Tải bản đầy đủ (.docx) (9 trang)

YẾU TỐ KÌ ẢO VÀ HIỆN THỰC TRONG TRUYỆN TỪ THỨC LẤY VỢ TIÊN.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (130.88 KB, 9 trang )

I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Truyền kì là một thể loại văn xuôi tự sự viết bằng chữ Hán trong văn
học Trung đại, là thể loại văn xuôi độc đáo phản ánh hiện thực qua cái
kỳ lạ. Kết cấu của mỗi truyện truyền kì thống nhất bởi hai hạt nhân cơ
bản: kì và thực. Vai trò của các yếu tố, sự tác động qua lại giữa chúng
thay đổi qua mỗi giai đoạn cụ thể của sự phát triển thể loại.
Theo quan niệm ngày nay thì truyện truyền kì phải là một truyện
ngắn được tạo bởi hai yếu tố cơ bản là kì và thực. Cái kì trong truyện
truyền kì Trung đại việt nam phát triển từ thụ động sang ý thức. Từ cái
kỳ mang nặng ảnh hưởng trực tiếp của văn học dân gian, sử kí, tôn giáo
đến cái kì được nhà văn sử dụng một cách có ý thức như một thủ pháp
nghệ thuật, như một hạt nhân tự sự quan trọng trong kết cấu tác phẩm.
Song khi yếu tố thực đậm dần lên trong truyện thì cái kì dường như cũng
bắt đầu bộc lộ thế yếu có thể bị thay thế của nó. Con người trần tục đã
khẳng định tài trí và uy quyền của mình trước thế lực siêu nhiên.
Tuy vậy, yếu tố kì không mất đi mà bổ sung cho yếu tố thực, tạo nên
thể loại truyện truyền kì đặc sắc, nếu thiếu cái kì, truyện sẽ trở thành
truyện ký, nếu thiếu cái thực, giầu cái quái, truyện dễ ngiêng về chí quái.
Giai đoạn thế kỉ XV – XVI, van học mở sang một trang sử mới, văn
xuôi tự sự dần tách khỏi mối ràng buộc của văn học dân gian và văn học
chức năng. Đây là thời kỳ phồn vinh của truyện truyền kì. Nó đạt đến
đỉnh cao rực rỡ nhất mà không một thể loại văn học nào trong giai doạn
này sánh kịp. Với hình thức dùng yếu tố kì ảo làm phương thức truyền
tải nội dung, truyện truyền kì hấp dẫn mọi thế hệ độc giả. Người đọc như
được sống trong một thế giới đầy mộng ảo cùng với nhân vật, một thế
giới kỳ diệu của thời gian, cả bốn cõi không gian vừa phi quảng tính,
vừa phi định hướng, huyền ảo, thoắt ẩn, thoắt hiện, đang từ quá khứ trở
về thực tại, đang ở thực tại lại đi tới tương lai rồi lại quay về quá khứ.
Con người đang sống trong cõi dương thoắt ẩn về cõi âm và với khoảng
thời gian ảo hóa có thể co 8 thế kỷ vào 1 năm… Trong thế giới truyền kì,
người đọc được tiếp xúc với các nhân vật chỉ xuất hiện trong tưởng


