Lý luận của Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội trải ra trên một bình diện rộng lớn bao quát đầy đủ mọi vấn đề , mọi yếu
tố và thiết thực ngay cho mỗi giai đoạn cách mạng cụ thể , đem lại những giá
trị vật chất và tinh thần cho dân tộc và cho nhân dân . Vì thế , cứ trải qua mỗi
chặng đường cách mạng , những thắng lợi đạt được đã nâng vị thế của dân tộc
nên tầm cao mới trên trường quốc tế và càng củng cố sự đoàn kết quốc tế đối
với sự nghiệp cách mạng của nhân dân Việt Nam . Đây là bài học quý giá
nhất , có tầm chiến lược lớn , được rút ra từ cách mạng Việt Nam đối với cách
mạng ở các dân tộc khác . Độc lập tự chủ trong mọi hoàn cảnh , tự lực tự
cường trong mọi điều kiện và là nhân tố tiến quyêt để xác lập mối đoàn kết
giũa các dân tộc . Hồ Chí Minh viết: “ Từng giọt nước nhỏ thấm vào lòng đất
chảy về một hướng mới thành suối thành sông . Biết bao nhiêu giọt nước hợp
lại mới thành biển cả . Một pho tượng hay một lâu đài cũng phải có một cái
nền rất vững chắc mới đứng vững được . Nhưng người ta dễ nhìn thấy pho
tượng và lâu đài mà không chú ý đến cá nền . Như thế là chỉ thấy cái ngọn mà
không thấy cái gốc “ .
Chủ tịch Hồ Chí Minh thường nhắc nhở: Đảng ta phải luôn luôn lấy chủ
nghĩa Mác – Lênin làm nền tảng tư tưởng , làm kim chỉ lam cho mọi hành
động . Người nói: “ Thấm nhuần chủ nghĩa Mác – Lênin , tuyệt đối trung
thành với lợi ích của giai cấp vô sản và của dân tộc ; giữ gìn sự đoàn kết nhất
trí trong đảng và sự đoàn kết nhất trí giữa các đảng cộng sản , giữa các nước
trong đại gia đình xã hội chủ nghĩa , đó là cái đảm bảo chắc chắn nhất cho
cách mạng thắng lợi .Từ trước tới nay, đảng ta đã làm đúng như thế . Từ nay
về sau , đảng ta nhất định làm đúng như thế.
Đề tài: “Triết lý phát triển trong tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân
tộc gắn liền với CNXH. Liên hệ với Việt Nam hiện nay”. Em muốn làm rõ tư
tưởng Hồ Chí Minh đặc biệt trong vấn đề độc lập dân tộc gắn liền với CNXH.
Nội dung của bài tập lớn gồm:
Phần I: Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc, chủ nghia xã hội.
Phần II: Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội.
Phần III: Liên hệ với Việt Nam hiện nay.
2
I. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐỘC LẬP DÂN TỘC, CHỦ NGHĨA
XÃ HỘI.
1.Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội.
a) Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc.
Sau những năm bôn ba ở nước ngoài, Người giác ngộ chủ nghĩa Mác-
Lênin và lựa chọn con đường cách mạng vô sản. Năm 1920, Nguyễn Ái Quốc
đến với Lênin đến với cách mạng tháng 10 Nga, Người cũng tìm thấy ở Sơ
thảo luận cương của Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa “ cái cần cho chúng
ta là con đường giải phóng chúng ta” . Hồ Chí Minh đã phân tích, lên án một
cách sâu sắc toàn diện cụ thể chủ nghĩa đế quốc thực dân, cũng như chế đọ áp
bức bóc lột của nó đói với các nước thuộc địa. Nhưng không giống Mác và
Lênin vì 2 ống đứng ở giác ngộ của người cộng sản ở chính quốc để tìm và lý
giải vấn đề thuộc địa, còn Hồ Chí Minh lý giải vấn đề thuộc địa bằng góc
nhìn từ phía dân tộc bị áp bức. Thông qua hình ảnh (con đỉa hai vòi) Hồ Chí
Minh đã phát triển lý luận Mác – Lênin làm sang tỏ hơn bản chất của chủ
nghĩa thực dân đế quốc. Quan trọng hơn là những kết luận mà Hồ Chí Minh
rút ra có ý nghĩa to lớn đối với phong trào giải phóng dân tộc và cả đối với
cách mạng vô sản thế giới. Năm 1941, Hồ Chí Minh về nước chỉ đạo phong
trào cách mạng Việt Nam, người vạch rõ “trong lúc này quyền lợi giải phóng
dân tộc cao hơn tất thảy”…”nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc, không
đòi được đọc lập tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc
gia dân tộc còn chịu mãi kiếp trâu ngựa mà quyền lợi bộ phận giai cấp vạn
năm cũng không đòi lại được”. Cách mạng tháng 8/1945 thành công, Hò Chí
Minh đã đọc bản tuyên ngôn đọc lập và tuyên bó với thế giới một cách rõ
rang “Nước Việt Nam có quyền tự do độc lập và sự thực đã trở thành một
nước tự do đọc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và
lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền độc lập và tự do ấy”. Chỉ
sau một năm tuyên bố Độc lập cho tổ Quốc thì thực dân Phấp định cướp nước
ta một lần nữa. Hồ Chí Minh đã kêu gọi toàn quốc kháng chiến và đanh thép
tuyên bố: “Chúng ta đã nhân nhượng, càng nhân nhượng thực dân Pháp càng
lấn tới vì chúng muốn chiếm nước ta một lần nữa. Không, chúng ta thà hy
sinh tất cả chứ không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”.
