LỜI MỞ ĐẦU
Trong điều kiện phát triển bùng nổ của nền kinh tế thị trường chuyển đổi
với nhiều thành phần kinh tế, vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với các
hoạt động kinh tế và xã hội càng trở nên cần thiết. Trong hệ thống các công
cụ điều tiết kinh tế vĩ mô của Nhà nước, và là một công cụ đắc lực giúp kiểm
soát chất lượng, làm lành mạnh hóa thông tin tài chính công, bảo vệ tính thực
thi của pháp luật trong nền Kinh tế Quốc dân. Vai trò này được thể hiện rất rõ
qua chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan kiểm toán Nhà nước ở mỗi
quốc gia.
Cơ quan kiểm toán Nhà nước nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
được thành lập ngày 11/07/1994 theo Nghị định 70/CP của Chính phủ, được
tổ chức và hoạt động theo Quyết định 61/TTG của Thủ tướng chính phủ và
Luật kiểm toán Nhà nước đã được Quốc hội thông qua ngày 14/06/2005. Sau
gần 20 năm xây dựng tổ chức và hoạt động, bộ máy tổ chức của kiểm toán
Nhà nước đã dần được hoàn thiện qua đó nâng cao và khẳng định vai trò to
lớn của mình trong công cuộc xây dựng nền kinh tế thời kỳ đổi mới.
Trong xu thế hội nhập quốc tế và sự phát triển đa năng mạnh mẽ của nền
kinh tế đòi hỏi cơ quan kiểm toán Nhà nước Việt Nam phải tăng cường tính
độc lập và tinh nghệ, vừa đáp ứng được đặc trưng của nền kinh tế quốc dân
vừa theo kịp tốc độ phát triển cũng như những mục tiêu, nội dung và phương
pháp kiểm toán quốc tế. Kiểm toán Nhà nước cần từng bước nâng cao vai trò
thông qua việc không ngừng củng cố hoàn thiện hệ thống kiểm toán Nhà
nước, xây dựng và tổ chức bộ máy vững mạnh, hiệu quả phù hợp với vai trò
của một cơ quan kiểm toán tối cao của một quốc gia. Vì vậy, nhóm thực hiện
đã quyết định lựa chọn đề tài “Tìm hiểu cơ cấu tổ chức, vai trò của kiểm
toán Nhà nước và bài học thực tiễn đối với Việt Nam” làm đề tài môn học
chuyên đề kiểm toán.
1
Trong đề tài “Tìm hiểu cơ cấu tổ chức, vai trò của kiểm toán Nhà
nước và bài học thực tiễn đối với Việt Nam” em xin trình bày những nội
dung sau:
LỜI MỞ ĐẦU
PHẦN 1: KHÁI QUÁT VỀ KIỂM TOÁN NHÀ NƯỚC VÀ KIỂM
TOÁN NHÀ NƯỚC TẠI VIỆT NAM.
PHẦN 2: NHẬN XÉT VAI TRÒ VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ CƠ CẤU
TỔ CHỨC CỦA CƠ QUAN KIỂM TOÁN NHÀ NƯỚC TẠI VIỆT NAM.
PHẦN 3: BÀI HỌC VÀ GIẢI PHÁP TỔ CHỨC CƠ QUAN KIỂM
TOÁN NHÀ NƯỚC TẠI VIỆT NAM.
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
2
PHẦN 1
KHÁI QUÁT VỀ KIỂM TOÁN NHÀ NƯỚC VÀ
KIỂM TOÁN NHÀ NƯỚC TẠI VIỆT NAM
1.1. Cơ sở lý luận chung về kiểm toán Nhà nước
1.1.1. Khái niệm kiểm toán và kiểm toán Nhà nước
Kiểm toán là xác minh và bày tỏ ý kiến về thực trạng hoạt động được
kiểm toán bằng hệ thống phương pháp kỹ thuật của kiểm toán chứng từ và
kiểm toán ngoài chứng từ do các kiểm toán viên có trình độ nghiệp vụ tương
xứng thực hiện trên cơ sở hệ thống pháp lý có hiệu lực.
Kiểm toán có 2 chức năng chính đó là xác minh và bày tỏ ý kiến. Tùy
vào từng loại hình và hoạt động kiểm toán cụ thể mà chức năng xác minh
hoặc chức năng bày tỏ ý kiến trở thành chủ đạo. Tuy nhiên, kiểm toán luôn là
một công cụ không thể thiếu với bất kỳ mô hình kinh tế nào, một hình thái xã
hội nào và không hề bị tri phối bởi kiến trúc thượng tầng.
Kiểm toán Nhà nước là hệ thống bộ máy chuyên môn của Nhà nước thực
hiện các chức năng kiểm toán việc quản lý và sử dụng các nguồn lực tài chính
thuộc sở hữu của Nhà nước hoặc do Nhà nước đại diện sở hữu.
1.1.2. Lịch sử hình thành và phát triển của kiểm toán Nhà nước trên
thế giới
Thời kỳ trung đại, kiểm toán Nhà nước đã manh nha xuất hiện dưới vai
trò một nhóm các quan lại có nhiệm vụ đối soát tài sản của vua chúa.
Ở Pháp, Vua Charlemagne cũng theo tiền lệ của La Mã tuyển dụng các
quan chức cao cấp để giám sát công tác quản lý, đặc biệt là các nghiệp vụ tài
chính của đội ngũ quan chức địa phương và báo cáo lại kết quả với Hoàng đế
hoặc các vị cận thần.
3
Ở Anh, theo văn kiện của Nghị viện, Vua Edouard đệ nhất cho các Nam
tước quyền tuyển dụng kiểm toán viên, vua cũng đích thân đối chiếu lại các
tài khoản thuộc di chúc của cố Hoàng hậu Elonor.
