Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

phân tích ngành chế biến xuất khẩu thủy sản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (285.09 KB, 22 trang )

I . NGÀNH CHẾ BIẾN VÀ XUẤT KHẨU THỦY SẢN Ở VIỆT NAM
1.1. Định nghĩa ngành: Ngành chế biến và xuất khẩu thủy sản bao gồm các
doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực chế biến và xuất khẩu các sản phẩm thủy
sản như tôm, cá, mực…. Các hoạt động thương mại chính của ngành nhằm cung
cấp các sản phẩm thủy sản phục vụ cho việc xuất khẩu ra nước ngoài.
Sản phẩm đầu ra của ngành : là các sản phẩm thủy sản đã qua chế biến, qua
kiểm tra và đạt được các tiêu chuẩn nhất định để xuất khẩu ra nước ngoài
1.2. Mô tả ngành
Chế biến và xuất khẩu thủy sản là một trong những ngành xuất khẩu mạnh của
Việt Nam trong thời gian qua. Ngành chế biến xuất khẩu thuỷ sản ngày một phát
triển cả về công suất và công nghệ chế biến, tạo thế chủ động hơn về thị trường,
nâng cao hiệu quả chế biến xuất khẩu thuỷ sản. Hiện nay hơn 95% các sản phẩm
thủy sản của Việt Nam được tiêu thụ tại hơn 150 quốc gia và vùng lãnh thổ trên
toàn thế giới, 153 đơn vị xuất khẩu đi EU, gần 300 đơn vị áp dụng HACCP đủ
điều kiện xuất khẩu Mỹ và các thị trường lớn khác. Một số đơn vị được cơ quan
kiểm tra chất lượng hải sản của Hoa Kỳ cấp chứng chỉ HACCP, tạo điều kiện để
sản phẩm của các đơn vị này trực tiếp đi vào hệ thống các siêu thị, nhà hàng của
các tập đoàn lớn của Mỹ như Cotsco, Sysco. .
Hoạt động chế biến và xuất khẩu thủy sản hàng năm đã mang về cho ngân sách
nhà nước một khoản ngoại tệ rất lớn. Các sản phẩm của ngành được xuất khẩu ra
nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, góp phần nâng cao vị trí của Việt Nam
nói chung và ngành thủy sản xuất khẩu của Việt Nam nói riêng trên trường quốc
tế.
Bên cạnh những đóng góp cho xã hội về mặt tạo ra nguồn thu nhập ngoại tệ
cho nền kinh tế của đất nước, các cơ sở chế biến và xuất khẩu thủy sản đang tạo
việc làm cho lao động của Việt Nam. Theo số liệu thống kê của Hiệp hội chế biến
và xuất khẩu thủy sản Việt Nam thì hiện có trên 1,1 triệu lao động đang làm việc
cho các cơ sở chế biến và xuất khẩu thủy sản tại Việt Nam.
II. PHÂN TÍCH MÔI TRƯỜNG VĨ MÔ
2.1 Môi trường kinh tế:
Xu hướng phát triển của kinh tế thế giới trong 10 năm trở lại đây cho thấy,


nền kinh tế thế giới đang vận động với tốc độ biến chuyển ngày càng nhanh, các
chu kỳ kinh tế đang được rút ngắn lại với khoảng cách giữa tăng trưởng và suy
thoái trở nên rất mong manh Giai đoạn phục hồi sau cuộc khủng hoảng tài chính
2008 – 2009 kéo dài hơn dự đoán.
Tăng trưởng kinh tế: Tốc độ tăng trưởng kinh tế là một trong những nhân tố
quan trọng ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng của hầu hết các ngành, lĩnh vực của
nền kinh tế. Tăng trưởng kinh tế nói chung sẽ làm tăng nhu cầu tiêu dùng xã hội,
thúc đẩy sự gia tăng sản lượng công nghiệp và giúp cho các doanh nghiệp mở rộng
thị trường tiêu thụ sản phẩm của mình.
Việt Nam là nền kinh tế lớn thứ 6 ở Đông Nam Á và lớn thứ 52 trên thế giới
trong các nền kinh tế thành viên của Quỹ Tiền tệ Quốc tế xét theo quy mô tổng sản
phẩm nội địa danh nghĩa năm 2011 và đứng thứ 128 xét theo tổng sản phẩm nội
địa danh nghĩa bình quân đầu người. Đây là nền kinh tế hỗn hợp, phụ thuộc cao
vào xuất khẩu thô và đầu tư trực tiếp nước ngoài. Trong những năm gần đây, quốc
gia đã được tăng lên là một nước xuất khẩu nông nghiệp hàng đầu thế giới và là
một điểm đến hấp dẫn của đầu tư nước ngoài.
Năm 2008, 2009 Việt Nam bắt đầu chịu ảnh hưởng mạnh của cuộc khủng
hoảng kinh tế thế giới làm cho tỷ lệ tăng trưởng kinh tế sụt giảm,nhưng kinh tế
nước ta dần phục hồi vào thời gian sau đó. Tốc độ tăng trưởng GDP trong giai
đoạn 2008 – 2010 biến động trong khoảng 5,32%- 6,88%/năm. Cuộc khủng hoảng
kinh tế toàn cầu năm 2008 đã có nhiều tác động tiêu cực đến tốc độ tăng trưởng
của nền kinh tế các nước.
Bước vào năm 2012, do tiếp tục chịu hậu quả từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn
cầu và khủng hoảng nợ công kéo dài ở khu vực châu Âu nên kinh tế thế giới diễn
biến không thuận. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2012 theo giá so sánh
1994 ước tính tăng 5,03% so với năm 2011, trong đó quý I tăng 4,64%; quý II tăng
4,80%; quý III tăng 5,05%; quý IV tăng 5,44%. Mức tăng trưởng này tuy thấp hơn
mức tăng 5,89% của năm 2011 nhưng trong bối cảnh kinh tế thế giới gặp khó khăn,
cả nước tập trung thực hiện mục tiêu ưu tiên kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ
mô thì mức tăng như vậy là hợp lý và thể hiện xu hướng cải thiện qua từng

