Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

khởi tố vụ án hình sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (139.31 KB, 12 trang )

Bài làm
I. Đặt vấn đề.
Về mặt nguyên tắc chung, khởi tố vụ án hình sự là quyền và trách
nhiệm của cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhằm duy trì trật tự và
công lý, không phụ thuộc vào ý muốn cá nhân và không ai có thể can
thiệp. Tuy nhiên, trong một số trường hợp nhất định, xuất phát từ
quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại, pháp luật quy định cho
phép người bị hại lựa chọn quyền yêu cầu khởi tố hoặc không khởi tố
vụ án. Đây là những trường hợp mà hành vi phạm tội vừa xâm phạm
trật tự xã hội, vừa xâm phạm đến thể chất, sức khoẻ, danh dự của
người bị hại.Tuy nhiên vì là quy định đặc biệt vì vậy khi áp dụng vào
thực tiễn không tránh khỏi những thiếu sót và bất cập trong quá trình
thực hiện áp dụng pháp luật của cơ quan tiến hành tố tụng.
II. Giải quyết vấn đề.
1. Khát quát chung.
• Khái niệm khởi tố vụ án hình sự :
Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn tố tụng hình sự đầu tiên mà trong
đó cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền căn cứ vào các quy định
của pháp luật tố tụng hình sự tiến hành việc xác định có (hay không)
các dấu hiệu của tội phạm trong hành vi nguy hiểm cho xã hội đã được
thực hiện, đồng thời ban hành quyết định về việc khởi tố (hoặc không
khởi tố) vụ án hình sự liên quan đến hành vi đó.
Căn cứ để khởi
• Khái niệm về người bị hại :
Theo khoản 1 điều 51 Bộ LuậtTố tụng Hình sự quy định :Người bị hại
là người bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản do tội phạm gây ra.
1
2. Quy định của pháp luật về khởi tố vụ án Hình sự theo yêu cầu của
người bị hại.
Pháp luật quy định về khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại
tại điều 105 Bộ luật TTHS :


“1. Những vụ án về các tội phạm được quy định tại Khoản 1 các Điều
104, 105, 106, 108, 109, 111, 113, 121, 122, 131 và 171 của BLHS chỉ
được khởi tố khi có yêu cầu của người bị hại hoặc của người đại diện
hợp pháp của người bị hại là người chưa thành niên, người có nhược
điểm về tâm thần hoặc thể chất.” (Khoản 1 Điều 105 BLTTHS).
Ngoài ra tại khoản 2 cũng có những quy định liên quan đến khởi tố vụ
án theo yêu cầu của người bị hại đó là :
+ Trong trường hợp người khởi tố có yêu cầu rút đơn yêu cầu khởi tố vụ
án trước ngày mở phiên tòa sơ thẩm thì vụ án được đình chỉ.
+ Nếu có căn cứ xác định việc rút đơn yêu cầu khởi tố của người bị hại
trái với ý muốn của họ do bị ép buộc cưỡng bức thì tuy người bị hại rút
đơn yêu cầu những Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án vẫn có thể
tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án.
+ Người bị hại đã rút đơn yêu cầu khởi tố thì không có quyền yêu cầu lại,
trừ trường hợp do bị ép buộc cưỡng bức.
+ Tại khoản 3 điều 51 quy định khởi tố theo khoản 1 điểu 51 thì người bị
hại hoặc đại diện hợp pháp của người bị hại trình bày lời buộc tội tại
phiên tòa.
3. Ý nghĩa việc khởi tố vụ án Hình sự theo yêu cầu của người bị hại
Về mặt nguyên tắc chung, khởi tố vụ án hình sự là quyền và trách nhiệm
của cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhằm duy trì trật tự và công lý,
không phụ thuộc vào ý muốn cá nhân và không ai có thể can thiệp. Tuy
2
nhiên, trong một số trường hợp nhất định, xuất phát từ quyền và lợi ích
hợp pháp của người bị hại, pháp luật quy định cho phép người bị hại lựa
chọn quyền yêu cầu khởi tố hoặc không khởi tố vụ án. Đây là những
trường hợp mà hành vi phạm tội vừa xâm phạm trật tự xã hội, vừa xâm
phạm đến thể chất, sức khoẻ, danh dự của người bị hại. Những trường
hợp này nếu khởi tố vụ án, lợi ích về mặt xã hội thu được có thể không
lớn mà còn có khả năng làm tổn thương thêm về mặt tinh thần cho người