Tuy nhiên, kiểm toán Nhà nước chỉ thực sự phổ biến trong khoảng vài
trăm năm gần đây. Ở Đức, từ năm 1714, Vua Phổ là Friedrich Wilhelm I đã ra
Sắc lệnh thành lập Phòng Thẩm kế tối cao (hay Thẩm kế viện dưới thời Đế chế
Đức). Ở Pháp, từ năm 1807, dưới thời Hoàng đế Napoleon I, Toà Thẩm kế
(Cour des comptes) đã được thành lập. Kiểm toán Nhà nước ở Mỹ cũng đã hoạt
động trên 150 năm, ở Ấn Độ là trên 100 năm…Đây là những quốc gia có nền
kinh tế đã phát triển từ rất lâu, theo đó tất yếu kiểm toán nói chung và kiểm toán
Nhà nước nói riêng cũng ra đời sớm hơn các quốc gia khác trên thế giới.
Tháng 10 năm 1977 là thời điểm quan trọng đánh dấu sự phát triển vượt
bậc của kiểm toán Nhà nước trên thế giới, khi mà Đại hội IX của Tổ chức các
Cơ quan Kiểm toán tối cao quốc tế (INTOSAI) họp tại Lima (Peru) đưa ra
tuyên bố Lima về hướng dẫn các nguyên tắc kiểm toán
1.2. Chức năng và nguyên tắc hoạt động của kiểm toán Nhà nước
1.2.1
.
Chức năng của kiểm toán Nhà nước.
Lĩnh vực: Hoạt động của cơ quan kiểm toán Nhà nước thường hướng vào
lĩnh vực kiểm toán tuân thủ (comphiance audit) và kiểm toán tài chính
(financial audit), bên cạnh đó kiểm toán Nhà nước còn thông qua kiểm toán
hoạt động (operation audit) để đánh giá tính hiệu lực, hiệu quả kinh tế - xã hội
của các hoạt động sử dụng nguồn tài chính công. Cho dù mang những đặc
trưng riêng biệt của kiểm toán Nhà nước, nhưng 1 điều phải khẳng định đó là:
là một loại hình kiểm toán nên kiểm toán Nhà nước cần thể hiện được 2 chức
năng xác minh và bày tỏ ý kiến.
4
Thứ nhất là chức năng xác minh:
Tổ chức thực hiện chương trình, kế hoạch kiểm toán đã được phê duyệt
và những nhiệm vụ kiểm toán đột xuất do Thủ tướng Chính phủ hoặc Quốc
hội, Tổng thống giao.
Xác nhận tính đúng đắn, trung thực, hợp pháp của các tài liệu, số liệu kế
toán; báo cáo tài chính, báo cáo quyết toán về tình hình thu chi ngân sách nhà
nước cũng như việc thi hành pháp luật về kinh tế, tài chính, kế toán, ngân
sách nhà nước của các đơn vị sự nghiệp, các đơn vị kinh tế Nhà nước, các
đoàn thể - tổ chức xã hội có sử dụng kinh phí do Ngân sách Nhà nước cấp.
Thứ hai là chức năng bày tỏ ý kiến:
Báo cáo kết quả kiểm toán cho Tổng thống, Thủ tướng Chính phủ, Quốc
hội và uỷ ban thường vụ quốc hội hay các cơ quan Nhà nước khác theo quy
định của pháp luật. Chức năng bày tỏ ý kiến của kiểm toán Nhà nước còn thể
hiện ở việc thông báo cho công luận về viêc sử dụng các phương tiện tài
chính Nhà nước của Chính phủ và Quốc hội.
Tư vấn, góp ý kiến với các đơn vị được kiểm toán sửa chữa, khắc phục
vi phạm, chấn chỉnh công tác kế toán cũng như quản lý để đảm bảo chi tiêu
tiết kiệm và hiệu quả nhất.
Nghiên cứu, đề xuất các kiến nghị và giải pháp mang tính chất tư vấn
cho cơ quan quyền lực Nhà nước góp phần đảm bảo tính hiệu lực của pháp
luật. Từ đó giúp phòng ngừa và răn đe đối với bộ máy hành chính nhà nước,
chống lại các hành vi vi phạm, sử dụng lãng phí hoặc lạm dụng công quỹ, vốn
và tài sản quốc gia
Tư vấn cho Chính Phủ, Quốc Hội trong việc xem xét, ra quyết định các
phương án đầu tư xây dựng và các công trình trọng điểm Quốc gia và các vấn
đề quốc gia có liên quan đến ngân sách Nhà nước và tài sản công.
Ngoài ra: Trong vai trò là cơ quan kiểm toán tối cao của Nhà nước, kiểm
toán Nhà nước còn có chức năng quản lý Nhà nước về lĩnh vực mà nó phụ
5
trách; tham gia với các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền trong việc quyết
định các chính sách, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về tài chính và
ngân sách.
1.2.2.
Nguyên tắc hoạt độngcủa kiểm toán Nhà nước.
Để thực hiện một cách có hiệu quả các chức năng của mình, kiểm toán
Nhà nước phải tuân thủ những nguyên tắc hoạt động cơ bản sau:
Thứ nhất là nguyên tắc chung:
Tuân thủ luật pháp, chuẩn mực và quy trình kiểm toán đã được Nhà
nước hoặc pháp luật thừa nhận.
Bảo đảm tính trung thực, khách quan và giữ gìn bí mật thông tin cho
Nhà nước và đơn vị được kiểm toán.
Không gây cản trở hoạt động và can thiệp vào công việc điều hành của
đơn vị được kiểm toán.
