Tải bản đầy đủ (.doc) (67 trang)

LUẬN VĂN ĐÁNH GIÁ RỦI RO TRONG GIAI ĐOẠN ĐẦU KIỂM TOÁN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (459 KB, 67 trang )

Luận văn tốt nghiệp GVHD: TS. Đoàn Thị Ngọc Trai
Phần I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐÁNH GIÁ RỦI RO TRONG GIAI ĐOẠN
CHUẨN BỊ KIỂM TOÁN.
1. Rủi ro trong kiểm toán:
Rủi ro trong kiểm toán là khả năng có những nhân tố bên trong và bên ngoài cuộc
kiểm toán tác động đến quá trình kiểm toán làm cho mục tiêu đề ra của cuộc kiểm toán
không đạt được. Trong đó:
Mục tiêu của cuộc kiểm toán:
Là giúp kiểm toán viên và Công ty kiểm toán đưa ra ý kiến xác nhận rằng báo cáo
tài chính có được lập trên cơ sở chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành (hoặc được
chấp nhận), có tuân thủ pháp luật liên quan và có phản ảnh trung thực và hợp lý trên
khía cạnh trọng yếu hay không?
Ngoài ra còn giúp cho đơn vị được kiểm toán thấy rõ những tồn tại, sai sót để khắc
phục nhằm nâng cao chất lượng thông tin tài chính ở đơn vị.
Mọi cuộc kiểm toán đều có rủi ro kiểm toán. Do đó, kiểm toán viên và Công ty
kiểm toán cần kiểm soát rủi ro ở mức chấp nhận được.
Trong kiểm toán có hai loại rủi ro thường gặp là rủi ro kinh doanh và rủi ro kiểm
toán.
1.1 Rủi ro kinh doanh.
1.1.1 Khái niệm
Là rủi ro xảy ra các thiệt hại về tài chính hoặc danh tiếng cho Công ty kiểm toán
do mối quan hệ với khách hàng. Xuất phát từ định nghĩa này có thể chia rủi ro kinh
doanh thành hai loại :
Rủi ro chấp nhận khách hàng : là rủi ro xảy ra các thiệt hại cho Công ty kiểm toán
do việc chấp nhận khách hàng. Các thiệt hại này thường đến sau những vụ kiện Công
ty kiểm toán từ phía khách hàng do Công ty kiểm toán vi phạm hợp đồng kiểm toán,
hoặc từ bên thứ ba để đòi bồi thường thiệt hại do sự bất cẩn của kiểm toán viên trong
việc điều hành và thực hiện cuộc kiểm toán. Rủi ro này thường liên quan đến các
khách hàng thiếu tính liêm chính, khách hàng liên quan đến nhiều vụ kiện tụng và các
hành vi gian lận, có khả năng bị vỡ nợ hoặc phá sản. Nguyên nhân gây ra loại rủi ro
này chủ yếu do Công ty kiểm toán đánh giá không chính xác về khách hàng khi quyết


định chấp nhận khách hàng hay duy trì mối quan hệ với khách hàng.
Rủi ro không chấp nhận khách hàng : là rủi ro do đánh giá sai về khách hàng dẫn
đến việc từ chối ký hợp đồng và mất đi các cơ hội kinh doanh. Đây là trường hợp trái
ngược với loại rủi ro ở trên. Trong điều kiện cạnh tranh khốc liệt như hiện nay, việc
mất đi một khách hàng là hết sức đáng tiếc. Do đó, loại rủi ro này là một trong những
mối quan tâm hàng đầu của các Công ty kiểm toán.
SVTH: Phan Thanh Lâm Trang 1
Luận văn tốt nghiệp GVHD: TS. Đoàn Thị Ngọc Trai
1.1.2 Một số yếu tố ảnh hưởng đến rủi ro kinh doanh trong công ty kiểm toán:
• Những đánh giá của kiểm toán viên về sự liêm chính của người quản lý.
• Mức độ phụ thuộc vào báo cáo tài chính của những người sử dụng bên
ngoài.
 Quy mô của khách hàng.
 Loại hình sở hữu.
 Bản chất của món nợ và số tiền nợ (phải trả).
 Khả năng khách hàng gặp khó khăn tài chính sau khi cuộc kiểm
toán kết thúc.
 Tình hình nợ.
 Tình hình lãi (lỗ) trong những năm trước.
 Phương pháp huy động tài chính.
 Bản chất của hoạt động kinh doanh của khách hàng.
 Năng lực của người quản lý
1.2 Rủi ro kiểm toán
1.2.1 Tổng quan về rủi ro kiểm toán:
1.2.1.1. Khái niệm về rủi ro kiểm toán:
Rủi ro kiểm toán là khả năng kiểm toán viên đưa ra ý kiến không thích đáng về
mức độ trung thực hợp lý của báo cáo tài chính.
Rủi ro kiểm toán thường xảy ra theo hướng: báo cáo tài chính có những sai phạm
trọng yếu nhưng kiểm toán viên không phát hiện được, do đó đưa ra ý kiến chấp nhận
toàn bộ đối với báo cáo tài chính. Trong trường hợp này, ý kiến chấp nhận toàn bộ là ý

kiến không thích hợp, không đúng về báo cáo tài chính. Điều đó có nghĩa là kiểm toán
viên đồng ý với thông tin được trình bày trên báo cáo tài chính, kết luận rằng báo cáo
tài chính không có những sai phạm trọng yếu. Với cách lập luận như vậy, rủi ro kiểm
toán được hiểu là xác suất tồn tại sai phạm trọng yếu trên báo cáo tài chính mà kiểm
toán viên không phát hiện được.
Rủi ro kiểm toán luôn tồn tại do các vấn đề sau đây:
• Trình độ khả năng thực tế của kiểm toán viên
• Giới hạn về thời gian và chi phí kiểm toán
• Kỹ thuật chọn mẫu trong kiểm toán
• Gian lận khó phát hiện hơn sai sót.
Rủi ro kiểm toán có thể được kiểm soát thông qua việc chia nhỏ phạm vi ảnh
hưởng của từng rủi ro và khả năng kiểm soát của kiểm toán viên đối với từng
loại rủi ro. Vì vậy, cần nghiên cứu các thành phần của rủi ro kiểm toán, xem xét
các tác động của từng thành phần đó đến khối lượng công việc kiểm toán cần
phải tiến hành, cũng như đến trình tự và các phương pháp kiểm toán thích hợp.
SVTH: Phan Thanh Lâm Trang 2
Luận văn tốt nghiệp GVHD: TS. Đoàn Thị Ngọc Trai
1.2.1.2. Các thành phần của rủi ro kiểm toán:
a. Rủi ro tiềm tàng
Rủi ro tiềm tàng là xác suất tồn tại sai phạm trọng yếu trên báo cáo tài chính
khi chưa chịu sự tác động của bất kỳ hoạt động kiểm tra nào, kể cả hệ thống kiểm soát
nội bộ của đơn vị được kiểm toán. Đây là yếu tố rủi ro mang tính khách quan, thuộc
về bản chất của đối tượng kiểm toán.
Rủi ro tiềm tàng được phân tích trên hai giác độ: doanh nghiệp và các khoản mục
nghiệp vụ:
Ở giác độ doanh nghiệp: rủi ro tiềm tàng nảy sinh từ hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp và tiềm ẩn trong môi trường kinh doanh.
• Đối với ngành nghề kinh doanh, đơn vị hoạt động trong lĩnh vực công nghệ
cao hoặc thời trang có rủi ro tiềm tàng cao hơn đơn vị hoạt động trong lĩnh vực khác
vì sản phẩm dễ bị lỗi thời hoặc đòi hỏi vốn đầu tư lớn vào công nghệ.

• Đặc điểm hoạt động kinh doanh: vì doanh nghiệp có nhiều nhà cung cấp và
giá cả ổn định thì có ít rủi ro hơn vì ít bị ảnh hưởng bởi thiếu nguyên vật liệu hoặc chi
phí đầu vào ổn định.
• Môi trường cạnh tranh: sản phẩm doanh nghiệp kinh doanh thuộc loại bị cạnh
tranh mạnh mẽ, các đối thủ cạnh tranh sử dụng các chiến lược giảm giá bán để giành
giật thị trường.
• Nhà quản lý yếu kém năng lực, không liêm khiết, ít kinh nghiệm quản lý thì
rủi ro tiềm tàng sẽ cao hơn.
Ở giác độ các khoản mục nghiệp vụ: rủi ro tiềm tàng nằm trong bản chất của
các số dư tài khoản hoặc bản chất các nghiệp vụ. Nói một cách khác, bản thân các
khoản mục nghiệp vụ này đã ẩn chứa trong nó những rủi ro, làm cho chúng có rủi ro
tiềm tàng cao hơn những nghiệp vụ hay khoản mục khác
• Các tài khoản phản ánh tài sản, hàng hóa quý giá sẽ có mức độ rủi ro tiềm
tàng cao hơn.
• Các nghiệp vụ phản ánh các giao dịch có tính toán phức tạp, ví dụ nghiệp vụ
thuê tài chính có rủi ro tiềm tàng cao hơn các nghiệp vụ có tính toán đơn giản như
khấu hao tài sản cố định theo phương pháp đường thẳng.
b. Rủi ro kiểm soát:
Rủi ro kiểm soát là xác suất hệ thống kiểm soát nội bộ của đơn vị không
phát hiện và ngăn chặn kịp thời các sai phạm trọng yếu trên báo cáo tài chính. Việc
thiết kế và duy trì một hệ thống kiểm soát nội bộ thuộc về trách nhiệm của nhà quản
lý tại đơn vị được kiểm toán. Hệ thống kiếm soát nội bộ được xây dựng hiệu quả sẽ
giúp cho doanh nghiệp quản lý tốt tài sản, ngăn ngừa các gian lận có thể xảy ra.
Ngược lại, hệ thống kiểm soát nội bộ không đủ mạnh sẽ là nguy cơ đối với hoạt động
của doanh nghiệp.
Chẳng hạn, các thủ tục kiểm soát hàng tồn kho không chặt chẽ như
không kiểm kê, đối chiếu, phiếu xuất kho không có phê duyệt có thể dẫn đến khả
năng thất thoát hàng tồn kho trong doanh nghiệp. Đối với tài sản tiền, việc chi tiền
mà không có sự phê duyệt của cấp trên hoặc không thường xuyên đối chiếu với ngân
hàng có thể làm gia tăng khả năng mất mát, biển thủ tiền. Cán bộ thanh toán được

