Tải bản đầy đủ (.doc) (45 trang)

Hội nhập ngân hàng khi Việt Nam ra nhập WTO.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (281.05 KB, 45 trang )

Chương II: Hội nhập ngân hàng khi Việt Nam gia nhập WTO
Chương II:
HỘI NHẬP NGÂN HÀNG KHI VIỆT
NAM GIA NHẬP WTO
SVTH: Hoàng Thị Vân Anh
23
Tìm hiểu về sự gia nhập, phát triển và khả năng cạnh tranh của NH khi
VN gia nhập WTO như thế nào: quá trình gia nhập WTO của VN, những
thách thức, cơ hội, yêu cầu đặt ra cũng như sức ép của cam kết WTO về
NH như thế nào? Những nhân tố nào đã tác động đến năng lực cạnh tranh
của ngành NH VN sau khi gia nhập WTO.
2.1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ TRONG LĨNH
VỰC NGÂN HÀNG
2.2 QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP WTO CỦA VIỆT NAM
2.3 ĐẨY MẠNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ NGÂN HÀNG VIỆT
NAM
2.4 NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM SAU KHI GIA
NHẬP WTO
2.5 NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA CÁC NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI TRONG NƯỚC SAU KHI GIA NHẬP WTO
Chương II: Hội nhập ngân hàng khi Việt Nam gia nhập WTO
2.1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ TRONG LĨNH VỰC
NGÂN HÀNG
2.1.1 Khái quát về hội nhập quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng
Kinh nghiệm quốc tế cho thấy hệ thống tài chính – ngân hàng cạnh tranh và mở
cửa là những hệ thống hỗ trợ hiệu quả cho phát triển và tăng trưởng kinh tế. Cạnh
tranh sẽ làm cho hệ thống NH vững mạnh, hiệu quả và lành mạnh hơn. Do vậy, các
nước đang phát triển nói chung mong muốn hội nhập quốc tế, phát triển và cải cách
hệ thống NH nhằm nâng cao khả năng thu hút và phân bổ các nguồn lực, tạo thuận
lợi cho các tổ chức kinh tế có thể tiếp cận các dịch vụ NH có chất lượng cao hơn
nhưng với chi phí thấp hơn.


Về mặt chính sách nhằm khuyến khích hội nhập quốc tế, chính phủ các nước
thường thực hiện mở cửa tiếp cận thị trường, đối xử quốc gia, xây dựng môi trường
chính sách trong nước hỗ trợ cho cạnh tranh, từng bước cho phép các NH nước ngoài
cạnh tranh trong một sân chơi công bằng và tạo thuận lợi cho các TCTD trong nước
thâm nhập thị trường quốc tế, đồng thời chính phủ các nước cũng áp dụng các tiêu
chuẩn thông lệ tốt nhất của quốc tế liên quan đến hoạt động NH làm cho thương mại
và luân chuyển vốn quốc tế tự do hơn. Mức độ hội nhập quốc tế đạt được trên thực tế
tuỳ thuộc vào sự phản hồi của các NH nước ngoài và các NH trong nước đối với các
cơ hội do sự thay đổi chính sách tạo ra. Hội nhập quốc tế trong lĩnh vực NH được thể
hiện thông qua: (i) mức độ sở hữu nước ngoài tại các NH trong nước; (ii) thị phần
của các NH nước ngoài; (iii) thị phần của các NH đa quốc gia (gồm các NH trong
nước có hoạt động NH đáng kể trên thị trường nước ngoài hoặc các NH nước ngoài
có hoạt động NH đáng kể trên thị trường trong nước); (iv) mức độ áp dụng các chuẩn
mực và thông lệ cũng như các luật lệ quốc tế
và (v) các loại dịch vụ NH được cung cấp cho người tiêu dùng trong nước.
2.1.2 Kinh nghiệm quốc tế trong quá trình hội nhập
Kinh nghiệm ở các nước đang phát triển cho thấy việc xây dựng một hệ thống
SVTH: Hoàng Thị Vân Anh
24
Chương II: Hội nhập ngân hàng khi Việt Nam gia nhập WTO
tài chính - NH mở và mang tính cạnh tranh có tầm quan trọng quyết định và là yếu tố
không thể thiếu trong chiến lược phát triển kinh tế của bất kỳ quốc gia nào. Các lợi
ích mà VN có thể thu được từ quá trình hội nhập quốc tế trong lĩnh vực NH là những
động lực mạnh mẽ nhất thúc đẩy quá trình này diễn ra nhanh hơn, đi vào chiều sâu
hơn.
Kinh nghiệm ở các nước châu Á cho thấy, hầu hết các nước áp dụng các biện
pháp hạn chế sự tham gia thị trường của các NH nước ngoài sẽ làm chậm tiến độ phát
triển thể chế và gia tăng chi phí cung cấp các sản phẩm, dịch vụ tài chính. Trình tự tự
do hóa dịch vụ tài chính rất quan trọng đối với hiệu quả hoạt động của khu vực NH
trong nước. Mức độ tham gia thị trường của các NH nước ngoài tùy thuộc vào sự lựa

chọn của người tiêu dùng dịch vụ NH trong nước. Nếu hệ thống NH trong nước đã
lành mạnh sẵn trước khi tiến hành tự do hóa, lòng tin của người tiêu dùng sẽ được
củng cố, khi đó sự tham gia thị trường của các NH nước ngoài sẽ thấp. Nhưng nếu
người tiêu dùng thiếu lòng tin vào hệ thống NH hiện tại thì chắc chắn họ sẽ sẵn sàng
sử dụng các dịch vụ và sản phẩm do các NH nước ngoài cung cấp, khi đó sự tham gia
thị trường của các NH nước ngoài sẽ cao. Tuy nhiên, kinh nghiệm quốc tế cho thấy
hầu hết các nước đang phát triển chỉ mở cửa thị trường trong nước cho các nhà cung
cấp dịch vụ NH nước ngoài tham gia khi đã củng cố hệ thống NH trong nước, tạo cho
các NH trong nước có khả năng cạnh tranh đáng kể ít nhất là có thể cạnh tranh và tồn
tại được trên thị trường trong nước khi có sự tham gia của các NH nước ngoài giàu
kinh nghiệm.
Những kinh nghiệm quốc tế trong quá trình hội nhập trong lĩnh vực NH là
những bài học quí báu mà VN cần cân nhắc trong thời gian gia nhập WTO.
2.1.3 Các bài học về hội nhập quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng cho VN
Mức độ phát triển tài chính góp phần vào sự tăng trưởng của nền kinh tế. Các
chính sách hạn chế tăng trưởng kinh tế sẽ làm giảm cơ hội cho các NH. Tương tự như
vậy, các chính sách hạn chế khả năng của khu vực tài chính – ngân hàng để đáp ứng
các yêu cầu của nền kinh tế sẽ làm giảm triển vọng phát triển kinh tế bền vững.
SVTH: Hoàng Thị Vân Anh
25
Chương II: Hội nhập ngân hàng khi Việt Nam gia nhập WTO
Các chính sách của chính phủ duy trì sự kiểm soát “trực tiếp” đối với hoạt động
NH có xu hướng làm giảm khả năng và các động lực đổi mới và do vậy giảm lợi thế
so sánh của các NH trong nước. Một khuôn khổ đảm bảo an toàn, quản trị kinh
doanh, giám sát phù hợp và các chính sách khuyến khích thị trường là những yếu tố
quan trọng để hoạt động NH đạt kết quả tốt trong dài hạn.
Để hội nhập quốc tế thành công cần phải xây dựng một môi trường pháp lý NH
trong nước hấp dẫn với các cơ chế chính sách nhất quán, có quy định quyền sở hữu
rõ ràng, công tác thanh tra giám sát an toàn với mức độ độc lập cao, chế độ báo cáo
và kiểm toán minh bạch, tạo lập một sân chơi bình đẳng và hỗ trợ cho các hoạt động