tượng như Nam Tào, Bắc Đẩu, tiên phật, ma quỷ…biến thành người và
được tiếp xúc với cả những kiếp người trầm luân, khổ ải đang sống
quanh ta. Một thế giới vừa hư vừa thực, có cả cái thấp hèn và cao
thượng, có cả những chuyện sinh hoạt đời thường hằng ngày như:
chuyện tình cảm vợ chồng, tình yêu đôi lứa, sự ghen tưông, lòng đố kị…
Nguyễn Dữ đã sử dụng yếu tố kì và thực một cách nhuần nhuyễn
trong tác phẩm của mình. Sau đây tôi xin phân tích truyện Từ Thức lấy
vợ tiên ( trong Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ) để làm rõ mối quan
hệ giữa yếu tố kì ảo và hiện thực cuả tác phẩm này.
II. NGUỒN GỐC CỦA YẾU TỐ KÌ ẢO VÀ HIỆN THỰC
TRONG TRUYỆN TỪ THỨC LẤY VỢ TIÊN.
1. NGUỒN GỐC CỦA YẾU TỐ KÌ ẢO
Yếu tố kì ảo chịu ảnh hưởng từ văn học dân gian. Sự hình thành
của bất kỳ nền văn học viết dân tộc nào cũng được nuôi dưỡng bởi suối
nguồn văn học dân gian của dân tộc ấy. Thể truyền kì không nằm ngoài
quy luật đó, nó cũng được nuôi dưỡng từ nguồn sữa mẹ văn học dân
gian – một trong những ngọn nguồn sản sinh ra yếu tố kì ảo. Đặc biệt,
Truyền kì mạn lục chứa đựng những yếu tố kì ảo chứa đựng trong văn
học dân gian. Đối với văn học trung đại, do chưa hiểu rõ các hiện tượng
trong thiên nhiên và xã hội nên họ tưởng tượng ra các thế lực siêu nhiên
nhờ các thần linh và những điều kỳ diệu. Họ tin vào thế giới bên kia, con
người còn tồn tại và và có thể “ âm dương phù hộ”, hỗ trợ, linh ứng cho
người còn sống. Truyện Từ Thức lấy vợ tiên là truyện sử dụng cốt truyện
có sẵn trong dân gian, đã được tập hợp trong “Kho tàng truyện cổ tích
Việt Nam”, đó là truyện “ Sự tích đồng Từ Thức”.
Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ không chỉ kế thừa từ văn học
dân gian mà còn thấm nhuần các tư tưởng Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo
để tạo nên yếu tố kì ảo phong phú trong các câu truyện truyền kì.
Yếu tố kì ảo trong văn xuôi Việt Nam nói chung, Truyền kì mạn lục
nói riêng ở giai đoạn này đều bị tri phối trực tiếp bởi tín ngưỡng tôn

giáo. Nó mang dấu ấn của một thời văn – sử - triết bất phân. Đó chính là
niềm tin vào con người có nhân duyên qủa kiếp luân hồi của đạo phật.
Bên cạnh Phật giáo, yếu tố kì ảo trong Truyền kì mạn lục còn chịu ảnh
hưởng đậm của Đạo giáo, Nguyễn Dử tìm thấy trong huyền thoại của
Đạo giáo sự gần gũi với quan điểm sáng tác của ông. Bởi thế giới kì ảo
của Đạo giáo gắn liền với tư tưởng thoát ly hiện thực, gắn với triết lí
sống phóng khoáng, hòa mình vào thiên nhiên, sẵn sang phiêu lưu với
truyện kì thú.
Trong Từ Thức lấy vợ tiên, ta gặp được cảnh tiên, người tiên. Khi
bản thân Từ Thức là một nhà Nho mà tự thân chán ghét cuộc đời bụi
bặm chốn quan trường, bỏ về nơi non xanh nước biếc thả hồn thơ “ Ta
không thể vì số lượng năm đấu gạo đó mà buộc mình trong áng lợi danh.
Đã là một mái chèo về nước biếc non xanh vốn chẳng phụ gì ta đâu”.
2. NGUỒN GỐC CỦA YẾU TỐ HIỆN THỰC
Nguồn gốc, ảnh hưởng của yếu tố hiện thực trong Từ Thức lấy vợ
tiên là từ văn học dân gian, văn học viết và từ thực tại đời sống mà
Nguyễn Dữ đã tai nghe mắt thấy.
Văn học dân gian không chỉ chứa đựng yếu tố kì ảo mà đến giai
đoạn sau như các thể loại cổ tích, ca dao, vè, truyện, thơ…đã phần nào
phản ánh hiện thực xã hội phân chia giai cấp. Ta gặp trong thế giới cổ
tích ngoài đường viền kì ảo là những số phận bất hạnh của con người
thấp cổ bé họng như người con riêng, trẻ đi ở, trẻ mồ côi
Yếu tố hiện thực còn thể hiện trong những bài ca dao trào phúng,
trong tiếng hát than thân trách phận của bao nhiêu số phận đau khổ về
người phụ nữ xưa đã kết đọng trong câu “ thân em”, “ thân cò”.
Bên cạnh đó, một yếu tố quan trọng tạo nên tính hiện thực trong Từ
Thức Lấy vợ tiên nói riêng và Truyền kỳ mạn lục nói chung là bối cảnh
xã hội lúc bấy giờ mà Nguyễn Dữ đã thấm thía, ông đã in dấu thời đại
vào tác phẩm của mình.
III. MỐI QUAN HỆ GIỮA YẾU TỐ KÌ ẢO VÀ HIỆN THỰC

