Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

BÁO CÁO HỆ THỐNG THÔNG TIN CÔNG NGHIỆP LonWorks Over IP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (415.3 KB, 13 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI
VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC

BÁO CÁO HỆ THỐNG THÔNG TIN
CÔNG NGHIỆP
Đề tài:
LonWorks Over IP
GVHD : PGS.TS. NGUYỄN VĂN KHANG
SVTH : LÊ VĂN ĐẠI – CB110614
PHẠM VĂN DANH – CB11
Lớp : 11BKTĐT
Hà Nội, tháng 6 năm 2012
Mục lục
1. Giới thiệu 3
2. Chuẩn EIA-852 4
Chuẩn EIA-852 được tạo ra để cung cấp chức năng liên kết hoạt động giữa các thiết
bị mạng điều khiển. Các thiết bị này truyền thông với nhau trên mạng điều khiển bằng
giao thức CN. Ý tưởng cơ bản là trao đổi các gói tin CN trên mạng IP bằng cách
nhúng các gói tin này trong các gói tin IP. Công nghệ này được xem như là kênh
ngầm. Trong EIA-852 không hề có truyền tải ở lớp ứng dụng như các cách tiếp cận
khác sử dụng gateway. 4
Một thiết kế quan trọng của chuẩn EIA-852 là được thiết kế chung nhất để được sử
dụng cho nhiều mạng CN khác nhau. Hiện nay đã xuất hiện các chuẩn EIA-709
(lonworks) và EIA-600 (CEBUS). Hầu hết các thực thi của chuẩn EIA-852 trên thị
trường ngày nay là dựa trên LonWorks. Vì vậy mô tả về chuẩn được tập trung chủ yếu
vào chuẩn EIA-709. Các thành phần mạng được định nghĩa trong nội dung của chuẩn
EIA-852 là các thiết bị CN. Các thiết bị này là các hệ thống máy tính như PC, các hệ
thống nhúng được trang bị chồng giao thức TCP/IP, phần mềm EIA-852 và chồng giao
thức mạng LonWorks. Một số các thiết bị CN được kết nối trên mạng IP trong đó các
thiết bị này hình thành nên một mạng logical được gọi là kênh IP. Kênh IP hoạt động
cùng chức năng như kênh truyền thông LonWorks và các thiết bị CN trao đổi dữ liệu


trên các kênh IP. Các thiết bị CN là một phần của kênh IP và được xem như là
channel members 4
Cần lưu ý rằng trong thực tế trên một mạng IP có nhiều kênh IP. Mặc dù các thiết bị
CN được kết nối tới cùng một mạng vật lý (ví dụng mạng Ethernet), các kênh IP thì
hoàn toàn tách biệt trong miền LonWorks 4
Các thiết bị CN có các chức năng khác nhau. Phụ thuộc vào chức năng chính chuẩn
EIA-852 định nghĩa các kiểu thiết bị như sau: 4
CN nodes: Như các Nodes hoạt động trong ứng dụng điều khiển phân tán. Chúng có
cùng chức năng như các node LonWorks trên các kênh mạng truyền thông và chỉ
được kết nối tới kênh IP 5
CN/IP router: Các thiết bị CN này là các bộ định tuyến LonWorks để kết nối 2 kênh
IP , các thiết bị này hiện nay ít thông dụng hơn 5
CN proxies: Các thiết bị CN này có chức năng như các node proxy LonWorks để thiết
lập kênh thông tin đa miềm (cross-domain) 5
Các hệ thống trong chuẩn EIA-852 được thiết kế để quản lý các đặc tính giao thức
CN điển hình, khác với giao thức ứng dụng IP thông thường như Email, Web Access,
hoặc các ứng dụng Streaming đa phương tiện khác. Các đặc điểm chính của điều
khiển lưu lượng mạng bao gồm: 5
Throughput thấp 5
Kích thước gói tin nhỏ 5
Độ nhậy cao hơn đối với độ trễ và mất gói tin 5
3. Các thành phần hệ thống 5
4. Truyền thông dữ liệu 6
5. Quản lý 10
6. Bảo mật 11
7. Ứng dụng 12
Chúng ta đã học về công nghệ tunneling IP mới được dựa trên chuẩn ANSI/EIA-852
về mặt lý thuyết, về mặt ứng dụng có một số ứng dụng đã sử dụng công nghệ này,
chúng ta có thể kết nối các CN qua mạng Internet và thực hiện kết nối với nhiều tòa
nhà khác nhau. Hình vẽ dưới đây mô tả CN với IP router giống như L-IP có thể sử

