Tải bản đầy đủ (.doc) (62 trang)

Mối quan hệ giữa luồng vốn trong nước và nước ngoài trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (401.49 KB, 62 trang )

Mục lục
NHÓM 5: Mối quan hệ giữa luồng vốn trong nước và nước ngoài trong việc thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế ở Việt Nam
Năm Tổng số
Vốn ngân sách
Nhà nước Vốn vay
Vốn của các
doanh nghiệp
Nhà nước và
nguồn vốn
khác
Vốn đầu tư
của khu vực
tư nhân
1995 30447 13575 6064 10808 20000
1996 42894 19544 8280 15070 21800
1997 53570 23570 12700 17300 24500
1998 65034 26300 18400 20334 27800
1999 76958 31763 24693 20502 31542
2000 89417 39006 27774 22637 34594
2001 101973 45594 28723 27656 38512
2002 114738 50210 34937 29591 50612
2003 126558 56992 38988 30578 74388
2004 139831 69207 35634 34990 109754
2005 161635 87932 35975 37728 130398
2006 185102 100201 26837 58064 154006
2007 197989 107328 30504 60157 204705
2008 174435 98818 25045 50572 244081
2009 245000 153000.8 31999.2 60000 278000
1
Lời Mở Đầu


Trong quá trình phát triển kinh tế của bất kì một quốc gia nào thì vấn đề nâng cao thu hút và sử
dụng một cách có hiệu quả vốn đầu tư luôn là vấn đề cấp bách và có vai trò quan trọng trong thúc
đẩy tăng trưởng của các quốc gia dù là quốc gia phát triển hay đang phát triển , Việt Nam không
nằm ngoài quy luật đó . Ở Việt Nam sau hơn 20 năm đổi toàn diện nền kinh tế đã thu được rất
nhiều kết quả đáng mừng như : tăng trưởng kinh tế luôn ở tốc độ cao so với các nước trong khu
vực và trên thế giới, đời sống của nhân dân được nâng cao , xuất khẩu tăng mạnh… Đóng góp
không nhỏ trong đó là nhờ hoạt động đầu tư . Trong các chiến lược phát triển của đảng của nhà
nước thì hoạt động đầu tư luôn là một hoạt động rất được coi trọng , trong đó các cơ quan quản lý
nhà nước luôn giữ vững quan điểm cho rằng vốn đầu tư trong nước là nguồn vốn có vai trò quyết
định tới tạo lập và duy trì một nền kinh tế phát triển với tốc độ cao . Các chính sách sử dụng và thu
hút và sử dụng các nguồn vốn trong nước đạt được nhiều những kết quả quan trọng , nhờ đó mà cơ
sở hạng tầng không ngừng được cải thiện , tiết kiệm từ các nguồn trong nước được sử dụng có
hiệu quả và một trong những ý nghĩa của việc sử dụng vốn trong nước thời gian qua đó là việc tạo
sức hút và góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư nước ngoài . Ngoài việc xác định vốn
trong nước có vai trò quyết định tới tăng trưởng kinh tế thì đảng và nhà nước cũng xác định rằng
việc sử dụng vốn đầu tư từ nước ngoài cũng có vai trò quan trọng . Vốn đầu tư nước ngoài được
đưa vào nước ta không những góp phần bổ sung cho sự thiếu hụt vốn đầu tư trong nước mà còn
2
giúp nguồn vốn trong nước sử dụng hiệu quả hơn . Vì vậy ta có thể thấy rằng nguồn vốn trong
nước và vốn nước ngoài có mối quan hệ khăng khít trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế .
Nhưng vấn đề đặt ra mà nhiều mà quản lý cũng đang gặp khó khăn trong thực tế là làm sao có thể
tạo được một cơ cấu hai nguồn vốn này một cách hợp lý và tăng cường vai trò của mối quan hệ
giữa hai nguồn vốn . Vì những lý do trên chúng tôi đã lựa chọn nghiên cứu đề tài : “ Mối quan hệ
giữa luồng vốn trong nước và nước ngoài trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam “
nhằm đánh giá thực trạng thu hút , sử dụng , vai trò và mối quan hệ trên thực tế của hai nguồn vốn
để có thể đưa ra những cái nhìn khách quan , thực tế về mối quan hệ giữa hai luồng vốn nói riêng
và hoạt động đầu tư ở Việt Nam nói chung . Từ đó có những kiến nghị về giải pháp cần thiết.