Bảo đảm tính hiệu quả trong hoạt động kiểm toán.
Thứ hai là nguyên tắc đặc thù:
Bảo đảm tính độc lập về tổ chức bộ máy và cơ chế hoạt động. Kiểm toán
Nhà nước phải được chủ động trong việc xây dựng chương trình, kế hoạch,
mục tiêu, nội dung của mỗi cuộc kiểm toán và quyền được công khai kết quả
kiểm toán trước công luận.
Nguyên tắc kiểm toán đầy đủ: Kiểm toán Nhà nước phải có thẩm quyền
kiểm toán tất cả các chức năng của Nhà nước có liên quan đến ngân sách. Trong
trường hợp có lĩnh vực mang tính bí mật quốc gia mà không muốn kiểm toán thì
cũng phải quy định rõ bằng luật và thông báo cho công luận biết.
1.3. Nhiệm vụ quyền hạn của kiểm toán Nhà nước
1.3.1. Nhiệm vụ của kiểm toán Nhà nước.
Kiểm toán nhà nước ở mỗi quốc gia khác nhau thì có các nhiệm vụ,
quyền hạn cụ thể khác nhau, song có thể khái quát một số nhiệm vụ và quyền
hạn chung nhất của các cơ quan kiểm toán Nhà nước trên thế giới như sau:
6
– Thực hiện kiểm toán
Kiểm toán Nhà nước thường tiến hành các cuộc kiểm toán tuân thủ xem
xét việc chấp hành các chính sách, luật lệ và chế độ của Nhà nước tại các đơn
vị sử dụng vốn và kinh phí của Nhà nước. Ngoài ra kiểm toán Nhà nước còn
thực hiện kiểm toán hoạt động nhằm đánh giá hiệu quả hoạt động của các đơn
vị sử dụng vốn và kinh phí của Nhà nước. Để thực hiện nhiệm vụ này kiểm
toán Nhà nước cần thực hiện:
Lập kế hoạch kiểm toán hàng năm trình cơ quan có thẩm quyền duyệt.
Tổ chức thực hiện kế hoạch kiểm toán hàng năm đã được phê duyệt và
các nhiệm vụ đột xuất theo yêu cầu của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền
Kiểm tra xác nhận tính đúng đắn, trung thực hợp lý của các tài liệu liên
quan đến Ngân sách Nhà nước. Kiểm tra các thông tin tài liệu kế toán, tài
chính của các đơn vị, tổ chức sử dụng kinh phí Nhà nước; xem xét việc chấp
hành các chế độ chính sách tài chính, ngân sách, kế toán của Nhà nước.
Tham gia gián tiếp hoặc trực tiếp vào việc sữa chữa, xử lý các sai phạm
của các đơn vị được kiểm toán để chấn chỉnh công tác tài chính, ngân sách,
chế độ kế toán.
Quản lý hồ sơ kiểm toán, giữ gìn bí mật thông tin, tài liệu, số liệu kế toán
và hoạt động của đơn vị được kiểm toán theo quy định của pháp luật.
Xây dựng và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật.
Trước hết, kiểm toán nhà nước có nhiệm vụ soạn thảo các dự án luật
pháp lệnh về kiểm toán nhà nước, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật
khác về lĩnh vực kiểm toán nhà nước theo thẩm quyền.
Kiểm toán nhà nước đóng góp ý kiến với cơ quan Nhà nước trong việc
xây dựng các văn bản pháp luật về ngân sách, tài chính, kế toán và kiểm toán.
Chỉ đạo và hướng dẫn nghiệp vụ kiểm toán: Kiểm toán Nhà nước chỉ
đạo và hướng dẫn chuyên môn nghiệp vụ kiểm toán, quy trình chuẩn mực và
phương pháp kiểm toán trong hệ thống kiểm toán Nhà nước. Kiểm toán Nhà
7
nước hướng dẫn về chuyên môn nghiệp vụ đối với tổ chức kiểm toán nội bộ
thuộc các cơ quan Nhà nước, các doanh nghiệp Nhà nước, các tổ chức chính
trị, chính trị xã hội có sử dụng kinh phí Nhà nước.
1.3.2. Quyền hạn của cơ quan kiểm toán Nhà nước.
Cũng như nhiệm vụ, quyền hạn của kiểm toán Nhà nước ở những nước
khác nhau theo quy định trong pháp luật là khác nhau. Những quyền hạn
chung nhất là:
Yêu cầu đơn vị được kiểm toán và tổ chức, cá nhân có liên quan cung
cấp đầy đủ, chính xác, kịp thời thông tin, tài liệu phục vụ cho việc kiểm toán;
đề nghị cơ quan hữu quan phối hợp công tác để thực hiện nhiệm vụ được
giao; đề nghị cơ quan nhà nước, đoàn thể quần chúng, tổ chức xã hội và công
dân giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi để thực hiện nhiệm vụ.
Yêu cầu đơn vị được kiểm toán thực hiện các kết luận, kiến nghị của
kiểm toán Nhà nước đối với các sai phạm trong báo cáo tài chính và các sai
phạm trong việc tuân thủ pháp luật; kiến nghị thực hiện các biện pháp khắc
phục yếu kém trong hoạt động của đơn vị do kiểm toán Nhà nước phát hiện
và kiến nghị.
Kiểm tra đơn vị được kiểm toán trong việc thực hiện kết luận và kiến
nghị của kiểm toán Nhà nước.
Kiến nghị cơ quan Nhà nước có thẩm quyền yêu cầu các đơn vị được
kiểm toán thực hiện các kết luận, kiến nghị kiểm toán đối với các trường hợp
sai phạm trong báo cáo tài chính và các sai phạm trong việc tuân thủ pháp
luật; đề nghị xử lý theo pháp luật những trường hợp không thực hiện hoặc
thực hiện không đầy đủ, kịp thời các kết luận, kiến nghị kiểm toán của kiểm
toán Nhà nước.