dụng kiến trúc hạ tầng IP có sắn để hình thành nên mạng trục backbone tốc độ cao. 12
12
8. Kết luận 12
Thế giới không ngừng phát triển và ngày càng có nhiều thiêt bị kết nối với nhau hơn
dựa trên giao thức IP.Để đáp ứng được nhu cầu kêt nối ngày càng nhiều cần cung
cấp các công nghệ có thể đáp ứng được nhu cầu này. Chúng ta đã chỉ ra mạng
LonWorks dựa trên chuẩn EIA-852 có thể đáp ứng được nhu cầu này 12
2
1. Giới thiệu
Các mạng điều khiển đặc biệt phát triển nhanh chóng trong những năm đầu 1990.
Sau đó các mạng điều khiển được thiết kế để sử dụng trong các hệ thống khép kín dùng
để gói dữ liệu trên các kênh mạng dùng riêng.Các kênh truyền thông tin này bao gồm
truyền thông vô tuyến, wifi, mạng có dây. Các kênh mạng dùng riêng có các thuộc tính
nhiều hoặc ít về tỷ lệ lỗi bít, độ trễ truyền tín hiệu, thời gian đáp ứng tối đa và trung bình
và các kênh này có khả năng đảm bảo thứ tự gói tin trong quá trình truyền tải tín hiệu.
Với sự nỗi dậy mạnh mẽ của công nghệ Internet cuối những năm 1990, các yêu cầu
về xây dựng, mở rộng các mạng điều khiển không chỉ dừng lại ở các mạng cục bộ có
kích thước địa lý nhỏ mà yêu cầu triển khai được các mạng điều khiển trên diện rộng
qua các thành phố, giữa các nước và giữa các lục địa với nhau. Để xây dựng được mạng
điều khiển như vậy các nhà quản lý muốn quản lý thông tin một cách tập trung để dễ
dàng trong việc theo dõi, giám sát, cảnh báo, dự đoán xu hướng và vận hành quản trị hệ
thống từ xa.
Để làm được như vậy, các kỹ sư hệ thống tái thiết kế lại các giao thức truyền thông
trên mạng để sử dụng các giao thức này trong các mạng lớn hoặc sử dụng công nghệ
đang tồn tại như dịch vụ IP để truyền tải gói tin dữ liệu mạng điều khiển qua các lục địa
khác nhau. Dĩ nhiên vẫn còn các giới hạn liên quan đến các thuộc tính như thời gian đáp
ứng của tín hiệu, thứ tự gói truyền đi, tỷ lệ mất gói tin, các thuộc tính này dễ dàng được
quản lý trên mạng dùng riêng nhưng rất khó khăn trong mạng IP.
Đối với các kỹ sư hệ thống, có rất nhiều thử thách để chấp nhận những giới hạn của
giao thức mạng điều khiển và thêm một lớp phần mềm giữa dịch vụ IP và giao thức

