Tải bản đầy đủ (.doc) (93 trang)

luận văn thạc sĩ Nâng cao năng lực cung ứng dịch vụ đào tạo trình độ đại học của các trường Đại học khối Kinh tế - (Định hướng nghiên cứu tại trường Đại học Thương Mại)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (575.7 KB, 93 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của tôi.
Đối tượng nghiên cứu, phạm vi, kết quả nghiên cứu đều không trùng lặp với đề tài
nghiên cứu khoa học nào gần đây. Tư liệu, tài liệu tham khảo đều có trích dẫn
nguồn rõ ràng.
Người cam đoan
Nông Thị Hồng Anh
i
LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên trong luận văn này, tôi xin trân trọng cảm ơn Ban Giám hiệu,
các thầy cô trong khoa sau Đại học, các cán bộ giảng viên trong trường Đại học
Thương mại đã tận tình giúp đỡ, tạo điều kiện cho tôi trong quá trình nghiên cứu và
học tập.
Đặc biệt, tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến GS.TS Nguyễn Bách
Khoa là người đã trực tiếp hướng dẫn và tận tình chỉ bảo tôi trong quá trình nghiên
cứu, thực hiện đề tài luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè đã quan tâm, giúp đỡ, động viên
tôi trong quá trình học tập và hoàn thành Luận văn.
Mặc dù có nhiều cố gắng, song luận văn khó tránh khỏi còn có những thiếu
sót. Tôi mong nhận được sự góp ý, chỉ bảo của các thầy cô, những ý kiến đóng góp
của bạn bè đồng nghiệp và những người quan tâm để luận văn được hoàn thiện hơn.
Xin trân trọng cảm ơn!

ii
MỤC LỤC
4. Trường đại học Thương Mại; Báo cáo kết quả khảo sát chất lượng đào tạo 1
5. Trường đại học Thương Mại, chiến lược đổi mới và phát triển trường Đại học Thương
mại 2006-2020 1
6. Quyết định số 58/2010/QĐ-TTg ngày 22/9/2010 về việc ban hành "Điều lệ trường
đại học" 1
7. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Quyết định số 43/2007/QĐ-BGD&ĐT ngày 15 tháng 8 năm


2007 về việc ban hành “Quy chế đào tạo đại học và cao đẳng hệ chính quy theo hệ thống
tín chỉ” 1
…… 1
Và tham khảo tại các website: 1
Website ĐH Thương mại http:www//vcu.edu.vn/ 1
Website Bộ giáo dục và đào tạo 1
Website các báo điện tử : 1
1
iii
DANH MỤC HÌNH VẼ
Hình 1.1: Quá trình phát triên chiến lược CƯDVĐT của các cơ sở ĐT
Hình 1.2: Mô hình giá trị cung ứng người học
Hình 1.3: Quá trình cung ứng giá trị cho người học
Hình 1.4: Mô hình chiến lược kinh doanh cân bằng, bền vững
Hình 1.5: Cấu trúc bậc năng lực kinh doanh của doanh nghiệp
Hình 1.6: Mô hình cấu trúc hệ thống năng lực cung ứng dịch vụ đào tạo
của trường đại học
Hình 1.7: Mô hình nghiên cứu năng lực cung ứng dịch vụ đào tạo
của một số cơ sở đào tạo bậc đại học
iv
MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Trong xu thế toàn cầu hóa, cạnh tranh về nhân lực trong lĩnh vực kinh tế -
quản trị kinh doanh diễn ra ngày càng khốc liệt, vì thế các chủ sử dụng lao động đều
muốn tuyển dụng những cái đầu có chuyên môn cao, kiến thức sâu rộng, sáng tạo,
linh hoạt trong điều hành hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên thực tế hiện nay là khi
cọ sát với thực tiễn, nhiều sinh viên còn thụ động, vận dụng kiến thức, kỹ năng
mềm một cách máy móc, thiếu linh hoạt, sáng tạo như mong muốn của đơn vị tiếp
nhận sinh viên thực tập và tuyển dụng. Điều này cho thấy giữa kiến thức học thuật -
tiếp thu từ giảng đường đến thực tế công việc luôn có khoảng cách xa và nếu không

sớm điều chỉnh, đổi mới thì sản phẩm đào tạo dù được gắn mác “chất lượng cao” từ
những trường đại học khối kinh tế - Quản trị Kinh doanh có tên tuổi tại Hà Nội vẫn
bị thị trường lao động lắc đầu.
Sau khi tìm hiểu các nghiên cứu về dịch vụ đào tạo trình độ đại học tại các
trường đại học khối Kinh tế - Quản trị Kinh doanh nhận thấy hiện chưa có nhiều đề
tài đề cập tới vấn đề này, tuy nhiên do tính thời sự nóng hổi và tính cấp thiết cần
phải đảm bảo cung cấp những “sản phẩm” đáp ứng được nhu cầu thị trường lao
động hiện nay nên tôi bạo dạn nghiên cứu đề tài “ Nâng cao năng lực cung ứng
dịch vụ đào tạo trình độ đại học của các trường Đại học khối Kinh tế - Quản
trị kinh doanh tại Hà Nội (Định hướng nghiên cứu tại trường Đại học
Thương Mại)”
.2.Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận về dịch vụ đào tạo nói chung và dịch vụ
đào tạo đại học chính quy tại các trường đại học thuộc khối Kinh tế và Quản trị kinh
doanh nói riêng
- Phân tích tình hình thực trạng các trường đại học thuộc khối Kinh tế
và Quản trị kinh doanh tại Hà Nội và trường Đại học Thương mại trong những
năm qua.
- Đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao năng lực cung ứng dịch
vụ đào tạo đại học chính quy của các trường đại học thuộc khối Kinh tế và Quản
trị kinh doanh.
1
3.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là năng lực cung ứng dịch vụ đào tạo
đại học chính quy của các trường đại học thuộc khối Kinh tế và Quản trị kinh doanh
tại Hà Nội
Phạm vi nghiên cứu:
- Về không gian: nghiên cứu năng lực cung ứng dịch vụ đào tạo đại học
chính quy của các trường đại học thuộc khối Kinh tế và Quản trị kinh doanh (nghĩa
là chỉ nghiên cứu đối với các trường đại học thuộc khối Kinh tế và Quản trị kinh

doanh tại Hà Nội, định hướng nghiên cứu tại trường Đại học Thương Mại).
- Về thời gian: các nghiên cứu thực tế giới hạn chủ yếu trong thời gian từ
năm 2007 đến nay và đề xuất giải pháp định hướng đến 2020 tầm nhìn 2030.
- Về nội dung: luận án tập trung nghiên cứu về năng lực cung ứng dịch vụ
đào tạo đại học chính quy của các trường đại học thuộc khối Kinh tế và Quản trị
kinh doanh xét từ cấu trúc năng lực cung ứng dịch vụ đặt trong bối cảnh các nhân tố
ảnh hưởng đến năng lực cung ứng dịch đào tạo đại học.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp được sử dụng để nghiên cứu đề tài là sử dụng phương
pháp duy vật biện chứng, phương pháp thống kê, phương pháp phân tích, điều tra
đối sánh và tổng hợp. Kết hợp điều tra khảo sát thực tế với việc kế thừa kết quả
nghiên cứu của các chuyên gia, các nhà nghiên cứu trước đã tổng kết để làm sáng tỏ
những vấn đề do thực tế đặt ra có liên quan đến đề tài nghiên cứu, nhằm đề xuất
được các giải pháp khả thi cho đề tài.
5.Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Luận văn góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về năng lực cung
ứng dịch vụ đào tạo đại học.
Luận văn có ý nghĩa thực tiễn cao đối với nhà trường, từ những phân
tích, đánh giá thực trạng năng lực cung ứng dịch vụ đào tạo tại trường đại học
Thương mại nói riêng và các trường đại học khối kinh tế - quản trị kinh doanh nói
chung trong thời gian vừa qua sẽ rút ra được những bài học kinh nghiệm quí báu;
đảm bảo nâng cao chất lượng đào tạo và hiệu quả nâng cao năng lực cung ứng dịch
vụ đào tạo trong thời gian tới trên cơ sở triển khai các giải pháp phát triển cung ứng
dịch vụ đào tạo có tính chiến lược và lâu dài của trường.
2
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
dung của luận án gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận cơ bản về năng lực cung ứng dịch vụ tư
vấn quản lý của doanh nghiệp tư vấn trong nền kinh tế thị trường.