Trong quá trình thực hiện nghiên cứu chúng tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới PGS.TS Từ
Quang Phương và TS.Phạm Văn Hùng vì sự giúp đỡ nhiệt tình để chúng tôi có thể hoàn thành đề
tài này.

Nhóm 5
3
Chương 1 Lý luận chung về mối quan hệ giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài trong
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
1.1 Lý luận chung về đầu tư
1.1.1 Khái niệm về đầu tư :
Theo giáo trình kinh tế đầu tư thì đầu tư được đinh nghĩa như sau : Đầu tư nói chung là sự hy sinh
các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu về các kết quả nhất định
trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được các kết quả đó. Như vậy, mục tiêu
của mọi công cuộc đầu tư là đạt được các kết quả lớn hơn so với những hy sinh về nguồn lực mà
người đầu tư phải gánh chịu khi tiến hành đầu tư
1.1.2 Khái niệm về nguồn vốn đầu tư : Phần tích lũy của toàn bộ nền kinh tế được thể hiện
dưới dạng giá trị được chuyển hóa thành vốn đầu tư đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội
1.1.3 Phân loại về nguồn vốn đầu tư :
- Nguồn vốn trong nước
- Nguồn vốn nước ngoài
1.2 Nguồn vốn trong nước
1.2.1 Khái niệm và phân loại nguồn vốn trong nước
1.2.1.1Khái niệm: Nguồn vốn đầu tư trong nước là phần tích lũy nội bộ của nền kinh tế. Bao gồm
tiết kiệm của khu vực tư dân cư, các tổ chức kinh tế, các doanh nghiệp và tiết kiệm của chính phủ
được huy động vào quá trình sản xuất của xã hội. Biểu hiện cụ thể của nguồn vốn đầu tư trong
nước bao gồm nguồn vốn đầu tư nhà nước, nguồn vốn của khu vực tư nhân, và thị trường vốn .
1.2.1.2.Phân loại: Nguồn vốn trong nước được phân chia thành:
-Nguồn vốn nhà nước gồm:
+ Vốn từ ngân sách nhà nước
+ Nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước
+ Nguồn vốn đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước
- Nguồn vốn của dân cư và tư nhân
- Thị trường vốn
1.2.2. Đặc điểm của vốn đầu tư trong nước

1.2.2.1. Nguồn vốn nhà nước :
Nguồn vốn nhà nước là nguồn vốn thuộc sở hữu của khu vực nhà nước, cụ thể là các nguồn vốn từ
ngân sách nhà nước, các khoản tín dụng đầu tư phát triển và vốn đầu tư từ các doanh nghiệp nhà
nước.
1.4.2.1.1. Nguồn vốn từ ngân sách nhà nước:
4
Ngân sách nhà nước là toàn bộ các khoản thu chi của nhà nước trong dự toán đã được cơ
quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để đảm bảo thực hiện
các chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước
Nguồn vốn từ ngân sách nhà nước được hình thành từ nhiều nguồn thu khác nhau như thuế, phí tài
nguyên, bán hay cho thuê các tài sản thuộc sở hữu của nhà nước... Đây chính là nguồn chi của
ngân sách nhà nước cho đầu tư.
Nguồn vốn này giữ một vai trò quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc
gia. Nó thường được sử dụng cho các dự án kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh,
hỗ trợ các dự án đầu tư vào lĩnh vực cần tham gia của nhà nước. Thông qua hoạt động chi Ngân
sách, Nhà nước sẽ cung phí đầu tư cho cơ sở kết cấu hạ tầng, hình thành các doanh nghiệp thuộc
các ngành then chốt trên cơ sở đó tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho sự ra đời và phát triển
các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế (có thể thấy rõ nhất tầm quan trọng của điện lực,
viễn thông, hàng không đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp).