mạng điều khiển để giải quyết những giới hạn này của dịch vụ truyền tải IP khỏi các lớp
trên của giao thức điều khiển mạng. Hình sau mô tả kiến trúc phần mềm của một node
fieldbus điển hình kết nối tới một kênh mạng dùng riêng bên trái và sử dụng dịch vụ
truyền tải IP bên phải. Module phần mềm này gọi là ANSI/EIA-852, module này nằm
giữa chồng giao thức điều khiển mạng và giao tiếp Socket TCP,UDP
3
2. Chuẩn EIA-852
Chuẩn EIA-852 được tạo ra để cung cấp chức năng liên kết hoạt động giữa các thiết
bị mạng điều khiển. Các thiết bị này truyền thông với nhau trên mạng điều khiển
bằng giao thức CN. Ý tưởng cơ bản là trao đổi các gói tin CN trên mạng IP bằng
cách nhúng các gói tin này trong các gói tin IP. Công nghệ này được xem như là
kênh ngầm. Trong EIA-852 không hề có truyền tải ở lớp ứng dụng như các cách tiếp
cận khác sử dụng gateway.
Một thiết kế quan trọng của chuẩn EIA-852 là được thiết kế chung nhất để được sử
dụng cho nhiều mạng CN khác nhau. Hiện nay đã xuất hiện các chuẩn EIA-709
(lonworks) và EIA-600 (CEBUS). Hầu hết các thực thi của chuẩn EIA-852 trên thị
trường ngày nay là dựa trên LonWorks. Vì vậy mô tả về chuẩn được tập trung chủ
yếu vào chuẩn EIA-709. Các thành phần mạng được định nghĩa trong nội dung của
chuẩn EIA-852 là các thiết bị CN. Các thiết bị này là các hệ thống máy tính như PC,
các hệ thống nhúng được trang bị chồng giao thức TCP/IP, phần mềm EIA-852 và
chồng giao thức mạng LonWorks. Một số các thiết bị CN được kết nối trên mạng IP
trong đó các thiết bị này hình thành nên một mạng logical được gọi là kênh IP. Kênh
IP hoạt động cùng chức năng như kênh truyền thông LonWorks và các thiết bị CN
trao đổi dữ liệu trên các kênh IP. Các thiết bị CN là một phần của kênh IP và được
xem như là channel members.
Cần lưu ý rằng trong thực tế trên một mạng IP có nhiều kênh IP. Mặc dù các thiết bị
CN được kết nối tới cùng một mạng vật lý (ví dụng mạng Ethernet), các kênh IP thì
hoàn toàn tách biệt trong miền LonWorks.
Các thiết bị CN có các chức năng khác nhau. Phụ thuộc vào chức năng chính chuẩn
EIA-852 định nghĩa các kiểu thiết bị như sau:

4
CN nodes: Như các Nodes hoạt động trong ứng dụng điều khiển phân tán. Chúng có
cùng chức năng như các node LonWorks trên các kênh mạng truyền thông và chỉ
được kết nối tới kênh IP.
CN/IP router: Các thiết bị CN này là các bộ định tuyến LonWorks để kết nối 2 kênh
IP , các thiết bị này hiện nay ít thông dụng hơn.
CN proxies: Các thiết bị CN này có chức năng như các node proxy LonWorks để
thiết lập kênh thông tin đa miềm (cross-domain).
Các hệ thống trong chuẩn EIA-852 được thiết kế để quản lý các đặc tính giao thức
CN điển hình, khác với giao thức ứng dụng IP thông thường như Email, Web Access,
hoặc các ứng dụng Streaming đa phương tiện khác. Các đặc điểm chính của điều
khiển lưu lượng mạng bao gồm:
- Throughput thấp
- Kích thước gói tin nhỏ
- Độ nhậy cao hơn đối với độ trễ và mất gói tin.
3. Các thành phần hệ thống
Ngoài việc gán các địa chỉ logical cho các node mạng được chỉ rõ trong giao thức
mạng điều khiển , các node mạng phải được gán một địa chỉ IP vật lý. Vì vậy các
node mạng được dựa trên IP hiện nay đều có một địa chỉ IP và một địa chỉ CN
logical. Trong trường hợp một node truyền gói dữ liệu tới node khác trên mạng
thì node gửi cần biết được cả 2 thông tin là địa chỉ IP và địa chỉ CN của node
đích. Vì vậy cần bổ sung một sự thay thế để quản lý mối quan hệ giữa địa chỉ CN
và địa chỉ IP cho các kênh IP logical . Các kênh IP logical này được gọi là CN
trên IP hay viết tắt là kênh IP, kênh IP này sử dụng máy chủ cấp hình CS để quản
lý thông tin địa chỉ của CN trên mạng. Hình 2 mô tả các thành phần hệ thống
được yêu cầu để hình thành và quản lý một kênh IP. Mạng trong hình 2 bao gồm
2 nữa, một bên là 2 mạng EIA-709 được xác định bằng giải địa chỉ mạng con 2, 3
và một kênh IP giải mới gồm 4 thiết bị máy trạm và một node máy chủ cấu hình
CS. 2 trong 4 thiết bị máy trạm Ip hoạt động như 2 bộ định tuyến giữa kênh mạng
EIA-709 và kênh IP-852. Giả định node mạng có địa chỉ S/N 1/1 trên kênh IP-