SVTH: Phan Thanh Lâm Trang 3
Luận văn tốt nghiệp GVHD: TS. Đoàn Thị Ngọc Trai
giao đồng thời nhiệm vụ đi mua vật tư có thể dẫn đến vật tư không được đánh giá
đúng giá trị.
Như vậy, rủi ro kiểm soát là vấn đề thuộc về bộ máy quản lý của doanh
nghiệp, kiểm toán viên không tạo ra rủi ro kiểm soát và cũng không kiểm soát được
chúng. Trong giai đoạn lập kế hoạch, kiểm toán viên đánh giá tính hiệu quả của hệ
thống kiểm soát nội bộ trong doanh nghiệp, từ đó đưa ra mức rủi ro kiểm toán tương
ứng. Mức rủi ro kiểm toán này sẽ quyết định khối lượng công việc trong giai đoạn
thực hiện kiểm toán, nếu mức rủi ro kiểm toán thấp, hệ thống kiểm soát nội bộ của
doanh nghiệp đáng tin cậy thì kiểm toán viên sẽ thực hiện các thử nghiệm kiểm soát
và thử nghiệm cơ bản. Trong trường hợp rủi ro kiểm soát ở mức cao, kiểm toán viên
chỉ thực hiện các thử nghiệm cơ bản với khối lượng lớn nhằm đảm bảo khả năng phát
hiện ra các sai phạm trọng yếu trong báo cáo tài chính của doanh nghiệp.
c. Rủi ro phát hiện:
Rủi ro phát hiện là xác suất mà các thủ tục kiểm toán của kiểm toán viên không
phát hiện được những sai phạm trọng yếu trên báo cáo tài chính được kiểm toán.
Trách nhiệm của kiểm toán viên đối với rủi ro phát hiện ngược lại hoàn toàn so
với rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát, đối với loại rủi ro này, kiểm toán viên có thể
kiểm soát và khống chế chúng ở một mức mong muốn. Điều này còn phụ thuộc vào
khả năng của kiểm toán viên và vấn đề thời gian, chi phí của cuộc kiểm toán. Dựa
trên yêu cầu về độ tin cậy thông tin trên báo cáo tài chính được kiểm toán, kiểm toán
viên có trách nhiệm thực hiện các thủ tục thu thập bằng chứng kiểm toán thích hợp
để quản lý và kiểm soát đối với rủi ro phát hiện.
Mối quan hệ giữa các bộ phận trong rủi ro kiểm toán có thể minh họa như hình sau
Rủi ro tiềm tàng
Rủi ro kiểm soát
Rủi ro phát hiện

Rủi ro kiểm toán

Hình 1 : Rủi ro kiểm toán và các bộ phận rủi ro cấu thành.
SVTH: Phan Thanh Lâm Trang 4
Luận văn tốt nghiệp GVHD: TS. Đoàn Thị Ngọc Trai
1.2.2 Nguyên nhân gây ra rủi ro kiểm toán:
a. Rủi ro do sai sót
Rủi ro do sai sót là khả năng mà báo cáo tài chính đã kiểm toán có những sai lệch
trọng yếu do sai sót gây ra. Sai sót là những lỗi không cố ý có ảnh hưởng đến báo cáo
tài chính.
Những sai sót thường gặp là: Lỗi về tính toán số học hoặc tính toán sai; lỗi do bỏ
sót hoặc hiểu sai, làm sai các khoản mục, các nghiệp vụ kinh tế; Áp dụng sai các
chuẩn mực hoặc các nguyên tắc, phương pháp và chế độ kế toán, chính sách tài chính
nhưng không cố ý.
b. Rủi ro do gian lận.
Gian lận là những hành vi cố ý làm sai lệch các thông tin kinh tế, tài chính do một
hay nhiều người trong Hội đồng quản trị, Ban giám đốc các nhân viên hoặc bên thứ
ba thực hiện, làm ảnh hưởng đến báo cáo tài chính.
Gian lận do nhân viên và người quản lý của khách hàng gây ra là sự cố ý gây ra
sự nhầm lẫn, hay che giấu trong kế toán nhằm phản ánh sai tình hình tài chính của
đơn vị hay để trục lợi riêng.
Rủi ro do gian lận là khả năng mà báo cáo tài chính đã kiểm toán có những sai
phạm trọng yếu mà nguyên nhân là do gian lận gây ra.
Ví dụ về một số gian lận có thể có trên báo cáo tài chính:
- Biển thủ tài sản
- Ghi chép các nghiệp vụ kinh tế không đúng sự thật
- Làm giả tài liệu (nhằm xuyên tạc hay bóp méo các sự việc).
- Sửa đổi các bút toán đã ghi nhận hay những tài liệu kế toán chi tiết; che
dấu hoặc cố ý bỏ sót các thông tin, tài liệu hoặc nghiệp vụ kinh tế làm sai lệch báo
cáo tài chính.
- Sự trình bày và thể hiện sai các sự kiện nghiệp vụ hoặc thông tin quan
trọng khác.

- Áp dụng sai các chuẩn mực, nguyên tắc, phương pháp và chế độ kế toán
(liên quan đến số lượng , phân loại, cách thức trình bày và công bố), và các chính
sách tài chính một cách cố ý.
- Cố ý tính toán sai về số học.
Tuy nhiên việc phân biệt sai phạm nào là sai sót và sai phạm nào là gian lận là rất
khó
c. Rủi ro do sự vi phạm giả thiết liên tục hoạt động.
Vi phạm giả định hoạt động liên tục là khả năng giả thiết liên tục hoạt động
không còn đứng vững trong khoảng thời gian một năm kể từ ngày kết thúc niên độ.
Giả thiết liên tục hoạt động được hiểu là doanh nghiệp đang hoạt động liên tục và sẽ
tiếp tục hoạt động kinh doanh bình thường trong tương lai gần, nghĩa là doanh nghiệp
không có ý định cũng như không buộc phải ngừng hoạt động hoặc phải thu hẹp đáng
kể quy mô hoạt động của mình. Khi giả thiết liên tục hoạt động bị phá vỡ, căn cứ để
lập báo cáo tài chính cũng thay đổi. Do đó, nếu báo cáo tài chính vẫn được lập trên
SVTH: Phan Thanh Lâm Trang 5
Luận văn tốt nghiệp GVHD: TS. Đoàn Thị Ngọc Trai
căn cứ cũ thì các sai sót nghiêm trọng sẽ xuất hiện, bao gồm những sai sót trong việc
lựa chọn giữa giá gốc và giá trị có thể thực hiện được để ghi nhận tài sản, công nợ và
việc phân loại tài sản, công nợ.
Việc hiểu rõ các nhân tố gây ra sai sót trọng yếu trên báo cáo tài chính là vô cùng
cần thiết trong công tác đánh giá rủi ro. Điều này giúp kiểm toán viên dễ dàng theo
dõi các dấu hiệu, sự kiện, điều kiện làm gia tăng rủi ro.
1.2.3 Mối quan hệ giữa rủi ro kiểm toán, mức trọng yếu và bằng chứng kiểm
toán
a. Rủi ro kiểm toán và mức trọng yếu
Mức trọng yếu là khoảng sai phạm có thể chấp nhận được trên khoản mục
nếu kiểm toán viên xây dựng mức trọng yếu theo từng khoản mục. Thông thường,
mức trọng yếu sẽ quyết định thời gian và chi phí mà kiểm toán viên dành cho mỗi
khoản mục.
Rủi ro kiểm toán và mức trọng yếu có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Nếu

mức trọng yếu có thể chấp nhận được tăng lên thì rủi ro kiểm toán sẽ giảm xuống, vì
khi giá trị sai sót có thể bỏ qua tăng lên thì khả năng xảy ra sai sót trọng yếu (không
thể bỏ qua) sẽ giảm xuống. ngược lại, nếu giảm mức trọng yếu có thể chấp nhận được
thì rủi ro kiểm toán sẽ tăng lên.
Mối quan hệ giữa rủi ro kiểm toán và mức trọng yếu có ý nghĩa quan trọng
trong việc xác định nội dung, thời gian và phạm vi của các thủ tục kiểm toán. Chẳng
hạn sau khi lập xong chương trình kiểm tra chi tiết, kiểm toán viên phát hiện rằng
mức trọng yếu phải thấp hơn, do đó rủi ro kiểm toán sẽ tăng lên. Để bù lại, kiểm toán
viên phải mở rộng phạm vi kiểm toán và lựa chon các phương pháp kiểm toán hữu
hiệu hơn để giảm rủi ro phát hiện xuống mức chấp nhận được.
b. Rủi ro kiểm toán và bằng chứng kiểm toán
Bằng chứng kiểm toán là kết quả kiểm toán viên thu thập làm cơ sở đưa ra ý
kiến về báo cáo tài chính của đơn vị được kiểm toán. Bằng chứng được thu thập trong
giai đoạn thực hiện kiểm toán, khối lượng bằng chứng phụ thuộc vào mức độ rủi ro
kiểm toán chấp nhận được, chẳng hạn: mức rủi ro kiểm toán chấp nhận được giảm
xuống thì kiểm toán viên phải thực hiện các thử nghiệm nhiều hơn để thu thập đầy đủ
bằng chứng làm giảm rủi ro phát hiện.
Một khoản mục có độ rủi ro càng cao thì càng phải thu thập nhiều bằng chứng
hơn nữa. Bảng sau giới thiệu mối quan hệ giữa các loại rủi ro và số lượng bằng chứng
cần thu thập.
Tình huống
Rủi ro kiểm
toán có thể
chấp nhận
Rủi ro tiềm
tàng
Rủi ro kiểm
soát
Rủi ro phát
hiện