kinh doanh để tất cả các NH (trong nước và nước ngoài) phát triển.
Trình tự hội nhập quốc tế tối ưu tuỳ thuộc vào mức độ phát triển của hệ thống tài
chính NH. Tự do hoá tài khoản vốn mang lại nhiều lợi ích về mặt tiếp cận các nguồn
vốn, nhưng từ cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á cho thấy việc tự do hoá như vậy
cũng tạo ra các rủi ro ở những nước có hoạt động thanh tra hệ thống NH yếu kém và
công tác quản trị thiếu hiệu quả. Hệ quả là phải điều chỉnh các vấn đề này trước khi
tiến hành tự do hoá tài khoản vốn cho các luồng vốn ngắn hạn chảy vào. Kinh
nghiệm của các nước phát triển và đang phát triển cho thấy sự tham gia thị trường
của các NH nước ngoài không gây tác động lớn đến sự luân chuyển vốn ngắn hạn.
Hội nhập quốc tế với nguyên tắc chung là tiến tới đối xử quốc gia, đối xử tối huệ
quốc
(*)
và thực hiện các chính sách khuyến khích cạnh tranh. Cho phép các NH con,
các chi nhánh NH nước ngoài, các NH 100% vốn nước ngoài tham gia với lộ trình
phù hợp (đặc biệt là đối với dịch vụ NH bán lẻ), đồng thời cho phép thực hiện sáp
nhập và mua lại các NH trong nước. Khuyến khích sử dụng các yêu cầu về vốn tối
thiểu căn cứ theo mức độ rủi ro là bằng với các yêu cầu về vốn quy định trong thoả
thuận Basel I. Tăng cường năng lực thanh tra tại chỗ và giám sát từ xa, phối hợp giữa
các cơ quan thanh tra. NHTW cần nghiên cứu tách biệt giữa trách nhiệm
(*) Đối xử tối huệ quốc: đối xử bình đẳng với các nước khác
SVTH: Hoàng Thị Vân Anh
26
Chương II: Hội nhập ngân hàng khi Việt Nam gia nhập WTO
đối với chính sách tiền tệ và thanh tra, giám sát khu vực NH.
Trì hoãn để có thời gian cho các NH trong nước cải cách bằng cách hạn chế sự
tham gia của NH nước ngoài là một chiến lược không phù hợp từ khi các cam kết về
cải cách là chắc chắn. Một khi đã cho phép NH nước ngoài vào hoạt động thì việc
hạn chế sự tham gia trên cơ sở nguồn gốc quốc gia sẽ giảm áp lực cạnh tranh. Những
hạn chế làm tăng chi phí tương đối của các NH nước ngoài trong quá trình tham gia
thị trường có thể tạo ra lợi thế cho các NH trong nước nhưng lại dẫn đến hoạt động

kém hiệu quả và mức độ cạnh tranh thấp trên thị trường
Một hệ thống NH hiệu quả cần có mức độ cạnh tranh cao. Do vậy, việc nâng cao
năng lực cạnh tranh ở các NH và việc sở hữu nhà nước chi phối trong các NH cần
được nắm giữ ở mức phù hợp sao cho không ảnh hưởng tới mức độ cạnh tranh của
hệ thống NH, nếu các NH có sở hữu nhà nước chi phối thì các NH này cần phải có
khả năng hoạt động như một pháp nhân độc lập.
Các NHTM quốc doanh là những NH nắm thị phần lớn trong ngành NH tuy nhiên
vẫn gặp phải khó khăn đáng kể trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động do cấu trúc có
tính lịch sử, thách thức lớn là phải tạo ra áp lực đối với ban quản lý để hoạt động có
tính cạnh tranh. Điều này đòi hỏi các NH phải hoạt động trên cơ sở thương mại, theo
khuôn khổ bảo đảm an toàn đã được quy định cho lĩnh vực NH. Nếu các NHTM
quốc doanh không được chuyển sang hoạt động hoàn toàn trên cơ sở cạnh tranh, sự
phát triển của hệ thống NH sẽ bị hạn chế và Chính phủ sẽ phải gánh chịu những hậu
quả phát sinh từ hoạt động kém hiệu quả của các NH này. Các NHTM quốc doanh có
thể giữ được thị phần của mình trong một thị trường đang tăng trưởng nhanh chóng
nhưng về lâu dài trong bối cảnh hội nhập quốc tế khó có thể duy trì được nếu đặt
dưới sự sở hữu tập trung của NN. Để giữ vị trí có tính chất chi phối của mình, các
NH này cần chuyển đổi theo một cấu trúc có tính cạnh tranh đầy đủ, cho phép phản
ứng được với các tác nhân thị trường trong chiến lược kinh doanh và quy trình quản
lý của NH.
2.2 QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP WTO CỦA VIỆT NAM
SVTH: Hoàng Thị Vân Anh
27
Chương II: Hội nhập ngân hàng khi Việt Nam gia nhập WTO
2.2.1 Việt Nam nỗ lực hội nhập vào WTO
Ðồng thời với việc tham gia Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN) vào
tháng 7/1995; là thành viên đồng sáng lập Diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM) vào
tháng 3/1996; tham gia Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC)
vào tháng 11/1998; VN đã sớm nhận thức tầm quan trọng của việc tham gia vào
WTO.

