Tải bản đầy đủ (.doc) (43 trang)

Hoạt động đấu thầu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (291.97 KB, 43 trang )

Một số giải pháp nhằm hoàn thiện Nguyễn Thị Xuân Thuỷ
Lời mở đầu
Thuật ngữ đấu thầu đã trở nên quen thuộc trong những năm gần đây ở
Việt Nam mặc dù nó đã đợc xuất hiện từ lâu trên thế giới. Trớc đây khi nền kinh
tế Việt Nam còn ở trong chế độ bao cấp, ngời bán chỉ sản xuất và bán những gì
mình có và không quan tâm đến nhu cầu của ngời mua, do đó ngời mua không
có quyền lựa chọn cho mình những hàng hoá phù hợp. Chỉ đến khi nền kinh tế
Việt Nam chuyển dần sang hớng thị trờng thì tính cạnh tranh xuất hiện, khái
niệm về đấu thầu cũng dần dần đợc hình thành và đợc chấp nhận nh một điều
tất yếu. Trong nội dung bài viết này, em chỉ xin đề cập đến một số thực trạng và
giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động đấu thầu ở Việt Nam trong giai đoạn hiện
nay.
Em xin chân thành cảm ơn cô giáo Th.s Đinh Đào ánh Thuỷ đã tạo
mọi điều kiện thuận lợi để giúp em hoàn thành đề án môn học này.
1
Một số giải pháp nhằm hoàn thiện Nguyễn Thị Xuân Thuỷ
Chơng I. Tổng quan chung về đấu thầu.
1. Sự ra đời và phát triển của hoạt động đấu thầu.
Đấu thầu là một trong những phơng thức mua sắm hàng hoá, dịch vụ
trong đời sống xã hội loài ngời. Nó ra đời và phát triển cùng với phơng thức sản
xuất phát triển dựa trên chế độ t hữu về t liệu sản xuất. Cùng với sự phát triển
của khoa học - kỹ thuật, sự cạnh tranh gay gắt và các cuộc khủng hoảng đã dẫn
đến sự ra đời của CNTB độc quyền và CNTB nhà nớc vào cuối thế kỷ 19, đầu
thế kỷ 20. Độc quyền ra đời từ tự do cạnh tranh, sau đó đối lập với tự do cạnh
tranh, nhng không thủ tiêu tự do cạnh tranh mà làm cho cạnh tranh ngày càng
gay gắt hơn. Nhà nớc t bản vừa là ngời đại diện, ngời bảo vệ cho giai cấp t sản
và vừa là ngời điều tiết quá trình sản xuất, vừa là ngời cung cấp vốn để nghiên
cứu, ứng dụng các thành tựu Khoa học kỹ thuật. Nhà nớc điều tiết các chơng
trình, các mục tiêu phát triển kinh tế thông qua hệ thống luật pháp, các chính
sách kinh tế Ngoài ra, nhà n ớc còn bỏ vốn xây dựng cơ sở hạ tầng, các công
trình công cộng, phát triển các ngành kinh tế cần thiết cho xã hội, nhng lại có


hiệu quả kinh tế thấp, lâu hoàn vốn , những mua sắm chi tiêu của Chính phủ
đã trở thành mục tiêu cạnh tranh gay gắt giữa các tổ chứ kinh tế tài chính. Do
vậy, để điều chỉnh hoạt động nói trên ở hầu hết các nớc t bản đều có những luật
mua sắm công dới nhiều hình thức khác nhau. Hoạt động đấu thầu đã xuất hiện
rất sớm nhng luật lệ liên quan đến đấu thầu ra đời muộn hơn và ddã xuất hiện
đầu tiên ở Anh. Khi Hiệp hội kỹ s t vấn quốc tế (FIDIC) thành lập thì quy trình
đấu thầu ngày càng đợc hoàn thiện dần. Ngày nay chúng ta có thể tìm thấy các
quy định về đấu thầu ở các tổ chức quốc tế và ở các quốc gia khắp trên thế giới.
Riêng ở Việt Nam thì sự hình thành của quy chế đấu thầu nh sau:
- 12/2/1990 có quy chế đấu thầu trong xây dựng do Bộ xây dựng ban
hành.
- 13/11/1992 có quy định về quản lý nhập khẩu máy móc thiết bị bằng
nguồn vốn ngân sách nhà nớc.
- 3/1994 Bộ xây dựng ban hành quy chế đấu thầu xây lắp.
- 16/4/1994 Quy chế đấu thầu đầu tiên của Việt Nam đã đợc ban hành (t
vấn, công trình xây lắp, máy móc thiết bị, đấu thầu dự án).
- 7/1996 quy chế này đợc sửa đổi, bổ sung (đấu thầu mua sắm máy móc
thiết bị thành đấu thầu mua sắm hàng hoá, đấu thầu dự án thành đấu thầu lựa
chọn đối tác thực hiện dự án).
- 1/9/1999 quy chế đợc sửa đổi lần 2 và trở thành quy chế đấu thầu
hiện nay.
2. Khái niệm và đặc điểm của hoạt động đấu thầu.
a. Khái niệm.
- Năm 1995, trong từ điển Bách khoa Việt Nam đĩnh nghĩa:
Đấu thầu là phơng thức giao dịch đặc biệt, ngời muốn xây dựng công
trình (ngời gọi thầu) công bố trớc các yêu cầu và điều kiện để xây dựng công
2
Một số giải pháp nhằm hoàn thiện Nguyễn Thị Xuân Thuỷ
trình (ngời dự thầu) công bố giá mà mình muốn nhận. Ngời gọi thầu sẽ lựa chọn
ngời dự thầu nào phù hợp với điều kiện của mình với giá thấp hơn.

- Năm 1998, trong từ điển tiếng Việt định nghĩa:
Đấu thầu là đọ công khai ai nhận làm, nhận bán với điều kiện tốt nhất thì
đợc giao cho làm hoặc bán.
- Quy chế đấu thầu ban hành 1/1/1999 kèm theo NĐ 88 định nghĩa nh
sau:
Đấu thầu là quá trình lựa chọn nhà thầu đáp ứng các yêu cầu của BMT. ở
đây bên mua còn gọi là BMT, bên bán còn gọi là các nhà thầu. Bên mua sẽ cung
cấp cho bên bán những yêu cầu (trong HSMT). Sau một thời gian cụ thể, bên
bán phải trả lời ngời mua, bên bán phải nộp cho ngời mua bản chào hàng. Tất cả
những điều đó đợc thể hiện trong HSDT hay là đề xuất dự thầu.
Nguồn vốn là cơ sở để thực hiện đấu thầu. Đó có thể là nguồn vốn của
nhà nớc hoặc do nhà nớc quản lý. Đối với doanh nghiệp t nhân, tuỳ chủ đầu t
quyết định, còn đối với doanh nghiệp nhà nớc một phần nào đó phải thực hiện
theo quy định. Hoạt động đấu thầu này mang tính bắt buộc tuỳ theo tính chất
của nguồn vốn và phụ thuộc vào môi trờng luật pháp.
b. Đặc điểm của hoạt động đấu thầu.
Mỗi phơng thức giao dịch trên thị trờng đều có các đặc điểm riêng khác
nhau. Những đặc điểm riêng đó sẽ tạo nên những nét đặc trng của chúng, quyết
định đến quy trình tổ chức ký kết, thực hiện các hợp đồng có liên quan. Vì vậy,
việc nghiên cứu phát triển các đặc điểm riêng này một cách thầu đáo là một
công việc không thể thiếu đợc của những ngời tham gia đấu thầu. Hoạt động
đấu thầu có một số đặc điểm sau đây:
* Trên thị trờng chỉ một ngời mua và nhiều ngời bán:
Ngời mua trên thị trờng phần lớn thờng là những tổ chức, cơ quan, các
chủ đầu t đợc Chính phủ cấp tài chính mua sắm hàng hoá, dịch vụ, xây dựng
công trình thờng. Nhng cũng có những trờng hợp ngời mua thiếu vốn phải đi
vay mà điều kiện đòi hỏi phải mở thầu. do có khó khăn về mặt nghiệp vụ, kinh
nghiệm kinh doanh cho nên họ phải lợi dụng sự cạnh tranh giữa các nhà thầu để
từ đó lựa chon đợc ngời bán thích hợp nhất và có các điều kiện giao dịch tối u
nhất. Ngợc lại, các nhà thầu cung cấp hàng hoá, dịch vụ đợc tự do cạnh tranh