Số lượng
bằng chứng
cần thu thập
1 Cao Thấp Thấp Cao Ít
2 Thấp Thấp Thấp Trung bình Trung bình
3 Thấp Cao Cao Thấp Nhiều
4 Trung bình Trung bình Trung bình Trung bình Trung bình
5 Cao Thấp Trung bình Trung bình Trung bình
Hình 2: Rủi ro và bằng chứng kiểm toán
SVTH: Phan Thanh Lâm Trang 6
Luận văn tốt nghiệp GVHD: TS. Đoàn Thị Ngọc Trai
Trong trường hợp 1, kiểm toán viên quyết định chấp nhận mức rủi ro kiểm toán
cao đối với mỗi bộ phận. Kiểm toán viên đã kết luận là có mức rủi ro thấp đối với sai
sót trong các báo cáo tài chính và quá trình kiểm soát nội bộ có hiệu quả. Do đó, mức
rủi ro phát hiện cao là thích hợp. Và kết quả là số lượng bằng chứng cần thu thập
thấp. Trường hợp 3 thì ngược lại, nếu cả rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát đều cao
nhưng kiểm toán viên mong muốn mức rủi ro kiểm toán thấp thì số lượng bằng chứng
cần thu thập lại lớn. Các trường hợp còn lại có thể được giải thích tương tự.
1.2.4 Các nhân tố ảnh hưởng đến rủi ro
a. Rủi ro tiềm tàng
Rủi ro này chịu tác động của môi trường kinh doanh, của bối cảnh nền kinh tế thị
trường và các yếu tố xã hội khác.
Ở giác độ tổng thể báo cáo:
Sự liêm khiết, kinh nghiệm và hiểu biết của Ban Giám đốc cũng như sự thay đổi
thành phần Ban quản lý xảy ra trong niên độ kế toán
+ Trình độ và kinh nghiệm chuyên môn của kế toán trưởng, của các nhân viên
kế toán chủ yếu, của KTV nội bộ (nếu có) và sự thay đổi của các nhân viên
này
+ Những áp lực bất thường đối với Ban Giám đốc, đối với kế toán trưởng,
nhất là những hoàn cảnh thúc đẩy Ban Giám đốc, kế toán trưởng phải trình

bày báo cáo tài chính không trung thực
+ Những đặc điểm hoạt động của đơn vị
+ Các nhân tố ảnh hưởng đến lĩnh vực hoạt động của đơn vị
+ Quy mô của tổng thể báo cáo tài chính
Ở giác độ chi tiết khoản mục nghiệp vụ.
 Báo cáo tài chính có thể chứa đựng những sai sót như :
Báo cáo tài chính có những điều chỉnh liên quan đến niên độ trước ; báo
cáo tài chính có nhiều ước tính kế toán, hoặc trong năm tài chính có sự
thay đổi chính sách kế toán.
 Việc xác định số dư và số phát sinh của các tài khoản và
nghiệp vụ kinh tế đối với chi phí phát sinh sau khi ghi nhận ban đầu tài sản
cố định tính vào chi phí hay tính tăng nguyên giá tài sản cố định.
 Mức độ dễ bị mất mát, biển thủ tài sản như: phát sinh
nhiều nghiệp vụ thu, chi tiền mặt, tạm ứng tiền với số lượng lớn, thời gian
thanh toán dài…
 Mức độ phức tạp của các nghiệp vụ hay sự kiện quan trọng
đòi hỏi phải có ý kiến của chuyên gia như: xảy ra kiện tụng hoặc trộm cắp…
 Việc ghi chép các nghiệp vụ bất thường và phức tạp, đặc
biệt là gần thời điểm kết thúc niên độ.
 Các nghiệp vụ tài chính bất thường khác
SVTH: Phan Thanh Lâm Trang 7
Luận văn tốt nghiệp GVHD: TS. Đoàn Thị Ngọc Trai
b. Rủi ro kiểm soát
Hệ thống kiểm soát nội bộ trong doanh nghiệp không thể đạt được mức rủi ro
bằng không vì những hạn chế vốn có của hệ thống kiểm soát nội bộ. Hay nói cách
khác, hệ thống kiểm soát tốt chỉ có thể hạn chế tối đa những sai phạm, hạn chế của hệ
thống kiểm soát nội bộ, bao gồm:
• Phạm vi của hệ thống kiểm soát nội bộ bị giới hạn bởi vấn đề chi phí. Các nhà
quản lý luôn đòi hỏi chi phí cho cuộc kiểm tra phải hiệu quả, nghĩa là phải ít tổn
thất hơn do sai phạm và gian lận gây ra.

• Hầu hết các biện pháp kiểm tra đều phải tập trung vào các sai phạm thông
thường hoặc có thể dự kiến được, vì thế kho có thể phát hiện được các sai phạm
đột xuất hay bất thường.
• Sai phạm của nhân viên xảy ra do thiếu thận trọng, xao lãng, sai lầm trong xét
đoán hoặc hiểu sai các hướng dẫn của cấp trên.
• Việc điều hành và kiểm tra có thể bị ô hiệu hóa do sự thông đồng với bên ngoài
hoặc giữa các nhân viên trong đơn vị.
• Các thủ tục kiểm soát có thể không còn phù hợp vì điều kiện thực tế đã thay
đổi.
Tóm lại, hệ thống kiểm soát nội bộ hữu hiệu sẽ hạn chế bớt những sai sót và gian
lận nhưng không thể loại trừ hoàn toàn các sai phạm có thể xảy ra. Kiểm toán viên có
thể dựa vào hệ thống kiểm soát nội bộ của đơn vị để giảm bớt khối lượng công việc
kiểm tra của mình nhưng không thể dựa hoàn toàn vào hệ thống này. Chính vì vậy,
kiểm toán viên vẫn cần phải tiến hành các thử nghiệm cơ bản ngay cả khi hệ thống
kiểm soát nội bộ của đơn vị được đánh giá là hữu hiệu.
c. Rủi ro phát hiện
Rủi ro phát hiện có thể phát sinh từ hai nguyên nhân sau đây:
• Rủi ro do chọn mẫu: là rủi ro mà mẫu không đại diện cho tổng thể được
kiểm toán. Đây chính là rủi ro mà kết luận của kiểm toán viên đưa ra dựa trên kết quả
mẫu khác so với kết quả thực tế của tổng thể. Rủi ro do chọn mẫu có thể được giảm
bớt bằng cách tăng cỡ mẫu điều tra nhưng không thể bị loại bỏ hoàn toàn trừ khi kiểm
toán viên điều tra toàn bộ tổng thể.
• Rủi ro không do chọn mẫu: là rủi ro mà kiểm toán viên đưa ra kết luận
không thích hợp do sử dụng các phương pháp kiểm toán không phù hợp hoặc không
hiệu quả. Các phương pháp kiểm toán càng hiệu quả, rủi ro phát hiện càng thấp. Cần
chú ý rằng rủi ro phát hiện vẫn có thể xảy ra cho dù kiểm toán viên có kiểm tra tất cả
số dư và nghiệp vụ, bởi vì có thể kiểm toán viên đã sử dụng sai hoặc không phù hợp
phương pháp kiểm toán hoặc giải thích sai, nhận định sai về kết quả kiểm tra. Rủi ro
phi chọn mẫu có thể giảm bớt bằng cách áp dụng thủ tục kiểm soát chất lượng và tuân
thủ các chuẩn mực kiểm toán.

SVTH: Phan Thanh Lâm Trang 8
Luận văn tốt nghiệp GVHD: TS. Đoàn Thị Ngọc Trai
2. Đánh giá rủi ro kiểm toán
2.1 Khái niệm
Đánh giá rủi ro kiểm toán là quá trình khảo sát tình hình doanh nghiệp và áp
dụng các biện pháp nghiệp vụ để phân tích điểm mạnh, điểm yếu trong hoạt động của
doanh nghiệp, cũng như hệ thống kiểm soát nội bộ mà doanh nghiệp đang áp dụng.
Từ đó, có quyết định về việc chấp nhận hợp đồng kiểm toán và mức độ, nội dung
thực hiện công việc kiểm toán tại doanh nghiệp khách hàng.
Đánh giá rủi ro kiểm toán là công việc cần thiết phải thực hiện của kiểm toán
viên trước khi thực hiện kiểm toán báo cáo tài chính doanh nghiệp. Đánh giá rủi ro
kiểm toán sẽ cho thấy mức độ rủi ro trong hoạt động của doanh nghiệp, từ đó kiểm
toán viên xác định phần nào cần tập trung hơn để tìm ra sai phạm trọng yếu của doanh
nghiệp. Đồng thời điều này cũng cho phép kiểm toán viên thu hẹp được phạm vi thực
hiện kiểm toán đối với những khoản mục có mức độ rủi ro được đánh giá là thấp,
trong điều kiện hạn chế về thời gian và nhân lực.
Đánh giá rủi ro kiểm toán thông qua quá trình tìm hiểu chỉ ra được điểm hạn
chế trong hoạt động kiểm soát của doanh nghiệp, nên kiểm toán viên sau cuộc kiểm
toán có thể tư vấn cho doanh nghiệp các biện pháp nâng cao hiệu quả kiểm soát.
2.2 Phương pháp đánh giá rủi ro
2.2.1 Phương pháp đánh giá rủi ro tiềm tàng.
Những vấn đề cần tìm hiểu trong giai đoạn đánh giá rủi ro tiềm tàng.
• Những thông tin về nên kinh tế trong nước và ngoài nước.
• Những thông tin về lĩnh vực kinh doanh.
• Những đặc điểm quan trọng về quản lý và sở hữu vốn.
• Những vấn đề về hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
• Vấn đề về việc thực thi về tài chính.
• Môi trường lập báo cáo
Các phương pháp tìm hiểu:
- Dựa vào kinh nghiệm của kiểm toán viên.