VN cũng như bất kỳ nước nào khác khi gia nhập WTO đều phải trải qua một trình
tự nhất định; có chăng chỉ là khác nhau về thời gian thực hiện trình tự. Thời gian dài
hay ngắn phụ thuộc vào việc nước xin gia nhập và các thành viên khác của WTO
đàm phán với nhau ra sao, chấp nhận những nhượng bộ nhau như thế nào.
Quá trình đàm phán của VN thể hiện qua các mốc đánh dấu chặng đường gia
nhập WTO của VN kéo dài hơn 11 năm, gặp nhiều khó khăn phức tạp, trải qua nhiều
thời điểm cam go nhưng cuối cùng VN và WTO đã đi đến thỏa thuận .
- 1/1/1995: VN nộp đơn xin gia nhập WTO
- 4/1/1995: Đơn xin gia nhập WTO của VN được Đại hội đồng tiếp nhận và VN
trở thành quan sát viên của tổ chức này.
- 31/1/1995: Ban xem xét công tác gia nhập (WP) của VN được thành lập với chủ
tịch là ông Eirik Glenne, đại sứ Na Uy tại WTO.
- 24/8/1995: VN nộp bị vong lục
(*)
về chính sách thương mại của VN và gửi tới
Ban thư ký WTO để luân chuyển đến các thành viên của ban công tác.
- 1996 - 2001: Tiến hành quá trình đàm phán tập trung chủ yếu vào việc làm rõ
chế độ, chính sách thương mại của VN. Đoàn đàm phán VN đã phải trả lời hơn 2000
câu hỏi có liên quan đến chính sách thương mại, kinh tế, đầu tư.
- 8/2001: Chính thức đưa ra bản chào ban đầu về hàng hóa và dịch vụ (Initial
Offer) bước vào giai đoạn đàm phán thực chất về mở cửa thị trường.
(*) Bị vong lục: là bản tóm tắt toàn bộ hệ thống cơ chế, chính sách kinh tế, thương mại của
Việt Nam.
SVTH: Hoàng Thị Vân Anh
28
Chương II: Hội nhập ngân hàng khi Việt Nam gia nhập WTO
Được sự chỉ đạo chặt chẽ của Bộ Chính trị, Ban chấp hành T.Ư khóa 8, 9, 10 và
của Chính phủ, đoàn đàm phán của Chính phủ nước ta đã tiến hành nhiều vòng đàm
phán đa phương với ban công tác nhằm tổng kết hoá các cam kết của VN về việc VN
gia nhập WTO và đàm phán song phương với các đối tác liên quan nhằm xác các lợi

ích mà các thành viên của WTO có thể thu được từ việc gia nhập của một thành viên
mới. Khi các cuộc đàm phán song phương này kết thúc và VN trở thành thành viên
WTO, các cam kết qua các cuộc đàm phán sẽ trở thành cam kết áp dụng cho tất cả
các thành viên WTO:
- Đầu năm 2002: VN gửi bản chào ban đầu về thuế quan và dịch vụ tới WTO và
bắt đầu tiến hành đàm phán song phương với một số thành viên trên cơ sở bản chào
ban đầu về thuế quan và dịch vụ.
- 9-10-2004: VN và EU đạt thỏa thuận về việc VN gia nhập WTO.
- 9-6-2005: VN và Nhật Bản đạt được thỏa thuận cơ bản về vấn đề mở đường cho
VN sớm gia nhập WTO.
- 18-7-2005: VN và Trung Quốc đạt thỏa thuận về việc mở cửa thị trường để VN
- 31/5/2006: Ký thoả thuận chính thức kết thúc đàm phán song phương với Mỹ,
đối tác cuối cùng trong số 28 đối tác có yêu cầu.
- 26/10/2006: kết thúc phiên đàm phán đa phương thứ 14, phiên đàm phán đa
phương cuối cùng của VN, Ban Công tác đồng ý thông qua cả gói hồ sơ, mở đường
đưa VN trở thành thành viên chính thức của WTO.
2.2.2 7/11/2006 Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của WTO
Tháng 11/2006, VN và WTO đã ký nghị định thư về việc VN gia nhập Hiệp định
thành lập WTO. 17h chiều 7/11/2006 (giờ Hà Nội), tức 11h ở Geneva, Đại hội đồng
WTO họp phiên đặc biệt để bỏ phiếu thông qua các văn kiện về việc VN gia nhập
ngôi nhà chung của kinh tế thế giới. Thời khắc cuối cùng của hành trình 11 năm VN
tìm đường vào Tổ chức thương mại thế giới (WTO) đã đến.
Đối với VN, tiếng búa của ông Eirik Glenne - Chủ tịch Đại hội đồng WTO gõ
xuống bàn chủ tọa, kết thúc phần biểu quyết thông qua từng văn kiện có giá trị như
hồi trống đồng lớn mang nhiều cảm xúc, kết thúc 11 năm gian lao đàm phán, kết thúc
SVTH: Hoàng Thị Vân Anh
29
Chương II: Hội nhập ngân hàng khi Việt Nam gia nhập WTO
quá trình đại diện ngoại giao VN giao dịch đàm phán với các đối tác WTO tại
Geneva chỉ được dùng thẻ quan sát và nay có thể ra vào tự do trụ sở WTO và tham