với nhau đẻ giành quyền cung cấp và kết quả của sự cạnh tranh đó đã làm cho
giá cả tiến gần lại với giá thực trên thị trờng, điều mà bất cứ ngời mua nào cũng
mong đợi.
* Đấu thầu tiến hành theo những điều kiện quy định trớc:
Mặc dù đợc tự do cạnh tranh giành quyền cung cấp nhng các nhà thầu
phải thực hiện theo những điều kiện mà BMT đã quy định trớc. Hay nói một
cách khác, ngời mua chỉ có một nhng họ đã nêu ra những điều kiện ràng buộc
rất chặt chẽ, buộc các nhà thầu phải tuân theo. Trong đấu thầu, các điều kiện tài
chính, các điều kiện kỹ thuật th ờng đợc thể hiện trong HSMT. Các nhà thầu
một khi thoả mãn tốt nhất các điều kiện mà BMT đa ra mới mong có hy vọng
trúng thầu, cá biệt có những trờng hợp các nhà thầu đã thoả mãn đầy đủ các
điều kiện kỹ thuật, tài chính và uy tín, nhng vì không tìm đợc đối tác liên
doanh, liên kết nên đã không giành đợc hợp đồng. Và cũng có những nhà thầu
3
Một số giải pháp nhằm hoàn thiện Nguyễn Thị Xuân Thuỷ
không tìm đợc nhà thầu theo quy định nên cũng không trúng thầu. Chính vì
những lý do nói trên trong đấu thầu thì thị trờng thuộc về phía mời thầu, họ
vừa là ng ời bị động, vừa là ngời chủ động là nh vậy.
* Tính đặc biệt của đấu thầu còn thể hiện trong việc xác định thời gian và
địa điểm mở thầu và những vấn đề khác có liên quan.
Thời gian mở thầu phải đợc quy định trớc,thông thờng nó đợc thực hiện
sau khi thông báo mời thầu một số ngày nhất định. Khoảng thời gian này tuy ớc
tính nhng ngời ta phải tính toán sao cho hợp lý. Ngày giờ, địa điểm sẽ đợc xác
định cụ thể trong HSMT. Khi mở thầu các nhà thầu thờng phải có mặt nghe
công bố tính hợp lệ của đơn chào và ký vào một biên bản đã đợc chuẩn bị trớc.
BMT sẽ công bố công khai một số chỉ tiêu cơ bản của HSDT.
* Trong đấu thầu ngoài BMT, nhà thầu, còn có sự hiện diện của ngời thứ
ba , đó là ngời t vấn.
FIDIC, WB, ADB đều cho rằng kỹ s t vấn là ngời đảm bảo hạn chế tới
mức tối đa các tiêu cực phát sinh. Những thông đồng thoả hiệp làm cho chủ dự

án bị thiệt hại, vì vậy ngời kỹ s t vấn phải có trình độ, năng lực chuyên môn để
giúp chủ dự án (BMT) giải quyết các vấn đề kỹ thuật với các nhà thầu. Dịch vụ
t vấn có thể chia thành:
- Làm báo cáo trớc khi đầu t.
- Các dịch vụ chuẩn bị để xã định và thực hiện dự án.
- Các dịch vụ giám sát, quản lý dự án.
- Giúp đỡ kỹ thuật (dịch vụ cố vấn, phát triển và lập kế hoạch, xây dựng,
tổ chức, đào tạo ).
Tuỳ theo công trình dự án, BMTthuê một hoặc một số loại hình dịch vụ
thích hợp. Muốn thuê đúng loại hình dịch vụ, BMT thờng tìm đến các công ty t
vấn bằng giao dịch trực tiếp hay thông qua đấu thầu. Các thông tin quan trọng
về công ty t vấn chúng ta có thể tìm thấy tài liệu của ngân hàng về công ty t vấn
hoặc là các nguồn khác có liên quan.
3. Các nguyên tắc đấu thầu và các loại hình đấu thầu.
a. Các nguyên tắc đấu thầu.
- Nguyên tắc hiệu quả về tài chính và hiệu quả về thời gian.
- Nguyên tắc cạnh tranh: nguyên tắc cạnh tranh tạo điều kiện cho các nhà
thầu cạnh tranh với nhau ở phạm vi rộng nhất có thể.
- Nguyên tắc công bằng: nguyên tắc này đảm bảo đối xử nh nhau đối với
các nhà thầu tham gia dự thầu.
- Nguyên tắc minh bạch: đây là nguyên tắc quan trọng nhất nhng khó
thực hiện và khó kiểm tra nhất. Nguyên tắc này nói rằng: trong quá trình thực
hiện đấu thầu thì các hoạt động diễn ra không đợc gây nghi ngờ cho các nhà
thầu, BMT và cơ quan quản lý.
b. Các loại hình đấu thầu.
* Đấu thầu tuyển chọn t vấn:
T vấn là hoạt động đáp ứng các yêu cầu về kiến thức, kinh nghiệm
chuyên môn do BMT trong việc xem xét, quyết định, kiểm tra quá trình chuẩn
4
Một số giải pháp nhằm hoàn thiện Nguyễn Thị Xuân Thuỷ

bị và thực hiện dự án (sản phẩm của họ là chất xám). Đấu thầu tuyển chọn t vấn
gồm 3 giai đoạn:
- Chuẩn bị đầu t: trong giai đoạn này nhà t vấn có thể thực hiện các công
việc sau: lập báo cáo nghiên cứu tiền khả thi hoặc khả thi; đánh giá báo cáo
nghiên cứu khả thi; lập dự toán (tổng dự toán), đánh giá dự toán (hoặc tổng dự
toán).
- Thực hiện đầu t: nhà t vấn phải lập HSMT cho các phần công việc của
dự án; giám sát thi công công công trình, giám sát cung cấp hàng hoá; có thể
thực hiện những công việc nh kiểm tra chất lợng công trình, kiểm tra chất lợng
hàng hoá; luôn luôn phải đi kèm việc xây lắp công trình với việc đánh giá tác
động tới môi trờng; quản lý, điều hành các hoạt động của dự án; t vấn về tài
chính, thu xếp các khoản vay.
- Vận hành kết quả đầu t: các công việc mà t vấn phải làm là: đào tạo
nhân sự; kiểm tra chất lợng sản phẩm, đánh giá sự tiêu thụ sản phẩm trên thị tr-
ờng (nghiên cứu thị trờng); xử lý ảnh hởng tới môi trờng; báo cáo kết quả của
việc thực hiện dự án đầu t, chuẩn bị những giấy tờ, thông tin cần thiết cho việc
thanh lý dự án.
* Đấu thầu xây lắp: là công việc có liên quan đến xây dựng công trình,
hạng mục công trình; lắp đặt hệ thống điện, nớc của các công trình hoặc hạng
mục công trình. Nhà thầu xây lắp là những ngời quyết định chính đối với dự án.
* Đấu thầu mua sắm hàng hoá và các dịch vụ khác:
- Hàng hoá bao gồm máy móc thiết bị, dây chuyền công nghệ, nguyên
vật liệu là những thứ có thể cân, đong, đo, đếm. Bên cạnh đó còn có những
thứ không thể cân, đong, đo, đếm đợc nh nhãn mác hàng hoá, quyền sở hữu
công nghiệp, quyền sở hữu công nghệ
- Dịch vụ nh: bảo hiểm, sửa chữa và bảo dỡng máy bay
4. Các phơng thức đấu thầu.
a. Đấu thầu một túi hồ sơ:
Là phơng thức mà nhà thầu nộp HSDT trong một túi hồ sơ. Bao giờ ngời
ta cũng đánh giá đề xuất kỹ thuật trớc, đề xuất tài chính sau.Phơng thức này đợc

áp dụng đối với đấu thầu mua sắm hàng hoá và xây lắp. Đấu thầu tuyển chọn t
vấn hầu nh không áp dụng phơng thức này. Tuy nhiên, trên thế giới vẫn có một
số trờng hợp áp dụng. Phơng thức này còn đợc áp dụng đối với nhữngcông trình
xây lắp hoặc mua sắm máy móc thiết bị không yêu cầu kỹ thuật phức tạp. Trong
phơng thức này giá cả của các nhà thầu đều đợc BMT nắm bắt và các nhà thầu
cũng nắm bắt đợc thông tin này.
b. Đấu thầu hai túi hồ sơ :
Là phơng thức mà nhà thầu nộp đề xuất về kỹ thuật và đề xuất về giá
trong từng túi hồ sơ riêng và có thể nộp cùng một lúc trớcc khi đóng thầu.Túi
hồ sơ đề xuất kỹ thuật sẽ đợc xem xét trớc để đánh giá. Các nhà thầu đạt số
điểm kỹ thuật từ 70% trở lên sẽ đợc mở tiếp túi hồ sơ đề xuất về giá để đánh
giá. Hoặc các nhà thầu có thể nộp đề xuất kỹ thuật trớc. Sau đó nếu ai đạt yêu
cầu thì mới phải nộp đề xuât về kỹ thuật. Đề xuất kỹ thuật và đề xuất tài chính
nộp cùng lúc hay không nộp cùng lúc là do BMT quy định trong HSMT. Khác
5
Một số giải pháp nhằm hoàn thiện Nguyễn Thị Xuân Thuỷ
với phơng thức đấu thầu một túi hồ sơ, phơng thức này chỉ đợc áp dụng đối với
đấu thầu tuyển chọn t vấn và đề xuất về tài chính của những nhà thầu không đạt
yêu cầu về kỹ thuật đợc giữ bí mật. Ưu điểm của phơng thức này là BMT không
bị phân tán về giá cả trong quá trình đánh giá về đề xuất kỹ thuật.
c. Đấu thầu hai giai đoạn:
Đặc điểm của phơng thức này là ở giai đoạn đầu tiên, BMT yêu cầu các
nhà thầu nộp cho một đề xuất về kỹ thuật (có thể sơ bộ cha cần cụ thể lắm) và
cha cần đề xuất về tài chính. Sau đó, BMT cùng làm việc với các nhà thầu xem
các đề xuất kỹ thuật còn những gì cha đạt yêu cầu, những thông tin cần bổ sung
(BMT làm việc với từng nhà thầu). ở giai đoạn hai, đối với những nhà thầu mà
đề xuất kỹ thuật còn thiếu sót nhng có thể sửa chữa đợc thì BMT yêu cầu nhà
thầu về tiếp tục bổ sung và hoàn chỉnh. Sau đó nộp cùng với đề xuất về tài chính
trong cùng một túi hồ sơ (đề xuất tài chính không có giá).
Phơng thức đấu thầu này áp dụng cho những trờng hợp sau:

- Các gói thầu mua sắm hàng hoá và xây lắp có giá từ 500 tỷ đồng trở
lên;
- Các gói thầu mua sắm hàng hoá có tính chất lựa chọn công nghệ thiết bị
toàn bộ, phức tạp về công nghệ và kỹ thuật hoặc gói thầu xây lắp đặc biệt phức
tạp;
- Dự án thực hiện theo hợp đồng chìa khóa trao tay (nhà thầu phải làm từ
khâu thiết kế, xây dựng, lắp đặt máy móc thiết bị, sau khi làm xong mới bàn
giao cho BMT), một số dự án ở dạng BOT, BTO, BT
Quá trình thực hiện phơng thức này nh sau:
* Giai đoạn thứ nhất: các nhà thầu nộp HSDT sơ bộ gồm đề xuất về kỹ
thuật và phơng án tài chính (cha có giá) để BMT xem xét và thảo luận cụ thể
với từng nhà thầu, nhằm thống nhất về yêu cầu và tiêu chuẩn kỹ thuật để nhà
thầu chuẩn bị và nộp hồ sơ dự thầu chính thức của mình;
* Giai đoạn thứ hai : BMT mời các nhà thầu tham gia trong giai đoạn
thứ nhất nộp HSDT chính thức với đề xuất kỹ thuật đã đợc bổ sung hoàn chỉnh
trên cùng một mặt bằng kỹ thuật và đề xuất chi tiết về tài chính với đầy đủ nội
dung về tiến độ thực hiện, điều kiện hợp đồng, giá dự thầu.
5. Tác dụng của đấu thầu.
Đấu thầu trong thời gian qua đã chứng minh đợc sức sống tiềm tàng vốn
có. Trong tơng lai đấu thầu sẽ còn đợc sử dụng rộng rãi hơn. thị trờng đấu thầu
là nơi diễn ra sự mua bán hàng hoá, dịch vụ, là sự tổng hợp các mối quan hệ,
các thành viên tham gia vào thị trờng này đều tìm mọi cách để tối đa hoá lợi ích
kinh tế của mình. Nhà cung cấp thờng tìm cách bán hàng với giá cao, nhằm thu
về khoản lợi nhuận tối đa có thể đợc. Ngợc lại, ngời mua (chủ đầu t) với số tiền
có hạn lại mong muốn thu đợc sự thoả mãn lớn nhât về sản phâmr với giá cả
hợp lý. Đấu thầu xét về mặt kinh tế, xã hội đều có lợi cho các bên liên quan.
a. Đối với BMT:
BMT thờng là các cơ quan hành chính, các công ty không am hiểu thị tr-
ờng, không có kinh nghiệm mua bán, vì vậy họ sử dụng đấu thầu nh một phơng
thức mua bán có hiệu quả nhất. Thị trờng đấu thầu là thị trờng thuộc về phía ng-

6
Một số giải pháp nhằm hoàn thiện Nguyễn Thị Xuân Thuỷ
ời mua hàng. Trên thị trờng này chỉ có một ngời mua nhng có nhiều ngời bán.
Trong trờng hợp đó, ngời mua do nắm chắc đợc nhu cầu, điều đó cũng có nghĩa
là họ nắm chắc đợc mối quan hệ giữa số lợng, chất lợng, và giá cả nên đã tìm
mọi cách để hớng tới sự tối đa hoá lợi ích kinh tế.
Mỗi hoạt động mua sắm ở đây, dù của một cơ quan hành chính hay của
một công ty kinh doanh cũng đều phải tuân theo một tiến trình nhất định mang
tính logic. Các hoạt động mua sắm thờng đợc tiến hành thông qua điều tra phân
tích nhu cầu, xác định các chỉ tiêu kỹ thuật, thơng mại, các điều kiện tài chính,
tìm hiểu nguồn cung cấp, tiến hành giao dịch, đàm phán ký hợp đồng và tổ chức
thực hiện sao cho có hiệu quả. Trong hoạt động đấu thầu các chỉ tiêu sau đây
thờng đợc ngời gọi thầu xem xét đến:
- Giá cả.
- Chất lợng
- Độ tin cậy theo thời gian.
- Thời hạn sử dụng.
- Thị trờng và uy tín của ngời cung cấp.
- Chi phí bảo hành.
- Hiệu quả dịch vụ sau bán hàng.
- Độ bền và giá trị sử dụng còn lại.
Vì vậy, giá chào thấp nhất cha chắc đã trúng thầu. việc mua bán đúng
chất lợng thờng tốn kém tiền bạc nhng nó đem lại sự tiết kiệm cho ngời mua
(chi phí sửa chữa, thay thế ). Tối u hoá các hoạt động mua sắm qua đấu thầu
là kêt quả một chuỗi những quyết định đợc nêu ra trên cơ sở các chỉ tiêu có thể
mâu thuận nhau. Ngời ta ví hoạt động đấu thầu nh một trò chơi, ở đó có luật lệ
riêng.
b. Đối với nhà thầu:
Trong đấu thầu do giành đợc những hợp đồng lớn có khi lên tới cả tỷ
USD nên các nhà thầu cũng có lợi về nhiều mặt. Đối với xã hội uy tín của họ đ-

ợc nâng cao, giá cổ phiếu trên thị trờng chứng khoán tăng, những nhà lãnh đạo
công ty, hãng trúng thầu có điều kiện tiến xa hơn trên con đờng danh vọng. Do
tập trung cung cấp lớn trong một thời gian dài nên các nhà thầu đã giải quyết đ-
ợc công ăn việc làm cho nhân công của mình, giúp họ có điều kiện cải thiện đời
sống, nâng cao trình độ kỹ thuật. Nh chúng ta đã biết, mỗi công ty, mỗi hãng
sau khi hoàn thành xong hợp đồng thì lực lợng công nhân d thừa không biết giải
quyết ra sao, ví dụ nh công nhân nhà máy thuỷ điện Hoà Bình trớc đây. Nếu
những công ty đó mạnh, có uy tín, làm ăn có hiệu quả, họ giành đợc hợp đồng
trong các cuộc đấu thầu tiếp theo thì vấn đề nhân lực sẽ đợc giải quyết tốt đẹp.
Đấu thầu nói chung và đấu thầu quốc tế nói riêng giúp cho nhà thầu có
điều kiện thay đổi thiết bị công nghệ, nâng cao năng lực cạnh tranh. Nh đã biết,
BMT trong HSMT đã đòi hỏi các nhà thầu trong tơng lai phải cung cấp hàng
hoá thiết bị đạt những tiêu chuẩn nhất định hoặc sử dụng các công nghệ tiên
tiến, hiện đại. Muốn có đủ các điều kiện nh trên, các nhà thầu không còn con đ-
ờng nào khác là phải thay đổi cả về chất, lẫn lợng. Ngoài ra, do giành đợc hợp
đồng có giá trị cao các nhà thầu mới có điều kiện lớn và càng đầu t lớn trì khả
năng trúng thầu có thể sẽ ngày càng lớn hơn.
7
Một số giải pháp nhằm hoàn thiện Nguyễn Thị Xuân Thuỷ
Đấu thầu không chỉ đem tới cho các nhà thầu các lợi ích kinh tế mà còn
giúp họ nâng cao uy tín trên thị trờng, giành đợc mỗi gói thầu nhà thầu có thêm
một giấy chứng chỉ hành nghề, có thêm thu nhập, bởi vì tất cả trong các thông
bảo mời thầu, HSMT đều có yêu cầu các nhà thầu xuất trình giấy chứng nhận
của một cơ quan có thẩm quyền về việc thực hiện các dự án tơng tự. Các văn
bản giấy tờ này là cơ sở đẻ cho BMT tuyển chon, so sánh về mặt kinh nghiệm,
kỹ thuật
Đấu thầu còn là điều kiện để nhà thầu mở rộng sự hợp tác quốc tế. Trong
thực tiễn, để đảm bảo thắng lợi trong đấu thầu, các nhà thầu đôi khi phải tìm
kiếm sự trợ giúp từ bên ngoài về rất nhiều mặt. Ví dụ nh sự đảm bảo nguồn
cung cấp vốn để xây dựng công trình, xin bảo lãnh, liên doanh, liên kết các