852 muốn gửi gói dữ liệu tới node mạng có địa chỉ S/N ½. Cả 2 node này đều
nằm trên kênh IP-852. Để node 1/1 gửi được gói tin đến node ½ thì node 1/1 cần
biết được địa chỉ IP 192.168.1.102. Thông tin này được lưu trong máy chủ cấu
hình có địa chỉ IP 192.168.1.105 và được phân tán tới tất cả các node trên kênh
IP-852 khi hệ thống khởi động.
5
Các thiết bị định tuyến CN đóng vai trò làm cầu nối giữa các lớp mạng EIA-709 và các
kênh IP.
4. Truyền thông dữ liệu
Các thiết bị CN trao đổi các gói dữ liệu CN trên các kênh IP. Điều này được xem
như là truyền thông dữ liệu để phân biệt lưu lượng giữa các thiết bị CS và CN. Trong
mạng luôn tồn tại một nguồn của gói tin dữ liệu CN và một sink. Theo đó chúng ta xem
các thiết bị CN như bộ phát và sink hoạt động như bộ thu. Dĩ nhiên quan hệ thu-phát,
gửi-nhận này chỉ đúng trong nội dung về gói dữ liệu đơn hoặc chuỗi gói dữ liệu truyền
theo một hướng. Nói chung mỗi thiết bị CN hoạt động như thiết bị gửi và nhận trên
kênh IP tại cùng thời điểm.
Các node CN thực chất là các node gửi nhận dữ liệu CN, các bộ định tuyến CN/IP là các
thiết bị trung gian trong quá trình gửi nhận dữ liệu này. Hình 3 mô tả khối chức năng
trong node gửi và node nhận. Khi một gói dữ liệu được tạo ra trong node CN hoặc được
đi qua kênh IP bởi một bộ định tuyến CN/IP. Node gửi sẽ đóng gói dữ liệu CN theo định
dạng gói chuẩn EIA-852 tới các thành viên kênh thích hợp và cuối cùng có thể tập hợp
các gói tin trước khi đưa xuống dây dẫn. Thiết bị nhận sẽ hoạt động với chức năng
ngược lại, mở gói tin dữ liệu
6
4.1. Đóng gói dữ liệu
Chức năng đóng gói dữ liệu EIA-709 vào các gói dữ liệu theo chuẩn EIA-852
được xem là quá trình đóng gói dữ liệu. Các gói EIA-709 ban đầu được đóng
gói theo các khung UDP và được định tuyến tới các thiết bị CN trên kênh IP.
EIA-852 sử dụng số cổng đảo 1628 cho truyền thông EIA-852 trên các thiết bị
CN. Máy chủ cấu hình CS sử dụng cổng 1629. Điều này đảm bảo cả 2 thiết bị