dự các cuộc họp chung đưa đất nước vào một sân chơi mới mang tính toàn cầu. Tất
cả chỉ diễn ra trong vòng 30 phút.
Sau tiếng búa, nhà chỉ huy đàm phán, Bộ trưởng Thương mại Trương Đình Tuyển
sẽ thay mặt Chính phủ và người dân VN ký vào nghị định thư gia nhập WTO cùng
với Tổng giám đốc WTO Pascal Lamy. Vào lúc 12g (tức 18g VN) Tổng giám đốc
WTO Pascal Lamy đã trịnh trọng tuyên bố trước sự có mặt của đại diện 149 thành
viên của WTO tại Geneva, VN chính thức trở thành thành viên thứ 150 của WTO.
Đại sứ và đại diện nhiều nước thành viên Ban Công tác đã phát biểu chào mừng VN
kết thúc thành công quá trình đàm phán gia nhập WTO, đánh giá cao những nỗ lực và
thành tựu mà VN đạt được trong thời gian vừa qua. Sự kiện này đã đánh một dấu
mốc quan trọng trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, một ghi nhận ở tầm quốc tế
về thành công trong sự nghiệp đổi mới kinh tế của VN.
Thay mặt Thủ tướng Chính phủ, ngày 11/12/2006, Phó Thủ tướng, Bộ trưởng
Ngoại giao Phạm Gia Khiêm đã gửi Ban Thư ký WTO thư thông báo VN hoàn thành
thủ tục phê chuẩn Nghị định thư gia nhập Hiệp định thành lập WTO. Theo thông lệ,
kể từ ngày thứ 30 sau khi Ban Thư ký WTO nhận được thư thông báo của VN, nghị
định thư trên sẽ có hiệu lực. Như vậy, bắt đầu từ ngày 11/1/2007, VN sẽ trở thành
thành viên đầy đủ của WTO và bắt đầu chính thức hưởng các quyền lợi và nghĩa vụ
thực hiện các cam kết gia nhập WTO.
Việc gia nhập WTO biết là sẽ có nhiều khó khăn, vất vả ở phía trước, nhưng cũng
không thiếu các cơ hội mang lại cho VN, là động lực để VN thúc đẩy đầu tư trong
nước và đầu tư nước ngoài, tạo nên năng lực sản xuất mới; hàng hóa, dịch vụ của
nước ta được hưởng sự đối xử bình đẳng khi tiếp cận thị trường với tất cả các thành
viên WTO; tạo cơ hội sử dụng quy chế giải quyết tranh chấp của WTO để đấu tranh
bình đẳng với các đối tác thương mại, nâng cao vị thế của VN trên trường quốc tế,
tham gia bình đẳng vào việc hoạch định các định chế thương mại toàn cầu. Đó cũng
là bước quan trọng trong quá trình thực hiện chính sách của Đảng và NN
SVTH: Hoàng Thị Vân Anh
30
Chương II: Hội nhập ngân hàng khi Việt Nam gia nhập WTO

về hội nhập kinh tế quốc tế.
2.2.3 WTO là bệ phóng đặt Việt Nam vào quỹ đạo phát triển
Hội nhập quốc tế là xu hướng tất yếu của nền kinh tế thế giới, là điều kiện tiền
đề cần thiết để phát triển kinh tế quốc gia đi vào quỹ đạo chung của thế giới thông
qua việc tận dụng được dòng chảy vốn khổng lồ cùng với công nghệ tiên tiến.
Gia nhập WTO là mốc quan trọng để VN thúc đẩy các lộ trình hội nhập sâu hơn
vào nền kinh tế khu vực cũng như toàn cầu, thúc đẩy quá trình điều chỉnh cơ cấu, cơ
chế kinh tế, năng lực cạnh tranh, các thể chế kinh tế theo hướng hình thành đồng bộ
nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa. Trở thành thành viên của WTO
cũng đồng nghĩa với việc VN tạo cho mình một thế và lực mới trong sự cạnh tranh và
thương lượng quốc tế. Sự tự tin và sức mạnh sẽ được gia tăng sau khi trở thành thành
viên chính thức của WTO với sự bình đẳng như một nguyên tắc trong việc quan hệ
song phương với các nước lớn và các nước phát triển, hướng tới một thể chế thương
mại công bằng, công khai, minh bạch. Gia nhập WTO, nền kinh tế nước ta sẽ thuận
lợi hơn khi tiếp cận toàn diện vào các nền kinh tế thành viên, vốn, công nghệ, kỹ
thuật… sẽ theo các kênh di chuyển thương mại, tài chính, đầu tư thâm nhập mạnh
vào thị trường nước ta để phát huy hợp lý lợi thế, tạo ra nguồn lực mới.
Tư cách thành viên WTO còn cải thiện quan hệ của VN với chính phủ các nước
thành viên. Các cuộc đàm phán song phương cũng như đa phương của VN với các
nước trở nên thuận lợi hơn, khi các thiết chế thương mại được hình thành và hoạt
động theo các luật chơi chung đã quy định thống nhất trong WTO. Do đó, bên cạnh
thách thức đặt ra như phải nâng cao khả năng cạnh tranh, chúng ta coi đây là một
dấu mốc quan trọng để VN bước vào giai đoạn mới.
2.2.4 Đàm phán gia nhập WTO của Việt Nam trong lĩnh vực ngân hàng
Các cam kết gia nhập WTO của VN được tổng hợp trên cơ sở kết quả đàm phán
song phương theo hướng tổng hợp các mức cam kết cao nhất. Do đó, các cam kết đã
đạt được trong thoả thuận song phương với Hoa Kỳ là nền tảng cơ bản cho cam kết
gia nhập WTO của VN trong lĩnh vực NH.
SVTH: Hoàng Thị Vân Anh
31

Chương II: Hội nhập ngân hàng khi Việt Nam gia nhập WTO
Theo thoả thuận đã được ký với Hoa Kỳ, trong lĩnh vực NH, các cam kết về tiếp
cận thị trường và đối xử quốc gia đối với các NH nước ngoài sẽ được nới lỏng dần,
với lộ trình dài nhất là 5 năm kể từ khi gia nhập. Kể từ ngày 1/4/2007 các NH nước
ngoài được phép thành lập NH 100% vốn nước ngoài hoạt động tại VN.
Đồng thời, để thu hút được các NH lớn vào hoạt động tại thị trường VN, trong
cam kết cũng đã đưa ra yêu cầu về tổng tài sản có đối với TCTD nước ngoài muốn
thành lập hiện diện thương mại tại VN (cam kết này cũng đã được thể chế hoá trong
Nghị định số 22 ban hành ngày 28/2/2006), cụ thể là: Để mở một chi nhánh của
NHTM nước ngoài tại VN, NH mẹ phải có tổng tài sản hơn 20 tỷ đô la Mỹ vào cuối
năm trước thời điểm xin mở chi nhánh, trong khi đó mức yêu cầu đối với việc thành
lập NH liên doanh hoặc NH 100% vốn nước ngoài là 10 tỷ đô la Mỹ; đối với mở
công ty tài chính 100% vốn nước ngoài, công ty tài chính liên doanh, công ty cho
thuê tài chính 100% vốn nước ngoài và công ty cho thuê tài chính liên doanh, TCTD
nước ngoài phải có tổng tài sản hơn 10 tỷ đô la Mỹ vào cuối năm trước thời điểm xin
phép.
Ngoài ra theo cam kết WTO, VN không cam kết đối với hình thức cung cấp dịch
vụ qua biên giới, trừ dịch vụ cung cấp thông tin tài chính và các dịch vụ tư vấn phụ
trợ. Chi nhánh của NH nước ngoài được phép huy động tiền đồng tăng dần theo thời
gian (từ 1-1-2011 sẽ được phép như NH trong nước), nhưng không được mở ATM và
các điểm giao dịch ngoài trụ sở, cho phép tổ chức và cá nhân nước ngoài được mua
cổ phần trong các NH VN nhưng tỷ lệ vẫn còn hạn chế theo lộ trình. Bên nước ngoài
chỉ được phép mua tối đa 30% cổ phần của NH trong nước.
Các cam kết gia nhập WTO của VN trong lĩnh vực NH mà nền tảng là các cam
kết đã đạt được trong thoả thuận song phương với Hoa Kỳ là khá toàn diện với cam
kết trong hầu hết các phân ngành dịch vụ. So với cam kết về lĩnh vực NH trong Hiệp
định thương mại Việt nam - Hoa Kỳ, lộ trình nới lỏng các hạn chế về tiếp cận thị
trường và đối xử quốc gia đối với các TCTD nước ngoài trong các cam kết gia nhập
WTO của VN đã rút ngắn hơn.
SVTH: Hoàng Thị Vân Anh