Chương 2: Thực trạng năng lực cung ứng dịch vụ tư vấn quản lý của các
doanh nghiệp tư vấn Việt Nam thời gian qua.
Chương 3: Quan điểm và giải pháp nhằm nâng cao năng lực cung ứng
dịch vụ tư vấn quản lý của các doanh nghiệp tư vấn Việt Nam trong giai đoạn
hiện nay.
3
CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NĂNG LỰC CUNG
ỨNG DỊCH VỤ ĐÀO TẠO TRÌNH ĐỘ ĐẠI HỌC CỦA CÁC TRƯỜNG ĐẠI
HỌC KHỐI KINH TẾ - QUẢN TRỊ KINH DOANH
1.1 Các khái niệm cốt lõi và lí thuyết cơ sở
1.1.1 Một số khái niệm cốt lõi
a. Dịch vụ và dịch vụ đào tạo : Có rất nhiều các khái niệm khác nhau về
dịch vụ, khái niệm thường được sử dụng nhất là: "Dịch vụ là những hoạt động mang
tính xã hội, tạo ra các sản phẩm hàng hóa không tồn tại dưới hình thái vật thể nhằm
thỏa mãn kịp thời các nhu cầu sản xuất và đời sống sinh hoạt của con người" [ ],
"dịch vụ là hàng hóa vô hình mang lại chuỗi giá trị thỏa mãn nhu cầu nào đó của thị
trường" [ ].
Dịch vụ là một lĩnh vực rất phong phú, đa dạng và luôn có sự phát triển
không ngừng cùng với sự phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia. Đây luôn được
coi là ngành góp phần đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế của quốc gia, là một yếu tố
không thể tách rời quá trình sản xuất hàng hóa, làm tăng giá trị và khả năng cạnh
tranh của hàng hóa. Kinh tế càng phát triển, dịch vụ ngày càng trở nên phát triển.
Theo nghĩa rộng xét trên phương diện ngành, dịch vụ được coi là ngành kinh
tế thứ ba, sau công nghiệp và nông nghiệp. Nếu vậy tất cả những lĩnh vực nằm ngoài
hai ngành công nghiệp và nông nghiệp đều được coi là dịch vụ. Xét trên kết quả
hoạt động, dịch vụ là khái niệm dùng để chỉ toàn bộ các hoạt động mà kết quả của
chúng không tồn tại dưới hình thái vật thể. Theo quan niệm này dịch vụ bao trùm
mọi lĩnh vực như vận tải, ngân hàng, bảo hiểm, thông tin, du lịch, văn hóa, hành
chính, tình cảm, pháp luật, Khi đó từ điển trực tuyến ()
định nghĩa "Dịch vụ là một hành động thực hiện một trách nhiệm hay một công việc

của một đối tượng cho một đối tượng khác" [ ].
Theo nghĩa hẹp, dịch vụ là một hoạt động hay lợi ích cung ứng nhằm để trao
đổi, chủ yếu là vô hình và không dẫn đến việc chuyển quyền sở hữu. Theo nghĩa này
dịch vụ chính là phần mềm của sản phẩm, hỗ trợ cho khách hàng trước, trong và sau
bán, dịch vụ gắn liền với quá trình mua bán hàng hóa. Việc thực hiện dịch vụ có thể
gắn liền hoặc không gắn liền với sản phẩm vật chất. Theo góc độ này Philip Kotler
định nghĩa "Dịch vụ là mọi hành động hay lợi ích mà một bên có thể cung cấp cho
bên kia và chủ yếu là vô hình, không dẫn đến quyền sở hữu một cái gì đó. Việc thực
hiện dịch vụ có thể và cũng có thể không liên quan đến một sản phẩm vật chất" [ ].
4
Mặc dù có nhiều quan niệm và định nghĩa khác nhau về dịch vụ nhưng nhìn
chung đều thống nhất, dịch vụ chính là sản phẩm của lao động SX và đều có các
đặc điểm chung:
- Vô hình hay phi vật chất, không tồn tại dưới dạng vật thể, không lưu trữ
được. KH sử dụng dịch vụ không thể biết trước kết quả khi chưa tiếp nhận sự cung
ứng và tiêu dùng dịch vụ.
- Tính không mất đi về khả năng, kỹ năng sau khi dịch vụ được cung ứng.
Hơn nữa những kỹ năng và khả năng này của người cung ứng dịch vụ ngày càng
được hoàn thiện sau khi họ cung ứng dịch vụ thành công.
- Tính không thể phân chia, không thể tách rời khỏi nguồn gốc của nó.
- Tính không ổn định và khó xác định chất lượng. Chất lượng của dịch vụ
dao động trong một khoảng rất rộng tùy thuộc hoàn cảnh tạo ra dịch vụ, người cung
ứng, thời gian và địa điểm cung ứng.
- Dịch vụ không tạo ra thực thể hàng hóa như sản phẩm công nghiệp, nông
nghiệp nhưng lại tạo ra những dịch vụ cần thiết cho sản xuất công, nông nghiệp.
Quá trình sản xuất công, nông nghiệp đều có dịch vụ tham gia.
- Quá trình cung cấp dịch vụ thể hiện quan hệ giữa cung và cầu, dịch vụ có
giá trị và giá trị sử dụng, bị tác động bởi quy luật giá trị và quan hệ cung cầu.
- Mỗi loại dịch vụ mang lại cho người tiêu dùng một giá trị nào đó. Giá trị
của dịch vụ gắn liền với lợi ích mà họ nhận được từ dịch vụ. Trong đó giá trị của

dịch vụ được hiểu là mức độ thỏa mãn nhu cầu mong đợi của người tiêu dùng, nó
có quan hệ mật thiết với lợi ích tìm kiếm và động cơ mua dịch vụ.
Từ các phân tích trên cho thấy: dịch vụ là sản phẩm của lao động, không tồn
tại dưới hình thái vật chất, quá trình sản xuất và tiêu thụ diễn ra đồng thời nhằm đáp
ứng nhu cầu của sản xuất và tiêu dùng.
Theo phân loại của WTO, dịch vụ bao gồm bất kỳ dịch vụ nào trong lĩnh vực
nào trừ các dịch vụ thuộc phạm vi hoạt động chức năng của Chính phủ, các dịch vụ
không mang tính thương mại và cạnh tranh với các nhà cung cấp khác. Dịch vụ
được phân thành 155 phân ngành thuộc 12 nhóm được thể hiện ở hộp 1.1.
5
Hộp 1.1. Phân loại dịch vụ theo tiếp cận của WTO
1. Dịch vụ kinh doanh: gồm dịch vụ nghề nghiệp, máy tính và liên quan,
nghiên cứu và phát triển, bất động sản, cho thuê, dịch vụ kinh doanh khác.
2. Dịch vụ thông tin liên lạc: gồm bưu điện, chuyển phát nhanh, viễn
thông, nghe nhìn, DV khác.
3. Dịch vụ kỹ thuật và xây dựng: gồm xây dựng nhà cửa, lắp đặt máy móc,
hoàn thiện công trình, dịch vụ khác.
4. Dịch vụ phân phối: gồm đại lý hoa hồng, bán buôn, bán lẻ, nhượng quyền,
dịch vụ khác.
5. Dịch vụ đào tạo: gồm tiểu học, trung học, đại học, dịch vụ đào tạo khác.
6. Dịch vụ môi trường: gồm thoát nước, xử lý chất thải, vệ sinh, dịch vụ
khác.
7. Dịch vụ tài chính: gồm tất cả bảo hiểm và DV liên quan đến bảo hiểm,
ngân hàng, tài chính, DV khác.
8. Dịch vụ liên quan đến sức khỏe và xã hội: gồm chữa bệnh, bệnh viện,
DV xã hội và các DV khác.
9. Dịch vụ du lịch và liên quan: gồm khách sạn, nhà hàng, đại lý và điều
hành du lịch, hướng dẫn du lịch và dịch vụ khác.
10. Dịch vụ giải trí, văn hóa và thể thao: gồm giải trí, tin tức, kiến trúc bảo
tàng, thể thao và các giải trí khác.