có thể cùng hoạt động trên một hệ thống.
Việc lựa chọn truyền tải gói tin qua UDP có một số ưu điểm hơn so với TCP
như sau:
- Đặc tính tự nhiên của mạng LonWorks là không kết nối (connectionless) nên
không cần nhiều thông tin để quản lý khởi tạo kết nối so với TCP
- TCP bắt buộc truyền lại gói tin trong khi các mạng điều khiển thường yêu
cầu thời gian thực nên thông tin truyền lại gần như không còn ý nghĩa.
- Giao thức LonWorks đã thực thi tính năng truyền lại gói tin khi cần thiết.
Hình 4 mô tả định dạng gói tin LonWorks
Trong định dạng gói tin trên chứa nhiều bít thông tin điều khiển và bít thông tin
dữ liệu sử dụng, mỗi gói tin bao gồm các bit preamble đễ xác định bắt đầu và
kết thúc gói.
4.2. Chỉ số gói tin
Đánh chỉ số gói tin theo chuẩn EIA-852 được dựa trên một cặp sessionID và chỉ
số sequence. Cả 2 số này đều là 2 phần của cờ điều khiển thông thường. Một
thiết bị nhận EIA-852 sẽ nhớ một cặp sessionID/sequence cho mỗi thiết bị CN
gửi dữ liệu. Khi gói dữ liệu từ một nguồn nào đó được nhận với cùng sessionID
thì chúng trong cùng chỉ số tăng dần, nếu gói tin bị sắp xếp lại hoặc bị mất trên
mạng thì sẽ xuất hiện các bước nhảy trong chỉ số sequence. Khi đó thiết bị
7
nhận có thể thực hiện một trong 2 thủ tục tiếp tục và loại bỏ gói tin bị mất hoặc
chờ gói tin bị mất.
Khi thiết bị nhận chờ đợ gói tin bị mất trong một khoảng thời gian xác định
(timeout) nếu quá thời gian này nhưng chưa bắt được gói dữ liệu bị mất đó thì
gói tin sẽ bị loại bỏ sau đó. Trong trường hợp sessionID thay đổi thì thiết bị
nhận sẽ xem như là trạng thái kết nối mới bắt đầu từ đầu và nó sẽ xem như là
gói tin đầu tiên cho sessionID mới đó và thực hiện xóa các chỉ số sequence
trong sessionID trước đó.
4.3. Sắp xếp gói tin
Kích thước bản tin ban đầu của lưu lượng CN thường bé, khoảng 10 đến 20

bytes trong mạng LonWorks. Việc đóng gói tin CN vào khung UDP làm kích
thước gói tin tăng lên (do thêm header), làm tăng gói tin lên khoảng 40 bytes.
Việc này nhiều khi không cần thiết và làm ảnh hưởng đến hiệu suất hệ thống.
Một công nghệ được sử dụng để làm giảm kích thước gói tin là sắp xếp hơn
một gói dữ liệu EIA-852 vào một khung UDP. Rõ ràng nhiều gói được chụm lại
thì phần thông tin header sẽ được giảm đi đáng kể. Khi được sắp xếp như vậy,
các bản tin dữ liệu EIA-852 được ghép vào khung UDP. Gói tin UDP này sau
đó được truyền tới địa chỉ đích. Vì vậy các bản tin chỉ có thể thực hiện sắp xếp
lại được khi các gói tin ban đầu được truyền tới cùng một địa chỉ đích. Thiết bị
gửi có thể được cấu hình để giữ các gói dữ liệu lại trong một khoảng thời gian
timeout nào đó trước khi gửi khung UDP trên kết nối IP. Giá trị timeout này là
một tham số cấu hình của thiết bị CN.
Nguyên tắc sắp xếp bản tin cần được cân nhắc kỹ trong quá trình thiết kế hệ
thống để giải quyết được mối quan hệ mâu thuẩn giữa việc đạt được kích
thước gói tin nhỏ với độ trể trong quá trình sắp xếp gói tin. ĐỐi với các ứng
dụng yêu cầu tốc độ đáp ứng nhanh, tốc độ gói thấp thì chức năng này nên bị
bỏ.
4.4. Kiểm tra gói tin bị mất
Một trong các vấn đề quan trọng của kênh EIA-852 là độ trễ gói trên các kênh
IP. Thường có 2 vấn đề như sau:
- Ứng dụng điều khiển có thể bị trượt theo ngưỡng thời gian muốn nhận được
thông tin
- Giao thức CN có thể không sử dụng được khi các gói tin nhận được có độ
trễ quá lớn.
LonWorks nhân bản hệ thống tự động phát hiện có độ nhạy cao đối với các
thay đổi về độ trễ truyền gói tin trên mạng.
Trong khi vấn đề 1 có thể được giải quyết bằng cách thiết kế ứng dụng điều
khiển tốt để xử lý thì vấn đề 2 có thể được loại trừ bằng cách loại bỏ gói nếu
8
quá độ trễ cho phép. Một hệ thống được gọi là “kiểm tra phát hiện gói tin bị mất”