32
Chương II: Hội nhập ngân hàng khi Việt Nam gia nhập WTO
Như vậy, rõ ràng biểu cam kết này, VN đã đạt được sự thỏa thuận có lợi cho dịch
vụ NH trong nước. Sự thuận lợi thể hiện ở chỗ: Tuy mở cửa, cho phép sự đầu tư từ
bên ngoài nhưng vẫn hạn chế số lượng, mức vốn đầu tư, nhằm bảo vệ quyền lợi các
NH trong nước.
Việc thực hiện các cam kết quốc tế này tạo ra một môi trường đầu tư hấp dẫn cho
các đối tác nước ngoài, đặc biệt là trong lĩnh vực NH, góp phần thúc đẩy hợp tác
quốc tế trong lĩnh vực NH, các TCTD VN sẽ có nhiều cơ hội tiếp cận thị trường tài
chính quốc tế để mở rộng nguồn vốn, đầu tư kinh doanh ngoại hối và thanh toán quốc
tế, tạo điều kiện cho hoạt động đầu tư trong nước cũng như ở nước ngoài, học hỏi
kinh nghiệm và đẩy nhanh quá trình hiện đại hoá công nghệ NH. Tuy nhiên, mở cửa
thị trường tài chính - ngân hàng trong nước cũng sẽ đặt hệ thống NH VN trước nhiều
khó khăn, thách thức, do đó, đòi hỏi ngành NH VN cần xây dựng một chương trình
hành động toàn diện để tận dụng cơ hội, vượt qua những thách thức, đồng thời
biến những thách thức này thành cơ hội mới.
2.3 ĐẨY MẠNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ NGÂN HÀNG VIỆT NAM
2.3.1 Sự cần thiết hội nhập quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng
Lĩnh vực NH là một lĩnh vực nhạy cảm cao, nhạy cảm không những vì nó kinh
doanh trong lĩnh vực chứa nhiều rủi ro, mà nó còn có tác động trực tiếp đến an toàn
tài chính của từng quốc gia, sẽ kéo theo biến động về chính trị. Nếu không tỉnh táo
trong tiến trình hội nhập về NH thì hậu quả mà nó mang lại thật không dễ gì kiểm
soát. NH là lĩnh vực hoàn toàn mở trong cam kết gia nhập WTO và để không bị thua
thiệt ngay trên chính "sân nhà" cần phải đẩy mạnh hội nhập NH, xây dựng hệ thống
NH vững mạnh trở thành kênh dẫn nhập vốn hàng đầu, là “bà đỡ” tốt nhất cho nền
kinh tế đang cần vốn như VN đang từng bước chuyển dịch cơ cấu vốn theo định
hướng công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước.
Trong quá trình hội nhập quốc tế, các NHTM không chỉ thực hiện vai trò quan
trọng phân phối lại vốn đầu tư, mà còn là nơi chuyển tải thông tin kinh tế, thậm chí là
nơi xuất phát những thay đổi và những rối loạn về kinh tế vĩ mô. Vì vậy lĩnh vực NH

SVTH: Hoàng Thị Vân Anh
33
Chương II: Hội nhập ngân hàng khi Việt Nam gia nhập WTO
cần nhanh chóng hội nhập cùng với hệ thống NH khu vực và thế giới, xây dựng hệ
thống NH có năng lực cạnh tranh vững mạnh đáp ứng đầy đủ yêu cầu về vốn và cung
ứng sản phẩm dịch vụ cho nền kinh tế đang trong quá trình hội nhập. VN cần phải
đưa ra những cải cách hợp lý về thể chế và pháp lý, công cuộc cải cách này trong xu
thế hội nhập quốc tế là quá trình phức tạp và không thể hoàn thành trong một sớm
một chiều. Tuy nhiên cái giá phải trả do cải cách chậm trễ và của việc duy trì hệ
thống NH yếu kém chính là: tăng trưởng chậm, bỏ qua những thời cơ thuận lợi để
phát triển kinh tế và hạn chế khả năng tận dụng được lợi ích từ hội nhập tài
chính quốc tế.
2.3.2 Những cơ hội và thách thức của ngành ngân hàng khi Việt Nam gia
nhập WTO
Trong lĩnh vực NH, ngành NH đã chủ động thực hiện các chủ trương chính sách
của Chính phủ về đổi mới kinh tế và đã có nhiều chuyển biến tích cực, đã xây dựng
được những cơ sở quan trọng cho một nền tiền tệ và hệ thống NH phù hợp dần với cơ
chế thị trường, hiện đại hóa công nghệ và tự do hóa hoạt động kinh doanh tiền tệ, góp
phần củng cố và phát triển hệ thống NH. Trong đó, thể chế hoạt động NH đã được
hoàn thiện đáng kể, cơ chế điều hành chính sách tiền tệ được đổi mới căn bản, các
nguyên tắc và chuẩn mực quốc tế về hoạt động của các NHTM đang từng bước được
áp dụng, chất lượng tín dụng vì thế đã được cải thiện đáng kể.
Nhằm chủ động trong quá trình hội nhập, ngành NH cần nhận thức đầy đủ
những lợi thế có thể phát huy và những khó khăn thách thức phải vượt qua.
2.3.2.1 Cơ hội:
Hội nhập quốc tế sẽ làm tăng uy tín và vị thế của hệ thống NH VN, nhất là trên
thị trường tài chính khu vực.
+ Đối với NHNN: hội nhập quốc tế sẽ tạo cơ hội thúc đẩy công cuộc đổi mới, cải
cách hệ thống NH, nâng cao năng lực và hiệu quả điều hành và thực thi chính sách
tiền tệ, đổi mới cơ chế kiểm soát tiền tệ, lãi suất, tỉ giá theo nguyên tắc thị trường.