Kiến nghị cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xử lý những vi phạm pháp
luật của tổ chức, cá nhân đã được làm rõ thông qua hoạt động kiểm toán.
8
Đề nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý theo pháp luật đối với tổ chức, cá
nhân có hành vi cản trở hoạt động kiểm toán của kiểm toán Nhà nước hoặc
cung cấp thông tin, tài liệu sai sự thật cho kiểm toán Nhà nước và kiểm toán
viên Nhà nước.
Tiến hành trưng cầu giám định chuyên môn khi cần thiết.
Được uỷ thác hoặc thuê doanh nghiệp kiểm toán thực hiện kiểm toán cơ
quan, tổ chức quản lý, sử dụng ngân sách, tiền và tài sản Nhà nước; kiểm toán
Nhà nước chịu trách nhiệm về tính chính xác của số liệu, tài liệu và kết luận
kiểm toán do doanh nghiệp kiểm toán thực hiện.
Kiến nghị Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng
Chính phủ và các cơ quan khác của Nhà nước sửa đổi, bổ sung các cơ chế,
chính sách và pháp luật cho phù hợp.
Ngoài những điểm chung trong nhiệm vụ và quyền hạn, tuỳ theo quy
định trong pháp luật của từng quốc gia, kiểm toán Nhà nước tại mỗi nước còn
có những nhiệm vụ và quyền hạn riêng, ví dụ: Toà thẩm kể của Pháp có
quyền xét xử như một quan toà đối với các cá nhân, tổ chức vi phạm pháp luật
về tài chính - kế toán, ngân sách.
1.4. Mô hình tổ chức bộ máy kiểm toán Nhà nước một số nước
trên thế giới.
Như đã nói ở trên, kiểm toán nhà nước luôn là cơ quan thuộc cơ cấu bộ
máy Nhà nước. Tuy nhiên, với những thể chế chính trị và mô hình Nhà nước
khác nhau thì sự trực thuộc của kiểm toán nhà nước cũng khác nhau đảm bảo
phù hợp với nhu cầu quản lý của nhà nước và sự phát triển của nền kinh tế.
1.4.1. Mô hình cơ quan kiểm toán nhà Nước trực thuộc Cơ quan lập pháp
Cơ quan Kiểm toán tối cao là một cơ cấu trực thuộc Cơ quan lập pháp
(Quốc hội - có thể là Thượng viện hoặc Hạ viện). Có thể thấy mô hình trực
thuộc này ở rất nhiều quốc gia, đặc biệt ở những quốc gia mà kiểm toán hình
thành từ rất sớm như: Nga, Mỹ, Canada, Anh… Kiểm toán Nhà nước Liên
9
bang Nga (kiểm toán Nhà nước LB) được lập ra bởi Hội nghị Liên bang và
trực thuộc Hội nghị. Văn phòng kế toán trưởng Hoa Kỳ (GAO) trung lập với
chính quyền Liên bang và có nhiệm vụ báo cáo cũng như chỉ chịu trách nhiệm
trực tiếp trước Quốc hội. Kiểm toán Nhà nước Canada trực thuộc Hạ viện;
dưới Hạ viện là cơ quan kiểm toán quốc gia, Ủy ban Kế toán Nhà nước và
Các ủy ban trưởng ban.
Ưu điểm: Vì quản lý trực tiếp kiểm toán Nhà nước là cơ quan lập pháp
nên kiểm toán Nhà nước phát huy được vai trò là trợ giúp đắc lực cho Nhà
nước trong việc soạn thảo và xây dựng các văn bản pháp quy liên quan đến
ngân sách, tài chính, kế toán, kiểm toán Mô hình này cũng tạo điều kiện
cho tính độc lập và phản biện của cơ quan lập pháp và cơ quan hành pháp,
giúp cơ quan lập pháp (Quốc hội – cơ quan quyền lực cao nhất, đại diện cho ý
chí và niềm tin của nhân dân) thực thi quyền kiểm soát các hoạt động tài
chính của cơ quan hành pháp (Chính phủ - cơ quan hành pháp cao nhất).
Hạn chế: Sự độc lập tuyệt đối của kiểm toán Nhà nước với Chính phủ
khiến cơ quan kiểm toán Nhà nước không có cơ hội tiếp xúc trực tiếp và
thường xuyên với các hoạt động của Chính phủ gây ra độ “trễ” cho công tác
kiểm toán.
1.4.2. Mô hình cơ quan kiểm toán nhà Nước trực thuộc cơ quan hành
pháp
Mô hình kiểm toán Nhà nước trực thuộc Chính phủ ở các nước khác
nhau cũng không hoàn toàn giống nhau. Ví dụ: kiểm toán Nhà nước Trung
Quốc (National Audit Office Of The People’s Republic Of China) được tổ
chức thành một cơ quan hành chính như một bộ, song có quyền kiểm toán các
bộ khác của Chính phủ (kể cả Bộ Tài chính); kiểm toán Nhà nước Nhật Bản,
Indonesia được tổ chức như một cơ quan chuyên môn bên cạnh nội các hay
bên cạnh Thủ tướng Chính phủ như ở Việt Nam trong giai đoạn trước khi luật
kiểm toán Nhà nước có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2006 …
10
Ưu điểm: Việc tổ chức cơ quan kiểm toán Nhà nước trực thuộc cơ quan
hành pháp khiến công tác kiểm toán được thực thi kịp thời hơn, giúp Chính
phủ điều hành nhanh nhạy các hoạt động do bất kỳ một hoạt động nào của
Chính phủ cũng không thể tách rời với Ngân sách Nhà nước.