công việc trên sẽ không dễ dàng gì đối với các công ty nhỏ, uy tín thấp, làm ăn
không có hiệu quả. Càng mở rông sự hợp tác thí năng lực của các nhà thầu càng
đợc nâng cao. Đó là sự đảm bảo lớn nhất cho khả năng thắng lợi trong cuộc
cạnh tranh khốc liệt giành hợp đồng.
Ngoài những mặt thuận lợi, những mặt mạnh các nhà thầu khi tham gia
đấu thầu đã gặp không ít khó khăn, trở ngại:
- Một là, họ gặp phải sự phức tạp về thủ tục giấy tờ.
- Hai là, muốn có đủ điều kiện dự thầu phải có sự bảo lãnh của một ngân
hàng nào đó đợc chủ đầu t đồng ý.
c. Lợi ích đối với ngời t vấn:
Trên thế giới đang tồn tại nhiều loại hình kinh doanh dịch vụ t vấn. Các
nhà đầu t, những nhà gọi thầu đã triệt để sử dụng sử mạnh của các loại dịch vụ
này. Các công ty t vấn có thể do chủ đầu t lựa chọn hoặc do ngời tài trợ giới
thiệu. Các công việc t vấn là các công việc phụ thuộc chủ yếu vào con ngời. ở
những nơi mà ngời ta sử dụng công nghệ có sẵn và việc đợc giao nặng về thiết
bị, thì ngời ta thờng gọi hợp đồng đó là hợp đồng dịch vụ hơn là hợp đồng t vấn.
Việc sử dụng t vấn trong đấu thầu đã đem lại cho chủ đầu t rất nhiều lợi ích.
Ngợc lại, các công ty t vấn khi tham gia đấu thầu cũng đem lại cho họ rất nhiều
lợi thế. Thứ nhất, các công ty t vấn thu đợc một khoản lợi nhuận sau khi trừ đi
các chi phí có liên quan. Thứ hai, các công ty t vấn tăng khả năng cung ứng các
dịch vụ có chất lợng cao. Thông qua đấu thầu, các công ty này dần dần tích luỹ
đợc kinh nghiệm trong t vấn, giám sát, quản lý chất lợng công trình. Thứ ba,
thông qua đấu thầu quốc tế, các công ty t vấn mở rộng đợc sự hợp tác quốc tế và
họ càng có khả năng cung cấp các dịch vụ có chất lợng cao hơn nữa.
Chơng II. Thực trạng đấu thầu ở Việt Nam.
I. Những kết quả đạt đợc của hoạt động đấu thầu ở
Việt Nam thời gian qua.
8
Một số giải pháp nhằm hoàn thiện Nguyễn Thị Xuân Thuỷ
1. Quy chế đấu thầu đã đợc triển khai khá nghiêm túc, kỹ thuật

đấu thầu đã có nhiều tiến bộ.
Với quy chế đấu thầu hiện hành, chúng ta đã khẳng định việc áp dụng
hình thức đấu thầu trong hoạt động đầu t của Nhà nớc là biện pháp đúng đắn,
nhằm tăng cờng tính cạnh tranh, đảm bảo hiệu quả đầu t, đồng thời cũng là sự
hội nhập cần thiết với thế giới.
Việc triển khai quy chế đấu thầu lúc đầu tuy có lúng túng nhng sau quá
trình thực hiện, công tác đấu thầu đã dần đi vào nền nếp. Nhìn chung các Bộ,
ngành, địa phơng và các đơn vị có liên quan triển khai thực hiện đấu thầu khá
nghiêm túc và đấu thầu đã mang lại hiệu quả đáng kể trong quá trình thực hiện
dự án nói chung. Theo đánh giá của Bộ KH - ĐT, hoạt động đấu thầu trong thời
gian qua đã có sự tiến bộ rõ rệt, kỹ thuật đấu thầu đợc nâng cao, việc đánh giá
lựa chọn nhà thầu đã tiến bộ hơn và đấu thầu đã đem lại hiệu quả kinh tế cho
việc thực hiện các dự án đầu t. Các nhà thầu đợc lựa chọn là những nhà thầu
thực sự có kinh nghiệm và năng lực thực hiện các gói thầu. Những nhà thầu đó
đợc đánh giá là đáp ứng cơ bản yêu cầu của HSMT. Các cơ quan quản lý nhà n-
ớc có đủ thông tin thực tế và cơ sở khoa học để đánh giá đúng năng lực thực sự
( tài chính, khoa học kỹ thuật, cơ sở vật chất ) của các nhà thầu. nhờ đấu
thầu đã nâng cao hiệu quả dự án, tiết kiệm cho nhà nớc hàng trăm tỷ đồng,
trung bình từ 8 15% so với dự toán ban đầu. Qua đấu thầu đã làm cho giá cả
hợp lý hơn, đảm bảo đợc chất lợng dự án, tiến độ thực hiện, chi phí đầu t giảm.
Đồng thời thông qua hoạt động đấu thầu quốc tế, các công ty Việt Nam có
nhiều cơ hội tiếp xúc với công nghệ mới, thiết bị tiên tiến, hiện đại, tích luỹ đợc
kinh nghiệm để từng bớc vơn lên cạnh tranh đợc với các nhà thầu nớc ngoài.
Từ 1997 2000, trong 495 gói thầu có giá trị lớn do Thủ tớng Chính
phủ phê duyệt và do Bộ KH - ĐT thẩm định kết quả đấu thầu, mức giảm so với
giá gói thầu đợc phê duyệt là 687,4 triệu USD, đạt tỷ lệ 16,3%. Chỉ tính riêng
một số gói thầu thuộc 7 dự án lớn ( gồm: 4 gói thầu thuộc dự án WB2, 2gói thầu
R1 và R5 thuộc dự án quốc lộ 10, 3 gói thầu 1, 2 và 5 thuộc dự án quốc lộ 18,
gói thầu một dự án hầm Hải Vân, dự án liên doanh lúa mì Việt Nam, gói thầu
xây dựng cảng Cái Lân, gói thầu t vấn cầu Thanh Trì ) tổng giá trị giảm so với

giá gói thầu đã là 109,865 triệu USD. Tỷ lệ giảm bình quân đạt 32,2%. Cần
khẳng định mặt tích cực mang tính bản chất của đấu thầu là tạo cho các nhà
thầu một sân chơi có tính cạnh tranh cao, công bằng và minh bạch, nhằm giúp
chủ đầu t lựa chọn đợc nhà thầu có đủ khả năng để thực hiện gói thầu với những
yêu cầu về chất lợng, giá cả và tiến độ.
9
Một số giải pháp nhằm hoàn thiện Nguyễn Thị Xuân Thuỷ
2. Sự phân cấp trong quản lý hoạt động đấu thầu đã rõ ràng, cụ
thể hơn.
Việc thẩm định kế hoạch đấu thầu, thẩm định kết quả đấu thầu đã rõ
ràng, cụ thể , theo hớng mở rộng quyền của các cơ quan quản lý cấp dới. Cấp
trên chỉ phê duyệt các nội dung quan trọng còn lại sẽ uỷ quyền cho cấp dới thực
hiện (điều 52, 53 quy chế đấu thầu).
3. Trình độ đội ngũ các nhà thầu Việt Nam và các cán bộ làm
công tác đấu thầu đã có nhiều tiến bộ.
Trách nhiệm của BMT và cơ quan quản lý các cấp ngày càng đợc nâng
cao. Đội ngũ cán bộ làm công tác đấu thầu từ trung ơng đến địa phơng đợc đào
tạo và ngày càng trởng thành, có trình độ chuyên môn vững vàng và từng bớc
đáp ứng đợc yêu cầu của công tác đấu thầu. Đội ngũ nhà thầu trong nớc thực sự
trởng thành qua các cuộc đấu thấu quốc tế và một số đã có khả năng đơn phơng
tham gia đấu thầu quốc tế và thắng thầu. Từ năm 1998 trở lại đây, đa phần các
gói thầu trong ngành giao thông, các nhà thầu Việt Nam đã giành nhiều hợp
đồng trên cơ sở cạnh tranh với nhiều nhà thầu quốc tế có tầm cỡ.
Nh vậy có thể kết luận rằng: quy chế đấu thầu kèm NĐ 43/ CP và NĐ
88/CP/1999 đã tỏ ra thích hợp hơn. Hình thức đấu thầu rộng rãi đã đợc sử dụng
và đã làm tăng khả năng cạnh tranh giữa các nhà thầu,tiết kiệm chi phí đấu
thầu, tiết kiệm vốn đầu t, chất lợng, tiến độ thi công của các dự án đợc đảm bảo.
Năng lực tổ chức đấu thầu, tham gia dự thầu đã từng bớc đợc nâng cao hơn.
II. Những tồn tại của hoạt động đấu thầu ở Việt Nam
thời gian qua.