quý, khẳng định tính kịp thời, đúng đắn và hiệu quả của các biện pháp và giải pháp
thực hiện của Trung ương Đảng, Quốc hội và Chính phủ.
So với 2011, mức đóng góp vào tăng trưởng năm 2012 của hầu hết các nhóm
ngành chủ lực giảm từ 0,2-1 % do tốc độ tăng trưởng thấp hơn. Đóng góp của
ngành dịch vụ là lớn nhất, chiếm 2,73 %. Công nghiệp chế biến đóng góp 1,15 %,
nhóm ngành nông-lâm-ngư nghiệp đóng góp 0,43 %. Thoát khỏi suy thoái, công
nghiệp khai khoáng tăng trưởng dương trong năm 2012 nên ngành này có mức
đóng góp 0,18 %.
( Nguồn: TCTK)
Mức lãi suất
Từ năm 2011 tới nay, mặt bằng lãi suất huy động đã giảm mạnh, giảm khoảng
7-10%/năm so với thời điểm giữa năm 2011. Hiện nay, lãi suất huy động của các
Tổ chức tín dụng ( TCTD) phổ biến: không kỳ hạn và kỳ hạn dưới 1 tháng ở mức
1-1.2%/năm, kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 6 tháng ở mức 5-7%/năm, kỳ hạn từ 6
tháng đến dưới 12 tháng ở mức 6.5-7.5%/năm, kỳ hạn từ 12 tháng trở lên ở mức
7.5-9%/năm, phù hợp với kỳ vọng lạm phát đến cuối năm 2013 và cả năm 2014.
Bên cạnh việc quy định lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa bằng VND đối với một số
lĩnh vực, ngành kinh tế và kêu gọi các TCTD giảm lãi suất các khoản vay cũ về
dưới 13%/năm thì việc lãi suất huy động giảm đã tạo điều kiện cho các TCTD tiếp
tục giảm mạnh lãi suất cho vay qua đó chia sẻ khó khăn đối với các doanh nghiệp.
Đến nay mặt bằng cho vay giảm khoảng 9-12%/năm so với thời điểm giữa năm
2011 và đã trở về mức lãi suất của giai đoạn 2005-2006, thấp hơn năm 2007, lãi
suất đã không còn là cản trở đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp và người dân. Hiện lãi suất cho vay đối với các lĩnh vực ưu tiên hiện ở mức
7-9%/năm, lĩnh vực sản xuất, kinh doanh ở mức 9-11%/năm, trong đó, đối với
khách hàng tốt lãi suất cho vay chỉ từ 6,5-7%/năm.
Tỷ giá hối đoái
Tỷ giá hối đoái (TGHĐ) là một trong những chính sách kinh tế vĩ mô quan
trọng của mỗi quốc gia. Diễn biến của TGHĐ giữa USD với Euro, giữa USD/JPY
cũng như sự biến động tỷ giá giữa USD/VND trong thời gian qua cho thấy, tỷ giá

luôn là vấn đề thời sự, rất nhạy cảm. Ở Việt Nam, TGHĐ không chỉ tác động đến
xuất nhập khẩu, cán cân thương mại, nợ quốc gia, thu hút đầu tư trực tiếp, gián
tiếp, mà còn ảnh hưởng không nhỏ đến niềm tin của dân chúng.
Trong năm 2007, biên độ tỷ giá giữa đồng USD và VND khá nhỏ (mức 0,5%
và cuối năm tăng lên mức 0,75%), chính vì vậy tỷ giá USD/VND không có nhiều
biến động, dao động trong khoảng 15.975 VND/USD và 16.300 VND/USD. Tuy
nhiên, tỷ giá hối đoái lại có biến động rất lớn trong năm 2008 khi biên độ tỷ giá từ
0,75% tăng lên 1% , tiếp đó là 3% vào ngày 25 tháng 12 năm 2008. Đầu năm
2008, tỷ giá USD/VND chỉ ở mức 16.015 VND/USD, trong năm 2008, có những
thời điểm mức tỷ giá này đã tăng lên hơn 19.500 VND/USD. Sự biến động thất
thưởng của tỷ giá khiến các doanh nghiệp xuất nhập khẩu chịu rất nhiều khó khăn
tại thời điểm đó. Ngày 24 tháng 3 năm 2009, biên độ tỷ giá tiếp tục lại được tăng
lên mức 5% và kèm theo đó là sự tăng lên của tỷ giá.
Trong năm 2010, Ngân hàng nhà nước (NHNN) đã thực hiện nâng tỷ giá liên
ngân hàng lên 3% từ 17.941 VND/USD lên mức 18.554 VND/USD. Quyết định
này đã khiến tỷ giá tại trị trường tự do nhanh chóng tăng lên mức hơn 20.000
VND/USD nhưng sau đó lại giảm xuống dưới mức 19.000 VND/USD. Tỷ giá
cũng khá ổn định trong nửa đầu của năm 2010 khi quyết định của NHNN có tác
động khá tích cực.
Tuy nhiên, đầu năm 2011 , Ngân hàng Nhà nước đã thực hiện tăng tỷ giá USD
với mức 9,3% so với trước đó để hạn chế nhập siêu. Động thái này của Ngân hàng
Nhà nước đã gây khó khăn cho các doanh nghiệp nhập khẩu và phần nào ảnh
hưởng tới thị trường chứng khoán. Tuy nhiên, đứng trên góc độ dài hạn, quyết
định này được cho là sẽ đem lại nhiều hiệu quả tích cực hơn.
Diễn biến giá trị đồng USD 6 tháng đầu năm 2012 cho thấy một số dấu hiệu
khả quan có xu hướng tăng giá trong năm 2012. Kết thúc tháng 6/2012 chỉ số USD
tăng 1.4% so với đầu năm 2012.
Cơ hội: Tình hình kinh tế Việt Nam đang dần được phục hồi, kinh tế đang
dần được ổn định, tỷ giá ổn định giúp cho các doanh nghiệp trong ngành có thể
định hướng sản xuất và mở rộng thị trường xuất khẩu.