Hạn chế: Chúng ta có thể nhận thấy sự bất hợp lý của mô hình này ngay
từ đầu, đó là tính độc lập của kiểm toán Nhà nước không tuân thủ, liệu một
đơn vị vừa thực hiện vừa kiểm tra thì hiệu quả có đảm bảo.
1.4.3. Mô hình cơ quan kiểm toán Nhà nước được tổ chức độc lập với
cơ quan lập pháp và hành pháp.
Mô hình được ứng dụng ở hầu hết các nước có nền kinh tế phát triển, có
nhà nước pháp quyền được xây dựng nền nếp như kiểm toán Nhà nước Cộng
hoà liên bang Đức, Toà Thẩm kế Cộng hoà Pháp (Court of Accounts)… Kiểm
toán Nhà nước do Quốc hội lập ra nhưng không phụ thuộc vào quốc hội. Tòa
thẩm kế Pháp vừa thực hiện chức năng của cơ quan kiểm toán Nhà nước vừa
thực hiện chức năng của cơ quan xét xử như một tòa án.
Ưu điểm: kiểm toán Nhà nước phát huy được đầy đủ tính độc lập khách
quan trong việc thực hiện các chức năng của mình.
Hạn chế: Giống như mô hình kiểm toán Nhà nước trực thuộc quốc hội,
kiểm toán Nhà nước không có điều kiện tiếp cận sâu và nhanh với những hoạt
động của Chính phủ nên công tác kiểm toán khó có thể phục vụ kịp thời cho
viêc ra các quyết sách của Nhà nước.
1.4.4. Mô hình cơ quan kiểm toán Nhà nước trực thuộc người đứng
đầu Nhà nước
Ngoài ra, kiểm toán Nhà nước còn có thể là cơ quan trực thuộc người đứng
đầu đất nước như: kiểm toán nhà Nước Hàn Quốc trực thuộc Tổng thống…
Hạn chế: Tính độc lập và khách quan trong việc thực hiện chức năng của
kiểm toán Nhà nước vì đơn vị thực hiện kiểm tra và đơn vị bị kiểm tra đều
một chủ thể (người đứng đầu Nhà nước – Tổng thống) kiểm soát.
11
1.5. Tổng quan kiểm toán nhà nước tại Việt Nam
Tại Việt Nam, trong những năm áp dụng cơ chế kế hoạch hóa tập trung,
việc xét duyệt báo cáo tài chính do các Vụ tài vụ của các bộ chủ quản, phòng
tài chính ở các Sở chủ quản tiến hành. Từ 11/7/1994, cơ quan kiểm toán Nhà
nước tại Việt Nam được chính thức thành lập theo Nghị định số 70/CP của
Chính phủ.
Theo Nghị định số 61/TTG ngày 24/1/1995 và theo Nghị định số
93/2003/NĐ-CP của Thủ tướng Chính phủ đã quy định về điều lệ tổ chức,
hoạt động của cơ quan kiểm toán Nhà nước, về nhiệm vụ quyền hạn, cơ cấu
tổ chức. Theo đó, kiểm toán Nhà nước tuy là cơ quan còn non trẻ nhưng chỉ
trong thời gian ngắn đã nhanh chóng xây dựng cơ sở vật chất, ổn định và kiện
toàn bộ máy tổ chức, thực hiện tốt kế hoạch kiểm toán hàng năm.
Tuy nhiên, để phù hợp và phát huy hết vai trò của kiểm toán Nhà nước
trong nền kinh tế hiện nay. Qua nghiên cứu nhiều năm, kiểm toán Nhà nước
phải thay đổi về cơ cấu tổ chức bộ máy. Do vây, Luật kiểm toán Nhà nước
được Quốc hội thông qua ngày 14/06/2005 và bắt đầu có hiệu lực từ ngày
01/01/2006 đã quy định rõ địa vị pháp lý, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
của kiểm toán Nhà nước.
Theo Điều 13 của luật kiểm toán Nhà nước thì địa vị pháp lý của kiểm
toán Nhà nước: kiểm toán Nhà nước là cơ quan chuyên môn về lĩnh vực kiểm
tra tài chính nhà nước do Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân
theo pháp luật.
Từ đó đến nay địa vị pháp lý của kiểm toán nhà nước đã ngày càng được
nâng cao, hoàn thiện.
12
PHẦN 2
NHẬN XÉT VAI TRÒ VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ
CƠ CẤU TỔ CHỨC CỦA CƠ QUAN KIỂM TOÁN
NHÀ NƯỚC TẠI VIỆT NAM
2.1. Vai trò tiền kiểm toán.
Vai trò này đảm bảo cho các nguồn lực tài chính quốc gia được phân bổ
một cách hợp lý về hiệu quả kinh tế và xã hội vào những mục tiêu mà đất
nước đó theo đuổi.
Kiểm toán Nhà nước đóng vai trò quan trọng trọng việc thẩm định dự án
do Chính phủ trình Quốc hội để cung cấp thông tin cho việc thảo luận Ngân
sách Nhà nước tại Quốc hội. Cụ thể, kiểm toán Nhà nước trợ giúp Quốc hội
trong việc quyết định các dự toán ngân sách Nhà nước trên 2 vấn đề:
Giúp quốc hội thẩm định dự toán ngân sách Nhà nước do Chính phủ
trình, đưa ra các kiến nghị dự toán để Quốc hội xem xét.