1. Những tồn tại của hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật.
a. Hệ thống pháp luật trong đấu thầu đã có nhng cha đồng bộ.
Theo điều 50, 51 của quy chế Quản lý đầu t xây dựng, điều 7 mục 3 NĐ
88 ta thấy quy trình thẩm định trong NĐ 52 rất phức tạp, việc thẩm định tốn rất
nhiều công sức, nếu đợi thẩm định phê duyệt xong thì công trình sẽ bị đình trệ.
Điều đó làm tăng chi phí, gây lãng phí cho công trình do lập dự toán không
chính xác. Những phát sinh trong xây dựng hay xảy ra dẫn đến phải điều chỉnh
lại hợp đồng.
Việc quy dẫn giá về một đồng tiền thống nhất theo tỷ giá váo ngày mở
thầu ( Điều 14 NĐ 88/ CP ) là không phù hợp với thông lệ quốc tế ví quy định
nh trên sẽ dẫn tới việc so sánh các đơn chào mất rất nhiều thời gian.
Việc sử dụng nhiều hình thức lựa chọn nhà thầu là hợp lý nhng cũng nên
lợng hoá giá trị tối thiểu của từng loại hình đấu thầu. Điều này tránh sử dụng
tràn lan các hình thức đấu thầu không có hiệu quả, đảm bảo tiết kiệm chi phí
đấu thầu. NĐ 88/ CP mới chỉ giới hạn lợng nhà thầu tham gia mà cha giới hạn
độ lớn gói thầu. NĐ 88/ CP đợc bổ sung bằng NĐ 14/ 2000 nhng những thay
đổi đó mới chỉ là giải pháp tình thế trong lúc chờ đợi pháp lệnh đấu thầu.
Một trong những trở ngại hiện nay đó là các thủ tục trình duyệt các cấp
quản lý nhà nớc từ Chính phủ đến các Bộ, ngành liên quan, Hội đồng quản trị
các tổng công ty, UBND các cấp đã kéo dài thời gian thực hiện dự án từ 6
tháng đến 1 năm (theo quy định là 90 ngày đối với đấu thầu trong nớc và 120
10
Một số giải pháp nhằm hoàn thiện Nguyễn Thị Xuân Thuỷ
ngày đối với đấu thầu quốc tế). Thủ tục hành chính cồng kềnh, phức tạp này vừa
cản trở, vừa là khe hở để các tiêu cực dễ xảy ra.
Trong quy chế đấu thầu cha làm rõ đợc các hình thức lựa chọn nhà thầu
và phơng thức thực hiện hợp đồng, nh ngoài hình thức đấu thầu rộng rãi, đấu
thầu hạn chế còn có những hình thức đơn giản hơn (chào hàng cạnh tranh, mua
sắm trực tiếp ). Những hình thức này quy chế có đề cập nh ng cha hớng dẫn
cách vận dụng, do đó có hiện tợng tranh cãi khi thực hiện, thậm chí kiện cáo

cho là chào hàng cạnh tranh, là tiêu cực, là sai.
Khi lập HSMT, những nội dung về lựa chọn nhà thầu theo hợp đồng
chìa khoá trao tay, hoặc hợp đồng trọn gói , hoặc hợp đồng có điều chỉnh
giá, cha đợc làm rõ. Trong khi đây lại là những vấn đề hết sức hệ trọng đối với
cấp quyết định đầu t và chủ đầu t.
Phơng thức đấu thầu 2 giai đoạn cũng cha có hớng dẫn cụ thể nên các
chủ đầu t, nhà thầu rất lúng túng khi áp dụng.
b. Quy trình đấu thầu còn nhiều điều cha hợp lý.
- ở Việt Nam quy chế đấu thầu kèm theo NĐ 88/ CP về cơ bản có hai
quy trình đấu thầu là đấu thầu tuyển chọn t vấn và đấu thầu mua sắm hàng hoá
và xây dựng công trình. Tại điều 20 của quy chế thì quy trình đấu thầu tuyển
chọn t vấn đợc thực hiện với 14 bớc kế tiếp nhau là cha hợp lý. Ví dụ nh cuộc
đấu thầu tuyển chọ t vấn cho dự án cải tạo lới điện Hà Nội Hải phòng
Nam Định, ngân hàng ADB đã giới thiệu danh sách gồm 24 hãng và công ty
điện lực 1 đã chọn ra một danh sách ngắn gồm 6 hãng và đã đợc ADB chấp
nhận. Cùng với việc đó BMT chuẩn bị HSMT để cung cấp cho các nhà thầu
trong danh sách ngắn, trên cơ sở tài liệu này các nhà thầu chuẩn bị nộp đề xuất
kỹ thuật. BMT sẽ đánh giá các đề xuất kỹ thuật và xếp hạng các nhà thầu, ai
đứng thứ nhất sẽ đợc mời nộp tiếp đề xuất về tài chính. Dựa vào kết quả của hai
lần đánh giá BMT sẽ đánh giá tổng hợp và kết quả đấu thầu sẽ đợc trình lên cấp
có thẩm quyền. Vì vậy, trong quy trình đấu thầu bớc 10 và 12, bớc 11 và 13 có
thể xếp làm một. Vấn đề trình duyệt danh sách xếp hạng các nhà thầu và kết
quả đấu thầu thực tế là một. Việc thơng thảo hợp đồng bóc tách làm hai dẫn đến
nhiều tiêu cực và không phù hợp với thông lệ quốc tế vì hợp đồng ở đây do
BMT chuẩn bị trớc, các bên chỉ việc hoàn thiện cho phù hợp với thực tế của
cuộc đấu thầu mà thôi. Cách làm của Việt Nam rất mất thời gian và thủ tục rất
rờm rà, tốn phí thời gian và tiền của. Trên cơ sở phân tích chúng ta có thể thấy
rằng quy trình đấu thầu tuyển chọn t vấn của Việt Nam nên dạ theo quy định
của WB là phù hợp hơn cả, nó vừa đảm bảo tính logic, vừa sát thực với thông lệ
quốc tế, xu hớng tài trợ cho Việt Nam trong tơng lai. Trong đấu thầu mua sắm

hàng hoá, xây dựng công trình, chúng ta có thể đấu thầu theo hai giai đoạn, cho
nên quy trình đấu thầu nêu trong điều 22, 23 của quy chế đấu thầu cũng tơng
đối hợp lý. Việc thông báo mời thầu nên thực hiện trớc khi sơ tuyển nhằm cung
cấp thông tin cho các nhà thầu, phục vụ cho họ có số liệu để làm đơn xin dự sơ
tuyển. Ngoài ra, trong đấu thầu xây dựng công trình việc giải thích hay bố trí
cho các nhà thầu đi thăm dò thực địa là điều không thể thiếu đợc. Các tài liệu
trong HSMT có thể không tính hết các yếu tố địa chất, môi trờng và chỉ d ới
11
Một số giải pháp nhằm hoàn thiện Nguyễn Thị Xuân Thuỷ
con mắt nghề nghiệp của những ngời xây dựng họ mới bổ khuyết đợc hết và họ
mới đa ra đợc các phơng án tối u hơn, giúp các chủ đầu t giảm đợc các chi phí
phát sinh trong quá trình xây dựng. Cũng chỉ có dựa vào thực địa các nhà thầu
mới tính hết các yếu tố cấu thành nên giá chào một cách tối u và hợp lý nhất.
- Công trình có vốn đầu t nớc ngoài có nhiều nguồn khác nhau, mỗi loại
có những đặc điểm riêng mà các tổ chức cho vay vốn buộc phải làm theo quy
định của tổ chức đó. Luật của Việt Nam đã đề cập đến việc u tiên cho các nhà
thầu trong nớc, nhng thực chất cha đợc làm rõ, cụ thể trong quy chế đấu thầu.
Về quản lý công tác đấu thầu, theo quy định thì trớc khi đấu thầu phải
trình duyệt kế hoạch đấu thầu và sau khi đấu thầu phải thông báo kết quả đấu
thầu. Nhng việc quản lý cha chặt chẽ. Có gói thầu duyệt kế hoạch đấu thầu
không nói rõ đấu thầu hạn chế hay đấu thầu mở rộng, có gói thầu chủ đầu t cha
quan tâm đến nhà thầu Việt Nam.
Tính chất của mỗi loại hoặc mỗi gói thầu t vấn thiết kế, giám sát; đấu
thầu xây lắp có sự khác nhau. Ví dụ chọn thầu t vấn ngời ta thờng sử dụng ph-
ơng thức hai túi hồ sơ nộp đồng thời, hoặc phơng thức đấu thầu hai giai đoạn th-
ờng áp dụng cho những dự án lớn, phức tạp về công nghệ hoặc dự án đấu thầu
theo hợp đồng chìa khoá trao tay. Thế nhng trong thực tế đấu thầu vẫn còn lầm
lẫn giữa các phơng thức trên và thờng gây tranh cãi, khiếu kiện, đặc biệt chấm
thầu bằng điểm số cùng lúc hai chỉ tiêu kỹ thuật và giá cả cũng làm sai lệch kết
quả đấu thầu.