Bên cạnh đó, việc cấp vốn hình thành các doanh nghiệp Nhà nước là một trong những biện pháp
căn bản để chống độc quyền và giữ cho thị trường khỏi rơi vào tình trạng cạnh tranh không hoàn
hảo. Và trong những điều kiện cụ thể, nguồn kinh phí trong ngân sách cũng có thể được sử dụng
để hỗ trợ cho sự phát triển của các doanh nghiệp, đảm bảo tính ổn định về cơ cấu hoặc chuẩn bị
cho việc chuyển sang cơ cấu mới hợp lý hơn. Nguồn vốn từ ngân sách nhà nước sẽ chi cho các
khoản trợ giúp trực tiếp dành cho những người có thu nhập thấp, thất nghiệp hay có hoàn cảnh đặc
biệt như chi về trợ cấp xã hội, trợ cấp gián tiếp dưới hình thức trợ giá cho các mặt hàng thiết
yếu,các khoản chi phí để thực hiện chính sách dân số, chính sách việc làm, chống mù chữ, hỗ trợ
đồng bào lũ lụt. Đối với các hoạt động quốc phòng và an ninh quốc gia thì ngân sách nhà nước là
nguồn cung chủ yếu không thể thiếu.
1.2.2.1.2. Nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước:

Vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước là một hình thức quá độ chuyển từ phương
thức cấp phát vốn ngân sách sang phương thức tín dụng đối với các dự án có khả năng thu hồi vốn
trực tiếp. Tín dụng nhà nước về thực chất có thể coi như một khoản chi của ngân sách nhà nước, vì
cho vay theo lãi suất ưu đãi, tức lãi suất cho vay thường thấp hơn lãi suất trên thị trường tín dụng,
nên Nhà nước phải dành ra một phần ngân sách trợ cấp bù lãi suất.
• Nguồn vốn này được hình thành từ các nguồn sau đây:
- Vốn ngân sách nhà nước hàng năm dành cho tín dụng đầu tư xây dựng cơ bản.
- Vốn huy động theo chủ trương chính sách của chính phủ .
- Vốn vay nước ngoài của chính phủ và các nguồn viện trợ quốc tế dành cho tín dụng đầu tư
phát triển .
- Vốn thu hồi nợ (gốc và một phần lãi vay) cho chương trình tín dụng ưu đãi của nhà nước đầu
tư đã đầu tư trước đây đến hạn trả nợ.
5
- Các nguồn vốn theo quy định của chính phủ.
Nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước có tác dụng tích cực trong việc giảm đáng
kể bao cấp vốn trực tiếp của nhà nước về chi ngân sách nhà nước trong điều kiện ngân sách còn
hạn hẹp, đồng thời nâng cao hơn nữa trách nhiệm của người sử dụng vốn. Vì cơ chế của tín dụng
là đi vay có hoàn trả kèm lãi suất, nên dưới áp lực này buộc các đối tượng vay vốn phải tăng
cường hạch toán kinh tế, giám sát chặt chẽ việc sử dụng các khoản vay để bảo đảm khả năng thanh
toán nợ.
Ngoài ra, nguồn vốn này còn có 1 vai trò đáng kể trong việc phục vụ công tác quản lý và điều
tiết kinh tê vĩ mô: không chỉ thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế mà còn thực hiện cả mục tiêu
phát triển xã hội. Khả năng điều tiết nền kinh tế của Nhà nước sẽ ngày càng được cải thiện khi các
khoản vay được hoàn trả thay vì việc cấp phát không hoàn lại như trước đây, cho nên đầu tư của
Nhà nước vào các ngành then chốt, các vùng trọng điểm, các vùng khó khăn...tăng lên sẽ góp phần
nâng cao hiệu quả kinh tế, xã hội của toàn bộ nền kinh tế
1.2.2.1.3. Nguồn vốn đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước:
Nguồn vốn đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước chủ yếu bao gồm từ khấu hao tài sản cố
định và thu nhập giữ lại tại doanh nghiệp nhà nước. Theo Bộ kế hoạch đầu tư, nguồn vốn của
Doanh nghiệp nhà nước tự đầu tư chiếm khoảng 14 – 15% tổng vốn đầu tư toàn xã hội.