Thực hiện phản biện theo yêu cầu của Quốc hội về các chương trình
quốc gia, các dự án đầu tư xây dựng công trình có quy mô lớn. Đặc biệt với
các công trình trọng điểm quốc gia, khía cạnh kinh tế - xã hội liên quan trực
tiếp đến chiến lược phát triển đất nước thì càng không thể thiếu việc nghiên
cứu kỹ lưỡng một cách toàn diện các vấn đề trước khi ra quyết định. Ở nhiều
nước, nhất là ở các nước có bộ máy kiểm toán Nhà nước phát triển, nhiệm vụ
quan trọng này đều được giao cho kiểm toán Nhà nước như ở Nhật Bản, Đức,
Italia, Ấn Độ, Indonesia, Trung Quốc, Malaysia…
2.2. Vai trò kiểm toán song song với quá trình thực hiện.
Một trong các chức năng của Quốc hội là giám sát việc chấp hành Ngân
sách Nhà nước của Chính phủ, các Bộ - ban – ngành và các cơ quan trực
13
thuộc Chính phủ có sử dụng vốn từ Ngân sách Nhà nước. Việc kiểm toán Nhà
nước tiến hành kiểm tra ngay trong quá trình thực hiện thu - chi ngân sách
Nhà nước sẽ hiệu quả hơn so với việc thảo luận, phê chuẩn quyết toán sau quá
trình thực hiện trong việc trợ giúp Quốc hội kịp thời đưa ra các quyết định.
2.3. Vai trò hậu kiểm.
Đây là vai trò mang tính truyền thống, gắn trực tiếp với chức năng kiểm
tra của kiểm toán Nhà nước.
Phê chuẩn quyết toán:
Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất của Nhà nước, có quyền phê chuẩn
quyết toán Ngân sách do Chính phủ trình, điều đó yêu cầu căn cứ ra quyết định
trước khi trình Quốc hội phải là những thông tin trung thực và khách quan. Ở đa
số các quốc gia, trong điều kiện nhu cầu chi và tỉ lệ chi trên tổng thu Ngân sách
ngày một tăng thì việc tăng cường quản lý Ngân sách Nhà nước, hạn chế thất
thoát, nâng cao hiệu quả sử dụng Ngân sách Nhà nước càng có ý nghĩa quan
trọng. Kiểm toán Nhà nước trở thành cơ quan không thể thiếu trong việc trợ giúp
Quộc hội phê chuẩn quyết toán Ngân sách Nhà nước hàng năm.
Kiểm tra việc huy động Ngân sách:
Kiểm toán Nhà nước cùng với cơ quan chuyên trách thu Ngân sách Nhà
nước (gồm cơ quan thuế, hải quan…) kiểm tra việc chấp hành nghĩa vụ nộp thuế
và các khoản khác theo quy định pháp luật của mọi đối tượng trong tổng thể nền
kinh tế, góp phần lành mạnh và minh bạch hóa nguồn hình thành Ngân sách Nhà
nước. Vai trò này giúp Nhà nước phát hiện và thu hồi các khoản thuế gian lận,
duy trì trật tự kỷ cương trong quản lý Ngân sách Nhà nước.
Nâng cao hiệu quả quản lý tài chính:
Thông qua kết quả các cuộc kiểm toán, kiểm toán Nhà nước chỉ ra
những bất cập trong công tác quản lý tài chính công, phát hiện ra những đơn
vị vi phạm chế độ chính sách Nhà nước từ đó đề xuất các biện pháp sửa đổi
thích hợp ở cấp vĩ mô.
14
PHẦN 3
BÀI HỌC VÀ GIẢI PHÁP TỔ CHỨC CƠ QUAN
KIỂM TOÁN NHÀ NƯỚC TẠI VIỆT NAM
3.1. Bài học về tính độc lập của cơ quan kiểm toán nhà nước
Các quy định về một cơ quan kiểm toán Nhà nước tại cả ba nước đều
được đề cập đến trong Hiến pháp và coi đó như là một cơ quan có thẩm quyền
cao trong kiểm tra tài chính nhà nước, tuy nhiên chỉ có Hiến pháp của Liên
bang Đức có những quy định đề cập rõ đến tính độc lập của cơ quan kiểm
toán Nhà nước, trong Hiến pháp của Trung Quốc cũng có một điều nói đến
tính độc lập này và tại cả ba nước tính độc lập của cơ quan này đều được nói
rõ hơn trong các đạo luật về kiểm toán.
Sự độc lập về tài chính là tiền đề cơ bản cho những phương thức làm
việc mang tính tự chủ, do vậy trong khuyến cáo của tuyên bố Lima nói rất rõ
điều này. Trong ba nước được giới thiệu ở trên chỉ có Đức là sự độc lập về tài
chính được nói rõ trong các luật về kiểm toán; tại Nga, trong luật về cơ bản
kiểm toán chỉ dừng lại ở việc lưu ý rằng phải tôn trọng tối đa tính độc lập của
kiểm toán nhà nước trong việc lập dự toán ngân sách, qua đó hạn chế sự tác
động của các cơ quan khác; tại Trung Quốc, trong luật về cơ quan kiểm toán
Nhà nước chỉ quy định rằng kinh phí để trang trải cho hoạt động của cơ quan
này được cấp từ ngân sách mà không quy định rõ là cơ quan nào phê duyệt
kinh phí này và ai là người xác định mức kinh phí đó. Qua đó ta có thể thấy rõ
các quy định về tính độc lập của cơ quan kiểm toán nhà nước ở Đức rất chặt
chẽ và rõ ràng hơn so với ở Nga và Trung Quốc.