c. Đấu thầu mua sắm hàng hóa vẫn còn một số hạn chế.
Đấu thầu mua sắm máy móc, vật t, thiết bị gọi chung là đấu thầu mua
sắm hàng hoá, chiếm tỷ trọng lớn trong các loại hình đấu thầu hiện nay. ở nớc
ta kể từ khi áp dụng hình thức đấu thầu trong hoạt động thực tế, đấu thầu mua
sắm hàng hoá trở thành hoạt động phổ biến góp phần đa nền kinh tế từng bớc
đáp ứng đợc yêu cầu của kinh tế thị trờng.
Trong cơ chế thị trờng, giá cả của hàng hoá nhất là các loại máy móc
thiết bị không do một văn bản nào quy định cụ thể, đó là sự khác biệt so với
hàng hoá tiêu dùng thông thờng. Do vậy, khi lập dự án, nếu không cân nhắc ký
và dựa trên những thông tin tin cậy thì việc lập giá gói thầu sẽ thiếu chính xác
dẫn đến rất khó khăn khi xem xét đánh giá các HSDT. Giá hàng hoá phụ thuộc
vào nhiều yếu tố nh:
- Nguồn gốc, xuất xứ của hàng hoá.
- Đặc tính kỹ thuật của hàng hoá: phạm vi sử dụng, công suất, cấp chính
xác, mức độ hiện đại, tiêu chuẩn kỹ thuật
- Các chỉ tiêu kỹ thuật kèm theo: tiêu hao năng lợng, chi phí vận hành,
chi phí bảo dỡng, sửa chữa
Trong đó yếu tố thứ 2 và thứ 3 dễ thống nhất hơn, vì đây là những yếu tố
kỹ thuật trong lý lịch của hàng hoá nên dễ dàng tham khảo tra cứu khi cần xem
xét lựa chọn để đầu t. Do vậy, khi tổ chức đấu thầu, các yếu tố kỹ thuật này ít
gây tranh cãi. Thực tế trong công tác đấu thầu, nguồn gốc xuất xứ hàng hoá th-
ờng đợc hiểu không đầy đủ nên hay gây vớng mắc nhất. Đối với hàng hoá
nguồn gốc xuất xứ là vấn đề rất quan trọng, vì cùng một loại hàng hoá với các
chỉ tiêu định lợng nh nhau, nhng đợc sản xuất ở những nớc khác nhau, khu vực
12
Một số giải pháp nhằm hoàn thiện Nguyễn Thị Xuân Thuỷ
có trình độ phát triển khác nhau sẽ có giá thành khác nhau. Thậm chí, hàng hoá
mang thơng hiệu của một hãng nhng đợc sản xuất ở những nớc, khu vực khác
nhau giá cả cũng khác nhau. Thực tế cho thấy do không am hiểu sâu về vấn đề
này, nên nhiều cuộc đấu thầu đã gây ra tranh cãi kéo dài, không đảm bảo tính

khách quan. Do cơ chế đấu thầu với sự không rõ ràng của HSMT, nên nhiều nhà
thầu có hàng hoá tốt nhng vẫn không trúng thầu. Tình trạng này thờng xảy ra
khi nhà thầu có hàng hoá đáp ứng đầy đủ các yêu cầu kỹ thuật và các yêu cầu
khác nhng giá thành lại cao hơn những nhà thầu khác. Nhng nếu xét về nguồn
gốc hàng hoá, thì hàng hoá của nhà thầu bị trợt đó lại đợc sản xuất ở các nớc
hoặc khu vực có trình độ phát triển cao hơn hẳn. Đến lúc này chủ đầu t (ngời
mua hàng) muốn mua hàng tốt cũng không đợc vì đã bị các điều kiện về giá cả
trong HSMT ràng buộc. Sở dĩ có tình trạng trên là do :
- Thứ nhất, bản thân ngời lập HSMT không am hiểu đấy đủ về tầm quan
trọng của vấn đề xuất xứ của hàng hoá thiết bị cần mua. Khi chuẩn bị đầu t mua
sắm, ngời mua phải biết khả năng tài chính của mình đến đâu, muốn mua loại
hàng hoá gì, để từ đó định ra các yêu cầu phù hợp với thực tế. Nếu ngời mua
không đa ra đợc yêu cầu về xuất xứ của hàng hoá, thì sẽ không thể đa ra giá gói
thầu chính xác và làm cho các nhà thầu không hiểu đầy đủ ngời mua, muốn
mua loại hàng hoá nh thế nào. Mặt khác, còn làm cho HSDT của các nhà thầu
khác biệt nhau quá lớn, nên việc đánh giá các HSDT rất khó khăn. Sự không rõ
ràng, dễ làm mất đi tính khách quan và tạo điều kiện phát sinh các tiêu cực
trong đấu thầu.
- Thứ hai, do chủ ý của ngời mua hàng, khi lập HSMT, không quy định
rõ ràng nguồn gốc xuất xứ của hàng hoá. Khi xem xét đánh giá HSDT, BMT tự
đa ra các tiêu chí đánh giá cho nhà thầu nào mà mình muốn, làm mất đi tính
khách quan trong khi đánh giá các HSDT.
Những nguyên nhân trên dẫn đến tình trạng đấu thầu mua sắm hàng hoá
còn nhiều yếu kém, nhiều tiêu cực.
d. Có nên tiếp tục áp dụng hình thức đấu thầu hạn chế.
Đấu thầu hạn chế là hình thức đấu thầu mà BMT mời một số nhà thầu
(tối thiểu là 5 nhà thầu, với gói thầu nhỏ tối thiểu là 3) có đủ năng lực tham dự.
Danh sách nhà thầu tham gia phải đợc ngời có thẩm quyền chấp thuận. Hình
thức này chỉ đợc xem xét áp dụng khi có một trong các điều kiện sau:
- Chỉ có một số nhà thầu có đủ khả năng đáp ứng đợc yêu cầu của gói

thầu.
- Các nguồn vốn sử dụng yêu cầu phải tiến hành đấu thầu hạn chế.
- Do tình hình cụ thể của gói thầu mà việc đấu thầu hạn chế có lợi thế.
Xem xét các điều kiện áp dụng hình thức đấu thầu hạn chế về mặt lý
luận:
- Điều kiện thứ nhất là không phù hợp, vì đã ít nhà thầu đáp ứng thì
chúng ta lại càng phải đấu thầu rộng rãi để thông tin trên phơng tiện thông tin
đại chúng huy động hết các nhà thầu có khả năng tham gia. Mặt khác điều kiện
này lại quy định ở mức tối thiểu, nh vậy gặp khó khăn trong đấu thầu nếu không
đảm bảo mức tối thiểu này. Qua đó có thể khẳng định điều kiện này không cần
có.
13
Một số giải pháp nhằm hoàn thiện Nguyễn Thị Xuân Thuỷ
- Đối với điều kiện thứ hai, chúng ta thấy điều kiện này đã đợc nêu rất cụ
thể trong điều 2 của Quy chế đấu thầu (phần phạm vi và đối tợng áp dụng); mặt
khác nếu đa điều kiện này để áp dụng hình thức đấu thầu hạn chế thì khó thực
hiện. Ví dụ, các dự án sử dụng nguồn vốn tài trợ, vốn vay ODA của các tổ chức
quốc tế hoặc của nớc ngoài yêu cầu đấu thầu chỉ các nhà thầu quốc tế, đặc biệt
là chỉ có các nhà thầu của chính nớc tài trợ, cho vay thì các nhà thầu mà tham
gia tại nớc ta đạt mức tối thiểu là không khả thi. Nh vậy, điều kiện này không
cần đa ra.
- Đối với điều kiện thứ ba, điều kiện quy định khá chung chung, cực kỳ
nhạy cảm, có lợi thế có thể hiểu tổng hợp là kinh tế, xã hội ; có thể hiểu cụ
thể là thời gian, lao động, môi trờng Nh vậy, chỉ cần có thể hiểu theo bất cứ
lợi thế nào là có thể dùng hình thức đấu thầu hạn chế. Đấu thầu hạn chế theo
điều kiện này là thủ tiêu sự cạnh tranh, kém tính công bằng, vi phạm mục tiêu
của quy chế đấu thầu đề ra. Do vậy, chúng ta không nên đặt ra điều kiện này.
Xem xét thực tế quá trình thực hiện hình thức đấu thầu hạn chế:
Theo các báo cáo tình hình thực hiện công tác đấu thầu năm 2000 và
2001 của văn phòng xét thầu thuộc Bộ KH - ĐT thì hình thức đấu thầu hạn chế