Đe dọa: Chỉ số lãi suất vẫn ở mức cao khiến cho các doanh nghiệp khó
cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài.
2.2 Môi trường chính trị và pháp luật
Việt Nam với một nền chính trị ổn định, được bạn bè quốc tế khen ngợi và
được xem là điểm đến đầu tư ổn định, an toàn trong khu vực và trên thế giới. Đây
là một lợi thế to lớn, thuận lợi cho doanh nghiệp trong cũng như ngoài nước đầu tư
vào chế biến và xuất khẩu thủy sản.
Về lĩnh vực quan hệ quốc tế, Việt Nam được bầu làm thành viên của tổ chức
Liên Hiệp Quốc nhiệm kỳ 2008 – 2009. Đây là một trong những thuận lợi, góp
phần nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Từ khi Việt Nam gia nhập WTO, ngành chế biến xuất khẩu thủy sản được
hưởng lợi từ việc các hàng rào thuế quan được hạ dần tạo lợi thế vượt trội cho các
doanh nghiệp xuất khẩu . Tuy nhiên chính phủ nước ta không thể bảo hộ cho các
doanh nghiệp trong nước như trước đây, sẽ gây ra rất nhiều khó khăn cho DN xuất
khẩu thủy sản Việt Nam
Hệ thống chính sách của các nước nhập khẩu: Ngành cũng gặp một số khó
khăn nhất định như xu thế và yêu cầu của thị trường thủy sản thế giới ngày càng
khắt khe về chất lượng và an toàn vệ sinh thực phẩm, bảo vệ môi trường, truy
nguyên nguồn gốc sản phẩm (IUU).
 Tại thị trường EU, xuất khẩu thủy sản Việt Nam trở nên khó khăn hơn khi
khi quy định IUU bắt đầu đi vào thực tiễn từ 2010 (EU yêu cầu tất cả lô hàng hải
sản khai thác phải có giấy chứng nhận khai thác hợp pháp, nếu thiếu sẽ không
được phép xuất vào EU). Cũng theo quy chế Chứng nhận thủy sản khai thác xuất
khẩu vào thị trường châu Âu, các công ty chế biến thủy sản xuất khẩu phải đăng
ký xác nhận thủy sản khai thác đối với các lô sản phẩm được chế biến từ nguyên
liệu thu mua.
 Thị trường Mỹ - câu chuyện thuế chống phá giá với sự xâm nhập và tăng
thị phần thành công của sản phẩm cá da trơn Việt Nam gây ảnh hưởng tới sản xuất
của các doanh nghiệp địa phương, chủ yếu là từ các bang phía Nam, điều này đã
khiến các doanh nghiệp Mỹ đệ đơn kiện Việt Nam phá giá cá tra, cá basa. Từ

tháng 6/2003, thuế chống bán phá giá đã được áp dụng với sản phẩm “made in
Vietnam”, điều này đã làm tăng giá bán tại thị trường Mỹ và làm kim ngạch xuất
khẩu mặt hàng này .
Ngoài Mỹ, sản phẩm thủy sản của Việt Nam cũng gặp phải rào cản thương mại ở
nhiều thị trường như Brazil, Nga …
Cơ hội: tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng cho doanh nghiệp, rào cản
thuế quan được dỡ bỏ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp xuất khẩu mở rộng thị
trường xuất khẩu.
Đe dọa: Cạnh tranh từ các doanh nghiệp nước ngoài khi Chính phủ không
được phép bảo hộ doanh nghiệp trong nước. Thêm vào đó một số doanh nghiệp
không tuân thủ các quy định về chất lượng của các thị trường xuất khẩu đã gây
ảnh hưởng đến các doanh nghiệp khác khi các thị trường này tăng cường các quy
định áp dụng về chất lượng cho tất cả các doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu
thủy sản Việt Nam nói chung.
2.3Môi trường công nghệ
Nhằm giúp các doanh nghiệp tập trung xây dựng lại hệ thống quản lý mới nâng
cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp. Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thủy
sản Việt Nam đã tổ chức trang bị những kiến thức quản lý hiện đại về khai thác,
nuôi trồng, dịch vụ hậu cần, chế biến sắp xếp lại chuỗi sản xuất hợp lý, đảm bảo
hài hòa lợi ích giữa người nuôi, nhà cung cấp thức ăn và DN chế biến xuất khẩu.
Ngành chế biến thủy sản xuất khẩu của Việt Nam có trình độ công nghệ tương
đối hiện đại, máy móc thiết bị được lắp đặt đồng bộ của các hãng chuyên ngành
nổi tiếng như: Mycom, Nissìn (Nhật), Bizzer (Đức), Trane (Mỹ), và Gram (Đan
Mạch)…. Các doanh nghiệp đã không ngừng đầu tư nâng công suất chế biến, đa
dạng hóa các mặt hàng từ thủy sản, đáp ứng nhu cầu của các thị trường xuất khẩu
chính của doanh nghiệp. Hầu hết, các doanh nghiệp chế biến thủy sản xuất khẩu
đều đăng ký thực hiện quản lý chất lượng sản phẩm theo các tiêu chuẩn quốc tế
như: ISO, HACCP, chứng nhận HALAL, … của tổ chức cộng đồng người hồi
giáo, Code xuất khẩu thủy sản sang thị trường EU, …
Ngày nay với sự phát triển nhanh chóng của công nghệ thông tin đặc biệt từ