11. Dịch vụ vận tải: gồm vận tải đường biển, thủy nội địa, hàng không,
đường sắt, ô tô, đường sông, vận tải đa phương thức, dịch vụ vận tải khác.
12. Dịch vụ khác: bao gồm bất kỳ loại dịch vụ nào chưa được nêu ở trên.
Nguồn:
Có nhiều cách tiếp cận và thể hiện khái niệm dịch vụ và dịch vụ đào tạo, vận
dụng nguyên lý marketing cho các tổ chức phi lợi nhuận của Ph.Kotler để đưa ra
khái niệm: dịch vụ đào tạo đại học là một loại sản phẩm của quá trình sản xuất và
cung ứng các “hiệu ứng thỏa dụng” (utilizing efects) của các hoạt động đào tạo ở
một cơ sở đào tạo nhằm thỏa mãn nhu cầu của các sinh viên tiềm tàng và hiện hữu
đối với việc phát triển tự do và toàn diện về học vấn và chuẩn bị tốt phẩm chất,
năng lực cá nhân đáp ứng các cơ hội nghề nghiệp trên thị trường lao động sau tốt
nghiệp. Dịch vụ đào tạo cũng như mọi dịch vụ khác có bản chất vô định hình và
6
không dẫn tới kết quả chuyển quyền sở hữu. Việc sản xuất chung thường gắn liền
với và/hoặc hỗ trợ cho các quá trình đào tạo các sinh viên ở các cơ sở đào tạo
Trong hệ thống phân loại các ngành dịch vụ của WTO nhằm mục tiêu phục
vụ cho quá trình đàm phán và cam kết của các thành viên, dịch vụ đào tạo đại học
được coi là một phân ngành dịch vụ, nằm trong ngành dịch vụ đào tạo.
Tại Việt Nam, đào tạo đại học được coi là một bộ phận trong hệ thống giáo
dục quốc dân, là cấp giáo dục tiếp theo của giáo dục phổ thông. Nó bao gồm đào
tạo trình độ cao đẳng, trình độ đại học, trình độ thạc sỹ, trình độ tiến sỹ. Như vậy,
đào tạo đại học là dịch vụ giáo dục bậc cao, được tiêu dùng sau khi đã hoàn thành
các bậc học thấp hơn như giáo dục tiểu học, giáo dục trung học. Đại học là bậc học
mà trong nền kinh tế tri thức hiện đại các nước nhìn vào đó để đánh giá sự phát
triển giáo dục của một dân tộc, một quốc gia.
b. Cung ứng dịch vụ và cung ứng dịch vụ đào tạo:
"Cung ứng dịch vụ" là hoạt động thương mại, theo đó bên cung ứng dịch
vụ có nghĩa vụ thực hiện dịch vụ cho một bên khác và nhận thanh toán; bên sử dụng
dịch vụ có nghĩa vụ thanh toán cho bên cung ứng dịch vụ và sử dụng dịch vụ theo
thỏa thuận (Điều 3 khoản 9, Luật thương mại 2005)

Theo tiếp cận sản phẩm cổ điển, cung ứng DVĐT là nhiệm vụ của các cơ sở
đào tạo bậc đại học, là một thành tố của thị trường DVĐT phản ảnh một trạng
thái/cấu trúc số lượng, chất lượng, cơ cấu các sản phẩm DVĐT được cung cấp bởi
một cơ sở đào tạo bậc đại học cho các sinh viên trong một thời gian và không gian
xác định.
Khái niệm trên là không sai về mặt hiện vật nhưng chưa đầy đủ và chưa
trúng bản chất nhu cầu thị trường của chúng. Vì vậy thay cho quan niệm sản phẩm,
chúng tôi định nghĩa cung ứng DVĐT bậc đại học theo quan niệm giá trị cung ứng
cho khách hàng - sinh viên là quá trình quản lý và xã hội để lựa chọn và xác định;
kiến tạo và chia sẻ; truyền thông và thực hiện giá trị chào hàng thị trường các dịch
vụ đào tạo nhằm đáp ứng có hiệu quả nhu cầu của tệp sinh viên mục tiêu. Có 2
điểm khác biệt lớn giữa 2 quan niệm này: một là, quan niệm sản phẩm được khởi
đầu bằng sản xuất, tiêu điểm là sản phẩm để tạo nên mức thị trường được cung
nhưng hầu như không kiểm soát được mức độ thỏa mãn nhu cầu và thị trường được
thực hiện. Theo quan niệm giá trị, điểm xuất phát là nghiên cứu, lựa chọn và xác
định nhu cầu thị trường, tiêu điểm là giá trị cung ứng cho sinh viên và vì vậy tạo
tiền đề thỏa mãn nhu cầu toàn diện hơn và kiểm soát được hiệu lực thị trường được
7
cung của cơ sở đào tạo; hai là, theo quan niệm sản phẩm chưa phản ảnh đầy đủ nhu
cầu thực sự của sinh viên về DVĐT bởi sinh viên không thụ hưởng bản thân sản
phẩm dịch vụ đó (ví dụ, dịch vụ giảng dạy trên lớp) mà là thụ hưởng lợi ích/giá trị
của dịch vụ đó (bao gồm giá trị dịch vụ cốt lõi, dịch vụ hỗ trợ, giảng viên và hình
ảnh thương hiệu của thầy cô, của chuyên ngành, của khoa và của trường), mà vì
vậy sinh viên phải tiêu tốn một chi phí xác định (về tiền, thời gian, năng lượng, tâm
lý) - nghĩa là thụ hưởng giá trị cung ứng cho sinh viên qua chào hàng thị trường
DVĐT đó. Ở đây chào hàng thị trường được hiểu là một tích hợp dịch vụ cốt lõi,
dịch vụ hỗ trợ và giá/phí dựa trên giá trị của một DVĐT được chào hàng có phân
biệt và khác biệt hóa) nhằm thỏa mãn nhu cầu của tập sinh viên mục tiêu xác định.
Có nhiều cách “pha trộn” tích hợp này tạo nên nhiều mức trình độ và chất lượng
chào hàng, thị trường khác nhau với mức trình độ và chất lượng chào hàng, thị