- Thẩm vấn nhân viên của khách hàng.
- Trao đổi với kiểm toán viên tiền nhiệm (nếu có).
- Phỏng vấn người quản lý.
- Thông qua các tài liệu truyền thông.
- Xem xét báo cáo tài chính đã kiểm toán (nếu có).
- Xem xét các dấu hiệu cảnh báo.
Ngoài ra còn cần phải xem xét một số nhân tố khác như.
 Các ước tính kế toán: rủi ro tiềm tàng ở các tài khoản phản ánh các
ước tính kế toán (dự phòng các khoản phải thu khó đòi, dự phòng giảm giá
hàng tồn kho), thường được đánh giá là cao.
 Quy mô của các số dư tài khoản.
Tổng hợp kết quả tìm hiểu để đưa ra những đánh giá về rủi ro tiềm tàng.
SVTH: Phan Thanh Lâm Trang 9
Luận văn tốt nghiệp GVHD: TS. Đoàn Thị Ngọc Trai
• Sau khi đã tìm hiểu những vấn đề trên, kiểm toán viên cần thiết phải tổng
hợp những thông tin đó.
• Thông thường, rủi ro tiềm tàng thường được thiết kế ban đầu là 100%, và
thấp nhất là 50%. Hoặc do một lý do nào đó mà kiểm toán viên không thể đánh giá
được rủi ro tiềm tàng thì kiểm toán viên cũng có thể đánh giá rủi ro tiềm tàng ở mức
cao nhất là 100%.
• Ngoài ra kiểm toán viên cũng có thể đánh giá một các tương đối theo các
mức độ như: cao, trung bình, thấp cho toàn bộ báo cáo tài chính, và cho từng khoản
mục. Và kiểm toán viên cũng có thể đánh giá là rủi ro tiềm tàng của khách hàng là rất
cao đối với những khách hàng mà kiểm toán viên không có khả năng đánh giá rủi ro
tiềm tàng nhằm đảm bảo tính thận trọng trong kiểm toán.
2.2.2 Phương pháp đánh giá rủi ro kiểm soát.
• Để đánh giá rủi ro kiểm soát kiểm toán viên phải nghiên cứu hoạt động kinh
doanh, áp dụng thủ tục phân tích, nghiên cứu và đánh giá kiểm soát nội bộ.
Thu thập những hiểu biết về hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ.
Những vấn đề cần tìm hiểu:

 Xem xét môi trường kiểm soát của doanh nghiệp.
 Xem xét những đánh giá rủi ro.
 Xem xét hệ thống thông tin kế toán và truyền thông của doanh nghiệp.
 Xem xét các hoạt động kiểm soát của doanh nghiệp.
 Xác định những yếu kém không được xử lý bởi hệ thống kiểm soát nội bộ.
Phương pháp thực hiện:
 Nghiên cứu cấu trúc tổ chức.
 Phỏng vấn người quản lý về những hoạt động kiểm soát cần thiết và xem xét
chúng có được thực thi không
 Thẩm vấn nhân viên của khách hàng thông qua bảng câu hỏi.
 Trao đổi với kiểm toán viên tiền nhiệm (nếu có)
Đánh giá ban đầu về rủi ro kiểm soát
Đánh giá ban đầu về rủi ro kiểm soát bao gồm việc đánh giá tính hữu hiệu của hệ
thống kiểm soát nội bộ trong việc trong việc ngăn ngừa phát hiện và sửa chữa các sai
phạm trong hoạt động tài chính kế toán của doanh nghiệp.
Tìm hiểu những thủ tục kiểm soát thay thế.
• Một số khách hàng, có thể do không có điều kiện để thực thi đầy đủ những
thủ tục cần thiết nhằm đảm bảo cho hệ thống kiểm soát nội bộ hoạt động tốt (ví dụ
như những doanh nghiệp nhỏ). Tuy nhiên, tuỳ thuộc vào từng điều kiện của mỗi
doanh nghiệp mà các nhà quản lý sẽ đưa ra những thủ tục kiểm soát thích hợp nhằm
hạn chế đến mức thấp nhất khả năng xảy ra sai sót và gian lận. Kiểm toán viên cần
phải phỏng vấn những người quản lý (của khách hàng) về những thủ tục kiểm soát
căn cứ vào điểm kiểm soát đã xác định ở trên.
SVTH: Phan Thanh Lâm Trang 10
VSA 310
VSA 250 VSA 240
VSA 400
VSA 300
VSA 570
Luận văn tốt nghiệp GVHD: TS. Đoàn Thị Ngọc Trai

Thực hiện những thử nghiệm kiểm soát đối với những đánh giá rủi ro kiểm soát là
thấp hơn mức tối đa.
• Xem xét lại quy trình xử lý.
• Quan sát.
• Kiểm tra tài liệu
Kết luận những tài liệu chứng minh và đánh giá lại rủi ro kiểm soát
• Từ các bằng chứng thu thập được từ các thử nghiệm kiểm soát sẽ giúp cho các
kiểm toán viên biết được hệ thống kiểm soát nội bộ có được thực thi không và việc
thực thi có hiệu quả không.
2.3 Các chuẩn mực kiểm toán Việt Nam trong đánh giá rủi ro kiểm toán
Sơ đồ sau đây sẽ tóm tắt mối quan hệ giữa các chuẩn mực trong việc thiết lập các
yêu cầu đối với công tác tìm hiểu khách hàng và đánh giá rủi ro :
Hình 3 : Mối quan hệ giữa các chuẩn mực kiểm toán.
Trong mối quan hệ này, VSA 310 và VSA 400 giữ vai trò trung tâm. Sau đây, yêu
cầu cụ thể của các chuẩn mực này sẽ được lần lượt giới thiệu.
 VSA 240 – Gian lận và sai sót ; VSA 250 – Xem xét tính tuân thủ pháp luật
và các qui định trong kiểm toán báo cáo tài chính ; VSA 570 – Tính liên tục trong hoạt
động kinh doanh
Các chuẩn mực này đưa ra những tình huống, sự kiện, điều kiện làm tăng rủi ro do
gian lận, sai sót, rủi ro do các hành vi không tuân thủ luật pháp và qui định, rủi ro giả
thiết liên tục hoạt động không còn đứng vững; và yêu cầu kiểm toán viên phải bám sát
các dấu hiệu này trong suốt quá trình tìm hiểu khách hàng. Kết quả quá trình tìm hiểu
những tình huống, sự kiện này cung cấp thông tin hữu ích giúp kiểm toán viên đánh
giá và phản ứng kịp thời với rủi ro trong các giai đoạn của cuộc kiểm toán.
SVTH: Phan Thanh Lâm Trang 11
Luận văn tốt nghiệp GVHD: TS. Đoàn Thị Ngọc Trai
 VSA 310 –Hiểu biết về tình hình kinh doanh
Chuẩn mực này yêu cầu kiểm toán viên phải tìm hiểu về tình hình kinh doanh của
khách hàng một cách liên tục trong tất cả các giai đoạn của cuộc kiểm toán. Sự hiểu
biết này phải đầy đủ, thấu đáo và được thu thập từ nhiều nguồn khác nhau, làm cơ sở

chủ yếu cho việc đánh giá rủi ro.
 VSA 400 – Đánh giá rủi ro và kiểm soát nội bộ
Chuẩn mực này yêu cầu kiểm toán viên phải thực hiện tìm hiểu hệ thống kiểm soát
nội bộ của khách hàng, đánh giá rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát dựa trên những
hiểu biết về khách hàng, đồng thời sử dụng sự xét đoán nghề nghiệp của mình để đánh
giá rủi ro kiểm toán và thiết kế các thủ tục kiểm toán sao cho rủi ro kiểm toán giảm
xuống mức có thể chấp nhận được.
 VSA 300 – Lập kế hoạch kiểm toán
Chuẩn mực này yêu cầu kiểm toán viên phải lập kế hoạch kiểm toán dựa trên
những hiểu biết thích hợp và đầy đủ về tình hình hoạt động kinh doanh, hệ thống kế
toán và kiểm soát nội bộ của khách hàng. Trong đó, việc nhận diện các thủ tục và ước
tính kế toán phức tạp, các khu vực có rủi ro cao của báo cáo tài chính, các bên hữu
quan và công tác đánh giá rủi ro được đặc biệt nhấn mạnh. Các loại rủi ro kiểm toán
viên phải quan tâm khi lập kế hoạch kiểm toán bao gồm rủi ro xảy ra sai sót trọng yếu
trên báo cáo tài chính ( do hai thành phần rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát cấu
thành ) do sai sót, gian lận, hành vi không tuân thủ pháp luật và các qui định, và do giả
thiết liên tục hoạt động bị phá vỡ.
2.4
Mô hình đánh giá rủi ro và ma trận rủi ro
2.4.1 Mô hình rủi ro
Mô hình rủi ro kiểm toán được biểu thị bằng công thức sau :
AR = IR x CR x DR
Trong đó : AR : rủi ro kiểm toán mong muốn
IR : rủi ro tiềm tàng
CR : rủi ro kiểm soát
DR : rủi ro phát hiện
Mô hình rủi ro kiểm toán được dùng để giúp kiểm toán viên đánh giá liệu kế
hoạch kiểm toán có hợp lý hay không. Thí dụ, với một cuộc kiểm toán, giả sử kiểm
toán viên đánh giá rủi ro tiềm tàng là 80%, rủi ro kiểm soát 50% và rủi ro phát hiện là
10%. Rủi ro kiểm toán tính được khi đó sẽ là 4% (0,8 x 0,5 x 0,1). Nếu kiểm toán viên

kết luận là rủi ro kiểm toán mong muốn thích hợp đối với hợp đồng không thấp 4% thì
kế hoạch đó sẽ được chấp nhận.
Ngoài ra, kiểm toán viên còn sử dụng mô hình kiểm toán theo cách khác để xác
định rủi ro phát hiện và số lượng bằng chứng thích hợp cần phải thu thập. Với mục
đích đó, mô hình rủi ro kiểm toán được xây dựng theo hình thức sau:
SVTH: Phan Thanh Lâm Trang 12
Luận văn tốt nghiệp GVHD: TS. Đoàn Thị Ngọc Trai
Quy trình vận dụng mô hình này để đánh giá rủi ro diễn ra như sau :
 Đầu tiên, kiểm toán viên thiết lập một mức rủi ro kiểm toán có thể chấp nhận
được cho từng hợp đồng kiểm toán. Mức rủi ro này sẽ được áp dụng cho tất cả cơ sở
dẫn liệu của các số dư hoặc loại nghiệp vụ quan trọng.
 Sau đó, rủi ro tiềm tàng sẽ được tiến hành đánh giá cho tổng thể báo cáo tài
chính và cho các số dư hoặc loại nghiệp vụ quan trọng đến từng cơ sở dẫn liệu.
 Kế tiếp, kiểm toán viên phải thực hiện đánh giá rủi ro kiểm soát cho cơ sở dẫn
liệu của các số dư hoặc loại nghiệp vụ quan trọng.
 Cuối cùng, dựa vào rủi ro kiểm toán, rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát đã
đựơc đánh giá để xác định rủi ro phát hiện.
Tiếp tục thí dụ trên, giả sử kiểm toán viên xây dựng tỷ lệ rủi ro kiểm toán
mong muốn là 5%, kế hoạch kiểm toán được thay đổi để thu thập bằng chứng phù hợp
với mức rủi ro phát hiện là 12,5%, vì 0,5/ (0,8 x 0,5) bằng 0,125. Sử dụng hình thức
này của mô hình rủi ro, yếu tố chính là rủi ro phát hiện vì nó xác định số lượng bằng
chứng cần thiết. nhu cầu bằng chứng tăng lên khi rủi ro phát hiện giảm xuống.
Tuy nhiên, kiểm toán viên thường không sử dụng mô hình này như một công
thức toán học, mà sử dụng như một công cụ hỗ trợ để phán đoán và xác định mức độ
sai sót có thể chấp nhận được, làm cơ sở để thiết kế các thủ tục và điều hành kiểm
toán. Các đánh giá về rủi ro tiềm tàng ở mức độ tổng thể báo cáo tài chính không ảnh
hưởng trực tiếp đến việc thiết kế và thực hiện các thủ nghiệm cơ bản, nhưng đó là
những căn cứ kiểm toán viên và Công ty kiểm toán cần tham khảo để kiểm soát rủi ro
kiểm soát.
Nếu kiểm toán viên đánh giá rủi ro ở mức định tính thì có thể dùng ma trận rủi ro để

