Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Vì sao nói học thuyết giá trị thặng dư là quy luật học thuyết cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (146.35 KB, 21 trang )

Đề bài:
Câu 1: Vì sao nói "học thuyết giá trị thặng dư là quy luật học thuyết
cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin".
Có thể nói giá trị thặng dư là nguồn gốc hình thành nên thu nhập của các
nhà tư bản cũng như những giai cấp bóc lột khác trong chủ nghĩa tư bản Học
thuyết giá trị thặng dư nghiên cứu trực tiếp sự tồn tại và phát triển quan hệ sản
xuất tư bản chủ nghĩa để tìm ra quy luật giá trị thặng dư với tư cách là hay
quy luật kinh tế cơ bản của xã hội tư bản chủ nghĩa Bằng quy luật giá trị
thặng dư, nó sẽ quyết định sự phát triển của chủ nghĩa tư bản và sự thay thế
nó bằng một xã hội khác cao hơn, nó là quy luật vận động của phương thức
sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Vì vậy,học thuyết giá trị thặng dư là quy luật học thuyết cơ bản của chủ
nghĩa Mác-Lênin. Để thấy rõ điều này chúng ta sẽ đi sâu hơn về học thuyết.
I.Sự chuyển hoá của tiền tệ thành tư bản: Sự chuyển hoá tiền tệ thành
tư bản được thể hiện trong công thức chung của tư bản và mâu thuẫn của công
thức chung của tư bản. Ta có T-H-T' (công thức chung của tư bản) và H-T-H
(công thức lưu thông hàng hoá giản đơn)
Hai công thức trên
+) Giống nhau: Cùng tạo nên do hai yếu tố hàng và tiền; có hai hành vi
mua và bán; biểu hiệnquan hệ kinh tế giữa người mua và người bán.
+) Khác nhau: Lưu thông hàng hoá giản đơn bắt đầu bằng hành vi bán
(H-T) và kết thúc bằng hành vi mua (T-H); điểm xuất phát và kết thúc đều là
hàng hoá, tiền chỉ đóng vai trò trung gian, mục đích cuối cùng của quá trình
này là giá trị thặng dư
Lưu thông tư bản, ngược lại, bắt đầu bằng hành vi mua (T-H) và kết thúc
bằng hành vi bán (H-T), điểm xuất phát và kết thúc đều là tiền, hàng hoá chỉ
đóng vai trò trung gian, mục đích cuối cùng của lưu thông tư bản là giá trị, và
là giá trị lớn hơn. Số tiền ứng ra ban đầu với mục đích thu được giá trị thặng
dư trở thành tư bản. Do đó, tiền chỉ biến thành tư bản khi được dùng để mang
lại giá trị thặng dư. Công thức T-H-T', với T' = T+m được coi là công thức
chung của tư bản. Như vậy, tư bản là tiền tự lớn lên hay giá trị sinh ra giá trị


thặng dư.
b) Mâu thuẫn của công thức chung tư bản: giá trị thặng dư từ đâu?
- Xét trong lưu thông:
+) Trong trường hợp trao đổi ngang giá: Chỉ có sự thay đổi hình thái của
giá trị, từ tiền thành hàng và từ hàng thành tiền, tổng giá trị trong tay mỗi
người tham gia trao đổi trước sau vẫn khôngthay đổi. Tuy nhiên, về mặt giá
trị sử dụng, thì cả hai bên trao đổi ngang giá .
+) Trong trường hợp trao đổi không ngang giá (hàng hoá có thể bán cao
hơn hoặc thấp hơn giá trị), trong nền kinh tế hàng hoá, mỗi người sản xuất
đều vừa là người bán, vừa là người mua. Cái lợi mà họ thu được khi bán sẽ bù
cho cái thiệt khi mua và ngược lại. Cho nên nếu xét chung cho toàn xã hội thì
tổng giá trị hàng hóa không tăng lên. Như vậy, lưu thông và bản thân tiền tệ
trong lưu thông không tạo ra giá trị mới (giá trị thặng dư).
Như vậy “ Tư bản không thể xuất hiên từ lưu thông và cũng không thể
xuất hiện ở bên ngoài lưu thông, nó phải xuất hiện trong lưu thông và đồng
thời không phải trong lưu thông”. Đó chính là mâu thuẫn công thức chung của
tư bản . Để giải quyết mâu thuẫn này phải tìm trên thị trường một loại hàng
hóa có khả năng tạo ra giá trị lớn hơn giá trị của bản thân nó. Đó là hàng hóa
sức lao động.
-Xét ngoài lưu thông: Nếu người sản xuất muốn tạo thêm giá trị mới cho
hàng hóa thì phải bằng sức lao động của mình.
+ Sức lao động là toàn bộ những năng lực tồn tại trong một con người và
được người đó sử dụng vào sản xuất.
+Trong mọi xã hội, sức lao động là yếu tố của sản xuất nhưng chỉ được
gọi là hàng hóa sức lao động khi có 2 điều kiện là: Thứ 1, người lao động
được tự do về thân thể, có quyền sử dụng sức lao động của mình và chỉ được
sử dụng trong một thời gian nhất định. Thứ 2, người lao động không có tư
liệu lao động cần thiết để có thể tự đứng ra tổ chức sản xuất nên phải bán sức
lao động để sống. +Hàng hóa sức lao động cũng có 2 thuộc tính là giá trị và
giá trịsử dụng., Giá trị của hàng hóa sức lao động cũng do lao thời gian lao