trường khác nhau với giá/phí khác nhau và tạo nên mức thỏa mãn nhu cầu có khả
năng thanh toán khác nhau cho sinh viên lựa chọn phù hợp.
Có một điểm khác biệt căn bản đối với cung ứng các dịch vụ khác, đó là
người cung ứng DVĐT - cơ sở đào tạo bậc đại học đều phải đảm bảo đã được cấp
chứng chỉ kiểm định chất lượng DVĐT căn bản của một cơ quan quản lý Nhà nước
có thẩm quyền. Những cơ sở và tổ chức cung ứng DVĐT bậc đại học nếu chưa có
chứng chỉ này mà vẫn thực hiện cung ứng thì chỉ là một doanh nghiệp dịch vụ
thuần túy chứ không phải là trường đại học, cao đẳng chuẩn mực và kết quả, bằng
cấp không được công nhận trên thị trường lao động và trong quản trị nhân lực các
tổ chức và doanh nghiệp hợp pháp.
Xuất phát từ nguyên lý marketing dịch vụ, đối tượng của cung ứng DVĐT
bao gồm gói dịch vụ cốt lõi gắn liền với quá trình giáo dục và đào tạo các yếu tố
phẩm chất và năng lực được quy định trong chuẩn đầu ra của sinh viên tốt nghiệp
và các dịch vụ bổ sung, hỗ trợ cho các dịch vụ cốt lõi. Về cấu trúc, gói DVĐT cốt
lõi gồm 3 nhóm chính: nhóm dịch vụ kiến tạo năng lực kiến thực; nhóm dịch vụ rèn
luyện năng lực kỹ năng và nhóm dịch vụ giáo dục thái độ, hành vi và thể chất. Các
dịch vụ bổ sung, hỗ trợ bao gồm 3 nhóm chính: nhóm dịch vụ tuyển sinh cung ứng
cho các sinh viên tiềm tàng; nhóm dịch vụ quản lý và phục vụ đào tạo có liên quan
đến sinh viên; nhóm dịch vụ quản lý và phục vụ giảng viên và cán bộ quản lý đào
tạo có liên quan đến các DVĐT cốt lõi
8
c. Thị trường dịch vụ đào tạo
Thị trường là nơi chuyển giao quyền sở hữu sản phẩm, dịch vụ hoặc tiền tệ,
nhằm thỏa mãn nhu cầu của hai bên cung và cầu về một loại sản phẩm nhất định
theo các thông lệ hiện hành, từ đó xác định rõ số lượng và giá cả cần thiết của sản
phẩm, dịch vụ. Thực chất, Thị trường là tổng thể các khách hàng tiềm năng cùng có
một yêu cầu cụ thể nhưng chưa được đáp ứng và có khả năng tham gia trao đổi để
thỏa mãn nhu cầu đó.
Còn trong kinh tế học, thị trường được hiểu rộng hơn, là nơi có các quan hệ
mua bán hàng hóa, dịch vụ giữa vô số những người bán và người mua có quan hệ

cạnh tranh với nhau, bất kể là ở địa điểm nào, thời gian nào.
Dịch vụ giáo dục đào tạo lâu nay vẫn được coi là một lợi ích công nhằm đảm
bảo sự công bằng cho toàn xã hội. Tuy nhiên do nhu cầu ngày càng tăng về giáo
dục, hơn nữa Nhà nước không đủ điều kiện cung cấp nên rất nhiều trường tư đã ra
đời. Hệ thống trường tư tồn tại song song với trường công tạo nên một thị trường
dịch vụ đào tạo đa dạng, tính cạnh tranh trong thị trường dịch vụ đào tạo cũng có xu
hướng tăng.
Việc tự do hóa và tăng cường trao đổi với bên ngoài của dịch vụ đào tạo đại
học cũng nằm trong xu thế tự do hóa chung mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội trên
toàn thế giới. Tuy nhiên, dịch vụ đào tạo đại học lại là lĩnh vực có mức tự do hóa
thấp. Trong số 150 quốc gia thành viên chính thức của WTO chỉ có hơn 47 quốc gia
có cam kết mở cửa giáo dục, và trong số này cũng chỉ có 36 quốc gia mở cửa
giáo dục đại học. Bới việc mở cửa ngoài các mặt tích cực như tăng tính cạnh
tranh, tạo động lực cho các trường đại học trong nước nâng cao chất lượng đào
tạo, sẽ kèm theo nhưng hậu quả - trong đó có việc đẩy một số trường đại học vốn
đang non kém có thể lâm vào tình trạng khó khăn hơn nữa, thậm chí phải đóng
cửa, việc giáo dục các giá trị truyền thống của dân tộc trong môi trường đại học
quốc tế sẽ khó khăn hơn.
Trước kia, trường đại học được xem là nơi đào tạo cho giới tinh hoa, những
người thuộc tầng lớp trên của xã hội nhưng cùng với sự phát triển của khoa học và
công nghệ và với sự thay đổi quan niệm về đào tạo đại học tính đại chúng ngày
càng tăng, Từ những yêu cầu của quá trình phát triển kinh tế và cạnh tranh trong bối
cảnh hội nhập, các nước chú trọng hơn đến việc nâng cao chất lượng và tính cạnh
tranh của hệ thống giáo dục đại học. Việt Nam cũng đang tích cực hoàn thiện
chương trình đào tạo đại học nhằm duy trì và nâng cao chất lượng đào tạo tại các
9
trường đại học, nâng cao năng lực cạnh tranh, đảm bảo theo kịp sự phát triển chung
của nền giáo dục thế giới.
Đối với Việt Nam việc mở rộng các hoạt động dịch vụ đào tạo đại học, việc
cạnh tranh để thu hút sinh viên sẽ trở nên gay gắt hơn rất nhiều. Trước mắt, lợi thế

cho các trường đại học Việt Nam trong cuộc cạnh tranh này là Việt Nam nói chung
vẫn chưa là đích đến của các trường đại học có tên tuổi. Mức học phí cao của các
trường nước ngoài tại Việt Nam cũng là một rào cản lớn với đông đảo thí sinh,
trong khi nhà nước bù giá cho các sinh viên trường công lập cũng tạo ưu thế cho
các trường công lập với gần 90% sinh viên đang theo học.
Ngoài ra hiện nay một số trường tại Việt Nam cũng mở rộng cung cấp dịch
vụ đào tạo cho sinh viên nước ngoài ngay tại cở sở của trường như trường đại học
Ngoại thương, trường đại học Thương Mại có đào tạo cho sinh viên Lào, Trung
Quốc. Đại học Vinh dự kiến xây dựng cơ sở của mình tại Xiêng Khoảng(Lào), khi
trường cung cấp dịch vụ đào tạo có nghĩa là Việt Nam đã mở rộng thị trường dịch
vụ đào tạo sang nước ngoài.
d.Trường ĐH-cơ sở cung ứng dịch vụ đào tạo bậc đại học
Có một điểm khác biệt căn bản đối với cung ứng các dịch vụ khác, đó là
người cung ứng DVĐT - cơ sở đào tạo bậc đại học đều phải đảm bảo đã được cấp
chứng chỉ kiểm định chất lượng DVĐT căn bản của một cơ quan quản lý Nhà nước
có thẩm quyền. Những cơ sở và tổ chức cung ứng DVĐT bậc đại học nếu chưa có
chứng chỉ này mà vẫn thực hiện cung ứng thì chỉ là một doanh nghiệp dịch vụ
thuần túy chứ không phải là trường đại học, cao đẳng chuẩn mực và kết quả, bằng
cấp không được công nhận trên thị trường lao động và trong quản trị nhân lực các
tổ chức và doanh nghiệp hợp pháp.
Đối tượng cung cấp dịch vụ đào tạo đại học chính là các cơ sở giáo dục đại
học. Theo Điều 7, Luật Giáo dục 2012, cơ sở giáo dục đại học trong hệ thống giáo
dục quốc dân bao gồm:
a) Trường cao đẳng đào tạo trình độ cao đẳng
b) Trường đại học, học viện (gọi chung là trường đại học) đào tạo trình
độ cao đẳng, trình độ đại học; đào tạo trình độ thạc sĩ, trình độ tiến sĩ khi được
Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo cho phép.
c) Đại học vùng, đại học quốc gia (sau đây gọi chung là đại học);
10
d) Viện nghiên cứu khoa học được phép đào tạo trình độ tiến sĩ, phối hợp