đánh giá rủi ro phát hiện.
2.4.2 Ma trận rủi ro
Như đã nêu trên, rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát tồn tại độc lập và khách
quan đối với công việc kiểm toán, chúng nằm ngay trong chức năng hoạt động kinh
doanh và môi trường pháp lý của doanh nghiệp, cũng như trong bản chất của số dư tài
khoản và loại nghiệp vụ. Vì vậy, kiểm toán viên không thể kiểm soát và giảm thấp rủi
ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát. Tuy nhiên, nếu kiểm toán viên đánh giá xác đáng các
rủi ro này thì có thể xác định mức độ rủi ro phát hiện có thể chấp nhận được trên cơ sở
rủi ro kiểm toán mong muốn.
Rủi ro kiểm toán có thể thiết lập bằng một bảng dưới dạng ma trận sau:
SVTH: Phan Thanh Lâm Trang 13
) CR x IR (
AR
= DR
Luận văn tốt nghiệp GVHD: TS. Đoàn Thị Ngọc Trai
Đánh giá của kiểm toán viên về rủi ro
kiểm soát
Cao
Trung
bình
Thấp
Đánh giá của
kiểm toán viên về
rủi ro tiềm tàng
Cao Tối thiểu Thấp
Trung
bình
Trung
bình
Thấp

Trung
bình
Cao
Thấp
Trung
bình
Cao Tối đa
Hình 4 : Ma trận rủi ro phát hiện
Qua bảng ma trận này, ta thấy quan hệ kết hợp giữa rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm
soát và rủi ro phát hiện do kiểm toán viên dự kiến là mối quan hệ tỷ lệ nghịch. Chẳng
hạn, khi kiểm toán viên tin rằng, rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát đều cao thì kiểm
toán viên phải dự kiến rủi ro phát hiện ở mức độ thấp nhất để hạn chế rủi ro kiểm toán
ở mức độ chấp nhận được. Ngược lại, khi rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát được
đánh giá thấp thì rủi ro phát hiện được đánh giá ở mức độ cao nhất đề giảm số lượng
bằng chứng cần thiết, đảm bảo hiệu quả cuộc kiểm toán.
2.5 Sự cần thiết phải đánh giá rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát.
2.5.1 Là những đánh giá quan trọng khi chấp nhận khách hàng.
Việc chấp nhận khách hàng là một công việc quan trọng vì nó liên quan đến rủi
ro kinh doanh của công ty kiểm toán.
2.5.2 Thiết kế chương trình kiểm toán cho phù hợp với những yếu kém đã phát
hiện.
• Phát hiện những khu vực có sai sót trọng yếu và gian lận.
Với những hiểu biết về đặc điểm ngành nghề, và những vấn đề tìm hiểu được ở
phần trên thì kiểm toán viên cũng đã có thể xác định được khu vực yếu kém của khách
hàng, cũng như có thể biết được khu vực nào có yếu kém quan trọng, khu vực nào có
gian lận nhằm tạo điều kiện cho cuộc kiểm toán thực hiện có hiệu quả hơn.
• Điều chỉnh lại mức trọng yếu phù hợp
Trọng yếu chỉ mức độ quan trọng của thông tin kế toán (của các nghiệp vụ hay số
dư tài khoản). Tính trọng yếu được xác định trên hai mức độ:
 Mức trọng yếu riêng lẻ cho từng khoản mục

 Mức trọng yếu tổng hợp cho cả báo cáo tài chính.
Để xác định mức trọng yếu kiểm toán viên thường căn cứ vào:
 Tính chất (lĩnh vực) hoạt động của khách hàng. Ví dụ: Đối với khách
hàng là nhà phân phối hàng hoá thì tính trọng yếu sẽ rơi vào khoản mục hàng
tồn kho. Đối với khách hàng là tổ chức dịch vụ (dịch vụ tư vấn) thì tính trọng
yếu lại rơi vào việc ghi nhận doanh thu.
SVTH: Phan Thanh Lâm Trang 14
Luận văn tốt nghiệp GVHD: TS. Đoàn Thị Ngọc Trai
 Đánh giá rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát. Tuỳ theo kết quả đánh giá
rủi ro kể cả là đánh giá ở mức độ toàn bộ báo cáo tài chính hay cho từng nghiệp
vụ , từng khoản mục, là cao hay thấp để xác định khoản mục đó có trọng yếu
hay không. Nếu kiểm toán viên xác định rủi ro của khoản mục nào đó là cao thì
khoản mục đó là trọng yếu và ngược lại.
Mức trọng yếu thiết lập cho các tài khoản trên bảng cân đối kế toán cần thiết phải
cao hơn mức trọng yếu cho các tài khoản trên bảng báo cáo kết quả hoạt động kinh
doanh bởi vì các tài khoản trên bảng báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh sẽ ảnh
hưởng đến thu nhập thuần còn các tài khoản trên bảng cân đối kế toán thì không.
Xác định mức trọng yếu phù hợp sẽ giúp cho việc xác định phạm vi, loại bằng
chứng cần phải thu thập. Cần thiết phải xem xét mức trọng yếu cả trong giai đoạn lập
kế hoạch lẫn trong giai đoạn đánh giá. Có thể thấy rằng mức trọng yếu trong giai đoạn
đánh giá và giai đoạn lập kế hoạch có khác biệt là do trong quá trình kiểm toán sẽ có
những yếu tố tác động làm cho mức trọng yếu thay đổi, hay có thể trong quá trình
kiểm toán sẽ có những thay đổi về đánh giá rủi ro do sai sót rủi ro do gian lận và rủi ro
do tuân thủ.
2.5.3 Xác định nội dung, thời gian và phạm vi thu thập bằng chứng để đưa ra ý
kiến thích đáng.
• Kiểm toán viên sau khi đã tiến hành đánh giá rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm
soát, thì họ sẽ xác định mức trọng yếu các khoản mục. Và từ đó họ sẽ thiết lập chương
trình kiểm toán. Trong chương trình kiểm toán, căn cứ vào rủi ro và mức trọng yếu họ
sẽ xác định:

 Nội dung: Là loại bằng chứng thích hợp cho việc đưa ra quyết định.
=>Khi rủi ro tiềm tàng và rủi ro phát hiện được đánh giá là cao thì nhất thiết cần
phải thu thập càng nhiều càng tốt những bằng chứng có độ tin cậy cao như các bằng
chứng vật chất hay bằng chứng được bên ngoài trực tiếp gởi tới cho kiểm toán viên.
Còn nếu rủi ro tiềm tàng, và rủi ro kiểm soát được đánh giá là thấp thì cũng có thể
chấp nhận các bằng chứng tài liệu hay các bằng chứng do bên ngoài lập nhưng được
lưu trữ tại đơn vị, bằng chứng mà đơn vị lập nhưng được luân chuyển ở bên ngoài sau
đó lại được lưu trữ tại đơn vị, hoặc cũng có thể là các bằng chứng mà nó được lập và
lưu trữ bên trong doanh nghiệp.
• Thời gian: Thời gian tiến hành thu thập các bằng chứng kiểm toán.
• Phạm vi: Phạm vi cuộc kiểm toán chính là kích thước mẫu mà kiểm toán viên
chọn để áp dụng cho việc thu thập bằng chứng của từng mục tiêu kiểm toán, hay từng
thủ tục kiểm toán.
Việc áp dụng kích thước mẫu phù hợp sẽ đáp ứng được tính đầy đủ trong việc thu
thập bằng chứng cho ý kiến của kiểm toán viên về báo cáo tài chính.
• Kích thước mẫu phụ thuộc vào các yếu tố sau đây:
Tính chất của loại bằng chứng thu thập.
Đánh giá rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát của kiểm toán viên trên toàn bộ báo
cáo tài chính và cho từng khoản mục.
SVTH: Phan Thanh Lâm Trang 15
Luận văn tốt nghiệp GVHD: TS. Đoàn Thị Ngọc Trai
PHẦN II: CÔNG TÁC ĐÁNH GIÁ RỦI RO TRONG GIAI ĐOẠN CHUẨN
BỊ KIỂM TOÁN TẠI CÔNG TY KIỂM TOÁN VÀ TƯ VẤN THUẾ ATAX
1. Giới thiệu tổng quan về công ty kiểm toán và tư vấn thuế ATAX.
Tên công ty: công ty TNHH kiểm toán và tư vấn thuế A.T.A.X
Tên giao dịch: A.T.A.X Auditing And Consulting Company Limited.
Tên viết tắt: A.T.A.X CO.LTD
Số hiệu công ty 105
Trụ sở chính: Lô A92- đường 30-4
Điện thoại: 05113565765