động xã hội cần thiết để sản xuất và tái sản xuất sức lao động quyết
định.nhưng nó tồn tại như năng lực sống của con người ,Giá trị sử dụng của
hàng hóa sức lao động :
- Có giá trị sử dụng như bất kì những loại hàng hóa nào khác.
-Thể hiện ra trong quá trình tiêu dùng sức lao động.
-Sau quá trình tiêu dùng sẽ tạo ra một loại hàng hóa nào đó hoặc tạo ra
giá trị mới lớn hơn giá trị cũ.=>điều kiện để tiền tệ trở thành tư bản.
II.phương pháp sản xuất giá trị thặng dư.
1. Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối: Là pp sản xuất giá trị
thặng dư bằng cách kéo dài thời gian lao động vượt quá thời gian lao động tất
yếu, còn năng suất lao động, giá trị sức lao động và thời gian laomđộng tất
yếu không thay đổi. Đây là cơ sở chung của chế độ tư bản chủ nghĩa.
2. Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối: Là phương pháp sản
xuất giá trị thặng dư do rút ngắn thời gian lao động tất yếu bằng cách hạ thấp
giá trị sức lao động, nhờ đó tăng thời gian lao động thặng dư lên trong điều
kiện độ dài ngày lao động và cường độ lao động vẫn như cũ.
Để hạ thấp giá trị sức lao động thì phải giảm bớt giá trị các tư liệu sinh
hoạt và dịch vụ cần thiết cho người công nhân=> phải tăng năng suất lao động
xã hội trong các ngành sản xuất tư liệu tiêu dùng và các ngành sản xuất tư liệu
sản xuất để sản xuất ra các tư liệu sản xuất tiêu dùng.
III.Sản xuất giá trị thặng dư: -Quy luật kinh tế tuyệt đối của chủ nghĩa
tư bản,
quy luật phản ánh mối quan hệ kinh tế bản chất nhất của phương thức
sản xuất.
+ giá trị thặng dư là phần giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao động do
công nhân làm thuê tạo ra và bị nhà tư bản chiếm không, phản ánh mối quan
hệ kinh tế bản chất nhất của chủ nghĩa tư bản-quan hệ tư bản bóc lột lao
độnglàm thuê. Giá trị thặng dư do lao động không công của công nhân tạo ra
là nguồn gốc làm giàu của các nhà tư bản.
+ Mục đích của sản xuất tư bản chủ nghĩa không phải là giá trị sử dụng

mà là sản xuất ra giá trị thặng dư, là nhân giá trị lên, giá trị thặng dư tối đa là
mục đích và động cơ thúc đẩy sự hoạt động của mỗi nhà tư bản.
Để đạt mục đích làm giàu tối đa của mình nhà tư bản đã mua sức lao
động của công nhân kết hợp với tư liệu sản xuất để sản xuất ra sản phẩm, thu
về giá trị thặng dư. Nhưng nhà tư bản bao giờ cũng chỉ trả một phần giá trị
sức lao động cho người công nhân thông qua hình thức tiền lương và bóc lột
giá trị thặng dư do người công nhân sáng tạo ra trong quá trình sản xuất.
vi trong xã hội tư bản, mối quan hệ giữa tư bản và lao động là mối quan hệ cơ
bản nhat, sâu sắc nhất, xuyên qua tất cả các quan hệ sản xuất của xã hội đó.
Giá trị thặng dư, phần giá trị do lao động của công nhân làm thuê sáng tạo ra
ngoài sức lao động và bị nhà tư bản chiếm không, phản ánh mối quan hệ cơ
bản nhất đó. Giá trị thặng dư do lao động không công của công nhân làm thuê
sáng tạo ra là nguồn gốc làm giàu của giai cấp các nhà tư bản, sản xuất ra giá
trị thặng dư là cơ sở tồn tại của chủ nghĩa tư bản. Toàn bộ hoạt động của nhà
tư bản hướng đến tăng cường việc tạo ra giá trị thặng dư thông qua hai
phương pháp cơ bản là tạo ra giá trị thặng dư tuyệt đối và tạo ra giá trị thặng
dư tương đối.
IV.Tiền công trong chủ nghĩa tư bản
1. Bản chất của tiền công
-Tiền công là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hóa sức lao động, là
giá ả của hàng hóa sức lao động.
+Trong xã hội tư bản, tiền công là giá cả của lao động.
+Cái mà nhà tư bản mua của công nhân không phải là lao động, mà là
sức lao động. Tiền công không phải là giá trị hay giá cả của lao động, mà chỉ
là giá trị hay giá cả của hàng hóa sức lao động.
2. Các hình thức tiền công cơ bản
-Tiền công tính theo thời gian là hình thức tiền công tính theo thời gian
lao ộng của công nhân dài hay ngắn (giờ, ngày, tuần, tháng).
-Tiền công tính theo sản phẩm là hình thức tiền công tính theo số lượng
sản phẩm đã làm ra, hoặc số lượng công việc đã hoàn thành trong một thời

gian nhất định.
+Mỗi một sản phẩm được trả công theo một đơn giá nhất định, gọi là
đơn giá tiền công. Để quy định đơn giá tiền công, người ta lấy tiền công trung
bình một ngày của một công nhân chia cho số lượng sản phẩm của một công
nhân sản xuất ra trong một ngày lao động bình thường.
+Tiền công tính theo sản phẩm: Giúp cho nhà tư bản trong việc quản lý,
giám sát quá trình lao động của công nhân dễ dàng hơn, và , kích thích công
nhân lao động tích cực, khẩn trương tạo ra nhiều sản phẩm để thu được lượng
tiền công cao hơn.
3. Tiền công danh nghĩa và tiền công thực tế
-Tiền công danh nghĩa là số tiền mà người công nhân nhận được do bán
sức lao động của mình cho nhà tư bản.
-Tiền công thực tế là tiền công được biểu hiện bằng số lượng hàng hóa tư
liệu tiêu dùng và dịch vụ mà người công nhân mua được bằng tiền công danh
nghĩa của mình.
+Tiền công danh nghĩa là giá cả hàng hóa sức lao động; nó có thể tăng
lên hay giảm xuống tuỳ theo sự biến động trong quan hệ cung - cầu về hàng
hóa sức lao động trên thị trường. Trong một thời gian nào đó, nếu tiền công
danh nghĩa vẫn giữ nguyên, nhưng giá cả tư liệu tiêu dùng và dịch vụ tăng lên
hay giảm xuống thì tiền công thực tế giảm xuống hay tăng lên.
V.sự chuyển hóa của giá trị thặng dư thành tư bản-tích lũy tư bản.
1.Thực chất và động cơ của tích lũy cơ bản.
- Thực chất của tích luỹ cơ bản:
Dưới CNTB, muốn tái sản xuất mở rộng, nhà tư bản không thể sử dụng
hết giá trị thặng dư cho tiêu dùng cá nhân, mà phải trích ra một phân để
chuyển hoá tư bản nhằm tăng quy mô đâu tư so với năm trước.
Phần giá trị thặng dư đó được gọi là tư bản phụ thêm. Tích luỹ tư bản là
biến một phần giá trị thặng dư thành tư bản phụ thêm để mở rộng sản xuất.
Như vậy, thực chất của tư tích luỹ tư bản đó là tư bản hoá giá trị thặng
dư.