với trường đại học đào tạo trình độ thạc sĩ khi được Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào
tạo cho phép.
Trường đại học có vai trò bảo tồn, làm sáng tỏ, và có khi mở rộng lịch sử và
văn hóa của xã hội. Trong thế kỷ XIX, trường đại học được bổ sung thêm nhiệm vụ
nghiên cứu, và tiếp theo sau đó ít lâu là nhiệm vụ cung cấp một số dịch vụ cung cấp
cho xã hội. Theo Ngô Tự Lập (2010): “Trường đại học hiện đại phải giải quyết mối
quan hệ hai mặt của nó với nhà nước. Một mặt, trường đại học là nơi đào tạo nhân
lực cho Nhà nước, nó phải giáo dục người lao động rằng họ phải sử dụng lý trí để
phục vụ nhà nước. Vì thế đại học phải chịu sự kiểm soát của Nhà nước. Mặt khác,
trường đại học chỉ có thể vận hành tốt nếu lý trí được tự do tuyệt đối. Điều này có
nghĩa là trường đại học phải được hưởng một quy chế tự trị để quá trình phê phán
có thể diễn ra thuận lợi”.
Trong các vai trò và sứ mạng trọng yếu của trường đại học , hẳn nhiên là có
vai trò đào tạo con người, nhưng trường đại học không phải là nơi bán lẻ tri thức,
mà là nơi mà con người được khai sáng theo nghĩa rộng nhất của từ này, chứ không
phải chỉ được giáo dục hay huấn luyện. Một trường đại học khác với một trường
dạy nghề ở chỗ trường đại học không chỉ mang lại cho sinh viên những kiến thức
và kỹ năng cụ thể trong một lãnh vực chuyên nghiệp nhất định, mà còn giúp họ
phát triển tinh thần tranh biện và thái độ tôn sùng sự thật, giúp họ thử thách mọi
chân lý và giá trị. Hơn thế nữa, một trường đại học đích thực phải có thể truyền đạt
cho sinh viên của mình một tầm nhìn quốc tế và lòng tôn trọng sâu sắc đối với con
người và các giá trị nhân văn. Thật vậy, trường đại học cần “phải trở thành cái nền
nơi họ học cách liên kết những dấu chấm, cho dù các dấu chấm đó có vẻ hoàn toàn
không liên quan gì đến nhau”. ĐHĐCQT tạo ra một môi trường học vấn giúp đào
tạo ra những nhân vật kiệt xuất, không chỉ những nhà khoa học lỗi lạc mà còn là
các nhà hoạt động xã hội và chính trị xuất chúng. Tạo ra những sinh viên nổi bật
như vậy là một đặc điểm chung của các trường đại học lớn. Có một điều rất rõ ràng
rằng một trường đại học lớn thì phải sản sinh ra những tên tuổi lớn. Điều này đúng
ở Anh Quốc, ở Trung Quốc, ở Mỹ hay bất kỳ quốc gia nào khác trên thế giới. Một
trong những lý do cơ bản của sự tồn tại của các trường đại học là vì chúng có thể,

và cần phải, sản sinh ra những công dân có khả năng cải thiện cuộc sống cho nhân
loại. Các trường đại học hàng đầu đều rất tự hào về những sinh viên vẻ vang của
mình: Đại học Yale có một khu triển lãm hình ảnh của các tổng thống, nguyên thủ
11
các nước từng là sinh viên của trường. Harvard không thua kém với một danh sách
dài dằng dặc các tên tuổi cựu sinh viên lẫy lừng thế giới, những người đã làm biến
đổi cả đất nước và xã hội mà họ đang sống.
e. Đặc điểm đào tạo bậc đại học khối ngành Kinh tế và Quản trị kinh
doanh
Dịch vụ đào tạo bậc đại học khối ngành KT và QTKD mang những đặc tính
cơ bản sau đây
- Chất lượng dịch vụ không đồng nhất
Chất lượng dịch vụ đào tạo phụ thuộc nhiều vào nhà cung ứng dịch vụ,
ngay cả khi cùng một trường đại học thì dịch vụ do những người trực tiếp cung cấp
khác nhau là không giống nhau. Vì vậy mà chất lượng thực sự của dịch vụ đào tạo
thường khó xác định, việc lựa chọn trường của sinh viên gặp nhiều khó
khăn Chẳng hạn như chất lượng đào tạo của các chuyên ngành khác nhau của một
trường đại học có thể không đồng nhất, thậm chí ở cùng một chuyên ngành khi nó
được giảng dạy bởi những giảng viên với trình độ, kinh nghiệm và cách thức truyền
đạt khác nhau, chất lượng của bài giảng cũng rất khác nhau. Ngay cả khi là cùng
một giảng viên thì không phải lúc nào họ cũng trình bày một bài giảng với chất
lượng như nhau, điều đó còn phụ thuộc vào tâm lí của người dạy và người học tại
những thời điểm khác nhau.
- Khách hàng không được tự do lựa chọn dịch vụ theo nhu cầu và khả năng
thanh toán
Đối với các hàng hóa và dịch vụ thông thường, người tiêu dùng có thể tự
do lựa chọn nếu có nhu cầu và có đủ tiền. Tuy nhiên, việc tiêu thụ dịch vụ giáo dục
còn phụ thuộc vào khả năng, trình độ của người học. Các trường học thường có yêu
cầu nhất định đối với sinh viên được nhận vào trường, để đảm bảo việc tiếp thu kiến
thức và kỹ năng đạt được kết quả mong muốn. Các yêu cầu đầu vào này rất khác

nhau giữa các trường, cùng với chất lượng của các trường khác nhau dẫn đến sản
phẩm đầu ra của các trường trong nhiều trường hợp chênh lệch nhau rất lớn.
- Tính xã hội của dịch vụ đào tạo đại học
Dịch vụ giáo dục không chỉ đem lại lợi ích cho cá nhân mà còn cho những
người xung quanh và cả xã hội. Lợi ích cho cá nhân là lợi ích của bản thân học viên
sau khi học, có được kiến thức và kỹ năng làm việc, sẽ tìm được việc làm tốt hơn và
có thu nhập cao hơn, có cuộc sống phong phú hơn. Tuy nhiên lợi ích lớn hơn lại là
lợi ích của việc học đó cho sự phát triển xã hội, nâng cao năng suất lao động xã hội.
12
Một đất nước mà trình độ nguồn nhân lực càng cao thì kinh tế càng phát triển, các
tệ nạn xã hội được giảm bớt, các chính sách kinh tế, văn hóa và xã hội thực hiện dễ
dàng hơn.
- Tính thương mại hóa tăng cao và bùng nổ tham gia của khu vực tư nhân
Giáo dục đại học chuyển từ quan niệm là một lợi ích công sang quan niệm
là lợi ích tư. Quan niệm này cho rằng văn bằng đại học mang lợi ích về cho người
được văn bằng nhiều hơn là cho xã hội. Do đó tất yếu là người được hưởng lợi ích
phải chi trả để đạt được lợi ích đó, và các trường đại học tư thành lập để bán dịch
vụ đào tạo đại học . Vào năm 1980 ở nhiều nước trên thế giới không có đại học tư
nhưng cho đến nay hầu hết tất cả các nước đều có đại học tư. Dịch vụ đào tạo đại
học được coi là dịch vụ thương mại vì nó được cung cấp trên cơ sở cạnh tranh.
- Tính hướng nghiệp
Tính chuyên môn hóa trong giáo dục đại học chính là nhằm mục đích
hướng nghiệp cho sinh viên theo học, những con người lao động tương lai. Nếu
như ở trường tiểu học, trung học các môn học cung cấp các kiến thức cơ bản, nền
tảng cho mọi ngành nghề thì trường đại học lại dạy đúng chuyên ngành mà người
học cần cho nghề nghiệp của mình. Đối với sinh viên học tại các trường khối KT
và QTKD đó có thể là tài chính ngân hàng, thương mại quốc tế, thuế, hải quan
Đại học là nơi đào tạo ra nhiều lao động có trình độ chuyên môn, đóng góp vào sự
phát triển kinh tế và xã hội của đất nước.