Email:
1.1Lịch sử hình thành và phát triển của công ty kiểm toán
Công ty TNHH kiểm toán và tư vấn thuế A.T.A.X được thành lập theo quyết
định số 3202003333 đăng ký ngày 30 tháng 6 năm 2006 và là một trong những công
ty có đủ điều kiện kiểm toán theo công văn số 302/ VACPA ngày 26/11/2009 của
VACPA. Với nguồn vốn điều lệ là 2.100.000.000 đồng.
Công ty thành lập trong điều kiện còn gặp nhiều khó khăn về cơ sở vật chất và
nguồn nhân lực. Hệ thống máy tính và thiết bị văn phòng chưa đầy đủ, số lượng kiểm
toán viên chỉ có 5 người. Số lượng nhân viên chỉ có hơn 10 thành viên. Khách hàng
chủ yếu là ở khu vực miền trung.
Sau hơn hai năm hoạt động, cho đến nay công ty đã mở rộng phạm vi hoạt
động ra miền Nam. Doanh thu tăng cao, ngoài ra số lượng kiểm toán viên cũng tăng
lên đến 10 người. Chất lượng hoạt động kiểm toán được cải thiện và dần lấy được
niềm tin nơi doanh nghiệp.
Hiện nay, số lượng nhân viên trong công ty đã tăng lên hơn 20 người. công ty
đã có điều kiện trang bị máy tính xách tay và các thiết bị văn phòng đầy đủ cho nhân
viên thực hiện công việc.
1.2Thành quả đạt được trong những năm qua
ATAX là một trong số ít các công ty kiểm toán hoạt động tại Việt Nam được Uỷ
ban chứng khoán Nhà nước chấp thuận kiểm toán các tổ chức phát hành, tổ chức niêm
yết và tổ chức kinh doanh chứng khoán; được Bộ Tài chính cho phép cung cấp dịch vụ
xác định giá trị doanh nghiệp để cổ phần hoá.
Đội ngũ nhân viên của ATAX được đào tạo chính quy, có hệ thống ở trong nước
và nước ngoài, được các chuyên gia cao cấp về kiểm toán của Cộng đồng Châu Âu bồi
dưỡng nghiệp vụ thông qua Chương trình trợ giúp kỹ thuật của Liên minh Châu Âu
(EURO – TAPVIET).
Trong các năm qua, nhờ có đội ngũ chuyên gia am tường các lĩnh vực kế toán,
kiểm toán, thuế, tài chính, ATAX đã cung cấp dịch vụ chất lượng cao đến hàng trăm
khách hàng thuộc nhiều loại hình doanh nghiệp, mọi thành phần kinh tế trên khắp Việt
Nam: doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp nhà nước, công ty cổ

phần, doanh nghiệp tư nhân, các tổ chức phi chính phủ, các cơ quan quản lý Nhà nước,
các ban quản lý dự án, … và đã nhận được sự tín nhiệm lớn từ phía khách hàng.
SVTH: Phan Thanh Lâm Trang 16
Luận văn tốt nghiệp GVHD: TS. Đoàn Thị Ngọc Trai
Ghi nhận chất lượng dịch vụ của ATAX, ngày 11/10/2009, tại Hà Nội, Ban tổ
chức giải thưởng "Thương hiệu chứng khoán uy tín năm 2009" đã bình chọn, trao Cúp
vàng và chứng nhận đạt giải cho ATAX - một trong 14 công ty kiểm toán được vinh
danh là tổ chức kiểm toán uy tín.
1.3 Các loại hình dịch vụ do ATAX cung cấp
Dịch vụ kiểm toán
 Kiểm toán báo cáo tài chính hàng năm.
 Kiểm toán hoạt động các dự án
 Kiểm toán tuân thủ.
 Soát xét thông tin trên báo cáo tài chính.
 Kiểm tra thông tin tài chính trên cơ sở thủ tục thỏa thuận trước.
 Kiểm toán báo cáo quyết toán vốn đầu tư dự án / công trình xây dựng hoàn
thành
Dịch vụ tư vấn thuế bao gồm:
• Hoạch định chiến lược thuế
• Tái cấu trúc hoạt động kinh doanh có hiệu quả do ảnh hưởng của thuế
• Kê khai thuế: thuế nhà thầu, thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp,
thuế thu nhập cá nhân. Quyết toán thuế các loại.
• Tư vấn cho doanh nghiệp khi có vướng mắc về thuế.
• Hội thảo, đào tạo cập nhật các quy định mới về thuế.
Dịch vụ kế toán
• Tổ chức hệ thống kế toán.
• Làm kế toán.
• Tư vấn kế toán.
Dịch vụ tư vấn tài chính gồm:
• Xác định giá trị doanh nghiệp.

• Tư vấn cổ phần hóa, chuyển đổi loại hình doanh nghiệp.
• Tư vấn sát nhập, mua lại doanh nghiệp.
• Tư vấn lập dự án đầu tư, thành lập doanh nghiệp.
1.4 1.3 Cơ cấu tổ chức quản lý và nguồn nhân lực.
Công ty đã xây dựng một mô hình quản lý theo các phòng ban chức năng. Mô hình
này giảm thiểu chi phí hành chính, giảm các bộ phận trung gian trong quá trình quản
lý. Các kế hoạch, chiến lựơc hoạt động của ban giám đốc đựoc phổ biến thẳng xuống
cho các bộ phận thực thi và ngược lại mọi sự phản hồi từ các bộ phận triển khai hoạt
động cũng được Ban giám đốc nắm bắt nhanh chóng.
Công ty thực hiện việc phân chia phòng ban theo mục đích phục vụ khách hàng,
mỗi phòng nghiệp vụ sẽ chịu trách nhiệm cung cấp một loại hình dịch vụ nhất định
cho khách hàng nhờ đó mà chất lượng dịch vụ cung cấp sẽ đựơc nâng cao do sự am
hiểu khách hàng và chuyên môn hoá trong công việc cũng như việc quy trách nhiệm
trong quản lý.
SVTH: Phan Thanh Lâm Trang 17
Luận văn tốt nghiệp GVHD: TS. Đoàn Thị Ngọc Trai
Hình 5: Cơ cấu tổ chức công ty
• Phòng giám đốc:
Giám đốc Nguyễn Văn Sĩ là người đại diện theo pháp luật của công ty, là lãnh đạo
công ty, có nhiệm vụ điều hành toàn bộ các hoạt động của công ty, đề ra các phương
hướng phát triển cho công ty cùng những chính sách thủ tục trong hoạt động của công
ty. Giám đốc còn có nhiệm vụ ký các báo cáo kiểm toán trước khi phát hành, thực hiện
khảo sát thị trường, ký kết hợp đồng kiểm toán với khách hàng. Mặc dù không tham
gia trực tiếp vào cuộc kiểm toán nhưng giám đốc luôn giám sát hoạt động của các
nhân viên và thực hiện hướng dẫn, kiểm tra công viêc cho nhân viên.
• Phòng phó giám đốc
Các công việc của nhóm kiểm toán được thông qua phòng phó giám đốc trước khi
trình lên phòng giám đốc. Phó giám đốc chịu trách nhiệm soát xét lại công việc của
kiểm toán viên , đánh giá rủi ro và kiểm soát nội bộ của khách hàng. Trực tiếp quản lý
nhóm kiểm toán, tham gia kiểm toán tại khách hàng.

• Phòng nghiệp vụ 1 và 2.
Hai phòng nghiệp vụ chuyên thực hiện kiểm toán báo cáo tài chính.
• Phòng kiểm toán xây dựng cơ bản
Có nhiệm vụ thực hiện kiểm toán quyết toán vốn đầu tư cho các công trình xây
dựng cơ bản.
• Phòng hành chính
Thực hiện công tác quản lý nhân sự của công ty, liên hệ giao dịch với khách hàng
và quản lý trang thiết bị văn phòng trong công ty.
• Phòng kế toán
Có nhiệm vụ ghi chép sổ sách về tình hình thu chi trong quá trình hoạt động của
công ty, quản lý tài chính.
SVTH: Phan Thanh Lâm Trang 18
Phòng giám đốc:
Phòng phó giám đốc:
Phòng
hành chính
Phòng
NV1
Phòng kiểm
toán XDCB
Phòng kế
toán
Phòng
NV2
Luận văn tốt nghiệp GVHD: TS. Đoàn Thị Ngọc Trai
Thông thường, sau khi một hợp động được chính thức ký kết bởi các thành viên
của Ban Giám đốc, Chủ nhiệm kiểm toán sẽ chịu trách nhiệm xem xét, lập kế hoạch
kiểm toán và chịu trách nhiệm soát xét hồ sơ kiểm toán cũng như Báo cáo kiểm toán
trước khi trình Ban Giám đốc soát xét lần cuối. Đối với những khách hàng lớn, yêu
cầu có sự hợp nhất kết quả kiểm toán khi phát hành Báo cáo kiểm toán. Chủ nhiệm

kiểm toán là người chịu trách nhiệm giám sát trực tiếp việc thực hiện của nhóm kiểm
toán các cơ sở kiểm toán khác nhau.
Các trưởng nhóm kiểm toán sẽ là người trực tiếp thực hiện các thủ tục kiểm
toán, bao gồm cả các thủ tục kiểm soát hoặc có thể phân công và giám sát các trợ lý
kiểm toán thực hiện. Kế hoạch kiểm toán sẽ được Trưởng nhóm kiểm toán điều chỉnh
cho phù hợp với điều kiện cụ thể của cuộc kiểm toán. Dự thảo báo cáo kiểm toán sẽ
được lập bởi trưởng nhóm kiểm toán trước khi trình lên cấp trên soát xét và phê duyệt.
Với một cơ cấu tổ chức quản lý như trên, Ban giám đốc ATAX đã và đang quản
lý hiệu quả các thành viên của công ty, giúp họ hoàn thành tốt công việc được giao,
cùng hướng tới mục tiêu chung của công ty. Mọi hoạt động liên quan tới cuộc kiểm
toán, từ khâu chào thầu và kí kết hợp đồng đến phát hành Báo cáo kiểm toán, trong đó
bao gồm việc lập và thực hiện các thử nghiệm kiểm soát, được thiết kế và thực hiện có
hiệu quả, đảm bảo có chất lượng.
1.5 1.4 Về một số hoạt động trong công ty.
1.4.1 Vấn đề đào tạo nhân viên.
Đối với dịch vụ kiểm toán thì vấn đề nhân lực là một yếu tố rất quan trọng trong
việc phát triển cũng như đảm bảo chất lượng hoạt động kiểm toán. Công ty A.T.A.X
rất quan tâm và chú trọng vào việc bồi dưỡng, nâng cao nghiệp vụ cho nhân viên.
Hàng năm công ty đều tổ chức đào tạo cho nhân viên mới và cập nhật kiến thức
mới cho các nhân viên trong công ty ở mọi cấp bậc.
Nội dung chương trình đào tạo:
Đối với nhân viên mới:
 Đọc hiểu những vấn đề quy định hoạt động của công ty
 Học chương trình kiểm toán do công ty lập ra và thực hành kiểm toán đối với
một
số phần hành cụ thể. Nắm bắt được phương pháp tiếp cận kiểm toán của công ty
ATAX để đáp ứng yêu cầu về kỹ thuật do công ty quy định.
Đối với cấp bậc Senior và Manager:
 Nghiên cứu và cập nhật thêm các thông tin và tài liệu kiểm toán về việc lập kế
hoạch kiểm toán và soát xét chất lượng kiểm toán theo quy định của công ty.