TRONG “TỪ THỨC LẤY VỢ TIÊN” CỦA NGUYỄN DỮ.
1. BIẾU HIỆN CỦA YẾU TỐ KÌ ẢO
Không gian kì ảo: Theo Đạo giáo, khi con người ta tu hành đắc đạo
sẽ trở thành tiên, thánh, được sống ở miền cực lạc, hưởng thú an nhà tiêu
dao. Nơi ấy thật xa xăm với cõi tục, đó chính là không gian tiên cảnh
được Nguyễn Dữ tái hiện trong nhiều truyện. Song, tiêu biểu hơn hết cả
là truyện Từ Thức lấy vợ tiên.
Từ Thức và Giáng Hương tuy không có lá thắm se duyên như Tú
Uyên và Giáng Kiều trong Bích cân kì ngộ (Đặng Trần Côn) . Song, tuy
chỉ một lần gặp mặt, một lần cứu giúp Giáng Hương cũng khiến Từ
Thức nao lòng bỏ việc quan đi tìm bóng dáng người xưa: “Một hôm, Từ
Thức dậy sớm, trông ra cửa bể Thần Phù ở phía ngoài xa vài dặm thấy
có đám mây ngũ sắc đùn đùn kết lại như một đóa sen, vội trèo ra thì thấy
một trái núi rất đẹp, khiến Từ phải thốt lên : “ ý giả là non tiên rụng
xuống vết trần hiện ra đây chăng?”
Tác giả đã tưởng tượng ra cõi trần và cõi tiên thực sự cách trở rõ rệt
bằng “ vách đá cao vút nghìn trượng, sừng sững đứng thẳng” đến khi
chàng thi sĩ đề thơ:
Bến vô chàng ngư, tìm thử hỏi
Thôn Đào chi hộ lối quanh quanh
Thì bỗng thấy vách đá nứt toác ra một cái hang, đây là hiện tượng kì
lạ mà chàng chưa từng thấy. Chàng lần qua hang tối là cảnh: “ bầu trời
sáng sủa, chung quanh toàn những lâu đài nguy nga, mây xanh sáng đỏ
bám ở lan can, cỏ lạ hoa kì bám đầy trước cửa”.
Vậy là Từ Thức đã đến cõi tiên nơi nguy nga, lộng lẫy, phong cảnh
tuyệt đẹp khiến chàng nho sinh ngỡ mình đang còn trong giấc mộng,
chàng mạnh dạn hỏi, bà tiên áo trắng chỉ bảo rõ ràng để chàng biết được.
Đúng như ý nghĩ của chàng, bà tiên giải thích “ Đây là núi Phù Lai, một
động tiên thứ 6 trong 36 động bồng bềnh ngoài biển cả, dưới không có
bám búi như núi La Phù tan hợp theo với gió mưa, như các ngọn Bồng

Lai co duỗi theo với sóng gợn”. Ngòi bút của Nguyễn Dữ đã giúp chúng
ta hình dung ra cõi tiên thật đẹp, thật lung linh, huyền ảo, thực hư lẫn
lộn, biến đổi khôn lường.
Thời gian kì ảo trong Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ không chỉ
giới hạn trong thời gian ngày và đêm mà ông còn đưa ta tới thời gian
vĩnh hằng nơi tiên cảnh trong Từ Thức lấy vợ tiên. Chàng Từ Thức ngạc
nhiên khi thấy quần tiên nói: “chúng tôi chơi ở cõi này mới tám vạn năm
mà bể nam đã ba lần tung bụi”. Theo quan niệm Đạo giáo, ai tu được
đến cõi tiên thì sẽ trường thọ vĩnh cửu, thoát khỏi giới hạn tuổi thọ của
người đời. Đó chính là mục đích của đạo thần tiên. Song Từ Thức ở cõi
tiên nhưng lòng vẫn hướng về cõi trần, ở tiên giới mỗi một năm mà lòng
quê bịn rịn, lệ hoa thánh thót. Chàng không ngờ rằng ở hạ giới đã đi qua
hơn 80 năm. Vậy phải chăng, theo đúng quan niệm người xưa, một ngày
trên trời bằng 3 thu dưới hạ giới. Đúng là một sự liên tưởng kì thú chỉ có
trong truyền kì.
Nhân vật kì ảo kết hợp với hành vi kì ảo: trong Từ Thức lấy vợ tiên,
nhân vật kì ảo phải kể đến là tiên nữ Giáng Hương. Giáng Hương vốn là
một tiên nữ sống nơi bồng lai tiên cảnh, nơi được nhân gian gọi là miền
cực lạc, cõi thiên đường và tiên nữ thường xem là biểu trưng cho sắc đẹp
kiều diễm. Giáng Hương được miêu tả là 1 người con gái trong độ tuổi
16, phấn son điểm phớt, nhan sắc xinh đẹp tuyệt vời. Nàng chủ động
xuống cõi trần xem hoa, chẳng may cành hoa bị gãy. May có Từ Thức –
một quan tri huyện hiền đức cứu giúp mới thoát nạn. Và cũng từ ấy,
chàng Từ Thức việc sổ sách ùn lại, rồi từ quan bỏ vòng danh lợi theo thú
tiêu giao sơn thủy “ âu là một mái chèo về, nước biếc non xanh uốn
chẳng phụ gì ta đâu vậy”. Từ đó, “ một cánh buồm gió, một lá thuyền
nan phóng đãng giang hồ, thích đâu đến đó”. Do tư tưởng phóng đãng
này mà Từ Thức đã đến được cõi tiên, nơi Giáng Hương đang đợi chờ
chàng kết tóc se duyên. Giáng Hương ở cõi tiên không đau khổ buồn
phiền, vì thời gian vô tận, cuộc sống vĩnh hằng. Vậy mà, nàng cảm thấy