Nếu không có giá trị thặng dư thì nhà TB không có tích luỹ.
- Động cơ của tích luỹ TB
+ Mục đích theo đuổi giá trị thặng dư: quy luật kinh tế cơ bản của chủ
nghĩa tư bản đòi hỏi sản xuất ngày càng nhiều giá trị thặng dư cho nhà tư bản.
Muốn vậy, phải phát triển sx TBCN cả chiều rộng và chiều sâu, phải tích luỹ
tư bản.
+ Cạnh tranh và lợi nhuận: chiến thắng trong cạnh tranh và co nhiều lợi
nhuận, các nhà tư bản phải tích luỹ tư bản. Nếu không có tích luỹ thì sẽ không
có tư bản để đổi mới kỹ thuật để sản xuất phát triển.
+ yêu cầu ứng dụng tiến bộ khoa học -kỹ thuật- công nghệ.
-Các nhân tố quyết định quy mô tích lũy:
Được xem xét trong 2 trường hợp: Một là,khối lượng giá trị thặng dư
không đổi thì quy mô tích lũy TB phụ thuộc vào tỷ lệ phân chia khối lượng
giấ trị thặng dư thành 2 quỹ là quỹ tích lũy và quỹ tiêu dùng của nhà tư bản.
Hai là,tỷ lệ phân chia đó đã được xác định thì quy mô tích lũy tư bản phụ
thuộc vào khối lượng giá trị thặng dư ( khối lượng giá trị thặng dư phụ thuộc
vào: Trình độ bóc lột sức lao động và trình độ năng suất lao động xã hội).
- Sự chênh lệch ngày càng tăng giữa tư bản sử dụng và tư bản tiêu dùng.
Tư bản sử dụng là khối lượng giá trị các tư liệu lao động mà toàn bộ quy
mô hiện vật của chúng đều hoạt động trong quá trình sản xuất sản phẩm.
Tư bản tiêu dùng là phần giá trị những tư liệu lao động được chuyển hóa
vào sản phẩm theo từng chu kỳ sản xuất dưới dạng khấu hao.
Sự chênh lệch càng lớn thì mức phục vụ lao động không công của lao
động quá khứ cho tư bản càng lớn.
- Quy mô tư bản ứng trước càng lớn thì khối lượng giá trị thặng dư càng
lớn, dó đó tạo điều kiện thăng thêm quy mô của tích luỹ tư bản.
2.Tích tụ tư bản và tập trung tư bản.
- Tích tụ tư bản: sự tăng lên về quy mô cuả tư bản cá biệt bằng cách tư
bản hoá giá trị thặng dư trong một xí nghiệp nào đó và là kết quả tất yếu của
tích lũy.

- Tập trung tư bản: sự tăng thêm quy mô của tư bản cá biệt bằng cách
hợp nhất những tư bản cá biệt có sẵn trong xã hội thành một tư bản cá biệt
khác lớn hơn.
So sánh :
Giống nhau : Cùng làm tăng tư bản cá biệt
Khác nhau: Tích tụ làm tăng quy mô tư bản cá biệt, tư bản xã hội. Còn
tập trung tư bản tăng quy mô tư bản cá biệt, không tăng TB xã hội
3.Cấu tạo hữu cơ:
Để hiểu cấu tạo của tư bản trước hết phải phân biệt:
Cấu tạo kỹ thuật của tư bản: biểu hiện quan hệ tỷ lệ giữa số lượng tư liệu
sản xuất với số lượng lao động sử dụng trong quá trình sản xuất.
Cấu tạo giá trị của tư bản: biểu hiện quan hệ tỉ lệ giữa số lượng giá trị tư bản
bất biến và giá trị tư bản khả biến cần thiết để tiến hành sản xuất
-Cấu tạo hữu cơ của tư bản là cấu tạo giá trị của tư bản do cấu tạo kỹ
thuật quy định và phản ánh những thay đổi cả cấu tạo kỹ thuật đó, ký hiệu c/v.
Cấu tạo hữu cơ của tư bản ngày càng tăng lên là quy luật kinh tế của CNTB.
Trong CNTB, xu hướng phổ biến là cấu tạo hữu cơ của tư bản ngày càng tăng
lên . Sự tăng lên của cấu tạo hữu cơ của TB do tác động bởi các quy luật kinh
tế của CNTB. Để thu được nhiều giá trị thặng dư, các nhà TB phải nâng cao
trình độ bóc lột bằng cách mở rộng sản xuẩt, tăng năng suất lao động, từ đó
làm cho c/v tăng lên=> các nhà TB phải đẩy mạnh đổi mới kỹ thuật, đẩy
mạnh tích tụ tư bản=> thúc đẩy tập trung TB làm cho tốc độ quy mô của TB
biến nhanh hơn tốc đô gia tăng TB khả biến làm tăng cơ cấu hữu cơ TB.
Giá trị thặng dư được hình thành trong quá trình sx TBCN. Nhưng để có
được giá trị thặng dư thì phải thông qua lưu thông, để thực hiện giá trị thặng
dư đã có sẵn trong hàng hóa (H'). Đến đây giá trị thặng dư được chuyển hóa
thành lợi nhuận nhằm che đậy bản chất bóc lột của nhà TB.
VI. Lợi nhuận bình quân và giá cả sản xuất
1. Chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa, lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận.
a. Chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa

Trong bài sản xuất giá trị thặng dư ta biết: giá trị hàng hóa = c + v + m
- Nếu gọi giá trị hàng hóa là W thì W = c + v + m
Đó chính là chi phí lao động thực tế của xã hội để sản xuất ra hàng hóa.
Nhưng đối với nhà tư bản để sản xuất hàng hóa họ chỉ cần chi phí một lượng
tư bản để mua tư liệu sản xuất (c) và mua sức lao động (v). Chi phí đó gọi là
chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa( ký hiệu là k)
K = c + v
Vậy, chi phí sx TBCN là phần giá trị bù lại giá cả của những tư liệu sản
xuất và giá cả sức lao động đã tiêu dùng để sản xuất ra hàng hóa cho nhà TB.
Nếu dùng K để chỉ chi phí sản xuất tư bản thì W = c + v + m chuyển thành W
= K + m
b. Lợi nhuận: Như trên đã trình bày W>K một lượng m
=>lợi nhuận chính là giá trị thặng dư mà nhà tư bản thu được sau khi bán hàng
- Khái niệm: Lợi nhuận chính là giá trị thặng dư được quan niệm là kết
quả của toàn bộ tư bản ứng trước, là kết quả của toàn bộ tư bản đầu tư vào sx
kinh doanh
P = W - K
+ Lợi nhuận là hình thức biến tướng của giá trị thặng dư, nó phán ánh sai
lệch bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản. Như vậy, che đậy quá trình bóc lột
giá trị thặng dư của tư bản đối với công nhân.
số giá trị thặng dư.
c. Tỷ suất lợi nhuận.
-Khi giá trị thặng dư chuyển hóa thành lợi nhuận thì tỷ suất giá trị thặng
dư chuyển hóa thành tỷ suất lợi nhuận.
-Tỷ suất lợi nhuận là tỷ lệ phần trăm giữa tổng số giá trị thặng dư và toàn
bộ tư bản ứng trước, ký hiệu là P':
P’ = [m/(c +v)]. 100 % hay P’ = (P/t). 100 %
- Về lượng: Thì P' luôn luôn nhỏ hơn m' :
vì P’ = m/ ( c + v) còn m’ = m/ v
- Về chất: tỷ suất giá trị thặng dư biểu hiện đúng mức độ bóc lột của nhà

tư bản đối với lao động. Còn tỷ suất lợi nhuận chỉ nói lên mức doanh lợi của
việc đầu tư tư bản.
Tỷ suất lợi nhuận chỉ cho các nhà đầu tư tư bản thấy đầu tư vào đâu có lợi hơn.
Tỷ suất lợi nhuận cao hay thấp tùy thuộc vào nhiều nhân tố như: tỷ suất
giá trị thặng dư, cấu tạo hữu cơ của tư bản, tốc độ chu chuyển tư bản, sự tiết
kiệm tư bản bất biến.
2. Sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân và giá cả sản xuất.
a. Cạnh tranh trong nội bộ ngành và sự hình thành giá cả thị trường
- Cạnh tranh trong nội bộ là cạnh tranh giữa các xí nghiệp trong cùng
một ngành, sản xuất cùng một loại hàng hóa, nhằm mục đích giành ưu thế
trong sản xuất và trong tiêu thụ hàng hóa để thu được lợi nhuận siêu ngạch.
- Các biện pháp: Cải tiến ký thuật, hợp lý hóa sản xuất, nâng cao chất
lượng hàng hóa làm cho giá trị cá biệt của hàng hóa < giá trị xã hội -> P siêu
nghạch
- Kết quả cạnh tranh trong nội bộ ngành dẫn đến hình thành giá trị xã hội
của hàng hóa, làm cho điều kiện sản xuất trung bình của một ngành thay đổi,
giá trị xã hội của hàng hóa giảm xuống, chất lượng hàng hóa được nâng cao,
chủng loại hàng hóa phong phú
b. Cạnh tranh giữa các ngành và sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình
quân
- Cạnh tranh giữa các ngành là cạnh tranh giữa các xí nghiệp tư bản kinh
doanh trong các ngành sản xuất khác nhau, nhằm mục đích tìm nơi đầu tư có
lợi hơn.
- Tỷ suất lợi nhuận bình quân là " con số trung bình" của tất cả các tỷ
suất lợi nhuận khác nhau hay tỷ suất lợi nhuận bình quân là tỷ số theo phần
trăm giữa tổng giá trị thặng dư và tổng tư bản xã hội:
Tỷ suất lợi nhuận bình quân = ( P'1 + P'2 + P'3 + + P'n)/N
- Lợi nhuận bình quân:
Lợi nhuận bình quân là lợi nhuận bằng nhau của tư bản bằng nhau đầu tư
vào các ngành sản xuất khác nhau