Mục tiêu của chương trình đào tạo:
Phân loại chương trình đào tạo theo cấp bậc nhân viên.
Đảm bảo mọi nhân viên đều có khả năng thực hiện đúng theo quy trình kiểm
toán của công ty.
Nhân viên mới đều phải theo học chương trình dành cho Junior.
1.4.2
SVTH: Phan Thanh Lâm Trang 19
Luận văn tốt nghiệp GVHD: TS. Đoàn Thị Ngọc Trai
2.4.3 Vấn đề khảo sát và đánh giá khách hàng.
Việc đánh giá khách hàng để tạo cơ sở ký kết hợp đồng kiểm toán cũng là một yếu
tố rất quan trọng trong hoạt động kiểm toán. Bởi vì với việc chấp nhận hay tiếp tục
thực hiện kiểm toán cho một khách hàng có thể làm tăng rủi ro cho hoạt động của công
ty, trong trường hợp xấu nhất có thể làm tổn hại đến uy tín và thương hiệu của công ty
kiểm toán. Vào mỗi mùa kiểm toán, giám đốc công ty sẽ trực tiếp tham gia khảo sát thị
trường và đánh giá cẩn thận mọi khách hàng sẽ thực hiện kiểm toán trong năm.
Chủ nhiệm kiểm toán đánh giá về khách hàng và giao cho các kiểm toán viên khác
thu thập các thông tin cần thiết. Sau đó, chủ nhiệm kiểm toán sẽ tập hợp thông tin và
thực hiện đánh giá rủi ro kiểm toán cũng như môi trường kiểm soát ở đơn vị khách
hàng.
Công ty có một số quy định đối với kiểm toán viên trong khi thu thập thông tin
khách hàng như sau:
 Quy định về tính độc lập và khách quan
 Kiểm toán viên phải hiểu biết đầy đủ về khách hàng, am hiểu về hoạt động kinh
doanh cũng như các đặc điểm kinh doanh của khách hàng.
 Đáp ứng năng lực chuyên môn cần thiết để hoàn thành công việc.
Kết quả thu thập cuối cùng sẽ được trình lên giám đốc công ty để soát xét lại mức
rủi ro kiểm toán
2. Thực tế đánh giá rủi ro trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán tại công ty
kiểm toán và tư vấn thuế ATAX.
2.1 Tổng quát về chu trình đánh giá rủi ro của ATAX

SVTH: Phan Thanh Lâm Trang 20
Nhận yêu cầu
kiểm toán từ K.H
Đánh giá
rủi ro hợp
đồng
Ký hợp
đồng
Thu thập
tài liệu
(
Tìm hiểu, đánh
giá rủi ro cho
mức độ báo cáo
tài chính
(3)
(4)
Đánh giá rủi ro mức
độ chi tiết
Đánh giá lại kết
quả đánh giá rủi ro
(5)
(1)
(2)
(6)
Luận văn tốt nghiệp GVHD: TS. Đoàn Thị Ngọc Trai
Hình 6: Mô tả chu trình đánh giá rủi ro
(1) Khi nhận được yêu cầu kiểm toán từ khách hàng, cấp manager trong công ty
sẽ đến khảo sát tình hình thực tế của khách hàng, làm cơ sở đánh giá rủi ro hợp đồng
kiểm toán. Các công việc trong giai đoạn này bao gồm:

- Xác định địa điểm-nơi sản xuất- nơi đặt văn phòng chính,
- Tìm hiểu quy mô hoạt động của khách hàng có như mô tả không,…
(2) Và tiến hành đàm phán để xác định các điều khoản, những điều kiện trong hợp
đồng kiểm toán (Ví dụ: phạm vi cuộc kiểm toán, các chuẩn mực làm căn cứ, hình thức
phát hành báo cáo kiểm toán,…) Sau khi hai bên đã chấp nhận toàn bộ các điều khoản
của hợp đồng và đã ký kết hợp đồng kiểm toán.
(3) Sau khi hợp đồng kiểm toán đã được kí kết, kiểm toán viên yêu cầu khách
hàng cung cấp những tài liệu cần thiết cho việc lập kế hoạch kiểm toán. (Ví dụ: Giấy
phép thành lập công ty, giấy phép kinh doanh, sơ đồ tổ chức, quy trình công nghệ sản
xuất,biên bản họp hội đồng quản trị, …)
(4) Căn cứ vào các tài liệu nhận được từ khách hàng, kiểm toán viên sẽ tiến hành
phân tích, đánh giá (sử dụng cả kinh nghiệm lẫn chương trình kế hoạch kiểm toán) để
đánh giá rủi ro tổng thể, xác định những yếu kém và lập kế hoạch ban đầu cho cuộc
kiểm toán.
(5) Căn cứ vào những đánh giá về rủi ro (bao gồm rủi ro hợp đồng và môi trường
kiểm soát), kết hợp với những kết quả khảo sát về các sự kiện quan trọng và các
nghiệp vụ bất thường, kiểm toán viên sẽ thiết lập rủi ro chi tiết cho cuộc kiểm toán .
(6) Trong quá trình thực tế kiểm toán, có thể nhân viên kiểm toán sẽ phát hiện
thêm những sai sót và gian lận ở khách hàng. Và vì vậy để tiếp tục cuộc kiểm toán đạt
được mục tiêu kiểm toán của mình thì kiểm toán viên sẽ đánh giá lại rủi ro kiểm toán.
Như vậy, công tác đánh giá rủi ro kiểm toán đối với một khách hàng tại công ty
kiểm toán ATAX bắt đầu từ việc nhận đề nghị từ khách hàng cung cấp dịch vụ kiểm
toán, công ty sẽ cử đại diện khảo sát khách hàng và đánh giá rủi ro hợp đồng, xem xét
việc chấp nhận hợp đồng kiểm toán có phù hợp với phạm vi hoạt động và chính sách
của công ty hay không. Nếu hợp đồng được ký kết thì kế hoạch kiểm toán sẽ được
vạch ra bao gồm thời gian thực hiện, đội ngũ kiểm toán viên tham gia, khối lượng
công việc cần thực hiện. Đây là giai đoạn hết sức quan trọng vì công ty phải đánh giá
các rủi ro trong môi trường và hoạt động của khách hàng để có kế hoạch làm việc hợp
lý, đảm bảo mục tiêu tìm ra các sai phạm trọng yếu trong báo cáo tài chính của khách
hàng.

Trong nội dung bài viết này, người viết đi sâu phân tích các công việc kiểm toán
viên thực hiện trong giai đoạn chuẩn bị kiểm toán, đặc biệt là việc phân tích, đánh giá
các loại rủi ro trong kiểm toán.
Công tác đánh giá rủi ro thực hiện trong giai đoạn chuẩn bị kiểm toán tại công ty
có thể chia thành ba phần thực hiện như sau:
 Khảo sát khách hàng
 Đánh giá rủi ro tổng thể
 Đánh giá rủi ro chi tiết
SVTH: Phan Thanh Lâm Trang 21
Thu thập
tài liệu
(
Luận văn tốt nghiệp GVHD: TS. Đoàn Thị Ngọc Trai
Sau đây người viết xin trình bày nội dung các công việc thực hiện khi đánh giá rủi
ro tại công ty ATAX:
2.2 Khảo sát khách hàng
2.2.1 Xác định những nhân tố gây ra rủi ro
Đối với mỗi hợp đồng kiểm toán, việc đầu tiên cần xem xét là mức độ rủi ro
hợp đồng, tại công ty ATAX, các yếu tố sau được đánh giá là đem lại rủi ro cao khi
chấp nhận hợp đồng:
• Công ty không có hệ thống kiểm soát nội bộ.
• Công ty có dấu hiệu nghi ngờ về khả năng hoạt động liên tục
• Công ty có dấu hiệu vi phạm pháp luật nghiêm trọng
• Có nghi ngờ về tính chính trực của Ban giám đốc/ Ban Quản trị.
• Ban giám đốc công ty có sức ép lớn phải hoàn thành các chỉ tiêu tài chính năm;
• Thường xuyên thay đổi HĐQT-BGĐ , kế toán trưởng, kiểm toán viên, chuyên
gia tư vấn luật.
Các yếu tố này có thể được thu thập thông qua việc tìm hiểu sơ bộ thông tin
khách hàng, từ nguồn thông tin nội bộ cũng như các thông tin bên ngoài, hoặc qua báo
chí trong thời gian gần đây.

2.2.2 Tìm hiểu khách hàng
Đối với công ty, hàng năm sẽ ký kết rất nhiều hợp đồng kiểm toán.
Trong đó, có các khách hàng mới, là năm đầu tiên công ty thực hiện kiểm toán và các
khách hàng khác là khách hàng cũ. Ngoài các yếu tố rủi ro như trên, kiểm toán viên
còn đi sâu tìm hiểu rủi ro cụ thể cho khách hàng, trong giai đoạn này, kiểm toán viên
nhận trách nhiệm tìm hiểu về khách hàng, đồng thời tìm hiểu sơ bộ về hệ thống
KSNB, qua đó phát triển sơ bộ rủi ro tiềm tàng và xây dựng mức trọng yếu ban đầu.
Những thông tin thu thập ban đầu này nhằm chủ yếu đánh giá khả năng chấp nhận
kiểm toán khách hàng, tính toán thời gian và giá phí kiểm toán để ký kết hợp đồng
kiểm toán với khách hàng.
 Đối với khách hàng mới
Đối với khách hàng mới, kiểm toán viên thực hiện việc thu thập và tìm
hiểu các tài liệu sẵn có ở đơn vị, tham quan nhà xưởng, kho bãi, trao đổi với kiểm toán
viên tiền nhiệm (nếu có), xem xét các sách báo, tài liệu chuyên ngành. Thời gian tham
quan, tìm hiểu thường ngắn, do đó kinh nghiệm của kiểm toán viên được đặt lên hàng
đầu. Những hiểu biết về khách hàng, về hệ thống KSNB sẽ được kiểm toán viên trao
đổi, bàn giao cho trưởng đoàn kiểm toán, người sẽ thực hiện việc tìm hiểu và đánh giá
chi tiết hơn hệ thống KSNB của khách hàng phục vụ công tác kiểm toán.
Phương pháp tìm hiểu: Để lập báo cáo tìm hiểu khách hàng, kiểm toán viên sử
dụng mẫu A2010, thu thập thông tin và đánh giá kết quả cuối cùng. Ngoài ra, kiểm
toán viên có thể phỏng vấn thêm các nhà quản lý khác để nắm bắt những thông tin ban
đầu về khách hàng. Các nội dung phỏng vấn bao gồm:
- Con người: Chủ sở hữu, ban kiểm soát, đối tác chính, nhà tư vấn, các bên liên
quan,
- Sản phẩm: Cơ cấu sản phẩm, doanh thu chính, tỷ trọng doanh thu theo sản phẩm,
nhà cung cấp chính,
SVTH: Phan Thanh Lâm Trang 22
Luận văn tốt nghiệp GVHD: TS. Đoàn Thị Ngọc Trai
- Thị trường: Thị phần, đối thủ cạnh tranh, có sự thay đổi nào về đối thủ cạnh
tranh,