f. Năng lực cung ứng dịch vụ
Theo từ điển Tiếng Việt năng lực là "khả năng, điều kiện chủ quan
hoặc tự nhiên sẵn có để thực hiện một hoạt động nào đó" , hoặc năng lực là "phẩm
chất tâm lý và sinh lý tạo cho con người khả năng hoàn thành một hoạt động nào đó
với chất lượng cao" . Góc độ một tổ chức, năng lực được thể hiện ở mức độ sử dụng
khả năng và nguồn lực sẵn có của tổ chức đó để thực thi các hoạt động chủ yếu.
Năng lực là nói đến việc sử dụng khả năng như thế nào, thể hiện trình độ sử
dụng khả năng, trình độ khai thác khả năng. Thực tế đã chứng minh nếu biết cách
khai thác tiềm năng có thể biến tiềm năng đó trở thành năng lực. Đề cập đến năng
lực chính là đề cập đến chiến lược khai thác tiềm năng. Ví dụ: Một DN có rất nhiều
khả năng thể hiện ở sự sẵn có của các nguồn lực vốn, cơ sở vật chất kỹ thuật, máy
móc, thiết bị, con người. Tuy nhiên với mỗi nhà quản trị khác nhau, với chiến lược
sử dụng các khả năng tiềm tàng khác nhau sẽ tạo ra các năng lực khác nhau
13
Còn đề cập đến nguồn lực là đề cập đến các yếu tố tham gia vào việc tạo ra
khả năng. Các yếu tố có thể kể đến như là: nguồn nhân lực, vốn, cơ sở vật chất kỹ
thuật, uy tín, thương hiệu, văn hóa DN, các lợi thế thương mại của tổ chức đó,…
Như vậy năng lực cung ứng của DN là khả năng và nguồn lực sẵn có của DN
để cung cấp những sản phẩm hàng hóa dịch vụ cần thiết để đáp ứng nhu cầu của
KH. Nói cách khác năng lực cung ứng dịch vụ của DN được hiểu là tích hợp các
khả năng và nguồn nội lực để cung cấp những sản phẩm cần thiết cho KH nhằm duy
trì và phát triển thị phần, lợi nhuận và định vị những ưu thế nhằm đạt được các mục
tiêu đã xác định. Năng lực cung ứng dịch vụ của DN thể hiện thực lực và lợi thế của
DN trong việc thỏa mãn nhu cầu của KH để thu lợi ích ngày càng cao cho DN.
1.1.2 Một số lí thuyết cơ sở
a. Lí thuyết giá trị cung ứng cho khách hàng
Theo Philip Kotler, giá trị cung ứng cho khách hàng là chênh lệch giữa tổng
giá trị mà khách hàng nhận được và tổng chi phí mà khách hàng phải trả. Tổng giá
trị của khách hàng là toàn bộ những lợi ích mà khách hàng trông đợi ở một sản
phẩm hay dịch vụ nhất định.

Tổng giá trị mà khách hàng nhận được là toàn bộ những lợi ích mà họ mong
đợi ở một sản phẩm, dịch vụ. Thông thường, nó bao gồm một tập hợp các giá trị thu
được từ chính bản thân sản phẩm, dịch vụ, các dịch vụ kèm theo, nguồn nhân lực và
hình ảnh của doanh nghiệp.
Tổng chi phí mà khách hàng phải trả là toàn bộ những phí tổn mà khách
hàng phải bỏ ra để nhận được những lợi ích mong muốn. Trong tổng chi phí này,
những bộ phận chủ chốt thường bao gồm: giá tiền của sản phẩm dịch vụ; phí tổn
thời gian; phí tổn công sức và phí tổn tinh thần mà khách hàng bỏ ra trong quá trình
mua hàng.
Theo đó trước khi mua sản phẩm dịch vụ đào tạo đại học, người mua sẽ
tìm hiểu về độ tin cậy,cơ sở vật chất tại cơ sở đào tạo, chất lượng dịch vụ đào tạo,
thương hiệu của cơ sở đào tạo, kiến thức tri thức nhận được, giá trị bằng cấp được
công nhận trên thị trường lao động Tuy nhiên, không phải sản phẩm dịch vụ nào
đạt được những yếu tố tốt nhất cũng được lựa chọn mua. Người mua còn xem xét
tổng chí phí bỏ ra để thực hiện giao dịch với nhà cung ứng. Tổng chi phí mà
khách hàng phải trả còn lớn hơn cả chi phí tiền bạc. Nó bao gồm cả những phí
tổn thời gian, sức lực và tinh thần mà người mua bỏ ra. Người mua đánh giá
14
những phí tổn này cùng với chi phí tiền bạc để có được một ý niệm về tổng chi
phí của khách hàng.
Như vậy, giá trị cung ứng cho khách hàng không chỉ đơn thuần là những
giá trị, lợi ích nằm trong chính bản thân sản phẩm, dịch vụ. Nó bao gồm tất thảy những
giá trị hữu hình và vô hình, giá trị được sáng tạo trong sản xuất và giá trị nằm ngoài khâu
sản xuất, miễn là những giá trị này mang lại lợi ích cho khách hàng.
b. Lí thuyết mô hình chiến lược kinh doanh dịch vụ dựa trên giá trị và
tri thức:
Chiến lược cung ứng dịch vụ đào tạo của một tổ chức / cơ sở đào tạo là "a
game plan", 1 cấu trúc logic gồm xác lập tầm nhìn và các mục tiêu; các công cụ để
lựa chọn, cung ứng, truyền thông và chuyển giao các giá trị đào tạo cho tệp người
học muc tiêu và quy hoạch các chức năng nguồn lực liên minh, liên kết của các cổ

đông đào tạo nhằm đạt được mục tiêu trong dài hạn thích ứng với môi trường đào
tạo đang thay đổi của tổ chức/cơ sở đào tạo.
Có thể khái quát mô hình quá trình phát triển chiến lược CƯDV ĐT của một
tổ chức/cơ sở đào tạo theo hình 1 như sau:
Hình 1.1: Quá trình phát triên chiến lược CƯDVĐT của các cơ sở ĐT
15
Phát triển triết lý dịch vụ đào tạo đại học
Phát triển CL lựa chọn, định vị giá trị cung ứng
Phát triển CL cung ứng giá trị đào tạo cho người
học
Phát triển CL truyền thông và chuyển giao giá trị
ĐTN cho người học
Phát triển các năng lực cốt lõi phù hợp, cân bằng
với cấu trúc cung ứng giá trị cho người học
L
i
ê
n