Hội nhập cũng là cơ hội để NHNN tăng cường phối hợp với các NHTW và các tổ
SVTH: Hoàng Thị Vân Anh
34
Chương II: Hội nhập ngân hàng khi Việt Nam gia nhập WTO
chức tài chính quốc tế về chính sách tiền tệ, trao đổi thông tin và ngăn ngừa rủi ro,
qua đó hạn chế biến động của thị trường tài chính quốc tế và đảm bảo an toàn cho hệ
thống NH VN. Hệ thống NHTM và thị trường tiền tệ hoạt động an toàn và hiệu quả
sẽ tạo thuận lợi cho việc nâng cao hiệu lực và hiệu quả của chính sách tiền tệ. Hội
nhập quốc tế sẽ thúc đẩy cải cách thể chế, hoàn thiện hệ thống pháp luật và nâng cao
năng lực hoạt động của các cơ quan quản lý tài chính, loại bỏ các hình thức bảo hộ,
bao cấp vốn, tài chính đối với các NHTM trong nước, hạn chế tình trạng ỷ lại, trông
chờ vào sự hỗ trợ của NHNN và Chính phủ.
+ Đối với các TCTD: hội nhập quốc tế là động lực thúc đẩy cải cách, buộc các
NH trong nước phải hoạt động theo nguyên tắc thị trường và minh bạch hơn, khắc
phục những nhược điểm còn tồn tại. Trong quá trình hội nhập và mở cửa thị trường
tài chính trong nước, khuôn khổ pháp lý sẽ hoàn thiện và phù hợp dần với thông lệ
quốc tế, dẫn đến sự hình thành môi trường kinh doanh bình đẳng và từng bước phân
chia lại thị phần giữa các nhóm NH theo hướng cân bằng hơn, thị phần của NHTM
NN có thể giảm và nhường chỗ cho các nhóm NH khác, nhất là tại các thành phố và
khu đô thị lớn. Tùy theo thế mạnh của mỗi NH sẽ xuất hiện những NH hoạt động
theo hướng chuyên môn hóa như NH bán buôn, NH bán lẻ, NH đầu tư,... đồng thời
hình thành một số NH qui mô lớn, có tiềm lực tài chính và kinh doanh hiệu quả.
- Kinh doanh theo nguyên tắc thị trường cũng buộc các tổ chức tài chính phải có
cơ chế quản lý và sử dụng lao động thích hợp, đặc biệt là chính sách đãi ngộ và đào
tạo nguồn nhân lực nhằm thu hút lao động có trình độ, qua đó nâng cao hiệu quả hoạt
động và sức cạnh tranh trên thị trường tài chính.
- Mở cửa thị trường dịch vụ NH và nới lỏng hạn chế đối với các tổ chức tài chính
nước ngoài là điều kiện để thu hút vốn đầu tư trực tiếp vào lĩnh vực tài chính – ngân
hàng, các NHTM trong nước có điều kiện để tiếp cận sự hỗ trợ kỹ thuật, tư vấn, đào
tạo, trình độ quản lý tiên tiến, trình độ ứng dụng công nghệ...thông qua các hình thức

liên doanh, liên kết với các NH và tổ chức tài chính quốc tế. Vì thế, các NH cần tăng
cường hợp tác để chuyển giao công nghệ, phát triển sản phẩm và dịch vụ NH tiên
tiến, khai thác thị trường. Trong quá trình hội nhập, việc mở rộng quan hệ đại lý quốc
SVTH: Hoàng Thị Vân Anh
35
Chương II: Hội nhập ngân hàng khi Việt Nam gia nhập WTO
tế của các NH trong nước sẽ tạo điều kiện phát triển các hoạt động thanh toán quốc
tế, tài trợ thương mại, góp phần thúc đẩy quan hệ hợp tác đầu tư và chuyển giao công
nghệ...
- Nhờ hội nhập quốc tế, các NH trong nước sẽ tiếp cận thị trường tài chính quốc
tế một cách dễ dàng hơn, hiệu quả huy động vốn và sử dụng vốn sẽ tăng lên, góp
phần nâng cao chất lượng và loại hình hoạt động. Các NH trong nước sẽ phản ứng,
điều chỉnh và hoạt động một cách linh hoạt hơn theo tín hiệu thị trường trong nước
và quốc tế nhằm tối đa hóa lợi nhuận và giảm thiểu rủi ro.
- Ngoài ra chính hội nhập cho phép các NH nước ngoài tham gia tất cả các dịch
vụ NH tại VN và gia tăng sở hữu nước ngoài trong các NH trong nước cũng mang lại
nhiều lợi ích khác.Việc cạnh tranh với các NHTM nước ngoài và quá trình mở cửa,
hội nhập chính là quá trình các NH trong nước được cọ xát, cạnh tranh và học tập
kinh nghiệm. Sức ép cạnh tranh buộc các NH trong nước phải giải quyết những tồn
tại yếu kém, chủ động điều chỉnh mô hình và chính sách quản lý, nâng cao trình độ
quản trị điều hành, tăng cường khuôn khổ thanh tra, giám sát ngành NH trong nước,
đào tạo nhân viên, ứng dụng công nghệ thông tin, chuyên môn hoá sâu hơn về nghiệp
vụ NH, quản trị NH, quản trị tài sản nợ, quản trị tài sản có, cải thiện chất lượng tín
dụng, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn, phát triển dịch vụ NH...nhằm
tạo được lợi thế với các NH nước ngoài và để tăng độ tin cậy đối với khách hàng.
2.3.2.2 Thách thức
- Việc gia nhập WTO đã tạo ra những cơ hội và động lực cho các TCTD VN phát
triển thành một hệ thống NH hoạt động năng động, an toàn, hiệu quả và phù hợp với
các thông lệ, chuẩn mực quốc tế. Tuy nhiên, bên cạnh đó, kinh doanh trong lĩnh vực
tài chính – ngân hàng cũng đặt ra nhiều thách thức và rủi ro đối với các NHTM VN.