c. Sự hình thành giá cả sản xuất.
Trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, khi hình thành tỷ suất lợi nhuận
bình quân( P' ) thì giá trị hàng hóa chuyển hóa thành giá cả sản xuất:
- Giá cả sản xuất là giá cả bằng chi phí sản xuất cộng với lợi nhuận bình quân
Giá cả sản xuất = k + tỷ suất lợi nhuận bình quân
II. Các hình thái tư bản và lợi nhuận của chúng
Trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa có rất nhiều hình thức kinh doanh
khác nhau. Sự đa dạng đó biểu hiện thành các hình thái tư bản: Tư bản công
nghiệp, tư bản thương nghiệp, tư bản cho vay, tư bản kinh doanh nông nghiệp
và địa tô tư bản chủ nghĩa:
1. Tư bản thương nghiệp và lợi nhuận thương nghiệp :
a. Nguồn gốc của tư bản thương nghiệp
- Tư bản thương nghiệp xuất hiện rất sớm trong lịch sử. Nó ra đời, tồn tại
trên cơ sở lưu thông hàng hóa và lưu thông tiền tệ.
- Đặc điểm của tư bản thương nghiệp:
+ TBTN vừa phụ thuộc vàn tư bản công nghiệp, vừa có tính độc lập
tương đối.
- Vai trò của TBTN: Khi TBTN xuất hiện, nó có vai trò và lợi ích to lớn
với XH
+ Nhờ có thương nhân chuyên trách việc mua bán hàng hóa nên:
. Lượng tư bản ứng vào lưu thông và chi phí lưu thông nhỏ hơn khi
những người sản xuất trực tiếp đảm nhiệm chức năng này .
. Người sản xuất có thể tập trung thời gian chăm lo việc sản xuất, giảm
dự trữ sản xuất, nâng cao hiệu quản kinh tế, tăng giá trị thặng dư .
. Rút ngắn thời gian lưu thông tăng nhanh chu chuyển tư bản , từ đó tăng
tỷ suất và khối lượng giá trị thặng dư hàng năm .
b. Lợi nhuận thương nghiệp:
TB thương nghiệp nếu chỉ giới hạn trong việc mua và bán hàng hóa,
không kể việc chuyên chở, bảo quản, đóng gói thì không tạo ra giá trị và giá
trị thặng dư .

- Nhưng vì là tư bản nó chỉ hoạt động với mục đích thu lợi nhuận .
. Lợi nhuận thương nghiệp là một phần giá trị thặng được tạo ra trong
quá trình sản xuất mà tư bản công nghiệp" nhường cho" tư bản công nghiệp
để tư bản thương nghiệp bán hàng hóa cho mình.
2. Tư bản cho vay và lợi tức cho vay
a. Sự hình thành tư bản
- Khái niệm: Tư bản cho vay là tư bản tiền tệ tạm thời nhàn rỗi, mà
người chủ của nó cho nhà tư bản khác sử dụng trong thời gian nhất định để
nhận được số tiền lời nào đó, gọi là lợi tức .
- Đặc điểm: Tư bản cho vay có đặc điểm :
+ Quyền sở hữu tách rời quyền sử dụng tư bản
+ Tư bản cho vay là một hàng hóa đặc biệt: vì khi cho vay người cho vay
không mất quyền sở hữu còn người đi vay chỉ được mua quyền sử dụng trong
một thời gian nhất định.
+ Tư bản cho vay là tư bản được sùng bái nhất, do vận động theo công
thức: T - T' nên nó gây cảm giác tiền có thể đẻ ra tiền .
- Tác dụng: Tư bản cho vay ra đời, góp phần vào việc tích tụ, tập trung
tư bản, mở rộng sản xuất đẩy nhanh tốc độ chu chuyển của tư bản góp phần
tăng thêm tổng giá trị thặng dư cho xã hội.
3. Công ty cổ phần, tư bản giả và thị trường chững khoán
a. Công ty cổ phần:
- Công ty cổ phần là loại xí nghiệp lớn mà vốn của nó hình thành từ việc
liên kết nhiều tư bản cá biệt và các nguồn tiết kiệm cá nhân, thông qua việc
phát hành cổ phiếu.
- Cổ phiếu là loại chứng khoán có giá, bảo đảm cho người sở hữu nó
được quyền nhận một phần thu nhập của công ty dưới hình thức lợi tức cổ
phiếu,
b. Tư bản giả:
- Tư bản giả là tư bản tồn tại dưới hình thức chứng khoán có giá, nó
mang lại thu nhậpcho người sử hữu chứng khoán đó.

c. Thị trường chứng khoán: Thị trường chứng khoán là thị trường mua
bán các loại chứng khoán có giá.
4. Tư bản kinh doanh nông nghiệp và địa tô tư bản chủ nghĩa.
a. Tư bản kinh doanh nông nghiệp:
- Trong nông nhiệp,QHXS TBCN đc hình thành chủ yếu theo hai con
đường:
+ Thông qua cải cách, dần dần chuyển kinh tế địa chủ phong kiến sang
kinh doanh theo phương thức tư bản chủ nghĩa.
+ Thông qua cách mạng dân chủ tư sản, xóa bỏ kinh tế địa chủ phong
kiến, phát triển kinh tế tư bản chủ nghĩa.
b. Bản chất của địa tô tư bản chủ nghĩa
Địa tô tư bản chủ nghĩa là bộ phận lợi nhuận siêu ngạch ngoài lợi nhuận
bình quân của tư bản đầu tư trong nông nghiệp do công nhân nông nghiệp tạo
ra mà nhà tư bản kinh doanh nông nghiệp phải nộp cho địa chủ với tư cách là
kẻ sở hữu ruộng đất.
c. Các hình thức địa tô tư bản chủ nghĩa:
- Địa tô chênh lệch:
- Địa tô tuyệt đối
Địa tô độc quyền
d. Giá cả ruộng đất:.
Giá cả ruộng đất là hình thức địa tô tư bản hóa.
Câu 2: Đặc trưng, chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước XHCN
Liên hệ với thực tiễn Nhà nước XHCN ở Việt Nam
Nhà nước XHCN là tổ chức mà thông qua đó, dảng của giai cấp công
nhân thực hiện vai trò lãnh đạo của mình đối vơi toàn xã hội, là một tổ chức
chính trị thuộc kiến trúc thượng tầng dựa trên cơ sở kinh tế của CNXH, đó là
một nhà nước kiểu mới, thay thế nhà nước tư sản nhờ kết quả của cuộc
CMXHCN, là hình thức chuyên chính vô sản được thực hiện trong thời kỳ
quá độ lên CNXH.
1. Đặc trưng của nhà nước XHCN

