà
nước Đảng ta đã quan tâm lãnh đạo đổi mới cơ chế chính sách đối với doanh
nghiệp Nhà nước. Luật doanh nghiệp Nhà nước năm 2003 tạo khung khổ
pháp lý có tác dụng giải phóng lực lượng sản xuất phục vụ cho việc sắp xếp,
đổi mới và phát triển doanh nghiệp Nhà nước. Cơ chế quản lý doanh nghiệp
6
Nhà nước được đổi mới một bước quan trọng theo hướng xóa bao cấp, thực
hiện chếđộ công ty, phát huy quyền tự chủ và trách nhiệm của doanh nghiệp
trong kinh doanh, giảm thiểu sự can thiệp trực tiếp của Nhà nước vào hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp. Đã tập trung chỉđạo sắp xếp, đổi mới,
nâng cao chất lượng và hiệu quả của doanh nghiệp Nhà nước nhờ vậy mà các
doanh nghiệp Nhà nước hoạt động có hiệu quả hơn. Năm 2005 đóng góp 39%
GDP, 50% tổng ngân sách Nhà nước.
Cùng với kinh tế Nhà nước, kinh tế tập thể mà nòng cốt là hợp tác
xãđãđược đổi mới từng bước theo luật hợp tác xã và các chính sách của Đảng,
Nhà nước. Năm 2005, đóng góp 8% GDP. Kinh tế tư nhân phát huy ngày
càng tốt hơn các nguồn lực và tiềm năng trong nhân dân nhất là từ sau khi có
Luật doanh nghiệp năm 2000. Năm 2005, khu vực kinh tế tư nhân đóng góp
37,7% GDP cả nước. kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài cũng cóbước phát
triển quan trọng. Năm 2005, khu vực kinh tế này đóng góp 15,5% GDP trên
7,5% tổng thu ngân sách 17,1% tổng vốn đầu tư xã hội, trên 23% kim ngạch
xuất khẩu trên 35% giá trị sản xuất công nghiệp thu hút hơn nữa triệu lao
động.
Bên cạnh những kết quảđạt được từ tăng trưởng kinh tế và phát triển
các thành phần kinh tế - cơ cấu kinh tế cũng chuyển dịch tích cực theo hướng
công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Về cơ cấu ngành kinh tế: Từ năm 1988 đến nay tỷ trọng công nghiệp và
xây dựng trong GDP tăng nhanh và liên tục. Năm 1998 là 21,6%, 1995 là
28,8% năm 2003 là 40%; năm 2005 là 41%. Từ chưa khai thác dầu đến nay
đã có sản lượng gần 20 triệu tấn/năm. Ngành công nghiệp chế biến chiếm
80% giá trị sản lượng công nghiệp.
Công nghiệp xây dựng phát triển mạnh, sản phẩm công nghiệp xuất
khẩu ngày càng tăng. Tỷ trọng nông nghiệp giảm dần: Năm 1988 là 46,3%
năm 2003 còn 21,8%. Năm 2005 là 20,5%. Tỷ trọng khu vực dịch vụ trong
GDP đã tăng từ 33,1%. Năm 1988 lên 38,2% năm 2003; 38,5% năm 2005.
7