Thách thức lớn nhất đối với quá trình hội nhập quốc tế trong dịch vụ NH của VN là
xuất phát điểm còn thấp - thấp hơn so với nhiều nước trong khu vực cũng như trên
thế giới. Không chỉ các NHTM mà ngay cả NHNN cũng sẽ gặp phải những khó
khăn, thách thức trên đường hội nhập kinh tế quốc tế, cụ thể ở những mặt sau:
SVTH: Hoàng Thị Vân Anh
36
Chương II: Hội nhập ngân hàng khi Việt Nam gia nhập WTO
- Vấn đề kiểm soát tiền tệ: Mặc dù lãi suất và tỷ giá đã được tự do về cơ bản,
song do những điều kiện (hạ tầng kỹ thuật, môi trường kinh tế vĩ mô, cấu trúc thể chế
- thị trường và pháp luật) để đảm bảo duy trì cơ chế tỷ giá, lãi suất tự do chưa được
hoàn chỉnh, đặt NHNN trước những câu hỏi không dễ giải đáp nhất là khi VN mở
cửa thị trường tài chính và tự do hoá giao dịch tài khoản vốn. Câu hỏi đặt ra đối với
các nhà chính sách: Khả năng đối phó của NHNN và các NHTM như thế nào trước
những cú sốc nội sinh (sự thay đổi bất thường về cầu tiền trong công chúng, đầu tư,
tích luỹ tiêu dùng trong nước, nguy cơ đổ vỡ các NH...) và ngoại sinh (khủng hoảng
kinh tế, chiến tranh..), bởi vì, tất cả những nguyên nhân này đều có thể gây lên những
biến động quá mức của dòng luân chuyển vốn vượt qua tầm kiểm soát của NHNN.
Ngoài ra, với sự có mặt của hàng loạt NH 100% vốn nước ngoài, trực tiếp tham gia
không hạn chế vào thị trường tiền tệ, tín dụng, thì công tác thanh tra, giám sát vĩ mô
và vi mô của NHNN trở nên rất phức tạp, đòi hỏi năng lực cán bộ và trình độ quản lý
phải sát với chuẩn mực quốc tế.
- Gia tăng áp lực cạnh tranh trong lĩnh vực NH: từ sự gia nhập của nhiều định chế
tài chính lớn có uy tín và kinh nghiệm hoạt động lâu năm về lĩnh vực tài chính NH.
Việc thực hiện các cam kết của WTO về lĩnh vực NH thì các quy định hạn chế trong
hoạt động của các NH nước ngoài dần bị bãi bỏ như: được phép cung cấp các dịch vụ
NH bằng đồng tiền với các thể nhân và pháp nhân trong nước, VN cũng sẽ phải bãi
bỏ mọi hạn chế và quyền sở hữu, hoạt động và hình thức hoạt động của NH trong
nước sẽ tạo sức ép cho các NH trong nước đang hoạt động, điều đó làm gia tăng rủi
ro đối với hệ thống NHTM trong nước. Với lộ trình mở cửa hoạt động trong lĩnh vực
NH thì các NH trong nước đang phải chịu áp lực rất lớn từ sự cạnh tranh của các NH

nước ngoài với trình độ quản lý, công nghệ hiện đại, hệ thống sản phẩm đa dạng ...có
chất lượng cao.
- Thực trạng yếu kém của các NH VN: Đặc trưng của hệ thống NH VN hiện nay
là khả năng cạnh tranh thấp, năng lực tài chính yếu, quy mô hoạt động nhỏ, chất
lượng và hiệu quả kinh doanh thấp, trình độ chuyên nghiệp về quản trị điều hành và
công nghệ thấp, rủi ro cao. Hiện nay, tổng nguồn vốn huy động và tổng dư nợ cho
SVTH: Hoàng Thị Vân Anh
37
Chương II: Hội nhập ngân hàng khi Việt Nam gia nhập WTO
vay của bốn NHTM NN lớn nhất chiếm khoảng 70% tổng nguồn vốn huy động và
tổng dư nợ cho vay toàn hệ thống nhưng tổng số vốn tự có chỉ xấp xỉ một tỷ USD,
đạt tỷ lệ an toàn vốn bình quân 5,5% (thông lệ quốc tế tối thiểu là 8%), chất lượng tài
sản Có và hiệu quả sử dụng tài sản Có thấp (<1%). Điều này phản ánh khả năng
chống đỡ rủi ro thấp. Sau khủng hoảng tái chính Châu Á và đặc biệt là từ khi thực
hiện chương trình tái cơ cấu, khả năng sinh lời của các NHTM VN đã được cải thiện
nhưng vẫn còn thấp xa so với các NH trung bình trong khu vực.
- Hệ thống dịch vụ NH trong nước chưa định hướng theo nhu cầu khách hàng và
vẫn nặng về dịch vụ NH truyền thống. Tín dụng vẫn là hoạt động kinh doanh chủ yếu
tạo ra thu nhập cho các NH; chủng loại sản phẩm, dịch vụ NH vẫn còn nghèo nàn,
đơn điệu, rườm rà thủ tục, chất lượng dịch vụ thấp, tính tiện lợi chưa cao, chưa tạo
thuận lợi và bình đẳng cho các khách hàng thuộc các thành phần kinh tế trong việc
tiếp cận và sử dụng dịch vụ NH. Phần lớn các NHTM thiếu chiến lược kinh doanh
hiệu quả và bền vững. Năng lực quản trị, trình độ quản lý, điều hành của các NH VN
còn hạn chế, phần lớn mô hình quản lý của các NHTM còn nặng kiểu truyền thống,
thiếu các định chế quản lý theo tiêu chuẩn quốc tế như quản trị rủi ro, quản trị tài sản
nợ, tài sản có, nhóm khách hàng, loại sản phẩm, kiểm toán nội bộ...Cơ cấu tổ chức
trong nội bộ nhiều NH chưa phù hợp với các chuẩn mực quản lý hiện đại đã được áp
dụng phổ biến từ nhiều năm nay ở các nước.
- Hệ thống thanh tra - giám sát NH: Còn nhiều điểm chưa tương đồng với thông
lệ quốc tế, chưa có hiệu quả và hiệu lực thật cao để bảo đảm việc tuân thủ nghiêm