3
Trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh thì nguyên lý nguyên tắc đầu tiên
và trên hết đó là: “ Không có gì quý hơn độc lập tự do”. Cơ sở lý luận và
thực tiễn của nguyên lý là từ sự phân tích đầy đủ những mâu thuẫn chủ yếu
của xã hội Việt Nam giai đoạn thuộc địa nửa phong kiến: Trong đó mâu thuẫn
cơ bản nhất là mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với đế quốc xâm
lược. Tư tưởng đó nói lên ý chí tự lực, tự cường, tinh thần độc lập tự chủ sang
tạo trong đường lối cũng như thực tế đấu tranh cách mạng, không ỷ lại trông
chờ bên ngoài cũng như không rập khuôn sao chếp của người khác.
Chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc là một động lực lớn của đất
nước. Xuất phát từ vị trí của người dân thuộc địa mất nước, từ truyền thống
dân tộc Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc đã đánh giá cao sức mạnh của chủ nghĩa
yêu nước và tinh thần dân tộc chân chính, coi đó là một động lực lớn mà
những người cộng sản phải nắm lấy và phát huy, không để rơi vào tay giai
cấp nào khác, phải nhận thức và giải quyết trên lập trường của giai cấp vô sản.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Tư tưởng này vừa phản ánh
quy luật kháchquan của sự nghiệp giải phóng dân tộc trong thời đại cách
mạng vô sản, vừa phản ánh mối quan hệ khăng khít giữa mục tiêu giải phóng
dân tộc với mục tiêu giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Đến Hồ
Chí Minh, chủ nghĩa yêu nước truyền thống đã phát triển thành chủ nghĩa yêu
nước hiện đại, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Độc lập cho dân tộc mình đồng thời độc lập cho tất cả các dân tộc. Hồ
Chí Minh đã khẳng định: Quyền tự do, độc lập là quyền bất khả xâm phạm
của các dân tộc, "dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và
quyền tự do". Là một chiến sĩ quốc tế chân chính, Hồ Chí Minh không chỉ
đấu tranh cho độc lập của dân tộc mình mà còn đấu tranh cho độc lập của tất
cả các dân tộc bị áp bức. Chủ nghĩa yêu nước chân chính luôn luôn thống nhất
với chủ nghĩa quốc tế trong sáng ở Hồ Chí Minh.
b)Tư tưởng Hồ Chí Minh về Chủ nghĩa xã hội.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về Chủ nghĩa xã hội có nguồn gốc sau xa từ chủ
nghĩa yêu nước, truyền thống nhân ái và tinh thần cộng đồng làng xã Việt
Nam được hình thành từ lâu đời trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân
tộc. khi ra nước ngoài khảo sát cách mạng thế giới, Nguyễn Ái Quốc đã tìm
thấy trong học thuyết Mác về lý tưởng một xã hội nhân đạo, về con đường
4
thực hiện ước mơ giải phóng các dân tộc bị áp bức khỏi ách nô lệ.
Hồ Chí Minh tiếp cận CNXH theo quan điểm Mác- Lênin từ lập trường
của một người yêu nước đi tìm con đường giải phóng dân tộc để xây dựng
một xã hội tốt đẹp. Người tiếp thu quan điểm của những nhà sáng lập CNXH
khoa học, đồng thời có sự bổ sung cách tiếp cận mới về CNXH.
• Hồ Chí Minh tiếp thu lý luận về CNXH khoa học của lý luận Mác-
Lênin trước hết là từ khát vọng giải phóng dân tộc Việt Nam. Người tìm thấy
trong lý luận Mác-Lênin sự thống nhất biện chứng của giải phóng dân tộc,
giải phóng xã hội, giải phóng con người. Đó cũng là mục tiêu cuối cùng của
chủ nghĩa cộng sản theo đúng bản chất của chủ nghĩa Mác-Lênin.
• Hồ Chí Minh tiếp cận CNXH ở một phương diện nữa là đạo đức,
hướng tới giá trị nhân đạo, nhân văn mácxít, giải quyết tốt quan hệ giữa cá
nhân với xã hội theo quan điểm của C. Mác và Ph. Ăngghen trong bản tuyên
ngôn của Đảng Cộng sản mà 2 ông tuyên bố tháng 2-1848: Sự phát triển tự do
của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người.
• Bao trùm lên tất cả là Hồ Chí Minh tiếp cận CNXH từ văn hóa. Văn
hóa trong CNXH ở Việt Nam có quan hệ biện chứng với chính trị, kinh tế.
Quá trình xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam cũng là quá trình xây
dựng một nền văn hóa mà trong đó kết tinh, kế thừa, phát triển những giá trị
văn hóa truyền thống tốt đẹp hàng ngàn năm của dân tộc Việt Nam, tiếp thu
tinh hoa văn hóa thế giới, kết hợp truyền thống với hiện đại, dân tộc và quốc
tế.