hiện đang đợc áp dụng nhiều, chiếm đa số ở các ngành và địa phơng. Trong quá
trình tổ chức đấu thầu áp dụng hình thức đấu thầu hạn chế, việc lựa chọn các
nhà thầu không thể khẳng định là không có sự sắp đặt từ trớc, quy định điều
kiện chỉ có lợi cho một nhà thầu nào đó, hiện tợng quân xanh, quân đỏ đây
đó vẫn xảy ra. Do vậy hiệu quả đạt đợc không cao, đồng thời đây là kẽ hở dễ
tạo ra các hiện tợng tiêu cực. Chẳng hạn, trong 6 tháng đầu năm 2000: tỉnh
Vĩnh Phúc thực hiện 51 gói thầu trong đó có 29 gói chỉ định thầu còn lại phần
lớn là đấu thầu hạn chế; Thành phố Hồ Chí Minh thực hiện 213 gói trong đó có
156 gói chỉ định thầu, 54 gói đấu thầu hạn chế và 3 gói tự thực hiện; Thành phố
Hải Phòng thực hiện 38 gói thầu nhng chỉ có một gói đấu thầu rộng rãi, 20 gói
chỉ định thầu, còn 17 gói đấu thầu hạn chế.
Năm 2001, theo báo cáo của văn phòng xét thầu Bộ KH -ĐT, lĩnh vực
đấu thầu đã đợc mở rộng: t vấn 93%, xây lắp 77,9%, mua sắm hàng hoá 12,8%.
- Về hình thức lựa chọn nhà thầu: Đấu thầu rộng rãi chiếm 13,6%; đấu
thầu hạn chế chiếm 27,7%, chỉ định thầu và tự thực hiện chiếm 51,4%, các hình
thức còn lại chiếm 7,3%.
Nh vậy, trong khi quy chế đấu thầu khuyến khích áp dụng hình thức đấu
thầu rộng rãi thì trên thực tế số gói thầu thực hiện đấu thầu hạn chế và chỉ định
thầu chiếm một tỷ lệ cao ( tới 79,1%), đặc biệt các dự án nhóm C tỷ lệ này là
81%, các dự án nhóm A có tỷ lệ số gói thầu đấu thầu hạn chế và chỉ định thầu
thấp nhất (58,9%).
- Về kết quả đấu thầu bình quân tiết kiệm đợc 6,5%. Các gói thầu do Thủ
tớng Chính phủ phê duyệt kết quả đấu thầu có mức tiết kiệm cao nhất (17,02%),
tiếp đến là các gói thầu thuộc các dự án liên doanh do Bộ KH- ĐT thỏa thuận
(13,2%), thứ ba là các gói thầu thuộc các dự án liên doanh do các Bộ, ngành,
địa phơng thoả thuận (10,1%). So sánh các hình thức lựa chọn nhà thầu thì mức
tiết kiệm cao nhất là đấu thầu rộng rãi, rồi đến chào hàng cạnh tranh, tiếp đến là
đấu thầu hạn chế. Các ngành, các địa phơng vẫn lạm dụngviệc sử dụng hình
14
Một số giải pháp nhằm hoàn thiện Nguyễn Thị Xuân Thuỷ

thức đấu thầu hạn chế (đối với các gói thầu thuộc dự án nhóm B,C) là nguyên
nhân dẫn đến giảm tính cạnh tranh trong đấu thầu, tạo điều kiện cho các hành
động tiêu cực nh thông đồng, đấu thầu giả vờ.
Tại tỉnh Hà Tây, tình hình thực hiện quy chế đấu thầu hai năm 2000 và
2001 nh sau:
- Năm 2000, tổng số gói thầu 178 gói, trong đó đấu thầu hạn chế 167 gói;
giá trị đấu thầu tiết kiệm đợc (chênh lệch giữa giá gói thầu và giá trúng thầu) là
1,37%. Chỉ với một gói thầu (xây dựng nhà học tập và nhà ở ở trờng chính trị
tỉnh) khi bổ sung thêm một nhà thầu vào danh sách đấu thầu chủ đầu t trình,
hiệu quả kinh tế đã tiết kiệm đợc 13% (giá gói thầu là 3180 triệu, giá trùng thầu
là 2763 triệu).
- Năm 2001, tổng số gói thầu là 150, trong đó đấu thầu hạn chế là 145
gói;giá trị đấu thầu tiết kiệm đợc là 0,51%. Chỉ với một gói thầu hạn chế khi bổ
sung thêm một nhà thầu đã tiết kiệm đợc 13,8% (giá gói thầu là 1475 triệu, giá
trùng thầu là 1271 triệu).
Qua các nội dung phân tích ở trên ta có thể khẳng định hình thức đấu
thầu hạn chế đã có một số vấn đề không phù hợp cả về mặt lý luận và cả về mặt
thực tiễn.
e. Một số khó khăn trong kế hoạch đấu thầu đối với dự án nhóm
C.
Trớc hết, chúng ta cần tìm hiểu kế hoạch đấu thầu là gì ? Theo điều 8,
Quy chế đấu thầu của Chính phủ (ban hành kèm theo NĐ 88/CP và NĐ 14/CP),
kế hoạch đấu thầu của dự án bao gồm phân chia dự án thành các gói thầu, giá
gói thầu và nguồn tài chính, hình thức lựa chọn nhà thầu và phơng thức đấu thầu
áp dụng với từng gói thầu, thời gian tổ chức đấu thầu cho từng gói thầu, loại hợp
đồng cho từng gói thầu, thời gian thực hiện hợp đồng. Nội dung của kế hoạch
đấu thầu cần đợc ngời có thẩm quyền phê duyệt trớc khi lập HSMT.
Chúng ta thấy rằng, để lập kế hoạch đấu thầu với các nội dung trên
không phải là khó đối với một số dự án có những điều kiện thuận lợi nhất định
nh đã đợc chuẩn bị đầy đủ vốn, mặt bằng, nội dung đã đợc điển hình hoá hoặc

đã thực hiện các dự án tơng tự nhiều lần, các dự án không sử dụng vốn ngân
sách nhà nớc, các dự án sử dụng vốn vay ODA Tuy nhiên, đại đa số các dự án
còn lại, nhất là các dự án sử dụng vốn ngân sách nhà nớc, vốn hỗ trợ của nhà n-
ớc, việc thực hiện lập kế hoạch đấu thầu ngay từ khâu lập dự án gập rất nhiều v-
ớng mắc. Đó là:
- Thứ nhất, không dễ dàng xác định chính xác giá gói thầu và nguồn tài
chính từ khâu lập dự án. Về giá gói thầu, khi cha có thiết kế kỹ thuật và tổng dự
toán, giá gói thầu đợc tạm lấy từ giá các hạng mục theo dự án, sẽ có sai số rất
lớn so với tổng dự toán và dự toán hạng mục đợc phê duyệt; nếu tiến hành đấu
thầu sẽ có thể xảy ra hai trờng hợp sau: hoặc là giá gói thầu quá cao, hoặc quá
thấp so với giá trúng thầu. Về nguồn tài chính của gói thầu, trên thực tế một số
dự án sử dụng nhiều nguồn vốn khác nhau, trong đó có nguồn vốn hỗ trợ từ
ngân sách nhà nớc. Khi dự án cha đợc phê duyệt, nguồn vốn hỗ trợ này rất khó
xác định chính xác. Do đó, nếu phê duyệt kế hoạch đấu thầu cùng với dự án, cơ
quan có thẩm quyền thờng phải phê duyệt lại hai nội dung này trớc khi đấu
15
Một số giải pháp nhằm hoàn thiện Nguyễn Thị Xuân Thuỷ
thầu, làm cho cơ chế quản lý cồng kềnh, cần tới ít nhất 2 quyết định phê duyệt
giá của một gói thầu.
- Thứ hai, việc lập các nội dung còn lại cũng gặp một số vớng mắc. Yếu
tố thời gian thực hiện dự án gặp trở ngại do tiến độ giải phóng mặt bằng, kế
hoạch vốn hàng năm không đủ, thời gian tổ chức đấu thầu khó xác định do khâu
chuẩn bị vốn đầu t tốn rất nhiều thời gian. Thời gian chuẩn bị đầu t tối u nhất
cũng phải qua các công đoạn sau: từ thời điểm có quyết định phê duyệt dự án,
cần khoảng 20 ngày thẩm định phơng án khảo sát, 30 ngày thực hiện khảo sát
và thiết kế kỹ thuật, 20 ngày thẩm định thiết kế kỹ thuật, 15 ngày lập và thẩm
định kế hoạch đấu thầu và giá gói thầu (phê duyệt lại), 15 ngày lập và phê duyệt
HSMT, 15 ngày lập HSDT, 60 ngày chấm thầu, cha tính thời gian chờ đền bù
thu hồi đất đối với dự án giải phóng mặt bằng. Nh vậy cần tối thiếu khoảng 150
ngày chuẩn bị đầu t. Trên thực tế các mốc thời gian đó còn thờng bị kéo dài hơn