Vai trò chủ yếu của nguồn vốn đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước là đầu tư chiều sâu, mở rộng
sản xuất, đổi mới thiết bị, hiện đại hóa dây chuyền công nghệ của doanh nghiệp. Hoạt động của
doanh nghiệp góp phần giải phóng và phát triển sức sản xuất, huy động và phát huy nội lực vào
phát triển kinh tế xã hội, góp phần quyết định vào phục hồi trưởng kinh tế, tăng kim ngạch xuất
khẩu, tăng thu ngân sách và tham gia giải quyết có hiệu quả các vấn đề xã hội như: tạo việc làm,
xoá đói giảm nghèo, chống lạm phát...
1.2.2.2. Nguồn vốn của dân cư và tư nhân
Nguồn vốn của khu vực tư nhân bao gồm phần tiết kiệm của dân cư, phần tích lũy của các
doanh nghiệp dân doanh, các hợp tác xã. Chúng đóng một vai trò đặc biệt quan trọng trong việc
phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn, mở mang ngành nghề, phát triển công nghiệp, tiểu thủ
công nghiệp, thương mại, dịch vụ và vận tải trên các địa phương. Kinh tế dân doanh lại là khu vực
phát triển rất nhanh và năng động, tạo ra công ăn việc làm cho nền kinh tế.Với việc xây dựng lại
các ngành nghề thủ công truyền thống sẽ giải quyết thất nghiệp tại các vùng nông thôn, huy động
nhiều nguồn lực xã hội tập trung đầu tư sản xuất, kinh doanh, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh
tế. Đối với các doanh nghiệp dân doanh, phần tích luỹ của các doanh nghiệp này có đóng góp đáng
kể vào tổng quy mô vốn của toàn
xã hội. Ở một mức độ nhất định, các hộ gia đình cũng sẽ là một trong những nguồn tập trung và
phân phối vốn quan trọng trong nền kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế.
1.2.2.3.Thị trường vốn
6
Thị trường vốn bao gồm : thị trường chứng khoán (TTCK), thị trường bất động sản, thị
trường thuê mua tài chính, và các định chế tài chính khác (NHTM, công ty bảo hiểm, QTDND…).
Thị trường vốn là kênh bổ sung các nguồn vốn trung và dài hạn cho các chủ đầu tư – bao gồm cả
nhà nước và các loại hình DN. Thị trường vốn mà cốt lõi là TTCK như một trung tâm thu gom mọi
nguồn vốn tiết kiệm của từng hộ dân cư, thu hút mọi nguồn vốn nhàn rỗi của các doanh nghiệp,
các tổ chức tài chính, chính phủ trung ương và chính quyền địa phương tạo thành một nguồn vốn
khổng lồ cho nền kinh tế. Đây được coi là một lợi thế mà không một phương thức huy động vốn
nào có thể làm được.
Thông qua thị trường vốn, chính phủ trung ương và chính quyền địa phương cũng có thể huy động
vốn cho ngân sách hoặc đầu tư vào các công trình của mình bằng việc phát hành các chứng khoán

nợ như trái phiếu, công trái… Nó góp phần vào việc kiềm chế lạm phát do chính phủ không phát
hành thêm tiền giấy vào lưu thông nhằm phục vụ cho nhu cầu chi tiêu của mình.
Mặt khác, đứng trên góc độ hiệu qủa, thị trường vốn thực sự trở thành một cái van điều tiết hữu
hiệu các nguồn vốn từ nơi sử dụng kém hiệu quả sang nơi có hiệu qủa hơn.Trên thị trường vốn,
bất cứ khoản vốn nào được sử dụng đều phải trả giá, do vậy người sử dụng vốn phải quan tâm đến
việc sinh lời của mỗi đồng vốn.