Theo các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin về CNXH, nhưng
với cách diễn đạt ngôn ngữ nói và viết của Hồ Chí Minh thì những vấn đề đầy
chất lý luận chính trị phong phú, phức tạp được diễn đạt bằng ngôn ngữ của
cuộc sống của nhân dân Việt Nam, rất mộc mạc, dung dị, dễ hiểu.
Hồ Chí Minh có quan niệm tổng quát khi coi chủ nghĩa cộng sản,chủ
nghĩa xã hội như là một chế độ xã hội bao gồm các mặt phong phú, hoàn
chỉnh,
trong đó con người được phát triển toàn diện, tự do. Trong một xã hội như thế
mọi thiết chế, cơ cấu xã hội đều nhằm tới mục tiêu giải quyết con người.
Hồ Chí Minh diễn đạt quan niệm của mình về CNXH ở Việt Nam
trên một số mặt nào đó của nó, như chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội… Với
5
cách diễn đạt như thế của Hồ Chí Minh về CNXH chúng ta không nên tuyệt
đối hóa từng mặt, hoặc tách riêng rẽ từng mặt của nó mà cần đặt trong một
tổng thể chung. Chẳng hạn, khi nói chuyện tại lớp hướng dẫn giáo viên cấp II,
cấp III và Hội nghị sư phạm, tháng 7-1956, Hồ Chí Minh cho rằng: “Chủ
nghĩa xã hội là lấy nhà máy, xe lửa, ngân hàng, v.v. làm của chung. Ai làm
nhiều thì ăn nhiều, ai làm ít thì ăn ít, ai không làm thì không ăn, tất nhiên là
trừ những người già cả, đau yếu và trẻ con”. Khi nhấn mạnh mặt kinh tế, Hồ
Chí Minh nêu chế độ công hữu công cộng của chủ nghĩa xã hội và phân phối
theo nguyên tắc của chủ nghĩa Mác – Lênin là làm theo năng lực, hưởng theo
lao động, có phúc lợi xã hội. Về mặt chính trị, Hồ Chí Minh nêu chế độ dân
chủ, mọi người được phát triển toàn diện với tinh thần làm chủ.
Hồ Chí Minh quan niệm về chủ nghĩa xã hội ở nước ta bằng cách
nhấn mạnh mục tiêu vì lợi ích Tổ quốc, của nhân dân, là “làm sao cho dân
giàu nước mạnh”, là “làm cho Tổ quốc giàu mạnh đồng bao sung sướng”, “là
nhằm nâng cao đời sống vật chất và văn há của nhân dân”, là làm cho mọi
người được ăn no, mặc ấm, được sung sướng, tự do, là “nước ta hoàn toàn
độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai
cũng được học hành” như “ham muốn tột bậc” mà Người đã trả lời các nhà
báo, tháng 1-1946.
Hồ Chí Minh nêu CNXH ở Việt Nam trong ý thức, động lực của toàn
dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Xây dựng một xã hội
như thế là trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi, động lực của toàn dân tộc. Cho
nên, với động lực xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, sức mạnh tổng hợp
được sử dụng và phát huy, đó là sức mạnh toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh
thời đại.
Đặc trưng tổng quát của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam theo Hồ Chí
Minh, cũng trên cơ sở lý luận Mác- Lênin:
• Đó là một chế độ chính trị do nhân dân làm chủ.
Chủ nghĩa xã hội có chế độ chính trị dân chủ, nhân dân lao động là chủ và
nhân
dân lao động làm chủ, Nhà nước của dân, do dân và vì dân, dựa trên khối đại
đoàn kết toàn dân mà nòng cốt là liên minh công-nông-trí thức, do Đảng
Cộng sản lãnh đạo. Chủ nghĩa xã hội chính là sự nghiệp của chính bản thân
6
nhân dân, dựa vào sức mạnh của toàn dân để đưa lại quyền lợi cho nhân dân.
• Chủ nghĩa xã hội là một chế độ xã hội có nền kinh tế phát triển cao,
gắn liền với sự phát triển của khoa học- kỹ thuật.
Đó là xã hội có một nền kinh tế phát triển dựa trên cơ sở năng suất lao
động xã hội cao, sức sản xuất luôn luôn phát triển với nền tảng phát triển khoa
học- kỹ thuật, ứng dụng có hiệu quả những thành tựu khoa học-kỹ thuật của
nhân loại.
• Chủ nghĩa xã hội là chế độ không có người bóc lột người.
Đây là một vấn đề được hiểu nó như là một chế độ hoàn chỉnh, đạt đến
độ chín muồi. Trong chủ nghĩa xã hội, không còn bóc lột, áp bức bất công,
thực hiện chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất và thực hiện nguyên tắc phân phối
theo lao động. Đó là một xã hội được xât dựng trên nguyên tắc công bằng,
hợp lý.
• Chủ nghĩa xã hội là một xã hội phát triển cao về văn hóa, đạo đức.