năm 2014, đã bước sang năm thứ 17 internet có mặt tại Việt Nam, các phần mềm
khai báo hải quan điện tử, thương mại điện tử, quảng cáo trực tuyến…lần lượt ra
đời và được các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu
thủy sản nói riêng sử dụng vào các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Cơ hội: Nhờ đổi mới thiết bị công nghệ, các doanh nghiệp chế biến xuất
khẩu thủy sản đã tạo ra nhiều sản phẩm mới có giá trị, đa dạng sản phẩm, nâng cáo
chất lượng và an toàn vệ sinh thực phẩm, tăng sức cạnh tranh của hàng thuỷ sản
Việt Nam trên thị trường quốc tế. Ngoài ra với sự phát triển của Internet và công
nghệ thông tin giúp doanh nghiệp có thể dễ dàng tiếp cận với khách hàng, đưa sản
phẩm đến gần với khách hàng ở các thị trường xuất khẩu của doanh nghiệp nhưng
không tốn nhiều thời gian và chi phí để gặp gỡ khách hàng cộng với sự hỗ trợ của
các phần mềm quản lý, khai báo từ xa giúp doanh nghiệp tiết kiệm được chi phí
nhưng vẫn đảm bảo được chất lượng sản phẩm đầu ra, tạo lợi thế cạnh tranh cho
doanh nghiệp với các doanh nghiệp khác. Việc đạt được các tiêu chuẩn kỹ thuật
giúp doanh nghiệp có thể xuất khẩu sang các nước một cách thuận lợi, tránh tình
trạng sản phẩm bị kiện, trả hàng gây khó khăn cho doanh nghiệp.
Đe dọa: Với việc nhập khẩu các máy móc từ các hãng nổi tiếng trên thế
giới sẽ khiến cho doanh nghiệp phải chịu chi phí cao và khả năng vận hành các
thiết bị này.
2.4 Yếu tố phong cách tiêu dùng
Tạp chí nghiên cứu Châu Âu tháng 8/2010 cho thấy, Châu Âu là thị trường
quan trọng nhất của thủy sản xuất khẩu. Người Châu Âu thích ăn hải sản bởi giá
trị dinh dưỡng cao và quan trọng là có nguồn vitamin và khoáng chất phong phú,
hàm lượng protein cao, trong khi hàm lượng cholesterol và nguyên tố kim loại
thấp nguồn vitamin và khoáng chất có giá trị, rất có lợi cho sức khoẻ con người.
Theo một nghiên cứu về người tiêu dùng EU, 74% người tiêu dùng mua sản phẩm
thủy sản vì họ nghĩ đến vấn đề sức khoẻ, 58% nghĩ đến vấn đề môi trường và 23%
do sự ưa thích. Hơn nữa, cùng với quá trình mở rộng EU về phía đông, điều kiện
kinh tế của các quốc gia khu vực này cũng như sự nhạy cảm với giá làm cho các
sản phẩm cá nước ngọt giá rẻ của Việt Nam có sức tiêu thụ lớn. Chính vì vậy, nhu

cầu thủy sản tại thị trường EU là khá ổn định.
Thị trường Châu Á Thủy sản chế biến của Việt Nam rất được ưa chuộng tại
Châu Á. Trong đó, Nhật Bản là nước nhập khẩu nhuyễn thể chế biến của Việt
Nam nhiều nhất. Campuchia lại là nước có nhu cầu cao đối với mặt hàng cá chế
biến đóng hộp (trừ cá ngừ, cá tra) từ Việt Nam. Theo đánh giá của các doanh
nghiệp thủy sản trong nước, Campuchia là thị trường khá dễ tính do thu nhập của
người dân nước này chưa cao nên những yêu cầu về tiêu chuẩn nhập khẩu không
quá khắt khe.
Thị trường Mỹ Theo nghiên cứu mới đây của Hiệp hội Tiếp thị Thực phẩm và
Hiệp hội Thịt ở Mỹ, người dân nước này ngày càng ăn nhiều thủy sản để cải thiện
sức khỏe của mình. Nghiên cứu sức mua thịt hàng năm được tiến hành với 1.170
người tiêu dùng trên toàn quốc cho thấy, 28% người tiêu dùng thường xuyên mua
thủy sản và 52% người tiêu dùng thỉnh thoảng mua thủy sản để cải thiện thói quen
ăn uống của mình.
Cơ hội : Nắm bắt được phong cách tiêu dùng tại các nước giúp các doanh
nghiệp có thể đưa ra các sản phẩm phù hợp với từng đối tượng khách hàng khác
nhau.
Đe dọa: Việc nắm bắt phong cách tiêu dùng sẽ được nhiều doanh nghiệp
trong và ngoài nước sử dụng để sản xuất ra các sản phẩm đáp ứng nhu cầu thị
trường nên cạnh tranh trong ngành sẽ gay gắt hơn.
2.5 Môi trường nhân khẩu học
Việt Nam có dân số trên 80 triệu dân, và có tỷ lệ tăng tự nhiên hiện ở mức
1,2%, cao thứ 8 ở Đông Nam Á, cao thứ 32 ở châu Á và đứng thứ 114 trên thế
giới.
Hiện tại Việt Nam đang trong thời kỳ “cơ cấu dân số vàng”, thời kỳ mà nhóm
dân số trong độ tuổi lao động cao gần gấp đôi nhóm dân số trong độ tuổi phụ
thuộc( với 66% dân số trong độ tuổi 15-59). Ngoài ra do đặc điểm lao động của
Việt Nam rẻ nên tạo điều kiện cho các công ty trong ngành tận dụng được nguồn
lao động dồi dào và có năng lực để phát triển.
Cơ hội : tận dụng được nguồn lao động dồi dào.

Đe dọa: Ở Việt Nam lực lượng lao động đông về số lượng nhưng chất
lượng chưa cao do thiếu lao động có tay nghề cao, sức bền còn hạn chế, kỹ năng
quản lý còn nhiều bất cập.
III. PHÂN TÍCH MÔI TRƯỜNG TOÀN CẦU
Ngày nay, xu thế toàn cầu hóa, hiện đại hóa đang diễn ra mạnh mẽ trên toàn
thế giới. Bất cứ quốc gia nào cũng đẩy mạnh quá trình hội nhập kinh tế quốc tế để
tìm kiếm cơ hội phát triển nền kinh tế quốc gia và nâng cao vị thế của mình trên
trường quốc tế. Và chủ trương của nhà nước Việt Nam cũng vậy, Việt Nam đã hội
nhập sâu rộng hơn vào nền kinh tế thế giới với hàng loạt cam kết đã bắt đầu được
thực hiện. Chính điều này dẫn đến mức độ cạnh tranh ngày càng trở nên khốc liệt
hơn đối với tất cả các doanh nghiệp trong nước. Họ không chỉ cạnh tranh với các
công ty trong nước mà phải đối mặt với sự tranh đua của các doanh nghiệp quốc tế
đang tiến dần vào Việt Nam.
Toàn cầu hóa kinh tế là xu thế khách quan, hội nhập kinh tế là tất yếu và mở
rộng ra hầu hết các lĩnh vực, tạo ra cơ hội phát triển nhưng cũng chứa đựng nhiều
yếu tố bất bình đẳng, gây khó khăn thách thức lớn cho các quốc gia. Cạnh tranh
kinh tế - thương mại, giành giật các nguồn tài nguyên, năng lượng, thị trường,
nguồn vốn, công nghệ giữa các nước ngày càng gay gắt. Khoa học và công nghệ,
đặc biệt là công nghệ thông tin, tiếp tục phát triển nhảy vọt, thúc đẩy sự hình thành
nền kinh tế tri thức đã tác động nhiều mặt và làm biến đổi sâu sắc các lĩnh vực về
đời sống xã hội của tất cả các quốc gia.
Hòa bình, hợp tác và phát triển là xu thế chung trong khu vực và quốc tế.
Những vấn đề toàn cầu như dân số; môi trường; an ninh tài chính, lương thực;
bệnh tật… trở nên gay gắt hơn bao giờ hết. Nhu cầu hợp tác phát triển tăng lên, chi
phối ngay từ đầu sự lựa chọn chiến lược phát triển của tất cả các ngành kinh tế kỹ
thuật trong nước, trong đó bao gồm công nghiệp chế biến gỗ. Việc xây dựng tuyến
giao thông xuyên Á và hành lang kinh tế nối vùng Bắc Việt Nam với Tây Nam
Trung Quốc sẽ tạo nhiều cơ hội cho phát triển sản xuất, chế biến và thương mại
nông lâm thủy sản.
Sự suy thoái sinh thái ngày càng gia tăng cộng với thiệt hại về những xung đột