Khác với các hình thức nhà nước đã từng có trong lịch sử, nhà nước
XHCN là một kiểu nhà nước đặc biệt .Đó là kiểu nhà nước có những đặc
trưng cơ bản sau:
-Một là nhà nước XHCN là công cụ cơ bản để thực hiện quyền lực của
nhân dân lao động, đặt dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản.
-Hai là nhà nước XHCN có đặc trưng về nguyên tắc khác hẳn với nhà nước tư
sản.Cũng là một công cụ chuyên chính giai cấp, nhưng vì lợi ích của tất cả những
người lao động tức là tuyệt đại đa số nhân dân, nhà nước chuyên chính vô snả thực
hiện sự trấn áp những kẻ chống đối, phá hoại sự nghiệp cách mạng XHCN.
-Ba là: trong khi nhấn mạnh sự cần thiết của bạo lực và trấn áp, các nhà
kinh điển của chủ nghĩa Mac vẫn xem mặt tổ chức, xây dựng là đặc trưng cơ
bản của nhà nước XHCN, của chuyên chính vô sản.LêNin cho rằng chuyên
chính vô sản không phaỉ là chỉ bạo lực mà mặt cơ bản của nó là tổ chức , xâu
dựng toàn diện xã hội mới –xã hội xã hội chủ nghĩa và chủ nghĩa cộng sản.
-Bốn là : Nhà nước XHCN nằm trong nền dân chủ XHCN và theo LêNin
con đường vận động phát triển của nó là:Ngày càng hoàn thiện các hình thức
đại diện nhân dân, mở rộng dân chủ nhằm lôi cuốn đông đảo quần chúng nhân
dân tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội.
-Năm là nhà nước XHCN là kiểu nhà nước xã hội đặc biệt “nhà nước
không còn nguyên nghĩa” là “nửa nhà nước”. Sau khi những cơ sở kinh tế xã
hội cho sự tồn tại của nhà nước mất đi thì nhà nước cũng không còn, nhà
nước” tự tiêu vong” đây cũng là một đặc trưng nối bật của nhà nước vô sản.
2.Chức năng của nhà nước XHCN
Chức năng của nhà nước XHCN được thực hịên bằng cả tổ chức có hiệu quả
công việc xây dựng toàn diện xã hội mới, cả bằng việc sử dụng những công cụ
bạo lực để đập tan phản kháng của kẻ thù chống lại sự nghiệp xây dựng XHCN,
bảo vệ độc lập, chủ quyền của đất nước, giữ vững an ninh xã hội.
Bạo lực trấn áp là cái vốn có của nhà nước do đó bạo lực trấn áp cũng là
cái vốn có của nhà nước XHCN.Tuy nhiên các nhà kinh điển của chủ nghĩa
Mac LêNin đều cho rằng với bản chất của nhà nước vô sản thì việc tổ chức,

xây dựng mang tính sáng tạo nhằm cải biến xã hội cũ, xây dựng xã hội mới
XHCN và cộng sản là chức năng căn bản , chủ yếu của nhà nước XHCN.
3. Nhiệm vụ :
2.1. Không ngừng mở rộng dân chủ cho nhân dân
Chế độ xã hội chủ nghĩa là chế độ do nhân dân làm chủ và do vậy, nhà
nước của chế độ này có nhiệm vụ tạo điều kiện để cho nhân dân tham gia một
cách tích cực và rộng rãi vào tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội. Trong mọi
hoạt động, nhà nước xã hội chủ nghĩa luôn có mối liên hệ chặt chẽ với nhân
dân, lắng nghe ý kiến của nhân dân, đồng thời đấu tranh không khoan
nhượng, trừng trị kịp thời mọi hành vi xâm phạm quyền tự do dân chủ của
nhân dân. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, Đảng ta đã chỉ rõ: “Nhà nước có mối liên hệ thường xuyên và
chặt chẽ với nhân dân, tôn trọng và lắng nghe ý kiến của nhân dân, chịu sự
giám sát của nhân dân. Có cơ chế và biện pháp kiểm soát, ngăn ngừa và trừng
trị tệ quan liêu, tham nhũng, lộng quyền, vô trách nhiệm, xâm phạm quyền
dân chủ của nhân dân”(4).
Dân chủ là bản chất của Nhà nước ta, thực hiện dân chủ là thực chất, là
mục tiêu, động lực của việc đổi mới và kiện toàn hệ thống chính trị nói riêng,
của công cuộc đổi mới nói chung. Đây là nhiệm vụ vừa cơ bản, lâu dài, vừa
cấp bách của thực tế xây dựng Nhà nước ta hiện nay. Bởi lẽ, chỉ có như vậy
chúng ta mới có thể giữ vững và phát huy bản chất tốt đẹp của Nhà nước ta
nhằm ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái đạo đức, tham nhũng, lãng phí,
quan liêu, sách nhiễu nhân dân trong bộ máy nhà nước. Đây là vấn đề có ý
nghĩa sống còn đối với chế độ ta. Chính quyền có trong sạch, được dân tin
yêu, ủng hộ thì mới vững mạnh và có hiệu lực. Chỉ có dựa vào sức mạnh của
nhân dân thì mới xây dựng được chính quyền trong sạch, giữ vững kỷ luật, kỷ
cương, an ninh, quốc phòng để từ đó, tạo động lực cho sự phát triển kinh tế -
xã hội. Nhận thức rõ vấn đề này, Đảng ta đã khẳng định: “Mở rộng dân chủ
phải đi đôi với tăng cường kỷ luật, kỷ cương; quyền lợi đi đôi với nghĩa vụ và
trách nhiệm, nghĩa vụ; dân chủ được thể chế hoá thành pháp luật; khắc phục