Đó là một xã hội có hệ thống quan hệ xã hội lành mạnh, công bằng, bình
đẳng, không còn áp bức, bóc lột, bất công, không còn sự đối lập giữa lao động
chân tay và lao động trí óc, giữa thành thị và nông thôn, con người được giải
phóng, có điều kiện phát triển toàn diện, có sự hài hòa trong phát triển của xã
hội và tự nhiên.
Hồ Chí Minh quan niệm chủ nghĩa xã hội là sự tổng hợp quện chặt ngay
trong cấu trúc nội tại của nó, một hệ thống giá trị làm nền tảng điều chỉnh các
quan hệ xã hội, đó là độc lập, tự do, bình đẳng, dân chủ, bảo đảm quyền con
người, bác ái, đoàn kết, hữu nghị…, trong đó, có những giá trị tạo tiền đề, có
giá trị hạt nhân.
Theo Hồ Chí Minh chủ nghĩa xã hội là:
Chủ nghĩa xã hội là: “ Một xã hội không có chế độ người bóc lột
người, một xã hội bình đẳng. Nghĩa là ai cũng phải lao động và có quyền lao
động, làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm không hưởng”.
Chủ nghĩa xã hội là: “làm cho dân giầu nước mạnh…ai làm nhiều thì
ăn nhiều, ai làm ít ăn ít, ai không làm thì không ăn tất nhiên trừ người già cả
đau yếu và trẻ con. Đất nước ta đến đây chưa? Chưa đến. Chủ nghĩa xã hội
không thể làm mau được mà phải làm dần dần.
Chủ nghĩa xã hội là: “ Làm sao cho nhân dân đủ ăn đủ mặc ngày càng
7
sung sướng, ai nấy được đi học, ốm đau có thuốc, người không lao đọng được
thì nghỉ, những phong tục tập quấn không tốt dần dần xóa bỏ( ví dụ: Lấy vợ,
lấy chồng quá sớm, cúng bái liên hoan lù bù…). Tóm lại xã hội ngày càng
tiến triển, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt đó là chủ nghĩa xã
hội”
Chủ nghĩa xã hội là: “ Mọi người được ăn no mặc ấm sung sướng tự
do. Nhưng nếu tách riêng một mình mà ăn no mặc ấm, người khác mặc kệ là
không tốt. Mình muốn ăn no mặc ấm cũng phải làm cho người khác ăn no
mặc ấm như thế mới đáng. Muốn như vậy phải ra sức công tác, phải ra sức
sản xuất”.
II. Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội
1. Mối quan hệ giữa độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
+ Độc lập dân tộc là mục tiêu trước hết, là cơ sở, tiền đề để tiến lên chủ
nghĩa xã hội.
Hồ Chí Minh cho rằng, cách mạng Việt Nam phải trải qua hai giai đoạn:
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Hai giai
đoạn ấy không có bức tường ngăn cách, mà gắn bó chặt chẽ với nhau.
Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân có hai nhiệm vụ chiến lược: chống
thực dân xâm lược và chống địa chủ phong kiến. Nhiệm vụ dân tộc và dân
chủ quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó nhiệm vụ giải phóng dân tộc đặt lên
trên hết, trước hết, nhiệm vụ dân chủ cần thực hiện từng bước và phải phục
tùng sự nghiệp giải phóng dân tộc. Tư tưởng trên đây được Hồ Chí Minh thể
hiện rõ nét trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng năm 1930 và Người nhấn
mạnh tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ tám (khóa I) 5-1941.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc bao gồm cả nội dung dân
tộc dânchủ. Không phải bất kỳ độc lập dân tộc nào cũng tạo cơ sở, tiền đề để
tiến lên chủ nghĩa xã hội. Theo Hồ Chí Minh, để tạo cơ sở, tiền đề cho việc tiến
lên chủ nghĩa xã hội, cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân phải được thực
hiện một cách triệt để, "đến nơi". Đó là một nền độc lập thực sự, độc lập hoàn
toàn không lệ thuộc vào bất cứ lực lượng nào cả về đối nội, lẫn đối ngoại. Hồ
Chí Minh nhiều lần phê phán sự lệ thuộc về mọi mặt của những chính quyền do
thực dân cũ và mới lập nên ở Việt Nam. Người gọi đó là độc lập giả hiệu, độc
8
lập kiểu Mỹ.
Để tạo cơ sở, tiền đề cho việc tiến lên chủ nghĩa xã hội, đối với Việt Nam,
một đòi hỏi có ý nghĩa sống còn là độc lập dân tộc phải gắn liền với thống nhất
chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước. Nước Việt Nam là một, dân tộc
Việt Nam là một, Bắc - Trung - Nam là một khối thống nhất không thể phân
chia, đồng bào Kinh, Mường, Thái, Êdê, Bana… đều là con dân nước Việt, là
con Rồng cháu Tiên. Đó là quan điểm nhất quán, mang tính nguyên tắc của Hồ
Chí Minh. Không duy trì và phát triển được khối thống nhất đó thì không thể có
độc lập dân tộc, càng không thể nói đến việc tạo cơ sở tiền đề để tiến lên chủ
nghĩa xã hội.