k
ê
́
t

n
g
ư
ơ
̣
c

Đầu vào
Đầu ra
c. Lí thuyết quá trình cung ứng giá trị cho khách hàng của tổ chức
Mô hình cung ứng dịch vụ ĐTN NTMN trên cơ sở phát triển mô hình quá
trình cung ứng giá trị của Ph,Koller, M.lanning, E.Michaclo [1]
Thứ nhất, xác định rõ giá trị cung ứng cho người học gồm (xem hình1. 2)
Hình 1.2: Mô hình giá trị cung ứng người học
Nguồn: Tạp chí khoa học thương mại [ ]
Thứ hai, chuyển mô hình quá trình cung ứng sản phẩm đào tạo thành quá
trình cung ứng giá trị đào tạo cho người học (xem hình 1.3)
Hình 1.3: Quá trình cung ứng giá trị cho người học
d. Một số nguyên lí về giáo dục đại học Việt Nam theo Luật giáo dục mới
Ngày 18 tháng 6 năm 2012, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 3 đã thông qua Luật Giáo dục đại học, theo đó
chúng ta có thể nắm được một số nguyên lí về giáo dục đại học Việt Nam theo luật
giáo dục mới:
- Mục tiêu của giáo dục đại học (điều 5)
Mục tiêu chung:
Đào tạo nhân lực, nâng cao dân trí; nghiên cứu khoa học, công nghệ tạo ra tri
16
Xây
dựng
CTĐT
xác
định
Xét tốt
nghiệp,
cấp
bằng,
chưng

chỉ
Tổ
chức
hạ tầng

ĐT
các
ngành
Tổ
chức
tuyển
sinh
ĐT
Tổ
chức
lớp/
khóa
học
Tổ
chức
giảng

dạy
(LT+TH)
Tổ
chức
học
tập

thực

hành
Tổ
chức
thi,
kiểm
tra
Tạo CT và nguồn ĐT
Tổ chức các quá trình đào tạo
Phân
khúc
các
tệp
NH
tiềm
tàng
Chọn
tiêu
điểm
nghề
thích
hợp
theo
phân
khúc
Định
vị
giá
trị
ĐTN
theo

phân
khúc
Phát
triển
các
CT
ĐT

Phát
triển
DV
cho
NH
Định
vị
và
thực
hành
giá/
phí
ĐT
Tạo
nguồn

ĐT
Tổ
chức
thời
gian,
địa

điểm
điều
kiện
ĐT
Truyền
thông
quảng
bá
ĐT
Khuyến
khích
kích
đẩy
NH
Phát
triển
phương
pháp
ĐT
thực
hành


vấn
giúp
đỡ
hậu
ĐT
Cận
biên

giá
trị
cho
người
học
Chọn giá trị
Cung ứng giá trị
Truyền thông, chuyển giao
giá trị
thức, sản phẩm mới, phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội…
Đào tạo người học có phẩm chất chính trị, đạo đức; có kiến thức, kỹ năng
thực hành nghề nghiệp ; có khả năng sáng tạo và trách nhiệm nghề nghiệp, thích
nghi với môi trường làm việc; có ý thức phục vụ nhân dân
2. Mục tiêu cụ thể đào tạo trình độ đại học
Đào tạo trình độ đại học để sinh viên có kiến thức chuyên môn toàn diện,
nắm vững nguyên lý, quy luật tự nhiên - xã hội, có kỹ năng thực hành cơ bản, có
khả năng làm việc độc lập, sáng tạo và giải quyết những vấn đề thuộc ngành được
đào tạo;….
- Trình độ và hình thức đào tạo của giáo dục đại học(điều 6)
Các trình độ đào tạo của giáo dục đại học gồm trình độ cao đẳng, trình độ
đại học, trình độ thạc sĩ và trình độ tiến sĩ.
Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo phối hợp với Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ
quan ngang bộ quy định cụ thể việc đào tạo trình độ kỹ năng thực hành, ứng dụng
chuyên sâu cho người đã tốt nghiệp đại học ở một số ngành chuyên môn đặc thù.
Các trình độ đào tạo của giáo dục đại học được thực hiện theo hai hình thức
là giáo dục chính quy và giáo dục thường xuyên.
- Cơ sở giáo dục đại học(điều 7)
Cơ sở giáo dục đại học trong hệ thống giáo dục quốc dân gồm:
Trường cao đẳng;Trường đại học, học viện; Đại học vùng, đại học quốc
gia (sau đây gọi chung là đại học); Viện nghiên cứu khoa học được phép đào tạo

trình độ tiến sĩ.
Cơ sở giáo dục đại học công lập thuộc sở hữu nhà nước, do Nhà nước đầu tư,
xây dựng cơ sở vật chất;Cơ sở giáo dục đại học tư thục thuộc sở hữu của tổ chức xã
hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức kinh tế tư nhân hoặc cá nhân, do tổ chức
xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức kinh tế tư nhân hoặc cá nhân đầu tư,
xây dựng cơ sở vật chất….
- Nhiệm vụ và quyền hạn của trường cao đẳng, trường đại học, học viện
(điều 28)
Xây dựng chiến lược, kế hoạch phát triển cơ sở giáo dục đại học. Triển khai
hoạt động đào tạo, khoa học và công nghệ, hợp tác quốc tế, bảo đảm chất lượng giáo
dục đại học. Phát triển các chương trình đào tạo theo mục tiêu xác định; bảo đảm sự
liên thông giữa các chương trình và trình độ đào tạo. Tổ chức bộ máy; tuyển dụng,
quản lý, xây dựng, bồi dưỡng đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý, viên chức, người lao
17
động. Quản lý người học; bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của giảng viên, viên chức,
nhân viên, cán bộ quản lý và người học; dành kinh phí để thực hiện chính sách xã hội đối
với đối tượng được hưởng chính sách xã hội ; b o m môi tr ng s ph m cho ho tả đả ườ ư ạ ạ
ng giáo d c.độ ụ T ánh giá ch t l ng o t o v ch u s ki m nh ch t l ng giáo d c.ự đ ấ ượ đà ạ à ị ự ể đị ấ ượ ụ
c Nh n c giao ho c cho thuê t, c s v t ch t; c mi n, gi m thu theoĐượ à ướ ặ đấ ơ ở ậ ấ đượ ễ ả ế
quy nh c a pháp lu t.đị ủ ậ Hợp tác với các tổ chức kinh tế, giáo dục, văn hóa, thể dục,
thể thao, y tế, nghiên cứu khoa học trong nước và nước ngoài. Thực hiện chế độ
thông tin, báo cáo và chịu sự kiểm tra, thanh tra của Bộ Giáo dục và Đào tạo, các bộ,
ngành có liên quan và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi cơ sở giáo dục đại học đặt trụ sở hoặc
có tổ chức hoạt động đào tạo theo quy định.
e. Lí thuyết chiến lược cung ứng dịch vụ định hướng thị trường dựa trên
năng lực
Theo quan điểm quản trị chiến lược (QTCL) dựa trên năng lực kinh doanh
(NLKD) của doanh nghiệp (DN), các nhà QTCL cần đánh giá các NLKD của DN.
Ở đây, các NLKD được hiểu là các khả năng và nguồn lực được sử dụng cho hoạt
động kinh doanh của DN. Quan điểm chiến lược kinh doanh (CLKD) định hướng