nơi đây tẻ nhạt, chán ngán, nàng đã tự đi tìm hạnh phúc dưới trần gian.
Bởi nàng thừa nhận mình là người “ bấy tình chưa trăm cảnh dễ sinh,
hình ở phủ tía nhưng lụy vương duyên trần, thân ở đền quỳnh mà lòng
theo cõi dục”, đến khi gặp Từ Thức thì nàng thực sự mới có hạnh phúc.
Bên cạnh Giáng Hương, trong truyện ta còn thấy rất nhiều tiên nữ
khác như tiên mẫu Giáng Hương phúc hậu đoan trang, các quần tiên
quanh việc mừng hôn lễ giữa Từ Thức và Giáng Hương.
2. BIỂU HIỆN CỦA YẾU TỐ HIỆN THỰC
Cùng với yếu tố kì ảo, yếu tố hiện thực cũng là yếu tố cơ bản mà
Nguyễn Dữ mô tả trong Truyền kì mạn lục. Trong lịch sử văn xuôi dân
tộc, Nguyễn Dữ là người đầu tiên dựng lên tác phẩm của mình một bức
tranh hiện thực đa dạng, sinh động và sâu sắc đến vậy. Trong truyền kì
mạn lục, có loại truyện vạch trần chế độ đen tối của giai cấp thống trị
phong kiến lúc suy thoái, đồng tình với cảnh ngộ của người dân lương
thiện bị chà đạp, gián tiếp phản ánh sự phẫn nộ của quần chúng trước
những tệ nạn của xã hội phong kiến. Có loại truyện lại viết về cuộc sống,
lý tưởng của kẻ sĩ.
Chàng Từ Thức trong Từ Thức lấy vợ tiên, cố gắng học hành đã làm
đến tri huyện Tiên Du vẫn không muốn ràng buộc mình vào áng lợi danh
mà lại muốn “ một mái chèo về nước biếc non xanh”, đi du ngoạn vùng
sơn thủy hữu tình. Xã hội phong kiến đen tối đến mức ngay cả các Nho
sĩ cũng không muốn tu chí học hành ra giúp dân. Đúng như nhà nghiên
cứu M. TKatrow trong bản dịch Truyền kì mạn lục đã nhận xét: “
Nguyễn Dữ đã suy nghĩ có tính phạm trù về thời đại mình” qua hàng
loạt những “ hình tượng điển hình” của tầng lớp thống trị đương thời với
một cách đánh giá không thiên vị mà sâu sắc.
Bên cạnh đó, thông qua những cuộc tình duyên giữa người với ma,
người với tiên, tác giả còn lên tiếng bênh vực, phần nào cổ xuý cho
những nhu cầu tình cảm, những khát khao yêu đương trần thế của con
người, đặc biệt của người phụ nữ. Dù trong lốt thần tiên hay ma quỉ thì