Để tiến lên chủ nghĩa xã hội đòi hỏi độc lập dân tộc phải đi đôi với tự do
hạnh phúc của nhân dân. Theo Hồ Chí Minh "nếu nước được độc lập mà
người dân không được hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập chẳng có ý nghĩa
gì".
+ Chủ nghĩa xã hội là con đường bảo vệ và phát triển thành quả của
độc lập dân tộc
Độc lập dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội thể hiện mối quan hệ giữa mục
tiêu trước mắt và mục tiêu lâu dài. Theo lôgíc của sự phát triển, hai mục tiêu
ấy quan hệ chặt chẽ với nhau. Không thể đi đến mục tiêu cuối cùng nếu
không thực hiện được mục tiêu trước mắt. Chỉ thực hiện được mục tiêu cuối
cùng mới bảo vệ và phát triển được những thành quả của mục tiêu trước mắt.
Vì vậy, nếu độc lập dân tộc tạo cơ sở, tiền đề để đi lên chủ nghĩa xã hội là con
đường tốt nhất để giữ vững và phát triển lên một tầm cao mới - thành quả của
độc lập dân tộc.
Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội là làm cho dân giàu, nước mạnh, ai
cũng có công ăn, việc làm, được ăn no, mặc ấm, được học hành, các dân tộc
trong nước bình đẳng đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau. Về mặt phân phối sản phẩm
lao động thì chủ nghĩa xã hội là ai làm nhiều hưởng nhiều, ai làm ít hưởng ít, ai
có sức lao động mà không làm thì không hưởng, những người già, đau yếu, tàn
tật và trẻ em thì xã hội và cộng đồng có trách nhiệm chăm sóc nuôi dưỡng.
Trong chủ nghĩa xã hội, văn hóa, khoa học kỹ thuật, chính trị và kinh tế, đời
sống vật chất và tinh thần của nhân dân được quan tâm và ngày một nâng cao.
Về mặt đối ngoại, chủ nghĩa xã hội là hòa bình, hữu nghị, làm bạn với tất cả các
9
nước. Chủ nghĩa xã hội với những đặc trưng đó không chỉ bảo vệ những thành
quả của độc lập dân tộc mà cơ bản tạo nên sự phát triển mới vế chất. Hồ Chí
Minh khẳng định chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới bảo đảm cho
một nền độc lập dân tộc chân chính, mới giải phóng các dân tộc một cách
thực sự, hoàn toàn.
Hồ Chí Minh cho rằng cách mạng, cả cách mạng giải phóng dân tộc và
cách mạng xã hội chủ nghĩa là việc khó, là cuộc đấu tranh gay go, ác liệt, lâu
dài. Giành độc lập dân tộc đã khó, xây dựng chủ nghĩa xã hội còn khó khăn
hơn. Hồ Chí Minh so sánh: thắng đế quốc phong kiến là tương đối dễ, thắng
bần cùng lạc hậu khó khăn hơn. Hồ Chí Minh nhấn mạnh: "Đánh đổ giai cấp
địch đã khó, đấu tranh xây dựng chủ nghĩa xã hội còn gian khổ, khó khăn hơn
nhiều". Từ những khó khăn gian khổ ấy, Hồ Chí Minh luôn đòi hỏi Đảng,
Nhà nước và mỗi người dân phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội.
2.Sự thể hiện trên thực tế tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội
xuất hiện từ năm 1920, khi Người bắt gặp chủ nghĩa Mác-Lênin, và nó được
thể hiện rõ nét từ năm 1930. Sự thể hiện tư tưởng của Người về độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội có thể phân thành 3 thời kỳ chủ yếu.
+ Thời kỳ đấu tranh giành chính quyền (1930 – 1945)
Tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội của Hồ Chí Minh
thời kỳ này thể hiện rõ trong những văn kiện do Hồ Chí Minh soạn thảo được
Hội nghị hợp nhất thông qua. Chánh cương vắn tắt của Đảng chỉ rõ Đảng chủ
trương "làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã
hội xã hội cộng sản". Hồ Chí Minh khẳng định sự nghiệp giải phóng dân tộc ở
Việt Nam được thực hiện bằng con đường cách mạng vô sản: "Muốn cứu
nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách
mạng vô sản". Theo tư tưởng Hồ Chí Minh điều đó có ý nghĩa là:
Đối tượng của cuộc đấu tranh là thực dân đế quốc và bọn tay sai chống
lại độc lập dân tộc.
10
Ở trong nước lực lượng cách mạng bao gồm công nông là gốc và tất cả
những ai có lòng yêu nước, thương nòi.
Về lực lượng cách mạng ngoài nước trong thời kỳ này, Hồ Chí Minh
nhấn mạnh sự ủng hộ của Quốc tế Cộng sản, Liên bang cộng hòa xã hội chủ
nghĩa xô viết, giai cấp công nhân và nhân dân lao động chính quốc, các dân
tộc thuộc địa và phụ thuộc.
Nhân tố quyết định thắng lợi của cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc là
sự lãnh đạo của Đảng theo chủ nghĩa Mác-Lênin.