1.2.3. Vai trò của nguồn vốn đầu tư trong nước.
Trước hết chúng ta cần khẳng định: đối với sự tăng trưởng và phát triển kinh tế một quốc gia,
nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước ngoài có mối quan hệ hữu cơ, bổ sung cho nhau trong
đó nguồn vốn trong nước đóng vai trò quyết định và nguồn vốn đầu tư nước ngoài đóng vai trò
quan trọng không thể thiếu.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng đã từng khẳng định: “Sự phát triển của bất cứ sự vật nào
đểu bắt nguồn từ sự chuyển biến, giải quyết các mối quan hệ diễn ra ngay trong bản thân sự vật
đó. Điều này giữ vai trò quyết định tới tồn tại và phát triển của sự vật”. Cũng giống như vậy, để
nền kinh tế một quốc gia có thể tăng trưởng và phát triển một cách bền vững thì điều đầu tiên cần
chú trọng đó chính là vấn đề phát huy các yếu tố nội lực. Điều đó có nghĩa là vai trò quyết định
cho quá trình tăng trưởng và phát triển đất nước phải đặt lên các nhân tố từ trong nước. Và nguồn
vốn trong nước đã thể hiện được rõ những ưu điểm trong vai trò quyết định của mình. Với tính
chất là nội lực của một quốc gia, chúng ta có thể chủ động trong việc đầu tư nguồn vốn trong nước
vào những lĩnh vực cần thiết để phát triển nền kinh tế mà không phải chịu bất kì một sự ràng buộc
lệ thuộc nào. Hơn nữa, nguồn vốn trong nước được huy động từ các thành phần kinh tế trong nước
nên nó mang tính ổn định và đảm bảo hơn nguồn vốn từ nước ngoài. Không chỉ có vậy, vai trò
quyết định của nguồn vốn trong nước còn được thể hiện đặc biệt rõ ràng hơn trong các ý sau.
Thứ nhấtNguồn vốn trong nước là nguồn đóng góp lớn vào GDP toàn xã hội, góp phần
thúc đẩy tăng trưởng phát triển kinh tế.
Thông qua việc sử dụng nguồn vốn đầu tư trong nước để đầu tư vào nhiều lĩnh vực của nền kinh tế
nguồn vốn đầu tư trong nước đã đóng góp 1 phần lớn vào GDP toàn xã hội. Cụ thể như việc sử
7
dụng nguồn vốn từ ngân sách nhà nước để đầu tư cho các dự án kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội đã
tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong mọi lĩnh vực khác phát triển.

Các dự án xây dựng kết cấu hạ tầng thường đòi hỏi nguồn vốn huy động lớn và khả năng thu hồi
vốn chậm, do đó ít doanh nghiệp nào có đủ tiềm lực kinh tế để thực hiện. Vì thế nguồn vốn trong
nước sẽ được đầu tư vào xây dựng các kết cấu hạ tầng cơ bản như hệ thống điện lưới quốc gia,
đường xá, giao thông liên lạc... từ đó tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát triển và xây dựng
hoạt động nhà xưởng, mở rộng hoạt động kinh doanh, qua đó phát triển kinh tế vùng, miền tạo ra
nguồn GDP không nhỏ đóng góp vào tổng GDP của toàn xã hội. Còn nguồn vốn tín dụng nhà
nước với ưu điểm lãi suất thấp đã bổ sung cho các doanh nghiệp một nguồn vốn rẻ cho hoạt động
sản xuất kinh doanh, tranh thủ được các cơ hội tạo thêm lợi nhuận, vốn để mở rộng qui mô cũng
như nâng cao chất lượng sản phẩm. Từ đó làm tăng doanh thu đồng thời góp phần làm tăng GDP
cho toàn xã hội.
Thứ hai ,Nguồn vốn đầu tư trong nước đóng vai trò định hướng cho việc thay đổi cơ cấu kinh tế,
cân bằng thị trường hàng hóa, giúp cho nền kinh tế quốc gia tăng trưởng, phát triển toàn diện,
đồng đều.
Các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài đa phần lựa chọn cho mình các ngành, lĩnh vực có
vốn đầu tư không quá lớn, thu hồi vốn nhanh chóng để đầu tư thu lợi nhuận. Mặt khác, nền kinh tế
lại có những ngành vai trò không thể thiếu nhưng đòi hỏi nguồn vốn đầu tư rất lớn như điện, xi
măng, dầu khí; hoặc những ngành lợi nhuận thu về nhỏ, khả năng thu hồi vốn chậm ví dụ như các
công trình công cộng, các hoạt động của nhà nước nhằm giải quyết những thất bại của thị trường.