tình trạng vô kỷ luật, dân chủ cực đoan, lợi dụng dân chủ để gây rối”(5).
Nhiệm vụ này cũng đã được chúng ta thể chế hoá cụ thể trong Hiến pháp:
“Công dân thực hiện quyền làm chủ của mình ở cơ sở bằng cách tham gia
công việc của nhà nước và xã hội, có trách nhiệm bảo vệ của công, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, giữ gìn an ninh quốc gia và trật tự,
an toàn xã hội, tổ chức đời sống công cộng”(6). Chính điều đó đã phát huy
quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm cho người dân vừa thực hiện quyền
làm chủ gián tiếp thông qua nhà nước, vừa làm chủ trực tiếp ở cơ sở.
Ở nước ta hiện nay, các cơ quan quyền lực nhà nước đều do dân bầu ra, chính
quyền nhà nước đã trở thành công cụ sắc bén và có hiệu quả nhất để nhân dân
thực hiện quyền làm chủ của mình. Nhân dân thực hiện quyền làm chủ của
mình chủ yếu bằng nhà nước, đó là dân chủ đại diện (dân chủ gián tiếp).
Quyền làm chủ của nhân dân còn được thực hiện một cách trực tiếp thông qua
việc tham gia vào công việc tổ chức nhà nước, tham gia bộ máy nhà nước,
quyết định các chủ trương, chính sách của Nhà nước ở các cấp Tuy nhiên,
mức độ thực hiện dân chủ trực tiếp còn phụ thuộc vào phẩm chất, trình độ,
năng lực của chính quyền nhà nước; vào trình độ dân trí, trước hết là trình độ
văn hoá chính trị, văn hoá pháp luật; vào đặc điểm lịch sử và truyền thống
chính trị của dân tộc Như vậy, thực hiện dân chủ phải là một quá trình lâu
dài, từ thấp đến cao. Không thể và không bao giờ có “dân chủ tuyệt đối” hay
“dân chủ nói chung”, đặc biệt là không thể có ngay và trên mọi mặt dân chủ
trực tiếp trong điều kiện quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ điểm xuất phát thấp,
nhất là về kinh tế. Chính vì vậy, ở nước ta hiện nay, nhiệm vụ quan trọng
hàng đầu là nâng cao chất lượng chế độ dân chủ đại diện, đồng thời thực hiện
chế độ dân chủ trực tiếp một cách thiết thực, đúng hướng, có hiệu quả. Phát
huy quyền làm chủ của nhân dân thông qua đại biểu của mình (dân chủ gián
tiếp), đồng thời phát huy cao độ quyền dân chủ trực tiếp của nhân dân thông
qua các tổ chức quần chúng, xã hội, nhất là dân chủ ở cơ sở. Cụ thể là:
- Tiếp tục cải tiến chế độ bầu cử các cơ quan dân cử; nâng cao chất
lượng hoạt động của các cơ quan dân cử (Quốc hội, Hội đồng nhân dân) để

các cơ quan này thực sự là cơ quan đại diện của nhân dân, là cơ quan quyền
lực nhà nước trong việc xem xét và quyết định những vấn đề quan trọng của
đất nước và của từng địa phương. Từ khi tiến hành công cuộc đổi mới và thực
hiện dân chủ hoá, các cơ quan Quốc hội, Hội đồng nhân dân đã có những
chuyển biến tích cực, gần gũi hơn với cử tri, tại các kỳ họp của các cơ quan
này, nhiều vấn đề đã được đưa ra thảo luận một cách thẳng thắn, công khai,
nhiều ý kiến của cử tri được tiếp thu và thảo luận nghiêm túc, công tác kiểm
tra, giám sát đối với các quyết định của các cơ quan đó cũng được đẩy mạnh
Tất cả những điều này đã nhận được sự đồng tình ủng hộ của nhân dân.
- Đẩy mạnh cải cách thể chế và thủ tục hành chính trong các lĩnh vực
liên quan trực tiếp đến đời sống nhân dân.
- Xác định rõ trách nhiệm của thủ trưởng cơ quan nhà nước trong việc
giải quyết khiếu nại, tố cáo của nhân dân.
- Nghiên cứu thực hiện từng bước chế độ dân chủ trực tiếp, trước hết ở
cấp cơ sở.
2.2. Tổ chức và quản lý kinh tế
Nước ta xây dựng chủ nghĩa xã hội bắt đầu từ một nền kinh tế chậm phát
triển, còn phổ biến là sản xuất nhỏ, nên nhiệm vụ tổ chức, quản lý kinh tế của
nhà nước là hết sức khó khăn, phức tạp, chính vì thế mà nhiệm vụ phát triển
kinh tế có tầm quan trọng đặc biệt và là một nhiệm vụ khá mới mẻ. Trong
điều kiện nền kinh tế nhiều thành phần, trình độ của lực lượng sản xuất còn
thấp, song song với đó lại phải vừa thực hiện nhiệm vụ giữ vững an ninh,
quốc phòng, trật tự, an toàn xã hội, vừa phải bảo đảm ổn định và cải thiện
không ngừng đời sống nhân dân về mọi mặt, nhiệm vụ tổ chức, xây dựng của
Nhà nước ta càng trở nên nặng nề. Trong các Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VII, thứ VIII, thứ IX và mới đây, lần thứ X, Đảng ta đã ngày
càng cụ thể hoá những tư tưởng, quan điểm lớn về phát triển kinh tế đất nước:
phát triển lực lượng sản xuất, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá; thiết
lập từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa với sự đa dạng về hình thức
sở hữu; phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với