hoạt động theo nguyên tắc dựa trên đo kiểm độ trễ truyền gói một chiều. Để
thực hiện đo kiểm được như vậy các thiết bị CN cần được đồng bộ về mặt thời
gian. Cách thức đồng bộ trong CN sử dụng giao thức SNTP. Thiết bị gửi tạo ra
một nhãn thời gian ms và đặt nhãn này trong header của bản tin. Nếu độ trễ
vượt quá thời gian timeout kênh (CTO) thì gói tin được xem như là bị mất trên
mạng. CTO là tham số của kênh truyền và được phân tán tới các thiết bị CN
trên mạng.
4.5. Định tuyến gói dữ liệu EIA-852
Một trong các nhiệm vụ của thiết bị CN theo chuẩn EIA-852 là định tuyến các
gói dữ liệu tới các thành viên kênh IP thích hợp. Trong nội dung này, chúng ta đã
biết mỗi thành viên kênh đều có một địa chỉ IP . Nếu một gói dữ liệu CN cần
được định tuyến tới nhiều IP thì gói tin sẽ được sao chép thành nhiều gói và
truyền đến các node thích hợp. Cần lưu ý rằng các chỉ số sequence được liên kết
theo địa chỉ đích. Khi gói dữ liệu CN được định tuyến tới nhiều IP khác nhau thì
chỉ số sequence không cần phải giống nhau cho tất cả các đích.
Phụ thuộc vào dữ liệu kênh truyền có sẵn sẽ có 3 dạng định tuyến gói tin CN như
sau:
- Send List Routing: Một danh sách gửi là một danh sách địa chỉ IP đã được tối
ưu tương ứng với danh sách các member. Điển hình send List thường được sử
dụng cho mục đích gửi multicast tương ứng với một nhóm các member.
Trong trường hợp tốt nhất, tất cả các thành viên của kênh ở trong cùng một
nhóm IP multicast, trong trường hợp này SL chỉ cần chứa một địa chỉ
MultiCast.
- Channel Routing: Loại định tuyến này chỉ được sử dụng khi các địa chỉ IP
unicast có sắn. Ý tưởng cơ bản là lựa chọn các địa chỉ IP đích này sẽ nhận gói
dữ liệu trên thông tin địa chỉ LonWorks. Để quảng cáo một địa chỉ Lonworks
nào đó mà một CN chấp nhận thì nó sẽ công khai thông tin Channel Routing
tới các thành viên kênh khác.
- Brute Force: Đây là kiểu định tuyến theo đó các thiết bị CN sắp xếp lại danh
sách kênh và truyền mỗi gói dữ liệu tới tất cả các thành viên trong kênh sử