thị trường dựa trên NLKD khẳng định rõ mức độ hấp dẫn của các cơ hội thị trường
đối với một DN phụ thuộc vào khả năng và nguồn lực có thể huy động để khai thác
cơ hội đó. Vì vậy, nhà quản trị doanh nghiệp (QTDN) phải hiểu rõ và nắm vững
các NLKD của DN. Nguồn NLKD là cơ sở để các DN dựa vào đó xây dựng vị
thế cạnh tranh và bất kỳ CLKD nào cũng bị chi phối và phụ thuộc vào các năng
lực này. Một CLKD không được xây dựng dựa vào những thế mạnh và không
khai thác triệt để được NLKD sẽ khó thành công. Nếu không có được những
NLKD hoặc không tận dụng, khai thác được chúng, CLKD cũng sẽ thất bại trong
quá trình triển khai thực hiện.
Cũng như vậy bất kỳ cơ sở đào tạo, trường đại học nào cũng có một danh
sách các năng lực nhưng điều quan trọng là người quản trị phải xác định được
những năng lực nào có thể giúp trường đại học tạo lợi thế cạnh tranh (LTCT) dài
hạn để thu hút được nhiều sinh viên, người học. Nguyên lý quản trị kinh doanh đã
chỉ ra rằng, những năng lực có khả năng trở thành LTCT dài hạn khi chúng có
những đặc điểm sau : mang lại giá trị cho khách hàng cao hơn sản phẩm cạnh tranh;
không phổ biến; chống được sự sao chép của đối thủ cạnh tranh; giá trị đó được
đánh giá cao.
Những năng lực cung ứng dịch vụ đào tạo được coi là LTCT tiềm năng bao
18
gồm: sự nổi tiếng của thương hiệu của cơ sở đào tạo, mối quan hệ với khách hàng,
mạng lưới phân phối hiệu quả, quá trình kiến tạo tri thức mới và vị thế cạnh tranh
trên thị trường . Những năng lực này được coi là NLKD, do nó liên quan trực tiếp
tới các hoạt động cung ứng dịch vụ và thúc đẩy trực tiếp vị thế của cơ sở đào tạo
trên thị trường, vai trò của chúng là tạo ra lợi ích gia tăng cho khách hàng. Nhưng
mức độ các năng lực này được bảo vệ chống lại sự sao chép, bắt chước của đối thủ
cạnh tranh như thế nào? Một số năng lực như vốn, thiết bị, cơ sở vật chất kĩ thuật…
dễ bị đối thủ cạnh tranh sao chép hơn một số năng lực khác như danh tiếng, thương
hiệu, vị thế trên thị trường ngày càng được củng cố và phát triển. Nhiều NLKD là
vô hình nên khó bị đối thủ cạnh tranh bắt chước.
Từ quan điểm QTDN dựa trên NLKD, chiến lược cung ứng dịch vụ hiệu quả

có tính bền vững là chiến lược định hướng thị trường dựa trên năng lực khác biệt
hóa của cơ sở đào tạo. Nhưng trên thực tế, luôn có mâu thuẫn, sự khác biệt giữa nhu
cầu thị trường và năng lực của cơ sở đào tạo. Tất nhiên, nhà quản trị sẽ phải lựa
chọn vị thế cạnh tranh để đưa ra những phương án giải quyết mâu thuẫn tiềm tàng
này. Vị thế canh tranh giúp cơ sở đào tạo xây dựng được CLCƯDV thông qua việc
xác định thị trường mục tiêu và LTCT, những LTCT này sẽ giúp cơ sở đào tạo đáp
ứng thị trường mục tiêu đó. Vì vậy, sự hấp dẫn của thị trường phụ thuộc một phần
vào năng lực mà cơ sở đào tạo sẵn có, giúp cơ sở đào tạo định vị cạnh tranh vững
mạnh. Tương tự như vậy, quan điểm định vị cũng nhận ra rằng để năng lực của cơ
sở đào tạo đem lại lợi ích kinh tế thì những vận dụng của nó phải được thực hiện
trên thị trường. Tuy nhiên, để những vận dụng này phát huy được tác dụng lâu dài
và chống được đối thủ cạnh tranh thì lợi thế cạnh tranh phải được xây dựng trên cơ
sở các năng lực khác biệt hóa của cơ sở đào tạo. Bản thân việc định hướng thị
trường cũng được coi như là một năng lực chủ chốt của cơ sở đào tạo được tích lũy
và học hỏi qua một thời gian dài và liên tục.
Quản trị chiến lược cung ứng dịch vụ dựa trên năng lực là một tiếp cận mới
mà nhiều cơ sở đào tạo nước ta chưa quan tâm, bản chất của chiến lược cung ứng
dịch vụ này là phải đạt tới một cân bằng bền vững giữa định hướng thị trường và
dựa trên năng lực (hình 1.4).
19
Hình 1.4: Mô hình chiến lược kinh doanh cân bằng, bền vững
Không phải toàn bộ khả năng, nguồn lực và tích hợp của chúng ở cơ sở đào
tạo đều tạo nên năng lực cung ứng dịch vụ mà chỉ những tích hợp nào tạo nên giá trị
cung ứng khác biệt, hiệu suất giá trị gia tăng đủ lớn cho khách hàng và giá trị khó
bắt chước mới được đưa vào cấu thành năng lực kinh doanh cốt lõi và khác biệt của
cơ sở đào tạo (hình 1.5).
Hình 1.5: Cấu trúc bậc năng lực kinh doanh của doanh nghiệp
Nguồn: TS.Nguyễn Hoàng Việt
1.2 Mô hình nghiên cứu năng lực cung ứng dịch vụ đào tạo của trường đại học
khối Kinh tế- Quản trị kinh doanh

1.2.1.Khái niệm thực chất của năng lực cung ứng dịch vụ đào tạo của
trường đại học
Có nhiều cách tiếp cận và thể hiện khái niệm năng lực của cá nhân và
của tổ chức, xuất phát từ quan niệm trường đại học, cao đẳng là một loại hình tổ
chức dựa trên tri thức có thể đưa ra định nghĩa: năng lực cung ứng DVĐT của cơ
sở đào tạo bậc đại học là tổng thể các kỹ năng, tri thức được tích lũy mà khi tích
hợp chúng với các quá trình, hoạt động cung ứng DVĐT cho phép sử dụng tối ưu
các tài sản, nguồn lực của cơ sở đào tạo.
20
Từ khái niệm trên có thể rút ra một số điểm quan trọng sau:
Một là nói đến năng lực cung ứng dịch vụ đào tạo bậc đại học là nói đến yếu
tố kỹ năng và tri thức “được tích lũy” của cơ sở đào tạo, vì vậy không thể nôn nóng
tập hợp một số lớn đội ngũ giảng viên và cán bộ quản lý giáo dục có trình độ cao để
tạo nên một năng lực lớn và đạt tới “đẳng cấp” ngay được mà phải là một quá trình
tích lũy để tạo nên “bản năng gốc”, “truyền thống” và “văn hóa”.
Hai là, có một số nhầm lẫn rằng cứ có các nguồn lực dồi dào (tài chính,
nhân lực, kết cấu hạ tầng, phương tiện, thiết bị công nghệ…) là có năng lực cung
ứng DVĐT cao, đó chỉ là điều kiện cần chứ không phải là nội hàm của năng lực,
vấn đề là ở chỗ tích hợp những yếu tố kỹ năng và tri thức được tích lũy để triển khai
thực hiện các quá trình cung ứng DVĐT cụ thể sẽ đảm bảo độ thỏa dụng tối ưu các
nguồn lực, chỉ khi ấy nếu nguồn lực càng mạnh thì năng lực mới càng cao.
Ba là, các năng lực cung ứng DVĐT bậc đại học luôn gắn với quá trình cung
ứng giá trị cho các sinh viên, các DVĐT được cung ứng có trình độ và chất lượng
càng cao nếu hiệu suất của các quá trình cung ứng giá trị chi tiết và tổng hợp càng
1.2.2 Cấu trúc năng lực cung ứng dịch vụ đào tạo của trường đại học
Xuất phát từ phân tích khái niệm năng lực cung ứng dịch vụ đào tạo của
trường đại học trên, có thể mô hình hóa cấu trúc hệ thống năng lực cung ứng dịch
vụ đào tạo của trường đại học như sau (xem hình 1.6).
21

×