“những hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước
giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở
thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân”(7); thực hiện nhiều hình
thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ
yếu; phát huy mạnh mẽ vai trò của khoa học và công nghệ; mở rộng và nâng
cao hiệu quả hợp tác đầu tư, kinh tế đối ngoại; v.v
Xuất phát từ tình hình hiện nay và yêu cầu phát triển đất nước trong thời
kỳ mới, đường lối kinh tế thể hiện rõ nhiệm vụ tổ chức và quản lý kinh tế của
Nhà nước xã hội chủ nghĩa đã được Đảng ta xác định là: đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức; xây dựng nền kinh
tế độc lập tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp theo hướng
hiện đại; ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ
sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa; phát huy cao độ nội lực,
đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài; chủ động và tích cực hội nhập kinh
tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững;…
2.3. Tổ chức và quản lý văn hoá, khoa học, giáo dục
Xã hội xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng là “xã hội dân giàu,
nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh
tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù
hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nền văn hoá tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có
cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện”(8). Để có thể xây
dựng thành công một xã hội như vậy, Nhà nước xã hội chủ nghĩa đương nhiên
phải tổ chức, quản lý sự nghiệp giáo dục, văn hoá, phát triển khoa học và
công nghệ - đó được coi là “quốc sách hàng đầu” để phát huy nhân tố con
người. Thực hiện nhiệm vụ này, cần phải xây dựng và phát triển nền văn hoá
mới, con người mới, nền khoa học và công nghệ hiện đại - đó cũng chính là
những động lực quan trọng hàng đầu của sự nghiệp xây dựng xã hội mới.
Trong giai đoạn hiện nay, nhiệm vụ này được biểu hiện cụ thể ở một số nội
dung sau:

Thứ nhất, xây dựng và phát triển sự nghiệp văn hoá Việt Nam, bảo tồn
và phát huy truyền thống văn hoá tốt đẹp của các dân tộc, tiếp thu tinh hoa
văn hoá nhân loại; thực hiện lối sống cần kiệm, văn minh, bài trừ mê tín dị
đoan và các tệ nạn xã hội khác, chống lại mọi biểu hiện của các loại văn hoá
ngoại lai không lành mạnh.
Thứ hai, phát triển khoa học và công nghệ với bước đi và hình thức thích
hợp, bảo đảm cơ sở khoa học cho các quyết định quan trọng của các cơ quan
lãnh đạo, quản lý, coi đó là công cụ chủ yếu để nâng cao năng suất, chất
lượng và hiệu quả của mọi hoạt động kinh tế - xã hội .
Thứ ba, đổi mới sự nghiệp giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân trí,
đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, hình thành đội ngũ cán bộ, trí thức và
những người lao động có tri thức, có tay nghề, có đạo đức cách mạng và tinh
thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội. Đồng thời với đó là việc giáo dục thế
giới quan Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cho toàn thể nhân dân; đấu
tranh không khoan nhượng với những tư tưởng, quan điểm xét lại, cơ hội,
những luận điệu xuyên tạc, chống phá sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội
của nhân dân ta.
Trong công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa,
Đảng ta đã xác định phát triển khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo,
xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là một trong những
lĩnh vực chủ yếu. Theo đó, việc tổ chức, quản lý văn hoá, khoa học và giáo
dục của Nhà nước ta vừa là để thực hiện những nhiệm vụ kinh tế - xã hội
trước mắt, vừa là để chuẩn bị cho đất nước bước vào giai đoạn phát triển tiếp
theo, hoà nhập (trên cơ sở giữ vững bản sắc riêng và tinh hoa văn hoá của dân
tộc) với tiến trình phát triển chung của nền văn hoá, khoa học và giáo dục thế
giới. Quan điểm cơ bản của Đảng ta coi văn hoá là nền tảng tinh thần của xã
hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội;
giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu đã
thể hiện rõ ràng nhiệm vụ này của Nhà nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt
Nam. Thực hiện nhiệm vụ này, Nhà nước ta đã tiến hành xây dựng hệ thống

các cơ quan tổ chức, quản lý văn hoá, văn học, nghệ thuật, khoa học, giáo
dục, các phương tiện thông tin đại chúng nhằm đào tạo một đội ngũ cán bộ có
phẩm chất chính trị, thành thạo chuyên môn, nghiệp vụ, đồng thời xây dựng
hệ thống cơ sở vật chất - kỹ thuật tương xứng với yêu cầu và đáp ứng tốt yêu
cầu thực tế của các lĩnh vực cụ thể.
Như vậy, xét một cách tổng thể, nhiệm vụ sáng tạo và xây dựng xã hội
mới là nhiệm vụ quan trọng nhất trong chức năng xã hội của Nhà nước xã hội chủ
nghĩa. Trên cơ sở lý luận và phương pháp luận duy vật biện chứng, xét đến cùng,
có thể nói, nhiệm vụ cơ bản và quyết định của Nhà nước xã hội chủ nghĩa là
nhiệm vụ tổ chức và quản lý kinh tế, bởi một xã hội chỉ có thể ổn định, vận động
và phát triển được khi có một cơ sở kinh tế - xã hội phù hợp. Yếu tố kinh tế, nhất
là lực lượng sản xuất, xét đến cùng, là yếu tố quyết định sự tồn tại, vận động và
phát triển của xã hội. Tuy nhiên, xem xét vấn đề này ở góc độ kiến trúc thượng
tầng của xã hội - xây dựng nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, thì
nhiệm vụ bảo vệ các quyền tự do và không ngừng mở rộng dân chủ cho nhân dân
là nhiệm vụ quan trọng nhất, bởi việc thực hiện nhiệm vụ này là sự thể hiện trực
tiếp nhất bản chất của Nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Liên hệ thực tế với nhà nước XHCN Việt Nam:
- XhXHCN mà nhân dân ta xây dung là một là 1 xã hội dân giàu nước
mạnh coog bằng dân chủ văn minh.
- Do dân làm chủ
- Có nền kinh tế phát triển cao,dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại,quan
hệ sản xuất phù hợp vs trình đọ phát triển của lực lg sx.
- Có nền văn hóa tiên tiến,đậm đà bản sắc dân tộc.
- Con ng đc giải phóng khỏi ám bức bất công,có cuộc songs ấm no tự
do,phát triển hạnh phúc toàn diện.
- Các đan tộc trong cộng đồng việt nam bình đẳng đoàn kết,tương trợ
giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ.
- Có nhà nc pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân do dân vì dân
dưới sự lãnh đạo của đảng.

- Có quan hệ hợp tác với các nc trên thế giới

×