+ Thời kỳ vừa kháng chiến vừa xây dựng chế độ mới (1945 – 1954)
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội ở thời kỳ này được thể
hiện ở những chủ trương, đường lối chiến lược do Hồ Chí Minh khởi xướng
"vừa kháng chiến, vừa kiến quốc", "kháng chiến đi đôi với kiến quốc", "kháng
chiến hóa văn hóa, văn hóa hóa kháng chiến".
Kháng chiến tức là bảo vệ nền độc lập dân tộc, chống sự xâm lược lần thứ
hai của thực dân Pháp theo phương châm trường kỳ kháng chiến nhất định thắng
lợi.
Kiến quốc theo Hồ Chí Minh là xây dựng, củng cố Nhà nước dân chủ
nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á, xây dựng đời sống mới, xây dựng những
cơ sở đầu tiên của chủ nghĩa xã hội.
+ Thời kỳ cả nước tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng, cách
mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ ở Việt Nam
(1954 – 1975)
Bước vào thời kỳ này độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trong
tư tưởng Hồ Chí Minh thể hiện qua chủ trương: một Đảng Cộng sản lãnh đạo
thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược ở hai miền: xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở miền Bắc, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam, tiến
tới thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đây là một
sáng tạo lý luận của Hồ Chí Minh.
Ngày 2-9-1969, Hồ Chí Minh qua đời. Theo chỉ dẫn của Người, nhân
dân ta đã đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào. Với chiến dịch lịch sử mang
tên Hồ Chí Minh, mục tiêu của thời kỳ này được hoàn thành vào ngày 30-4-
1975.
11
+ Thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1975 – nay)
Từ 1975 trở đi tổ quốc hoàn toàn được độc lập thì dân tộc và chủ nghĩa
xã hội gắn vào làm một. Chỉ có chủ nghĩa xã hội, nhân dân mới được vĩnh
viện thoát khỏi cảnh bị áp bức, bóc lột, nghèo nàn lạc hậu, cuộc sống, âm no
văn minh và hạnh phúc.
II. Liên hệ với Việt Nam hiện nay.
Trong nhiều văn kiện của Đảng ta, vấn đề độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội luôn được khẳng định một cách mạnh mẽ và dứt khoát. Tại
Đại hội IX của Đảng, khi tổng kết những bài học chủ yếu của 15 năm đổi
mới, Báo cáo chính trị đã chỉ rõ bài học thứ nhất là: “Trong quá trình đổi mới
phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ
nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”.Sự lựa chọn của Đảng ta, của
nhân dân ta là hoàn toàn chính xác.
Dân tộc ta có truyền thống yêu nước, anh dũng bất khuất, đã từng chiến
thắng nhiều đế quốc phong kiến hung hãn. Từ khi thực dân Pháp xâm lược
nước ta, phong trào yêu nước đã dấy lên hết sức mạnh mẽ. Liên tiếp nổ ra các
cuộc nổi dậy khắp mọi miền đất nước, thu hút đông đảo các tầng lớp nhân
dân, các bậc sĩ phu, kể cả một bộ phận quan lại phong kiến. Các phong trào
Cần Vương, khởi nghĩa Yên Thế; các phong trào Duy Tân, Đông Du, khởi
nghĩa Yên Bái và hàng chục cuộc đấu tranh khác nữa đều bị thực dân Pháp
thẳng tay đàn áp và thất bại.
Trong bối cảnh đó, chưa bao giờ như lúc bấy giờ, độc lập dân tộc càng
trở nên là yêu cầu cơ bản, cấp bách. Công cuộc giải phóng dân tộc Việt Nam
khi ấy ở trong “tình hình đen tối như không có đường ra”. Bằng con đường
nào và giai cấp nào có khả năng gánh vác sứ mệnh trọng đại đó?
Nhưng rồi chính lịch sử có lời giải đáp. Chủ nghĩa Mác ra đời đã vạch ra
cái tất yếu từng bị che lấp bởi màn sương mù trong lịch sử. Chủ nghĩa Mác
khẳng định chủ nghĩa tư bản nhất định bị thay thế bằng một chế độ tốt đẹp
hơn - chế độ cộng sản chủ nghĩa không có người bóc lột người. Và người đào
huyệt chôn chủ nghĩa tư bản chính là giai cấp công nhân - sản phẩm của nền
đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa. Đó là một tiếng sét trong lòng chủ nghĩa tư
bản ở vào thời thịnh trị, sau khi nó chiến thắng các chế độ chuyên chế phong
kiến và đã bành trướng ra khắp thế giới, chi phối mọi mặt đời sống xã hội loài
người. Chính vào thời điểm ấy Cách mạng Tháng Mười đã nổ ra, mở đầu cho
12
một xu thế mới của lịch sử thế giới, tạo ra phản ứng dây chuyền của hàng loạt
cuộc đấu tranh giải phóng có quy mô to lớn và chiều sâu cách mạng chưa
từng thấy trong lịch sử nhân loại.