chính trị đã khiến môi trường toàn cầu đang gặp nhiều thách thức. Nếu như tình
hình này không được cải thiện thì thiệt hại khủng khiếp về môi trường sống cũng
như nền kinh tế toàn cầu là không thể tránh khỏi.
Những xu thế phát triển này của thế giới và khu vực sẽ có tác động mạnh mẽ
đến tình hình trong nước. Đây là những cơ hội để tạo ra bước tiến mới trong phát
triển kinh tế - xã hội nói chung và công nghiệp chế biến và xuất khẩu thủy sản nói
riêng. Chính vì vậy mà các công ty hoạt động trong ngành này đang có xu hướng
đầu tư, mở rộng hơn nữa các cơ sở sản xuất của nó để có thể đạt được lợi nhuận
đáng kể. Và tại Việt Nam thì điều này đang diễn ra một cách mạnh mẽ hơn.
Cơ hội: Xu hướng toàn cầu hóa sẽ giúp các doanh nghiệp trong ngành mở
rộng thị trường, tiếp cận được với các thành tựu công nghệ, máy móc hiện đại giúp
doanh nghiệp nâng cao chất lượng sản phẩm, đáp ứng yêu cầu khắt khe về chất
lượng tại các nước nhập khẩu thủy sản qua chế biến của Việt Nam.
Đe dọa: Cạnh tranh giữa các công ty trong ngành ngày càng trở nên gay
gắt hơn. Yêu cầu về chất lượng sản phẩm ngày càng khắt khe hơn đòi hỏi doanh
nghiệp luôn luôn đổi mới công nghệ, máy móc để đáp ứng các nhu cầu đó.
IV. PHÂN TÍCH TÍNH HẤP DẪN CỦA NGÀNH
4.1 Mô hình 5 lực lượng cạnh tranh
a. Năng lực thương lượng của nhà cung cấp
Trong sản phẩm thủy sản chế biến xuất khẩu, chi phí nguyên vật liệu chiếm tới
20-30% giá thành của sản phẩm. Vì vậy, sức ép từ phía nhà cung ứng nguyên vật
đầu vào là trung bình đối với các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản.
Hiện nay nguồn nguyên liệu cho các doanh nghiệp thủy sản xuất khẩu của Việt
Nam theo các hình thức sau :
- Từ trại nuôi của các doanh nghiệp
- Đầu tư, hợp tác nuôi theo chương trình, bao tiêu và phân lợi nhuận với 1 số
người nuôi
- Ký hợp đồng mua cá với người nuôi
- Nhập khẩu nguyên liệu từ nước ngoài…
Do tính yếu kém về quy hoạch vùng nguyên liệu cũng như do tính tự phát của

các hộ nuôi trồng, doanh nghiệp sản xuất đang dần tự chủ vùng nguyên liệu và
thức ăn thủy sản để hướng tới đảm bảo ổn định sản xuất. Ví dụ, tại An Giang, 10
doanh nghiệp xuất khẩu cá tra lớn nhất đã tự cung cấp được 40% nguyên liệu và
ký hợp đồng với khách hàng truyền thống là 42%.
Bên cạnh đó, mặc dù vùng nguyên liệu tập trung nhưng sự gắn kết giữa các hộ
nuôi là rất thấp, điều này khiến giá thủy sản nuôi không ổn định và đa phần là bị
doanh nghiệp ép giá.
Tuy vậy, do sự thiếu hụt về nguyên liệu, các hộ nuôi tạo được sức ép tăng giá
nguyên liệu khi doanh nghiệp sản xuất cần gấp nguyên liệu để đáp ứng yêu cầu từ
phía khách hàng.
 Kết luận: khả năng thương lượng của nhà cung cấp là trung bình.
b. Năng lực thương lượng của người mua
Nhìn vào xu hướng giảm giá xuất khẩu cá tra, tôm, cũng có thể thấy phần nào sức
mạnh của người mua. EU, Hoa Kỳ và Nhật Bản …là những thị trường trọng yếu,
chiếm phần lớn tỷ trọng xuất khẩu của các doanh nghiệp thủy sản Việt Nam.
Việc 3 thị trường khó tính là Mỹ, EU, Nhật Bản chiếm tỷ trọng cao trong cơ
cấu xuất khẩu đã khiến các doanh nghiệp Việt Nam bị lệ thuộc manh vào chính
sách nhập khẩu ở các thị trường này. Doanh nghiệp Việt Nam luôn phải điều chỉnh
quy trình nuôi, chế biến sản phẩm để theo kịp các tiêu chuẩn về sản phẩm do các
nước nhập khẩu đưa ra.
 Kết luận: khả năng thương lượng của người mua là cao.
c. Các sản phẩm thay thế
Sản phẩm và dịch vụ thay thế là những sản phẩm, dịch vụ có thể thỏa mãn nhu
cầu tương đương với các sản phẩm dịch vụ trong ngành.
Sản phẩm thay thế đa dạng, tuy nhiên, thói quen sử dụng của người tiêu dùng
giảm bớt áp lực từ sản phẩm thay thế
Trong năm 2007, theo tổ chức Nông – lương quốc tế (FAO), sản lượng thủy
sản xuất khẩu toàn thế giới đạt 54 triệu tấn với giá trị giao dịch đạt 93,5 tỷ USD,
tăng 67,7% từ năm 2000 tới 2007.
Mặt hàng thủy sản của Việt Nam khá đa dạng và phong phú. Các loại được tiêu