3.2. Bài học về mối quan hệ của cơ quan kiểm toán Nhà nước với
Chính phủ và Quốc hội
Tại Đức như đã phân tích ở trên cho thấy cơ quan kiểm toán Nhà nước
thực sự được xây dựng như là những cơ quan nhà nước độc lập, bằng việc
15
tách cơ quan kiểm tra tài chính khỏi các cơ quan hành pháp hay lập pháp về
mặt tổ chức sẽ đảm bảo sự tách rời và không đồng nhất giữa ngừời kiểm tra
với người bị kiểm tra và giữ được một khoảng cách tối thiểu cần thiết - điều
này đảm bảo tính độc lập về mặt nghiệp vụ nhưng có sự phối hợp rất chặt chẽ
với nhau, ngoài ra kiểm toán Nhà nước liên bang còn thành lập một số kiểm
toán khu vực nhưng không trực thuộc về mặt hành chính với các bang, điều
này cho thấy tính độc lập cao của kiểm toán Nhà nước khu vực. Điều này
tương đối giống với tại Nga khi mà kiểm toán nhà nước Trung ương chỉ thành
lập các kiểm toán nhà nước khu vực để không bị các địa phương chi phối.
Tại Trung Quốc do việc thành lập các cơ quan kiểm toán cùng cấp với
các chính quyền từ cấp huyện trở lên và chịu sự chỉ đạo song trùng từ hai cơ
quan là chính quyền cùng cấp và kiểm toán Nhà nước cấp trên do đó hạn chế
nhiều đến tính độc lập của cơ quan này.
Đương nhiên ở đây không thể đi tới chỗ hoàn toàn tách rời cơ quan kiểm
toán Nhà nước khỏi Quốc hội và Chính phủ được, bởi vì việc lập ra cơ quan
này cũng nhằm để báo cáo cho Quốc hội và Chính phủ biết rõ việc quản lý
công quỹ và tài sản quốc gia đã được thực hiện như thế nào; mặt khác có
nhiều lĩnh vực khi thực hiện nhiệm vụ kiểm toán rất cần sự hợp tác chặt chẽ
từ chính hai cơ quan này đặc biệt trong việc tư vấn các dự luật cho Quốc hội
hay kiến nghị Chính phủ phải sửa chữa và khắc phục các yếu kém trong quản
lý và điều hành ngân sách.
Một trong những quan hệ cần sự độc lập của cơ quan kiểm toán Nhà
nước trước Quốc hội và Chính phủ là việc cơ quan kiểm toán Nhà nước được
quyền tự lựa chọn chương trình và mục tiêu kiểm toán hàng năm, được độc
lập thực hiện các chương trình xây dựng mà không phụ thuộc vào sự ngăn trở
hay giao nhiệm vụ từ cơ quan lập pháp hay tư pháp. Điều này thực sự đã được
các cơ quan kiểm toán Nhà nước tại Đức và Nga tiến hành kể từ khi thành lập
tới nay. Trái lại ở Trung Quốc, Chính phủ (Quốc vụ viện) giao nhiệm vụ cho
16
cơ quan kiểm toán nhà nước thực hiện hàng năm, đặc biệt đối với các doanh
nghiệp Nhà nước giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế, trên cơ sở đó kiểm
toán Nhà nước mới tiến hành lập kế hoạch và chương trình kiểm toán, lựa
chọn các đơn vị được kiểm toán phù hợp với nhiệm vụ được giao.
3.3. Bài học về hình thức tổ chức của cơ quan kiểm toán Nhà nước
Hình thức tổ chức của các nước được nghiên cứu ở trên cho thấy sự khác
nhau, mỗi nước một kiểu từ hình thức có nhiều cơ quan kiểm toán Nhà nước
độc lập nhau như ở Đức, đến hình thức có một cơ quan kiểm toán Nhà nước
nhưng lại được tổ chức theo mô hình tập trung thống nhất như kiểu Nga hay
một cách thức là các cơ quan kiểm toán nhà nước trực thuộc cả vào chính
quyền địa phương như tại Trung Quốc. Tuy nhiên các mô hình này đều có sự
thích ứng với hình thức tổ chức ngân sách nhà nước và các quy định trong
Hiến pháp và Luật về tổ chức bộ máy nhà nước của từng nước. Việc bổ nhiệm
và miễn nhiệm đối với người đứng đầu các cơ quan kiểm toán Nhà nước
thường được sự phê chuẩn của Quốc hội và người đề cử thường dành quyền
cho Chính phủ. Nhiệm kỳ công tác của người đứng đầu và các uỷ viên của nó
thường kéo dài hơn nhiệm kỳ của Chính phủ và Quốc hội, họ chỉ bị miễn
nhiệm khi không đủ sức khoẻ, về hưu hoặc vi phạm các quy định nghề
nghiệp.
3.4. Bài học về cơ chế hoạt động của cơ quan Nhà nước
Như đã phân tích ở trên, đứng đầu các cơ quan này ở các ba nước đều có
một chủ tịch Cơ quan kiểm toán Nhà nước, trong luật kiểm toán của Đức và
Nga thể hiện rõ một cơ cấu tổ chức mang tính đồng sự, tức là các vấn đề, kết
luận của cơ quan kiểm toán được quyết định bởi một hội đồng có nhiều thành
viên (còn gọi là các uỷ viên) và thông qua quyết định theo nguyên tắc đa số.
Các quyền quyết định được phân cấp xuống dưới theo từng lĩnh vực nhất
định. Riêng tại Đức còn có các hội đồng cấp vụ hay phòng để quyết định
những vấn đề riêng phụ thuộc trách nhiệm của Vụ hay phòng đó. Tuy nhiên
17
tại Trung Quốc không có quy định rõ về cơ cấu tổ chức nội bộ của cơ quan
kiểm toán Nhà nước, tại điều 39 của Luật kiểm toán chỉ quy định rằng các
nhóm, đoàn kiểm toán phải báo cáo với kiểm toán Nhà nước và các báo cáo
này sẽ được kiểm tra lại trước khi phát hành cho đơn vị được kiểm toán biết.