- Kết quả hoạt động kinh doanh: Lợi nhuận năm, dòng lưu chuyển tiền tệ, điểm
hòa vốn, các kế hoạch dài hạn,
- Tài chính: các vấn đề về nguồn vốn và sử dụng nguồn vốn,
- Tài sản và công nợ: nợ khó đòi, tài sản lớn, biên bản thanh lí tài sản…
- Bộ máy kế toán: Tổ chức bộ máy, phần mềm nào hiện đang sử dụng?
- Chính sách kế toán: đối với những khoản mục quan trọng
- Những nhân tố khác: quy trình công nghệ, sản xuất, các sự kiện kết thúc…
 Đối với khách hàng cũ
Công ty sẽ cập nhật thông tin về các thay đổi về cấu trúc doanh nghiệp, bộ máy
quản lý trong năm qua.
Những thông tin này được Trưởng đoàn kiểm toán thu thập khi tiến hành phỏng
vấn Kế toán trưởng Công ty khách hàng trong buổi họp đầu tiên. Các thay đổi mà
kiểm toán viên tập trung phỏng vấn là các thay đổi về chính sách công ty, tình hình
kinh doanh và các thay đổi về quy mô, tình hình nhân sự tại công ty, cũng như các quy
định mới của công ty về hệ thống kế toán, các quy trình kế toán và các thủ tục kiểm
soát nội bộ…
Trong trường hợp có những thay đổi mà kiểm toán viên đánh giá là có ảnh hưởng
đến những đánh giá năm trước về hệ thống KSNB, kiểm toán viên sẽ lưu lại các tài
liệu ghi nhận các thay đổi đó, và tiến hành các đánh giá cần thiết về hệ thống KS phục
vụ năm kiểm toán hiện tại.
2.3 2.3 Đánh giá rủi ro trên mức độ tổng thể báo cáo tài chính
2.3.1 Tìm hiểu về hoạt động kinh doanh của khách hàng.
Nội dung kiểm toán viên cần thu thập trong bước này bao gồm các thông tin về
môi trường kinh doanh chung của khách hàng, các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động
kinh doanh bao gồm các nhân tố bên trong và bên ngoài doanh nghiệp. Từ đó, kiểm
toán viên đánh giá được các rủi ro tiềm tàng trong hoạt động của doanh nghiệp. Các
thông tin cần tìm hiểu bao gồm:
a) Môi trường kinh doanh
Kiểm toán viên thu thập số liệu thống kê về môi trường kinh doanh chung của DN
trong năm hiện hành, về:

 Thực trạng chung của nền kinh tế (suy thoái, tăng trưởng, tốc độ tăng trưởng
GDP, lạm phát…);
 Biến động về lãi suất cơ bản, tỷ giá ngoại tệ, và lạm phát; Biến động thị
trường mà DN đang kinh doanh; Các nội dung khác
b) Những nhân tố bên ngoài ảnh hưởng đến doanh nghiệp
Kiểm toán viên tìm hiểu các thông tin chung về môi trường pháp lý mà doanh
nghiệp hoạt động bao gồm các thông tin sau:
 Pháp luật và các quy định có ảnh hưởng trọng yếu đến DN như các quy định
pháp luật đối với loại hình và ngành nghề kinh doanh của doanh nghiệp;
SVTH: Phan Thanh Lâm Trang 23
Luận văn tốt nghiệp GVHD: TS. Đoàn Thị Ngọc Trai
 Các quy định của Chính phủ hiện có ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp như các quy định về tiền tệ và kiểm soát ngoại tệ; hỗ trợ tài chính của
chính phủ; thuế quan và các rào cản thương mại, thay đổi thuế áp dụng….
c) Những nhân tố nội bộ ảnh hưởng đến doanh nghiệp
Bao gồm các thông tin chung về hoạt động và tình hình kinh doanh chủ yếu của
khách hàng như:
• Bản chất của các nguồn doanh thu: sản xuất, dịch vụ, tài chính/ bán buôn, bán
lẻ;
• Mô tả các lọai sản phẩm hoặc dịch vụ chính mà DN cung cấp;
• Thực hiện hoạt động: mô tả các giai đoạn của sản phẩm, dịch vụ, phương thức
sản xuất, cách thức phân phối của sản phẩm hoặc dịch vụ);
• Mô tả các liên minh, liên doanh, hoặc các hoạt động thuê ngoài quan trọng;
• Địa điểm sản xuất, kinh doanh, số lượng văn phòng;
• Các nhà cung cấp hàng hoá dịch vụ quan trọng;
• Các hoạt động nghiên cứu phát triển; Các giao dịch với các bên có liên quan…
Ngoài ra, giai đoạn này , kiểm toán viên còn đánh giá tìm hiểu thêm các thông tin
như:
 Sở hữu, các bên liên quan và cấu trúc tổ chức của doanh nghiệp
• Thông tin về các cổ đông và thành viên chính trong DN (sở hữu từ 5% vốn điều

lệ)
• Các bên liên quan
• Danh sách các tổ chức và cá nhân có liên quan tới DN
• Mô tả cấu trúc tổ chức doanh nghiệp theo các phòng, ban.
 Các thay đổi lớn về quy mô hoạt động của DN
• Thông tin về tăng giảm vốn trong năm
• Thông tin về đầu tư các tài sản quan trọng
• Các hoạt động đầu tư tài chính vào các công ty trong và ngoài tập đoàn
2.3.2
2.4.4 Tìm hiểu về môi trường kiểm soát của khách hàng
 Thu thập các sổ tay về thủ tục kiểm sóat khách hàng:
kiểm toán viên thường thu thập các tài liệu như:
 Giấy phép đầu tư (và các giấy phép điều chỉnh tới thời điểm kiểm toán).
 Biên bản họp Hội Đồng Quản Trị.
 Quyết định chấp thuận chế độ kế toán của Ban Quản lý hoặc bộ Tài chính, …
 Thu thập các chứng từ và sổ sách:
Các kiểm toán viên sẽ yêu cầu Công ty khách hàng cung cấp các tài liệu như:
 Báo cáo tài chính của Công ty và các chi nhánh (nếu có chi nhánh)
 Sổ cái tổng hợp, các sổ chi tiết,…
Qua việc nghiên cứu và thảo luận với khách hàng về tài liệu này, kiểm toán viên
có thể hiểu rõ được các thủ tục và chế độ liên quan đến hệ thống kiểm soát nội bộ đang
được áp dụng ở Công ty khách hàng.
SVTH: Phan Thanh Lâm Trang 24
Luận văn tốt nghiệp GVHD: TS. Đoàn Thị Ngọc Trai
Từ các kết quả thu thập được, kiểm toán viên áp dụng vào bảng câu hỏi kiểm soát
và đánh giá sơ bộ mức độ rủi ro kiểm soát trên tổng thể.
2.3.3 Tìm hiểu hệ thống kế toán
Khi tìm hiểu về hệ thống kê toán tài chính cho khách hàng, kiểm toán viên dùng
các phương pháp phỏng vấn, quan sát và phân tích thông tin để đưa ra kết luận về mức
độ kiểm soát của hệ thống kế toán.

Kiểm toán viên phân tích bốn giai đoạn cụ thể của chu trình kế toán như sau:
 Ghi vào sổ cái các thông tin từ sổ chi tiết, nhật ký.
 Ghi chép các nghiệp vụ điều chỉnh
 Lập báo cáo tài chính
 Lập các báo cáo khác.
Đối với mỗi giai đoạn, kiểm toán viên phân tích và mô tả chi tiết các hoạt động
được thực hiện và người xử lý các công việc đó.
Sau đó, kiểm toán viên đánh giá các chính sách, thủ tục được doanh nghiệp lập ra
để tránh các rủi ro do kiêm nhiệm. Bên cạnh đó, hệ thống kế toán còn được kiểm toán
viên đánh giá ở các phương diện như:
- Năng lực của nhân viên kế toán-qua việc tìm hiểu trình độ, số năm công tác.
- Sự phân công trách nhiệm, phạm vi công việc và trách nhiệm báo cáo của
nhân viên kế toán.
- Việc phân cấp truyền đạt thông tin quản lý giữa phòng kế toán và phòng xử lý
dữ liệu.
- Sự đầy đủ của sổ sách, chứng từ, tài liệu kế toán.
- Sự hiện hữu của các bút toán điều chỉnh đối với các sai phạm mà kiểm toán
viên tiền nhiệm đưa ra, đặc biệt trong thời điểm cuối kì kế toán.
2.3.4 Thực hiện phân tích sơ bộ báo cáo tài chính
Có nhiều phương pháp phân tích: có thể dựa trên mối quan hệ giữa thông tin
tài chính và thông tin phi tài chính, phân tích ngang, phân tích dọc… đối với công ty
ATAX, phương pháp chủ yếu là so sánh đối chiếu số qua các năm liên tiếp. Nếu có sự
biến động bất thường thì sẽ đánh dấu, tìm hiểu nguyên nhân và phỏng vấn lấy thông
tin cuối cùng từ phía lãnh đạo khách hàng. Nếu có sự giải thích hợp lý thì kiểm toán
viên lấy bằng chứng xác nhận. Trong trường hợp không có sự giải thích thõa đáng từ
phía khách hàng thì kiểm toán viên sẽ đi sâu phân tích cụ thể hơn nữa.
Công việc cụ thể của kiểm toán viên trong giai đoạn này bao gồm:
 So sánh số liệu của kỳ này với kỳ trước. Giải thích các chênh lệch lớn hoặc
kiểm toán viên nghi ngờ về tính hợp lý của chúng.
 Tìm hiểu nguyên nhân gây sự biến động cho doanh thu, xem xét liệu có

gian lận trong việc ghi nhận doanh thu hay không ?
 Xem báo cáo tài chính giữa niên độ.
 Dựa trên kết quả phân tích, đánh giá sơ bộ sai sót trọng yếu do gian lận.
 Trên cơ sở dữ liệu đã phân tích, đánh giá khả năng hoạt động liên tục của
doanh nghiệp.
SVTH: Phan Thanh Lâm Trang 25

×