thụ nhiều nhất là tôm, cá hồi, cá đáy, cá thu v.v. Tuy chỉ tập trung vào mặt hàng
chủ lực cá tra, cá basa, tôm nhưng vẫn có những mặt hàng chế biến từ hải sản
như cá tra nhồi mousse khoai tây , fillet cá chẽm …. Hiện nay các nhà
khoa học đã có công trình nghiên cứu cho thấy ăn các loại thịt trắng sẽ có lợi
cho sức khỏe hơn là các loại thịt đỏ( thịt heo, thị bò…) do đó xu hướng của các gia
đình là chuyển sang các món cá cho bữa ăn gia đình đã làm cho đản phẩm cá thịt
trắng được tiêu thụ mạnh trên thế giới ngoài cá tra (Pangasius) còn có cá đáy
(Groundfish), cá hồi (Salmon) và cá rô phi (Tilapia).
 Áp lực từ sản phẩm thay thế ở mức trung bình
d. Các đối thủ cạnh tranh tiềm tàng
Đối thủ cạnh tranh tiềm tàng là các công ty hiện không cạnh tranh trong ngành
nhưng nhưng có thể ảnh hưởng tới ngành trong tương lai. Nhận diện các đối thủ
mới có thể thâm nhập vào ngành là một điều quan trọng, bởi họ có thể đe dọa đến
thị phần của các công ty hiện có trong ngành. Để gia nhập ngành thì bất cứ công ty
nào cũng đều đối mặt với rào cản nhập cuộc đặc trưng của ngành. Và đối với
ngành chế biến xuất khẩu thủy sản thì có một số rào cản như:
 Lợi thế chi phí tuyệt đối
Với ngành chế biến và xuất khẩu thủy sản thì chi phí đầu tư cho việc mua máy
móc, dây chuyền chế biến hơp tiêu chuẩn là khá cao. Tuy vậy nếu không tiếp tục
kinh doanh thủy hải sản thì những máy móc không thể bất cứ dùng cho ngành
nghề nào khác. Thêm vào đó các chi phí khác như: lãi suất vay ngân hàng cao,
thuế cao và lương công nhân tăng cao.
 Các qui định của chính phủ
Ngành chế biến xuất khẩu thủy sản không chịu nhiều qui định quá nghiêm ngặt
từ chính phủ Việt Nam. Ngược lại còn được sự hỗ trợ rất nhiều từ phía Chính phủ
để có thể thuận lợi trong việc tìm kiếm nguyên liệu và thị trường xuất khẩu. Tất cả
các doanh nghiệp muốn tham gia kinh doanh trong ngành này đều nào cũng có thể
truy cập và hiểu rõ được các qui phạm pháp luật của ngành từ nhà nước.
 Tính kinh tế theo quy mô:
Đa phần các công ty trong ngành đặc biệt là các công ty lớn đã có chỗ đứng

hay thị phần ổn định của mình và tất nhiên không muốn bị san sẻ thị phần cho đối
thủ. Và những công ty này có những có lợi thế hơn hẳn với thị phần có được, chi
phí cố định lớn như máy móc, dây chuyền sản xuất vì việc khấu hao tài sản đối với
những doanh nghiệp mới cũng khó khăn hơn . Thêm vào đó các công ty mới gia
nhập ngành sẽ không nhận được sự tin tưởng từ các khách hàng nước ngoài.Đây là
lĩnh vực thực phẩm , nên các khách hàng sẽ có sự trung thành nhất định với các
nhãn hàng có uy tín được chứng nhận về vệ sinh an toàn thưc phẩm…
 Qua những phân tích trên cho thấy rào cản nhập cuộc đối với ngành chế
biến xuất khẩu thủy sản là cao. Chính vì vậy, sự đe dọa nhập cuộc từ các đối thủ
tiềm tàng là thấp
d. Cạnh tranh giữa các đối thủ trong ngành
Các doanh nghiệp trong một ngành cùng lệ thuộc lẫn nhau, các hành động của
một công ty thường kéo theo các hành động đáp trả của các công ty khác.
Cấu trúc cạnh tranh trong ngành : Đến năm 2008, đã có 544 doanh nghiệp chế
biến thủy sản quy mô công nghiệp, trong đó 410 cơ sở sản xuất, kinh doanh thủy
sản đạt tiêu chuẩn ngành về điều kiện an toàn vệ sinh thực phẩm, 414 doanh
nghiệp đã áp dụng các quy phạm GMP, SSOP, HACCP, ISO 14001 , đạt tiêu
chuẩn sản xuất sạch hơn, được phép xuất khẩu sang các thị trường lớn như Mỹ,
EU, Nhật Bản, Hàn Quốc, Liên bang Nga, Từ 18 doanh nghiệp năm 1999, đến
nay đã có 269 doanh nghiệp chế biến được cấp phép xuất khẩu vào thị trường EU.
Bên cạnh các doanh nghiệp nhà nước, các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu thuỷ
sản của tư nhân phát triển mạnh trong thời gian qua, nhiều doanh nghiệp thuộc
thành phần kinh tế tư nhân đã có giá trị kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản hàng đầu,
một số doanh nghiệp chế biến xuất khẩu đã có kim ngạch xuất khẩu trên dưới 100
triệu USD mỗi năm. Sản phẩm thủy sản của Việt Nam đã có mặt và đứng vững
trên 140 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó có những thị trường quan trọng như
EU, Nhật Bản, Hoa Kỳ, Hàn Quốc và Nga.
Các công ty cạnh tranh chính trong ngành: Công ty CP XNK Thủy sản Bến
Tre, Công ty cổ phần Vĩnh Hoàn, Công ty cổ phần NAVICO, Công ty cổ phần
Minh Phú, Công ty CP XNK Thủy sản An Giang, Công ty cổ phần Hùng Vương.