các cô gái trong Truyền kì mạn lục vẫn hiện lên với những cảm xúc chân
thật nhất trong tình yêu. Là truyện ma, truyện hư ảo nhưng khát vọng
yêu đương là có thật. Đó là một nhu cầu rất nhân bản và chính đáng.
Chính vì thế mà Giáng Hương – một nàng tiên cũng không thoát khỏi
lòng trần “hình ở phủ tía nhưng lụy vướng duyên trần, thân ở đền quỳnh
mà lòng theo cõi tục”
IV. MỐI QUAN HỆ GIỮA YẾU TỐ KÌ VÀ YẾU TỐ THỰC
Nguyễn Dữ rất có ý thức trong việc sử dụng yếu tố kì như một hạt
nhan tự sự và một bút pháp nghệ thuật để chuyển tải một cách hình
tượng những tư tưởng của mình. Cái kì không phải là cái được bổ sung
thêm hay gạt bỏ đi mới thấy được giá trị hiện thực của tác phẩm như một
số nhà nghiên cứu đã khẳng định.
Sự kết hợp hai yếu tố kì và thực đến độ nhuần nhuyễn đã tạo nên đặc
trưng riêng của truyện Từ Thức lấy vợ tiên nói riêng và thể loại truyền kì
nói chung. Cái kì không những không mất đi mà còn trở thành yếu tố
nghệ thuật , thành đối tượng phản ánh của nhà văn. Trong Từ Thức lấy
vợ tiên, cái kì trở thành nền tảng để biểu hiện cái thực. Nếu con người
trong các tác phẩm ở giai đoạn trước được tác giả miêu tả phải nhờ đến
sức mạnh siêu nhiên của thần linh mới chiến thắng được kẻ thù thì ở đây
cái kì lạ lại diễn ra chính là nhờ vào kết quả những hành động của con
người bình thường.
Trong Từ Thức lấy vợ tiên, cái kì còn là phương thức để giải thoát số
phận bi kịch của con người nơi trần thế, thể hiện khát vọng hạnh phúc
của con người. Giáo lý Nho gia nghiệt ngã từng trói buộc lý trí và hành
động của Từ thức, nay không còn đủ sức cám dỗ và mê hoặc chàng nữa.
Chàng đi tìm hạnh phúc trong thiên nhiên diễm lệ nhưng không thành và
chàng tìm đến với tiên giới. Với Từ Thức, vào cõi tiên có nghĩa là thoát
li cái xã hội suy đồi, trốn tránh cảnh vì năm đấu gạo mà uốn lưng cong
gối, trốn tránh cõi trần nhỏ hẹp, kiếp đời ngắn ngủi. Cảnh cõi tiên cũng
khác với cảnh phàm trần, hoàn toàn không vường bụi trần với toàn

những “lâu đài nguy nga, mây xanh rang đỏ”. Ở nơi không gian kì ảo ấy,
Từ Thức đã thực hiện được những khát vọng ở trần thế, chàng có được
cuộc sống đầy đủ bên vợ đẹp Giáng Hương.
Nhưng tác giả nói đến cõi mộng cũng là để khẳng định con người
không thể thoát khỏi cuộc sống trần thế, con người vẫn phải nhìn vào
hiện thực. Không gian tiên cảnh kia dù hấp dẫn đến mấy thì con người
vẫn phải trở về với chính bản thể của mình. Chính vì vậy mà giấc mộng
của Từ Thức thoát li cõi thực, tìm đến hạnh phúc nơi tiên cảnh không
thành, lòng trần lại khao khát hướng về cõi trần. Cảnh tiên huyền ảo
lộng lẫy, không khí tấp nập vui vầy nơi quần tiên tụ hội không đủ sức để
níu kéo bước chân người Nho sĩ ở lại. Trở về cõi trần, chàng bơ vơ, lạc
lõng giữa cuộc đời. Cõi tiên là quá khứ chẳng thể trở lại, chàng thấm
thía hơn bao giờ hết số phận của mình trên thế gian. Cảnh tiên tráng lệ,
đủ đầy chỉ làm tăng thêm bi kịch của kẻ sĩ không chốn nương thân. Dưới
ngòi bút của nhà văn họ Nguyễn, cái thần kì,cổ tích đã được nhào nặn để
trở thành chất liệu hiện thực, gắn liền với đời thường. Cái kì đã nâng cái
thực lên một cấp độ phản ánh cao hơn chính bản thân nó.

×