Toàn bộ tình hình đó của thế giới, bằng nhiều con đường, dội vào và
thấm sâu trong mảnh đất Việt Nam – nơi mà chính “sự tàn bạo của chủ nghĩa
tư bản đã chuẩn bị đất rồi; chủ nghĩa cộng sản chỉ còn phải làm cái việc là
gieo hạt của công cuộc giải phóng nữa thôi”. Nguyễn Ái Quốc là người gieo
hạt, gây mầm cách mạng Việt Nam. Người đã đi từ chủ nghĩa yêu nước đến
với chủ nghĩa xã hội. Vời kỳ công của Nguyễn Ái Quốc, chủ nghĩa Mác –
Lênin kết hợp với phong trào yêu nước và phong trào công nhân Việt Nam
chuyển hóa thành một tất yếu đưa đến một sự kiện trọng đại: năm 1930, Đảng
Cộng sản Việt Nam ra đời. Sự kiện này là mốc son đánh dấu sự kết hợp các
nhân tố dân tộc và giai cấp, quốc gia và quốc tế, độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội trong bản chất của Đảng.
Đảng tuyên bố: “Chủ trương tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách
mạng để đi tới xã hội Cộng sản”. Một cách tự nhiên, ngay sau lời tuyên bố ấy
của Đảng, chủ nghĩa Xã hội không chỉ là mục tiêu lựa chọn mà đã thực sự
thúc đẩy lịch sử dân tộc Việt Nam chuyển mình, là con đường dân tộc Việt
Nam đã và đang đi, từ đó dọc theo thế kỷ XX, sang thế kỷ XXI, và tiếp tục đi
cho tới đích cuối cùng. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ, chỉ có chủ nghĩa Xã hội,
chủ nghĩa Cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những
người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ; chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới
cứu nhân loại, đem lại cho mọi người, không phân biệt chủng tộc và nguồn
gốc, có một xã hội tốt lành gắn liền với tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm
no; bảo đảm việc làm cho mọi người, tất cả vì niềm vui, hoà bình, hạnh phúc
của con người.
Rõ ràng, sự lựa chọn mục tiêu độc lập dân tộc gắn chặt với chủ nghĩa xã
hội của Đảng và nhân dân ta, xét về lôgíc là một tất yếu khách quan; xét
về lịch sử, là hoàn toàn phù hợp với sự vận động của cách mạng Việt Nam và
xu thế phát triển của thời đại; xét về nhu cầu, là hoàn toàn xuất phát từ điều
kiện cụ thể của một nước thuộc địa, nửa phong kiến và nguyện vọng cháy
bỏng của nhân dân Việt Nam; và xét về mặt xã hội, đó là một hệ giá trị cơ bản
nhất quyết định sự phát triển của đất nước Việt Nam hôm nay và mai sau.
13
Có thể khẳng định như vậy bởi vì việc giải quyết vấn đề độc lập dân tộc
theo ý thức hệ phong kiến và tư sản, trong khuôn khổ của chế độ phong kiến
và chế độ tư bản chủ nghĩa không tránh khỏi những mâu thuẫn và những hạn
chế bắt nguồn từ bản chất kinh tế và chính trị của các chế độ ấy - những hình
thái kinh tế - xã hội dựa trên các quan hệ tư hữu về tư liệu sản xuất và các
quan hệ đối kháng giai cấp.
Vượt qua những mâu thuẫn và những hạn chế trong việc giải quyết vấn
đề độc lập theo lập trường phong kiến và tư sản chỉ có thể là con đường gắn
liền độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, tức là giải quyết độc lập dân tộc
theo lập trường của giai cấp công nhân, của chủ nghĩa xã hội khoa học. Đó là:
Độc lập dân tộc thực sự phải là độc lập về chính trị, kinh tế, văn hoá, đối
ngoại; xoá bỏ tình trạng áp bức bóc lột và nô dịch của dân tộc này đối với dân
tộc khác về kinh tế, chính trị và tinh thần. Do đó, độc lập gắn liền với tự do và
bình đẳng, công việc nội bộ quốc gia – dân tộc nào phải do quốc gia – dân tộc
đó giải quyết, không có sự can thiệp từ bên ngoài.
Bản chất của chủ nghĩa xã hội là thực hiện triệt để giải phóng giai cấp,
giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người. Chủ nghĩa xã hội
xoá bỏ căn nguyên kinh tế sâu xa của tình trạng người bóc lột người do chế
độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất sinh ra. Nhờ đó, nó xoá bỏ cơ sở
kinh tế sinh ra ách áp bức con người về chính trị và sự nô dịch con người về
tinh thần, ý thức và tư tưởng. Chỉ với chủ nghĩa xã hội, độc lập dân tộc mới
đạt tới mục tiêu phục vụ lợi ích và quyền lực của mọi người lao động, làm
cho mọi thành viên của cộng đồng dân tộc trở thành người chủ thực sự, có
cuộc sống vật chất ngày càng đầy đủ và đời sống tinh thần ngày càng phong
phú. Nó cũng bảo đảm cho dân tộc vượt qua tình trạng đói nghèo, lạc hậu và
tụt hậu trong tương quan với các dân tộc khác trong thế giới và ngày càng
phát triển mạnh mẽ hơn để đạt tới sự bình đẳng trong các mối quan hệ giữa
con người với con người, giữa cộng đồng dân tộc này với cộng đồng dân tộc
khác. Toàn bộ khả năng và điều kiện bảo đảm chỉ có thể được tìm thấy và giải
quyết bằng con đường phát triển chủ nghĩa xã hội.
Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trở thành hệ giá trị phát triển của
Việt Nam, dưới ngọn cờ của Đảng, trong thời đại ngày nay. Nhận thức và
hành động theo sự lựa chọn và theo hệ giá trị đó, Đảng đã lãnh đạo thành
14
công cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945, tiến hành thắng lợi hai cuộc kháng
chiến hoàn toàn không cân sức với “hai đế quốc to”, mở ra thời kỳ phi thực
dân sau Việt Nam cho cả hệ thống thuộc địa và các nước phụ thuộc trên thế
giới.
Qua nửa thế kỷ giành và giữ độc lập dân tộc, xây dựng chủ nghĩa xã hội
và bảo vệ Tổ Quốc, đặc biệt 15 năm đổi mới, với hệ giá trị đó, Đảng Cộng sản
Việt Nam xứng đáng tiêu biểu bản lĩnh Việt Nam trong việc giữ vững định
hướng xã hội chủ nghĩa, đã tỏ rõ tín độc lập tự chủ trong mọi đường lối, chính
sách đối nội và đối ngoại, đưa đời sống nhân dân lên ngày một cao hơn, đưa
đất nước và dân tộc lên vị thế mới trong khu vực và trên thế giới.
Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, với Việt Nam không chỉ là mục
tiêu, là nhu cầu, là cương lĩnh hànhđộng, là ngọn cờ hiệu triệu, mà còn
là động lực, là niềm tin sắt son của dân tộc Việt Nam ta. Độc lập dân tộc gắn
với chủ nghĩa xã hội là sự gắn kết hai sức mạnh thành một sức bật mới; là cội
nguồn thắng lợi của cách mạng Việt Nam hôm qua, hôm nay và mai sau.
Thế kỷ XXI mở đầu thiên niên kỷ thứ ba của một thế giới đầy biến
động, cũng đồng thời mở ra một kỷ nguyên hội nhập, đua tranh gay gắt của
cộng đồng quốc tế. Dù thời cuộc biến đổi xoay vần ra sao, dù phải đối mặt với
xu thế toàn cầu hoá, thì hệ giá trị độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, trong ý
thức và trong hành động vẫn là mục tiêu, lý tưởng, là quốc bảo phù hợp với
xu thế thời đại; sẽ đưa nhân dân ta tiếp tục giành thêm nhiều thắng lợi to lớn
hơn nữa trong sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá,
xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ Quốc, vì mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, đưa đất nước ta sánh
vai cùng các nước trong khu vực và trên thế giới.
Kết luận
15
Tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội của Người được
thể hiện trong luận điểm “Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách
mạng để đi tới xã hội cộng sản”, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt tiến trình vận động
của cách mạng Việt Nam. Tư tưởng đặc sắc ấy thể hiện nhất quán mục tiêu
tiêu của con đường cách mạng mà Người đã lựa chọn, nó vừa đáp ứng được
nhu cầu bức xúc của dân tộc và khát vọng của quần chúng nhân dân giành lấy
độc lập tự do, ấm no và hạnh phúc, giải phóng cuộc đời lầm than, đói khổ
dưới ách thống trị tàn bạo của chủ nghĩa thực dân, đế quốc và bè lũ tay sai.Tư
tưởng ấy đã đưa dân tộc ta đến độc lập dân tộc, tự do, nước nhà Bắc – Nam
thống nhất và ngày nay. Độc lập dân tộc và CNXH tác động biện chứng, tạo
tiền đề cho nhau. Có giành được độc lập dân tộc mới có cơ sở xây dựng
CNXH; xây dựng CNXH là cơ sở để củng cố nền độc lập tự do của Tổ quốc.
Người nói: “Nếu nước độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc tự do,
thì độc lập chẳng có nghĩa lý gì”. Khát vọng cháy bỏng của Chủ tịch Hồ Chí
Minh là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, đồng bào ai cũng có
cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành. Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí
Minh căn dặn “Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và
văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân”. Mặc dù hiện
nay đất nước ta trong môi trường hòa bình xây dựng CNXH, nhưng các lực
lượng thù địch đang ra sức dùng nhiều con đường, bằng nhiều biện pháp khác
nhau, từ kinh tế đến văn hóa, khoa học, công nghệ, dân tộc và tôn giáo, nhằm
thay đổi bản chất của chế độ chúng ta. Hơn lúc nào hết mỗi cán bộ, đảng viên
và nhân dân luôn nâng cao cảnh giác cách mạng, đồng thuận trong nhận thức
và hành động để tư tưởng của Bác Hồ kính yêu về độc lập dân tộc gắn liền
với CNXH được hiện thực hóa, trường tồn với Đảng và dân tộc ta với mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Là sinh viên cần có trách nhiệm trong việc học tập, tham gia tuyên
truyền tư tưởng của Người, học tập và làm theo tấm gương của Người, thực
hiện đúng đường lối, chính sách của Nhà nước, tích cực đấu tranh chống lại
các thế lực phản động nhằm mục tiêu xóa bỏ quyền lãnh đạo của Đảng, góp
phần xây dựng một xã hội phát triển trên mọi lĩnh vực.
16