Điều kiện nhu cầu: Theo ước tính của Tổ chức lương thực thế giới (FAO), nhu cầu
thủy hải sản trên thế giới ở mức cao. Đối với các nước công nghiệp phát triển, thị
trường xuất khẩu chính của Việt Nam, mức tiêu thụ thủy hải sản là trên
30kg/người/năm. Như vậy, nhu cầu tiêu thụ các sản phẩm thủy hải sản là rất tiềm
năng. Đặc biệt bước sang năm 2010, khi cuộc khủng hoảng kinh tế dần được khắc
phục, đời sống người dân dần ổn định và nâng cao, nhu cầu tiêu thụ mặt hàng thủy
hải sản trên thế giới sẽ tăng lên.
 Kết luận: mức độ cạnh tranh trong ngành là tương đối cao
Kết luận:
Các lực lượng Đe dọa
Đe doạ từ đổi thủ xâm nhập tiềm tàng Thấp
Cạnh tranh trong ngành Tương đối cao
Năng lực thương lượng của nhà cung cấp Thấp
Năng lực thương lượng của người mua Cao
Sản phẩm thay thế Trung bình
4.2 Phân tích nhóm chiến lược
Nhóm chiến lược trong ngành chế biến xuất khẩu thủy sản được phân loại theo
2 tiêu chí đó là quy mô thị trường xuất khẩu và đa dạng hóa sản phẩm.
Nhóm 1: Nhóm này bao gồm những công ty có quy mô thị trường xuất khẩu rộng
và xuất khẩu nhiều loại sản phẩm thủy sản chế biến. Những công ty trong nhóm
này bao gồm: Công ty CP XNK Thủy sản Bến Tre, Công ty cổ phần Vĩnh Hoàn,
Công ty cổ phần NAVICO, Công ty cổ phần Minh Phú, Công ty CP XNK Thủy
sản An Giang, Công ty cổ phần Hùng Vương.
Nhóm 2: Những công ty trong nhóm này bao gồm Công ty CP XNK thủy sản Cửu
Long An Giang, CTCP Thủy sản NTACO, CTCP Basa. Đây là những doanh
nghiệp có thị trường xuất khẩu hẹp với các sản phẩm là cá tra, cá basa.
4.3 Phân tích chu kỳ ngành
Ngành chế biến và xuất khẩu gỗ phát triển mạnh từ những năm 90 và từ đây
tốc độ tăng trưởng hàng năm của ngành luôn ở mức hai con số và nhu cầu tiêu
dùng luôn tăng theo cấp số nhân trong vòng 10-15 năm trở lại đây. Nhu cầu nhập

khẩu của các thị trường chính của ngành chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam
là Mỹ, EU, Nhật Bản vẫn tiếp tục gia tăng.
Ngành chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam hiện đang có lợi thế hơn hẳn
so với các doanh nghiệp Trung Quốc ở nhiều thị trường trọng điểm như: Mỹ, Nhật
Bản bởi lợi thế giá nhân công và nguyên liệu cạnh tranh hơn.
Đến năm 2008 Việt Nam đứng thứ 6 về giá trị kim ngạch xuất khẩu thủy sản
trên thế giới.Ngành chế biến xuất khẩu thủy sản của Việt Nam tăng trưởng nhanh
qua các năm , và trải qua 3 giai đoạn của sự phát triển:
Giai đoạn 1: 1996-2001 “ giai đoạn khởi đầu” . Sản lượng tăng chậm qua các
năm, tốc độ tăng khoảng từ 8,5% đến 20%. Từ năm 1995, Kim ngạch xuất khẩu
Nhóm 1: Công ty
CP XNK Thủy
sản
Bến Tre,
Công ty cổ phần
Vĩnh Hoàn…
Nhóm 2: CTCP
XNK thủy sản
Cửu Long An
Giang, CTCP Thủy
sản NTACO,
CTCP Basa
Qui mô thị trường xuất khẩu
Đa dạng hóa sản phẩm
Thấp Cao
Cao
khẩu đã vượt qua mức 600 triệu USD và vượt ngưỡng 1 tỷ USD năm 2000. Và với
sự ra đời của Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thuỷ sản Việt Nam (VASEP) vào
năm 1998.
Giai đoạn 2: 2002 đến nay “tăng trưởng nhanh” tốc độ tăng trưởng giá trị sản

lượng đạt mức 17% đến 25%. Kim ngạch xuất khẩu đạt 2,7 tỷ USD vào năm
2005, và tăng mạnh vào lên 3,3 tỷ USD vào năm 2006. Chỉ trong 10 năm, ngành
chế biến xuất khẩu thủy sản Việt Nam liên tục tăng trưởng với doanh số xuất khẩu
tăng gấp 3 lần, từ 2 tỷ USD năm 2002 đến 6 tỷ USD năm 2011.
Kết luận: Nhu cầu thị trường có xu hướng tăng trong những năm tới điều này cho
thấy rằng, ngành chế biến và xuất khẩu thủy sản ở Việt Nam đang trong giai đoạn
tăng trưởng
V. CÁC NHÂN TỐ THEN CHỐT THÀNH CÔNG
5.1 Nguồn nhân lực
Mặc dù là một ngành đóng góp đáng kể vào tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt
Nam, nhưng công nghiệp chế biến xuất khẩu thủy sản hiện tại cơ bản vẫn là ngành
thu hút lao động giản đơn. Vì vậy để phát triển ngành chế biến và xuất khẩu thủy
sản, đáp ứng nhu cầu thị trường xuất khẩu và hội nhập vào thị trường thế giới thì
nguồn nhân lực chất lượng cao là một nhân tố quan trọng đem lại sự thành công
cho các cơ sở,đơn vị,doanh nghiệp trong ngành. Cho nên cần phải đào tạo một đội
ngũ nhân lực có trình độ chuyên môn cao đủ khả năng tiếp cận và ứng dụng những
công nghệ tiên tiến nhất, chắn chắn sẽ mang lại sự thành công cho doanh nghiệp
nói riêng và ngành nói chung. Nhân lực chính là yếu tố quan trọng để phát triển
ngành chế biến và xuất khẩu thủy sản ở nước ta.
5.2 Chất lượng sản phẩm
Thủy sản là một ngành kinh tế cung cấp các sản phẩm thực phẩm cho người
tiêu dùng nên điều kiện quan trọng về sản phẩm khi cung ứng ra thị trường là sản
phẩm phải đảm bảo chất lượng, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, bảo vệ sức
khỏe cho người tiêu dùng.
Chất lượng hàng thủy sản xuất khẩu của Việt Nam đã được cải thiện rất nhiều
và đang dần ngang tầm với các nước trên thế giới. Thông qua các hoạt động hỗ trợ
quốc tế mà trước tiên là chương trình quản lý chất lượng thủy sản HACCP được
giới thiệu và áp dụng thành công ở Việt Nam. Nhiều phòng thí nghiệm ở địa
phương trong đó có 6 trung tâm thuộc cục quản lý chất lượng an toàn vệ sinh và
thúy y thủy sản Việt Nam được hỗ trợ trang thiết bị hiện đại để kiểm tra HACCP