nhiều. Công tác giải phóng mặt bằng hiện rất khó khăn, thậm chí nhiều năm
không thực hiện đợc. Kế hoạch vốn hàng năm thờng không xác định đợc ngay
từ lúc lập và phê duyệt dự án, một số dự án đợc rót vốn nhỏ giọt, không đáng
kể, do đó hầu nh thực hiện xong gói thầu thứ nhất mới chuẩn bị triển khai các
gói thầu tiếp theo, chứ khó có thể lập kế hoạch trớc cho tất cả các gói thầu.
f. Từ chuyện thiếu những chế tài xử phạt cho đến chuyện dự án
không có chủ đích thực.
* Từ chuyện thiếu những chế tài xử phạt:
Các chuyên gia đấu thầu cho rằng, Quy chế đấu thầu hiện hành (hay còn
gọi là quy chế 88), trên thực tế cũng đã đa ra một số quy định cụ thể về trách
nhiệm đối với các nhà thầu; điển hình nh việc phát hiện nhà thầu thông đòng sẽ
bị loại khỏi danh sách dự thầu và không đợc nhận lại bảo lãnh dự thầu. Còn lại
tất cả những sai phạm khác, mặc dù đã đợc đề cập khá cụ thể trong Quy chế đấu
thầu, nhng lại không có chế tài xử lý. Thậm chí, theo nhận xét của một số quan
chức ở Văn phòng xét thầu quốc gia (VPXTQG), có khi quy chế thì thế này,
song ngời ta lại làm thế khác, kết quả là vẫn không có vấn đề gì xảy ra. Vì vậy,
với t cách lạ cơ quan quản lý nhà nớc trong lĩnh vực đấu thầu, VPXTQG, trớc
đây khi soạn thảo bản Dự thảo pháp lệnh đấu thầu lần thứ nhất đa ra mức phạt
tiền trong lĩnh vực đấu thầu, tuỳ theo mức độ nặng nhẹ trong sai phạm của nhà
thầu, nhng hiện Bộ t pháp vẫn cha đồng ý. Song nếu chỉ xử phạt theo hớng nh
vậy (nghĩa là chỉ xét phạt nhà thầu, mà không phạt các bên liện đới), thì chắc
chắn không những cha thể diệt tận gốc những vi phạm trong đấu thầu mà còn
thể hiện tính thiếu công minh trong luật pháp. Vì rằng thực tế hiện nay cho
thấy, bất kỳ sai phạm nào của nhà thầu đều có sự liên đới của BMT (chủ đầu t),
có khi của cả cơ quan nhà nớc. Về vấn đề này, một số chuyên gia ở VPXTQG
cho rằng, đấu thầu mà lại chọn nhà thầu thiếu năng lực thì chủ đấu t cũng phải
chịu trách nhiệm. Thế nên pháp lệnh lần này cũng đã đặt vấn đề quy định trách
nhiệm cho tất cả các bên, không loại trừ bất cứ thành phần nào. Nh vậy, vấn đề
đặt ra ở đây là ai, cơ quan nào sẽ đứng ra xử lý các vi phạm trong đấu thầu, nếu
có ? Câu hỏi hiện vẫn cha có lời giải đáp.

* Đến chuyện dự án không có chủ đích thực.
16
Một số giải pháp nhằm hoàn thiện Nguyễn Thị Xuân Thuỷ
Theo đánh giá của các chuyên gia ở Bộ kH-ĐT, sở dĩ những vi phạm
trong đấu thầu lâu nay không thể xử lý đợc vì nó không có chủ. Thực tế có quá
nhiều cơ quan tham gia vào quá trình này, thông thờng chủ đầu t là ngời có
quyền quyết định toàn bộ và chịu trách nhiệm trớc pháp luật, nhng ở nớc ta hiện
nay đang diễn ra nghịch cảnh, nhà thầu lại có cấp trên của nhà thầu, chủ đầu t
lại có cấp trên của chủ đầu t, Và nh thế, chủ đầu t cũng không phải là ngời to
nhất, mà còn có cơ quan phê duyệt tất cả, từ thiết kế, dự toán đến kết quả đấu
thầu Nhất nhất cái gì cũng phải trình, kể cả các khâu từ t vấn, thiết kế đến
những lĩnh vực chuyên môn thuần tuý khác. Nếu đúng ra, một thiết kế có vấn
đề, theo luật ai ký duyệt ngời đó phải chịu trách nhiệm. Nhng ở đây, khi xảy ra
sự việc, hỏi cấp trên của chủ đầu t thì lại bảo Tôi là cấp trên, chỉ phê duyệt
hình thức thôi, còn tất cả cấp dới làm mà, còn khi hỏi cấp dới thì lại đợc trả
lời Đó là phần trách nhiệm của cấp trên , thế là hoà cả làng. Vì thế, tình
trạng cha chung không ai khóc . Pháp luật có đụng đến cũng chẳng biết quy
tội cho ai. Điển hình nh ngành Giao thông vận tải, chỉ làm có một đoạn đờng đã
giao cho Sở Giao thông công chính làm chủ đầu t, thế nhng nhất nhất cái gì
cũng phải trình UBND Tỉnh, thành phố để phê duyệt.
2. Những tồn tại của Bên mời thầu.
a. công tác chuẩn bị đấu thầu cha tốt còn nhiều vớng mắc.
- Công tác chuẩn bị HSMT và tiêu chuẩn đánh giá là bớc quan trọng
trong quá trình đấu thầu, song trong nhiều trờng hợp do chuẩn bị khồn tốt hoặc
việc phê duyệt còn đơn giản nên đã có nhiều vớng mắc nh: HSMT đợc chuẩn bị
một cách chung chung, mập mờ gây khó hiểu cho nhà thầu cũng nh cho việc
đánh giá; khối lợng đa ra sai lệch so với thiết kế; cũng nh có trờng hợp tiêu
chuẩn đánh giá không đủ rõ, không phù hợp với HSMT. Chất lợng của HSMT
và tiêu chuẩn đánh giá là những nguyên nhân cơ bản đã làm cho quy trình đánh
giá HSDT kéo dài, thiếu cơ sở tin cậy để ra quyết định phê duyệt kết quả đấu

thầu đồng thời gây ra những thắc mắc khiếu nại. Một số gói thầu cỡ vài chục
triệu USD mở thầu từ cuối năm 1999, đầu năm 2000 nhng tới nay vẫn cha đợc
quyết định kết quả đấu thầu. Trong một số trờng hợp, sự tham gia của các cấp
có trách nhiệm và thẩm quyền cha đáp ứng yêu cầu của quy chế đấu thầu đã
lảm ảnh hởng tới kết quả đấu thầu. Tuy nhiên cha có những phát hiện về những
tiêu cực cụ thể ở các ngành và địa phơng, nhng đang tồn tại nhiều dạng vi phạm
quy chế đấu thầu trong quá trình tổ chức đấu thầu và xét thầu. theo phản ảnh
của một số dịa phơng, việc áp dụng hình thức đấu thầu hạn chế ở một số dự án
có sự sắp đặt từ trớc, quy định điều kiện dự thầu có lợi cho nhà thầu nào đó, có
hiện tợng quân xanh, quân đỏ
- Cán bộ chuyên gia thiếu kinh nghiệm , năng lực cha đáp ứng nên một
số gói thầu cho đến nay vẫn cha có quyết định trúng thầu. Ví dụ nh nhà máy
giấy Bãi Bằng mở thầu tháng 7/1999, gói thầu nhà mày xi măng Hải Phòng đấu
thầu cuối 1998 nhng đến tháng 9/2000 mới báo cáo trình Thủ tớng nhng vẫn
còn một số tồn tại. Một số cơ quan quản lý thiều kiểm tra phê duyệt kế hoạch
cũng nh kết quả đấu thầu.
17

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×