Chỉ có thông qua nguồn vốn trong nước cụ thể là nguồn vốn nhà nước mới có thể đầu tư vào các
vấn đề này. Vì vậy, nguồn vốn trong nước đặc biệt nguồn vốn nhà nước lúc này sẽ đóng vai trò
chủ đạo giúp cân bằng thị trường hàng hóa trong nền kinh tế, giúp cho nền kinh tế quốc gia tăng
trưởng, phát triển toàn diện, đồng đều.
Không chí có vậy, vai trò quyết định của nguồn vốn đầu tư trong nước đối với tăng trưởng và phát
triển nền kinh tế còn được thể hiện trong việc định hướng cho quá trình thay đổi cơ cấu kinh tế.
Bằng việc nguồn vốn đầu tư trong nước tập trung vào những ngành quan trọng như công nghiệp,
dịch vụ, cơ cấu kinh tế của quốc gia sẽ từng bước biến chuyển theo định hướng đã đề ra của nhà
nước: tăng tỉ trọng công nghiệp, dịch vụ; giảm tỉ trọng nông nghiệp. Theo đó, nguồn vốn nước
ngoài có được định hướng đầu tư, tiếp tục trợ giúp nguồn vốn trong nước đẩy nhanh thời kì quá độ
đưa nền kinh tế quốc gia tiếp tục phát triển lên một trình độ cao hơn.
Nguồn vốn đầu tư trong nước có vai trò đảm bảo sự phát triển toàn diện, không lệch lạc giữa các

vùng miền của nền kinh tế, góp phần giúp nền kinh tế tăng trưởng, phát triển mộtc cách bền vững
Trong một quốc gia việc phát triển không đồng đều giữa các vùng miền là khó tránh khỏi. Vì vậy
cần có các nguồn vốn đầu tư hợp lí để giảm bớt sự không đồng đều này, làm cho nền kinh tế trở
nên phát triển toàn diện hơn. Đối với những khu vực vùng sâu, vùng xa nơi mà nền sản xuất còn
chưa phát triển, hệ thống giao thông vận tải, thông tin liên lạc còn lạc hậu thì việc đón nhận nguồn
8
vốn từ nước ngoài đầu tư vào đây là rất ít có hi vọng. Lí do là nguồn vốn từ nước ngoài thường
chọn những vùng, thành phố trọng điểm nơi mà có hệ thống kết cấu hạ tầng tương đối phát triển,
gần nguồn nguyên liệu và có thị trường tiêu thụ lớn. Lúc này nguồn vốn đầu tư trong nước sẽ đảm
nhận vai trò đầu tư vào các vùng còn khó khăn, kinh tế chưa phát triển, giúp các vùng miền đó tận
dụng và phát huy được thế mạnh, nội lực của mình. Qua đó sẽ giải quyết công ăn việc làm cho lao
động trong vùng, nâng cao mức sống cũng như trình độ dân trí và từ đó sẽ làm giảm khoảng cách
chênh lệch giữa các vùng. Điều này cho thấy nguồn vốn trong nước đóng vai trò rất quan trọng
trong việc đảm bảo sự phát triển và tăng trưởng toàn diện của nền kinh tế.