pháp luật về NH và sự an toàn của hệ thống NH, nhất là trong việc ngăn chặn và cảnh
báo sớm các rủi ro hoạt động NH. Điều này do một số nguyên nhân thuộc về cấu trúc
hệ thống hành chính và cơ sở hạ tầng chưa hoàn chỉnh (hệ thống pháp luật, kế toán,
kiểm toán, các chuẩn mực an toàn, nhân lực, hệ thống thông tin quản lý).
- Nguồn nhân lực mà các NHTM hiện tại cũng đang “đau đầu”. Sinh viên tốt
nghiệp ra trường thì nhiều nhưng để vận hành một NH thì cần phải có đội ngũ cán bộ
am hiểu thực tiễn và thành thạo chuyên môn nghiệp vụ giữ vị trí bộ khung, cán bộ
quản lý, cán bộ chủ chốt. Hiện nay, đội ngũ cán bộ, nhân viên các NHTM trong nước
SVTH: Hoàng Thị Vân Anh
38
Chương II: Hội nhập ngân hàng khi Việt Nam gia nhập WTO
vẫn thật sự thiếu chuyên nghiệp và năng lực hạn chế, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ
của đại bộ phận cán bộ NH còn bất cập trong việc tiếp cận với công nghệ NH hiện
đại nhưng lại đang bị “chảy máu chất xám tại chỗ”.
- Yếu tố công nghệ NH rất lạc hậu, các NHTM thiếu sự liên kết với nhau, chưa
thiết lập được các hệ thống quản trị đồng bộ và chuyên nghiệp: hệ thống quản lý rủi
ro hữu hiệu, hệ thống thanh toán nội bộ yếu, hệ thống kiểm tra, kiểm toán chưa có
hiệu quả, chưa thiết lập được hệ thống quản lý tập trung và hệ thống kế toán - quản lý
tài chính phù hợp với chuẩn mực quốc tế. Điều đáng lo là, hệ thống kế toán còn thiếu
minh bạch và không xác định được chính xác tình trạng chất lượng tín dụng cũng
như hiệu quả kinh doanh.
- Cơ chế quản lý điều hành còn cứng nhắc, thiếu năng động, chưa bắt kịp được
thực tế kinh doanh sẽ là thách thức lớn trong môi trường cạnh tranh quốc tế. Hệ
thống các văn bản pháp luật điều chỉnh chưa phù hợp với các thông lệ quốc tế, chưa
đảm bảo việc tuân thủ nghiêm ngặt pháp luật về NH và sự an toàn của hệ thống NH,
vẫn còn một số hạn chế tạo ra sự phân biệt đối xử giữa các loại hình TCTD, vẫn còn
có sự can thiệp vào hoạt động cụ thể của các NHTM. Luật Các TCTD hiện hành còn
có một số điểm chưa phù hợp với các cam kết quốc tế của VN về lĩnh vực tài chính -
ngân hàng, trong khi đó một số quy định tại Luật NHNN chưa đáp ứng đầy đủ yêu
cầu cho một NHTW hoạt động có hiệu quả trong nền kinh tế thị trường và hệ thống

tài chính mở cửa. Năng lực điều hành chính sách tiền tệ thông qua các công cụ gián
tiếp còn nhiều hạn chế và khả năng điều tiết thị trường, hệ thống thanh tra giám sát
đưa ra những cảnh báo sớm cho các TCTD còn nhiều bất cập...
- Việc xây dựng thương hiệu chưa được quan tâm đúng mức. Bản chất thương
hiệu chính là uy tín của NH trên thị trường. Tuy nhiên các NHTM VN chưa có được
sự chuẩn bị tốt cũng như quan tâm đúng mức đến thương hiệu của mình.
NHNN và các NHTM VN đang đứng trước những vận hội to lớn cho sự phát
triển của mình, song những thách thức và yếu kém trên nếu không có những cải cách
thích hợp và đồng bộ với mở cửa thương mại dịch vụ thì có thể làm cho hệ
SVTH: Hoàng Thị Vân Anh
39
Chương II: Hội nhập ngân hàng khi Việt Nam gia nhập WTO
thống NH VN gặp nhiều khó khăn.
2.3.3 Các ngân hàng thương mại tăng tốc để hội nhập
Hội nhập là một cuộc chơi bình đẳng và chuyên nghiệp, trước những cơ hội cũng
như các thách thức khi gia nhập WTO đòi hỏi các NH trong nước phải có sự chuẩn bị
thận trọng, từng NH phải tìm cho mình một lợi thế cạnh tranh nhất định và xây dựng
một chiến lược phù hợp với từng thời kỳ. Vào thời điểm gia nhập WTO các NH trong
nước đều ráo riết chuẩn bị đón cuộc chơi này. Để tìm lợi thế cạnh tranh, các NHTM
vừa chạy đua để chiếm thị phần nội địa, vừa phải nâng cao năng lực để chuẩn bị cạnh
tranh khi VN gia nhập WTO, hầu hết các NHTM CP đã đầu tư phát triển mạnh cơ sở
vật chất, vốn, mạng lưới, nhân lực...
Theo Nghị định số 141/2006/NĐ-CP của chính chậm nhất đến ngày 31/12/2008
mức vốn pháo định tối thiểu của một NHTM phải đạt mức 1000 tỷ đồng và đến hết
năm 2010 phải lên đến 3000 tỷ đồng. Như vậy trong những năm tới, các NHTM buộc
phải tiếp tục “chạy đua” để tăng vốn điều lệ. Năm 2006, hầu hết các NHTM CP đã
“chạy” để huy động vốn của cổ đông nhằm tăng vốn điều lệ lên rất cao để chuẩn bị
cạnh tranh khi hội nhập WTO. Ngoài tăng vốn điều lệ, nhiều NH còn đua nhau tăng
vốn (cấp 2) bằng trái phiếu chuyển đổi (Những trái phiếu này khi đến hạn sẽ được
các NH chuyển thành vốn điều lệ).

Một số NH còn dành một phần vốn bán cho cổ đông chiến lược (chủ yếu là các
NH nước ngoài) để nhận được sự hỗ trợ về kĩ thuật, kinh nghiệm quản trị lâu năm
của đối tác...Qua việc mua bán sẽ thu về nguồn vốn thặng dư lớn cho NH.
So với các nước phát triển thì thiết bị, công nghệ của NH VN còn lạc hậu. Biết rõ
điều đó cùng với việc tăng vốn, các NH đã và đang tăng tốc đầu tư hiện đại hóa công
nghệ, tạo cơ sở cho các NH mở rộng quy mô và mạng lưới kinh doanh,...và cho đến
nay, tất cả các NHTM đều đã tham gia vào hệ thống thanh toán điện tử liên NH, đã
nối mạng thanh toán, chuyển tiền thông suốt từ trung ương đến các chi nhánh cơ sở
từ đó làm tăng năng lực quản lý kinh doanh và đáp ứng dịch vụ NH nhanh chóng cho
khách hàng. Những NH đã đầu tư thì nâng cấp hoàn thiện, còn những NH chưa thì
bắt đầu triển khai. Nhờ công nghệ phát triển nên nhiều NH đã phát triển mạnh các
SVTH: Hoàng Thị Vân Anh
40

×