bị hại. Vì vậy, các nhà làm luật đã xác lập một khả năng, điều kiện để
người bị hại cân nhắc, quyết định có yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm
quyền xử lý về mặt hình sự đối với hành vi phạm tội hay không. Với quy
định đó, nhà làm luật tạo điều kiện cho người phạm tội có cơ hội thuận
lợi để khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội của mình gây ra, hạn chế
việc gây thêm những tổn thất, mất mát về mặt tinh thần, danh dự không
cần thiết có thể có đối với người bị hại.
4. Thực tiễn áp dụng quy định pháp luật về khởi tố theo yêu cầu người
bị hại.
Quyền yêu cầu khởi tố vụ án hình sự của người bị hại được quy định tại
Điều 105 Bộ luật Tố tụng Hình sự.
Qua thực tiễn áp dụng, quy định về khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu
người bị hại tại Điều 105 Bộ luật Tố tụng Hình sự đã bộc lộ nhiều điểm
hạn chế, bất cập, gây ra những khó khăn nhất định cho các cơ quan tiến
hành tố tụng trong quá trình áp dụng vào thực tiễn, thể hiện qua những
nội dung sau:
Thứ nhất :về quyền yêu cầu khởi tố vụ án hình sự trong trường hợp
người bị hại là người có nhược điểm về thể chất và tâm thần
Tại khoản 1 Điều 105 Bộ luật Tố tụng Hình sự quy định: "Những vụ án
về các tội phạm được quy định tại khoản 1 các Điều... chỉ được khởi tố
3
khi có yêu cầu của người bị hại hoặc của người đại diện hợp pháp của
người bị hại là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần
hoặc thể chất". Theo quy định này, người có nhược điểm về tâm thần
hoặc thể chất không thể trực tiếp thực hiện quyền yêu cầu khởi tố vụ án
hình sự hoặc rút yêu cầu khởi tố vụ án trước đó mà phải thông qua người
đại diện.
Quy định như trên chưa thực sự chặt chẽ và thuyết phục, vì về mặt
nguyên tắc, người đã thành niên chỉ không được tham gia quan hệ pháp
luật tố tụng hình sự khi người đó bị bệnh làm mất khả năng nhận thức

hoặc điều khiển hành vi. Thực tiễn, có những trường hợp một người có
nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần nhưng khả năng nhận thức và điều
khiển hành vi của họ chỉ bị hạn chế một phần, nghĩa là họ vẫn có khả
năng nhận thức nhất định về hậu quả của việc khởi tố hay không khởi tố
vụ án cũng như ảnh hưởng của việc khởi tố vụ án đối với danh dự, nhân
phẩm, uy tín của mình. Trong khi đó, luật tố tụng hình sự lại "tước"
quyền yêu cầu khởi tố vụ án hình sự mang tính chất trực tiếp của họ mà
buộc phải thực hiện thông qua người đại diện, mặc dù họ hoàn toàn có đủ
khả năng nhận thức để tự thực hiện quyền này, đó rõ ràng là điều bất hợp
lý. Vấn đề sẽ càng trở nên phức tạp hơn nếu quan điểm giữa người bị hại
và người đại diện của họ không đồng nhất với nhau trong việc có yêu cầu
khởi tố vụ án hay không hoặc có rút yêu cầu khởi tố vụ án hay không.
Lúc này, cơ quan tiến hành tố tụng sẽ phải thực hiện theo yêu cầu của ai,
của người bị hại hay yêu cầu của người đại diện của bị hại? Đây là những
vấn đề phức tạp và bất cập phát sinh do quy định thiếu chặt chẽ và chưa
hoàn toàn phù hợp với thực tiễn của Điều 105 Bộ luật Tố tụng Hình sự.
Thứ hai : Về thời hạn yêu cầu khởi tố
Điều 105 Bộ luật Tố tụng Hình sự không quy định thời hạn cụ thể mà
trong đó người bị hại được quyền yêu cầu khởi tố, nghĩa là họ có quyền
4
yêu cầu khởi tố vụ án bất cứ lúc nào, không bị giới hạn về mặt thời gian.
Nếu vụ án thuộc trường hợp quy định tại Điều 105 Bộ luật Tố tụng Hình
sự mà vì một lý do nào đó người bị hại chưa yêu cầu không tố, nhưng
cũng không thể hiện ý chí là không yêu cầu khởi tố vụ án thì vụ án sẽ bị
"treo" và chưa thể được giải quyết. Những trường hợp này Cơ quan điều
tra không thể ra quyết định khởi tố vụ án vì chưa có yêu cầu khởi tố của
người bị hại, cũng không thể ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án vì
không có căn cứ. Mặt khác, theo quy định tại Điều 103 Bộ luật Tố tụng
Hình sự, thời hạn giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm là 20 ngày,
trường hợp đặc biệt có thể tới hai tháng. Tuy nhiên, thực tế có những

trường hợp thuộc quy định tại Điều 105 Bộ luật Tố tụng Hình sự, đã quá
hai tháng nhưng người bị hại vẫn không có yêu cầu khởi tố vụ án, họ
cũng không thể hiện ý chí từ bỏ quyền này. Hệ quả là Cơ quan điều tra
không thể giải quyết vụ án và buộc phải chấp nhận vi phạm thời hạn giải
quyết tin báo, tố giác về tội phạm theo quy định tại Điều 103 Bộ luật Tố
tụng Hình sự vì liên quan đến quyền yêu cầu khởi tố vụ án hình sự của
người bị hại.
Thứ ba : Về thay đổi quyết định khởi tố vụ án hình sự có liên quan
đến quyền yêu cầu khởi tố của người bị hại
Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự quy định về căn cứ, trình tự và thẩm
quyền thay đổi quyết định khởi tố vụ án hình sự khi quá trình điều tra xác
định tội phạm đã khởi tố không đúng với hành vi phạm tội xảy ra. Tuy
nhiên, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003 cũng như các văn bản hướng
dẫn liên quan chưa dự liệu đến trường hợp thay đổi quyết định khởi tố vụ
án có liên quan đến quyền yêu cầu khởi tố vụ án hình sự của người bị hại,
cụ thể:
Trường hợp Cơ quan điều tra khởi tố vụ án hình sự về hành vi phạm tội
thông thường, nhưng quá trình điều tra xác định tội phạm đã khởi tố
không đúng với hành vi tội phạm xảy ra và cần phải thay đổi quyết định
5

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×