Thứ ba ,Nguồn vốn trong nước góp phần kiềm chế lạm phát trong nền kinh tế, đẩy nhanh tiến
trình cổ phần hóa nhiều doanh nghiệp nhà nước, tạo đà cho tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Đầu tư quá mức là một trong những nguyên nhân dẫn đến lạm phát. Vốn đầu tư là yếu tố vật chất
trực tiếp quyết định tốc độ tăng trưởng kinh tế, nhưng đó là nói về đầu tư có hiệu quả. Còn nếu
đầu tư không có hiệu quả, thì chẳng những tăng trưởng kinh tế phải tốn nhiều vốn đầu tư hơn, mà
còn gây ra lạm phát, xét trên nhiều mặt lạm phát do "chi phí đẩy" và lạm phát do "cầu kéo". Bản
thân vốn đầu tư sẽ làm cho lạm phát "cầu kéo"; còn đầu tư kém hiệu quả sẽ làm cho lạm phát do
"chi phí đẩy". Lạm phát do quan hệ cung - cầu, quan hệ tiền - hàng mất cân đối thường có bề nổi,
dễ nhận thấy, nhưng lạm phát do đầu tư không có hiệu quả thì thường là lạm phát ngầm, lúc đầu
rất khó nhận thấy, nhưng khi nó bộc phát thì rất cao, rất khó trị và việc trị nó thường phải kèm theo
cái giá phải trả không nhỏ, thậm chí còn có thể rơi vào cuộc khủng hoảng. Do đó việc kiểm soát cả
về mặt lượng và mặt chất của việc sử dụng nguồn vốn trong nước đặc biệt là nguồn vốn từ ngân
sách nhà nước và việc kiểm soát chặt chẽ đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước là một trong
những biện pháp được nêu ra để chống lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô.
Một trong số những vai trò không thể không kể đến của nguồn vốn trong nước đối với tăng trưởng
và phát triển kinh tế đó là : nguồn vốn đầu tư trong nước đặc biệt là nguồn vốn dồi dào của khu

vực dân cư và tư nhân là tác động lớn nhất thúc đẩy quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà
nước diễn ra nhanh chóng và đồng bộ. Từ đó giải quyết những tồn tại và tình trạng sản xuất, kinh
doanh kém hiệu quả của các doanh nghiệp nhà nước, đang gây trở ngại cho tiến trình phát triển
kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế.
Thứ tư ,Nguồn vốn trong nước xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng đạt một trình độ nhất định tạo
điều kiện thuận lợi để thu hút vốn đầu tư nước ngoài cũng như tăng tính hiệu quả, nhanh chóng
của việc sử dụng vốn đầu tư nước ngoài, tạo nền tảng vững chãi cho sự tăng trưởng của nền kinh
tế.
Nền tảng cơ sở kiến trúc hạ tầng của quốc gia cũng có ảnh hưởng rất lớn tới khả năng thu hút
nguồn vốn, triển khai thực hiện trong các giai đoạn của quá trình sử dụng vốn đầu tư. Mục tiêu của
phát triển kinh tế là phải xây dựng được các cơ sở kiến trúc hạ tầng kinh tế ở một trình độ nhất
định: điện, nước, đường xá giao thông đi lại, các công trình văn phòng hiện đại, các khu công
nghiệp, khu chế xuất tập trung… để đảm bảo sao cho có thể khai thác tốt nhất các nguồn nguyên
nhiên liệu, nguồn lao động, công nghệ… cần thiết.
9
Bên cạnh các khu vực kinh tế nổi bật, trọng điểm dễ thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài luôn
còn có các khu vực có tiềm năng nhưng còn đôi chút hạn chế về địa hình, công nghệ, lực lượng lao
động… thì lúc này vai trò của nguồn vốn trong nước để khắc phục các hạn chế này là rất quan
trọng. Nguồn vốn trong nước sẽ đóng vai trò mở đường, đầu tư vào việc san lấp và giải phóng mặt
bằng, xây dựng các kết cấu hạ tầng cơ bản, đầu tư đổi mới trang thiết bị trong các nhà xưởng và
mở các lớp đào tạo tay nghề cho đội ngũ công nhân. Nhờ có nguồn vốn trong nước mà các vấn đề
về địa điểm, công nghệ, trình độ tay nghề của đội ngũ lao động được giải quyết, tạo nên một môi
trường đầu tư thuận lợi đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Hơn nữa việc đó cũng tạo cho quốc gia
một lợi thế so sánh về môi trường đầu tư với các nước trong khu vực, tạo ấn tượng trong con mắt
các nhà đầu tư nước ngoài. Nhờ có nguồn vốn trong nước mà các vùng có điều kiện chưa thật sự
thuận lợi đã có khả năng thu hút và đón nhận vốn đầu tư nước ngoài, tạo cơ hội phát triển kinh tế
của vùng.