dụng địa chỉ unicast. Mô hình này ít hiệu quả nhất.
Thuật toán CR dựa vào thông tin CR được cung cấp bởi các thiết bị CN trên kênh.
Thông tin CR cho mỗi thành viên kênh bao gồm các trường thông tin như sau:
- Địa chỉ IP, port của CN
- Cờ quảng bá CN
9
- Kiểu thiết bị CN (router,node,CN/IP router,proxy)
- Danh sách các node ID
- Danh sách địa chỉ S/N
- Danh sách thành phần domain (subnet)
5. Quản lý
Ngoài việc truyền dẫn dữ liệu, một phần rất lớn các chức năng của chuẩn EIA-
852 được sử dụng để quản lý kênh IP. Các chức năng quản lý kênh bao gồm điều khiển
truy cập trên các thiết bị CN có thể là thành viên của kênh IP xác định nào đó, cấu hình
tham số cho từng thiết bị CN, phân tán thông tin giữa các CN, và tập hợp các thông tin
thống kê về CN.
Nội dung về quản lý của EIA-852 được dựa trên mô hình máy trạm/máy chủ.
Một máy chủ cấu hình CS là thành phần trung tâm của chức năng này. Thành phần này
chịu trách nhiệm quản lý kênh IP. Các CN hoạt động như các máy trạm cấu hình và gửi
yêu cầu cấu trúc dữ liệu từ CS.CS chỉ gửi thông tin cấu hình thiết bị tới CN khi kênh IP
được cập nhật thông tin và thực hiện công khai cho tất cả các CN khác.
Cấu trúc dữ liệu quản lý dựa trên cấu hình thiết bị cho mỗi CN. Một danh sách
thành viên của kênh CM chỉ ra các thành viên trên kênh, một danh sách định tuyến SL
có thể có hoặc không và một thồn tin CR theo từng thiết bị. Tất cả thông tin quản lý theo
chuẩn EIA-852 đều được đánh phiên bản, phiên bản thường chứa thông tin thời gian,
ngày theo định dạng NTP.
Cấu trúc dữ liệu cục bộ được kiểm tra dựa trên các phiên bản đã được công khai
và được thực hiện nếu dữ liệu mới hơn đã có sắn. CM, SL, DC được đánh phiên bản bởi
CS trong khi đó dữ liệu CR được đánh phiên bản từng CN.
Các thiết bị CN hình thành nên kênh IP được định nghĩa trong danh sách kênh

trên CS. Mỗi CN được xác định duy nhât trên kênh bằng địa chỉ IP. Một giới hạn quan
trọng của chuẩn EIA-852 là không thể có 2 thiết bị cùng IP trên kênh nhưng có số cổng
khác nhau.
Mỗi thiết bị CN trên kênh được cấu hình bởi 1 DC. DC được nhập trên CS thông
qua giao diện web hoặc cổng console.
Luồn bản tin khi thêm hoặc cấu hình một thiết bị trên kênh được mô tả ở hình 6
10
6. Bảo mật
Bảo mật là nội dung quan trọng của mạng IP. Bao gồm cả bảo mật lưu lượng
chuẩn EIA-852. Trong khi các kênh LonWorks là local và chỉ truy cập được local. Các
kênh IP được thiết lập trên các phương tiện mở hoặc thậm chí mở rộng thành mạng
WAN. Vấn đề bảo mật điển hình là mức độ riêng tư, nhận thực và bảo toàn dữ liệu.
Trong chuẩn EIA-852 chỉ đề cập đến vấn đề nhận thực tức là cho phép xác định được
đối tượng gửi dữ liệu từ một CN xác định chứ không phải kẻ tấn công giả mạo.
Nguyên tắc của việc này là dựa vào mã nhận thực và khóa public. Một khóa bí mật
đã bao gồm cách tính toán căn bản và không được truyền đi trên kênh. Phía nhận thực
hiện cùng một cách tính toán và so sánh kết quả, nếu giống nhau nghĩa là nguồn đã được
nhận thực
Hình vẽ dưới đây mô tả thuật toán mã hóa MD5 dùng cơ chế so sánh như trên
11
7. Ứng dụng
Chúng ta đã học về công nghệ tunneling IP mới được dựa trên chuẩn ANSI/EIA-852
về mặt lý thuyết, về mặt ứng dụng có một số ứng dụng đã sử dụng công nghệ này,
chúng ta có thể kết nối các CN qua mạng Internet và thực hiện kết nối với nhiều tòa
nhà khác nhau. Hình vẽ dưới đây mô tả CN với IP router giống như L-IP có thể sử
dụng kiến trúc hạ tầng IP có sắn để hình thành nên mạng trục backbone tốc độ cao.
8. Kết luận
Thế giới không ngừng phát triển và ngày càng có nhiều thiêt bị kết nối với nhau hơn
dựa trên giao thức IP.Để đáp ứng được nhu cầu kêt nối ngày càng nhiều cần cung cấp
các công nghệ có thể đáp ứng được nhu cầu này. Chúng ta đã chỉ ra mạng LonWorks

dựa trên chuẩn EIA-852 có thể đáp ứng được nhu cầu này.
12

×