Như vậy ở đây có thể nhận thấy một số yếu tố của một cơ cấu đồng sự trong
vấn đề quyết định.
Trong các Luật kiểm toán đề nghiên cứu đều đòi hỏi năng lực, trình độ
của các uỷ viên cũng như nhân viên kiểm toán phải đáp ứng được yêu cầu của
những công việc phức tạp, kinh nghiệm và trình độ chuyên sâu trong lĩnh vực
kiểm tra tài chính. Trong Luật kiểm toán và các quy định mang tính nội bộ
đều yêu cầu một chương trình bồi dưỡng, đào tạo nghiệp vụ và được sát hạch
qua các kỳ thi hàng năm để đảm bảo nhân viên của kiểm toán Nhà nước luôn
được trang bị những kiến thức, kỹ năng mới nhất đáp ứng yêu cầu của công
việc ngày càng khó khăn hơn. Đây là điều kiện tất yếu để có được các báo cáo
kiểm toán với chất lượng cao.
18
KẾT LUẬN
Sau khi tìm hiểu cụ thể về đề tài: “tìm hiểu cơ cấu tổ chức, vai trò của
kiểm toán Nhà nước và bài học thực tiễn đối với Việt Nam” đã bổ sung
cho em nhiều kiến thức lý luận cũng như thực tiễn mà em còn thiếu sót. Thực
tế đã cho thấy kiểm toán Nhà nước đóng một vai trò quan trọng trong sự phát
triển kinh tế xã hội nói chung và sự phát triển kiểm toán nói riêng. Điều này
càng ảnh hưởng lớn hơn khi môi trường kinh doanh ngày càng mở rộng, khi
nền kinh tế Việt Nam ngày càng cạnh tranh khốc liệt, sức ép của việc thay đổi
và quản lý nền kinh tế vĩ mô càng làm cho vị trí kiểm toán Nhà nước trở nên
cực kỳ quan trọng. Do đó kiểm toán Nhà nước cần cố gắng hơn nữa để khắc
phục những nhược điểm vốn có và phát huy những mặt lợi thế của mình.
Do đây là lần đầu tiên nhóm thực hiện làm chuyên đề thời gian thực hiện
chuyên đề gấp và kiên thức còn hạn chế nên nhóm thực hiện chưa thể đi sâu
vào phân tích và tìm hiểu vấn đề nghiên cứu một cách kỹ càng nên nội dung
bài viết không thể tránh khỏi những thiếu sót cần phải xem xét và đóng góp ý
kiến. Kính mong thầy cô giáo và các bạn đóng góp ý kiến để bài viết của em
hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà nội, ngày 29 tháng 12 năm 2011
19
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Lý Thuyết Kiểm Toán – Nhà xuất bản Tài Chính – 2008
Tạp chí kiểm toán
Tạp chí khoa học kiểm toán
Các website:
/>20
MỤC LỤC
PHẦN 1: KHÁI QUÁT VỀ KIỂM TOÁN NHÀ NƯỚC VÀ KIỂM
TOÁN NHÀ NƯỚC TẠI VIỆT NAM
1.1. Cơ sở lý luận chung về kiểm toán Nhà nước
1.1.1. Khái niệm kiểm toán và kiểm toán Nhà nước 3
1.1.2. Lịch sử hình thành và phát triển của kiểm toán Nhà nước
trên thế giới 3
1.2. Chức năng và nguyên tắc hoạt động của kiểm toán Nhà nước
1.2.1. Chức năng của kiểm toán Nhà nước 4
1.2.2. Nguyên tắc hoạt độngcủa kiểm toán Nhà nước 6
1.3. Nhiệm vụ quyền hạn của kiểm toán Nhà nước
1.3.1. Nhiệm vụ của kiểm toán Nhà nước 6
1.3.2. Quyền hạn của cơ quan kiểm toán Nhà nước 8
1.4. Mô hình tổ chức bộ máy kiểm toán Nhà nước một số nước trên thế giới
1.4.1. Mô hình cơ quan kiểm toán nhà Nước trực thuộc Cơ quan
lập pháp 9
1.4.2. Mô hình cơ quan kiểm toán nhà Nước trực thuộc cơ quan
hành pháp 10
1.4.3. Mô hình cơ quan kiểm toán Nhà nước được tổ chức độc
lập với cơ quan lập pháp và hành pháp 11
1.4.4. Mô hình cơ quan kiểm toán Nhà nước trực thuộc người
đứng đầu Nhà nước 11
1.5. Tổng quan kiểm toán nhà nước tại Việt Nam
PHẦN 2 13
NHẬN XÉT VAI TRÒ VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ 13
CƠ CẤU TỔ CHỨC CỦA CƠ QUAN KIỂM TOÁN 13
NHÀ NƯỚC TẠI VIỆT NAM 13
2.1. Vai trò tiền kiểm toán
2.2. Vai trò kiểm toán song song với quá trình thực hiện
2.3. Vai trò hậu kiểm
PHẦN 3 15
BÀI HỌC VÀ GIẢI PHÁP TỔ CHỨC CƠ QUAN 15
KIỂM TOÁN NHÀ NƯỚC TẠI VIỆT NAM 15
3.1. Bài học về tính độc lập của cơ quan kiểm toán nhà nước
3.2. Bài học về mối quan hệ của cơ quan kiểm toán Nhà nước với Chính phủ
và Quốc hội
3.3. Bài học về hình thức tổ chức của cơ quan kiểm toán Nhà nước
3.4. Bài học về cơ chế hoạt động của cơ quan Nhà nước
KẾT LUẬN 19
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 20