và áp dụng Quy trình phân tích dư lượng kháng sinh và hóa chất. Các thỏa thuân
về công nhận hệ thống kiểm tra chất lượng song phương với các nước đã chứng tỏ
uy tín kiểm tra chất lượng hàng thủy sản xuất khẩu của Việt Nam.
VII. CÁC LỰC LƯỢNG DẪN DẮT SỰ THAY ĐỔI
7.1. Cải tiến công nghệ
Để đảm bảo,nâng cao khả năng cạnh tranh với các nước trong khu vực và trên
thế giới,ngành chế biến và xuất khẩu thủy sản cần phải đầu tư công nghệ hiện đại
nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, đáp ứng yêu cầu thị trường nhập khẩu.
Bên cạnh việc hình thành các doanh nghiệp mới với trang thiết bị mới, hiện
đại, hầu hết các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu thủy sản phải thường xuyên duy
tu nhà xưởng, đổi mới trang thiết bị để đáp ứng được yêu cầu sản xuất hiện tại và
trong tương lai. Trang thiết bị, công nghệ chế biến được tăng cường cơ giới hóa, tự
động hóa để đảm bảo chất lượng sản phẩm, giảm cường độ lao động của công
nhân, giảm sự phụ thuộc nguồn lao động trong chế biến thủy sản. Ngoài ra chất
lượng thủy sản xuất khẩu của Việt Nam cũng cần được lên không những ngon từ
hương vị mà còn đảm bảo an toàn thực phẩm, thỏa mãn được các thị trường khó
tính như Mỹ, EU, Nhật Bản về hình thức lẫn chất lượng sản phẩm.
7.2. Những qui định của chính phủ
Nhờ sự quan tâm ,hỗ trợ,giúp đỡ nhiều mặt của chính phủ đã ban hành nhiều
chủ trương chính sách để phát triển ngành chế biến và xuất khẩu thủy sản. Chính
phủ đã đưa ra nhiều ưu tiên và khuyến khích cho sự phát triển bền vững của ngành
công nghiệp nội thất này. Chính phủ đã ban hành những cơ cấu chính sách để
khuyến khích các công ty mở rộng sản xuất và khả năng kinh doanh.
Chẳng hạn, Nhà nước đã có các chính sách khuyến khích việc nhập khẩu
nguyên liệu (giảm thuế nhập khẩu một số nguyên liệu thủy sản = 0%; ân hạn nộp
thuế 275 ngày khi nhập để gia công, sản xuất xuất khẩu; đầu tư nước ngoài v v.)
để phát huy thế mạnh của ngành chế biến xuất khẩu thủy sản nhằm tạo thêm việc
làm, tăng kim ngạch xuất khẩu thủy sản (tăng 10-20%/năm, đứng trong TOP 5 về
kim ngạch xuất khẩu toàn quốc) và trực tiếp góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, rút
ngắn khoảng cách nhập siêu. Trong đó, chính sách ân hạn thuế 275 ngày qui định

tại Điều 42 – Luật Quản lý thuế hiện hành đã tác động tích cực, rõ rệt đến xã hội
và bối cảnh nền kinh tế Việt Nam đang phát triển và hội nhập, đã thúc đẩy sản
xuất, tăng kim ngạch xuất khẩu và tạo công ăn việc làm cho người lao động. Nhờ
có chính sách này, doanh nghiệp không phải vay tiền với lãi suất cao để nộp thuế,
có đủ thời gian để sản xuất và xuất khẩu trước thời hạn qui định, giảm được chi
phí sản xuất, tăng năng lực cạnh tranh. Mặt khác, còn khuyến khích nhiều doanh
nghiệp mạnh dạn nhập khẩu nguyên liệu để chủ động sản xuất và ký kết hợp đồng
với khách hàng do không phải lo vay tiền đóng thuế với mức lãi suất cao, làm tăng
chi phí.
 Kết luận: qua những phân tích trên cho thấy lực lượng dẫn dắt sự thay
đổi trong ngành chế biến và xuất khẩu thủy sản bao gồm cải tiến công nghệ và
những qui định của chính phủ .
KẾT LUẬN
Khuynh hướng :
- Khách hàng có xu hướng trung thành với các thương hiệu mà mình từng sử
dụng, vì thủy sản là mặt hàng thực phẩm tác động trực tiếp đến sức khỏe của
người tiêu dùng nên khách hàng đòi hỏi cao hơn ở chất lượng sản phẩm.
- Kinh tế ngày càng phục hổi và phát triển, nhu cầu về thực phẩm trên thế giới
ngày càng tăng trong đó có mặt hàng thủy sản qua chế biến.
- Toàn cầu hóa cũng tạo ra môi trường cạnh tranh khốc liệt giữa các công ty trong
nước và quốc tế, các công ty chịu đe dọa cạnh tranh từ các đối thủ tiềm tàng bên
ngoài
- Cơ Hội
+ Tiếp cận khoa học công nghệ để cải tiến chất lượng sản phẩm, tận dụng các
nguồn nguyên liệu, nguồn lao động giá rẻ để tạo lợi thế cạnh tranh cho doanh
nghiệp chế biến, xuất khẩu thủy sản Việt Nam.
+ Với xu hướng toàn cầu hóa doanh nghiệp có thể dễ dàng tìm kiếm thị trường
mới, giảm phụ thuộc vào một số thị trường nhất định
-Đe dọa
+ Đây là ngành ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe của khách hàng và các doanh

nghiệp khác nếu không đảm bảo chất lượng sản phẩm đòi hỏi mỗi công ty trong
ngành phải đảm bảo chất lượng sản phẩm, tuân thủ nghiêm ngặt các quy định
không chỉ trong nước mà còn cả quốc tế và các nước nhập khẩu sản phẩm thủy sản
chế biến của Việt Nam.
+ Toàn cầu hóa tạo ra cơ hội nhưng theo đó là không ít những thách thức đe dọa
đối với ngành trong nước khi thuế quan được dỡ bỏ, Chính phủ không còn được
can thiệp, hỗ trợ cho các doanh nghiệp non trẻ trong nước.

×