Thứ năm ,Sự lớn mạnh, ổn định nguồn lực vốn trong nước giúp hạn chế những mặt tiêu cực của
nguồn lực nước ngoài tới nền kinh tế, đồng thởi tạo dựng một khung xương vững chắc cho nền
kinh tế, chống lại những cơn sóng gió từ thị trường kinh tế quốc tế, thúc đẩy tăng trưởng và phát

triển kinh tế
Trong tình hình hội nhập với nền kinh tế trên thế giới như hiện nay thì việc bị ảnh hưởng do các
biến động kinh tế từ bên ngoài là điều không thể tránh khỏi. Khi những biến động đó xảy ra thì
nền kinh tế quốc gia sẽ chịu ảnh hưởng ít nhiều, gặp những khó khăn như giá cả tăng cao kéo theo
lạm phát, sản xuất bị đình trệ, xảy ra tình trạng thất nghiệp... Lúc đó thì ta càng không thể trông
chờ vào các nguồn lực từ phía bên ngoài. Do đó, vai trò của nguồn vốn trong nước trong lúc này
mang tính quyết định đối với sự tăng trưởng phát triển của một quốc gia. Sự ổn định và lớn mạnh
nguồn vốn trong nước sẽ tạo thành một khung xương vững chắc giúp chúng ta thực hiện các chính
sách kinh tế vĩ mô và các biện pháp cần thiết để tránh và khắc phục các ảnh hưởng do các cú sốc
bên ngoài gây ra cho nền kinh tế như điều chỉnh cung cầu, trợ cấp thất nghiệp, trợ cấp xã hội…
Không chỉ có vậy, các nguồn vốn và nguồn lực trong nước, quan trọng là các nguồn chi từ ngân
sách nhà nước, các khoản tín dụng, các khoản đầu tư phát triển của các doanh nghiệp nhà nước
phải nắm giữ những vị trí then chốt trong nền kinh tế: tài chính, dầu khí, viễn thông... Mở cửa cho
các nhà đầu tư nước ngoài song các chính sách của chính phủ vẫn quy định rõ ràng những ngành
nghề mà nguồn vốn đầu tư nước ngoài có thể tiếp cận. Đó là sự cẩn trọng để kiểm soát việc tiếp
nhận và sử dụng nguồn vốn đầu tư nước ngoài nhằm hạn chế những mặt trái mà nguồn vốn này có
thể đem theo: thâu tóm về chính trị, sự phụ thuộc về kinh tế (trở thành sân sau của các cường
quốc...). Có như vậy nền kinh tế mới có thể phát triển ổn định, bền vững.
1.3 Nguồn vốn nước ngoài
1.3.1 Vốn đầu trực tiếp nước ngoài ( foreign direct investment-FDI )
1.3.1.1.Khái niệm: Đầu tư trực tiếp nước ngoài là loại hình di chuyển vốn quốc tế , trong đó
người sở hữu vốn đồng thời là người trực tiếp quản lý và điều hành hoạt động sử dụng vốn.
10
Theo định nghĩa trên ta thấy rằng FDI là một hình thức của đầu tư nước ngoài , trong đó
tiền và tài sản ( tài sản hữu hình và tài sản vô hình ) được các tư nhân và tổ chức ( gọi chung là các
nhà đầu tư nước ngoài ) đem đi đầu tư tại một quốc gia khác ( nước tiếp nhận đầu tư ) nhằm mục
đich tìm kiếm lợi nhuận . Điểm khác biệt để thấy điêm khác biệt giữa FDI và các hình thức đầu tư
khác là nhà đầu tư nước ngoài có vai trò nhất định trong quản lý và điều hành sử dụng vốn và tài
sản.
1.3.1.2.Một số đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài ( FDI ) :

Một là : FDI gắn với việc di chuyển tiền và tài sản giữa các quốc gia .Trong đầu tư trực tiếp nước
ngoài thì tiền và tài sản sẽ có sự gia tăng ở nước tiếp nhận đầu tư và đồng thời là việc giảm một
lượng tiền và tài sản tương ứng ở quốc gia đi đầu tư ( trừ các tài sản vô hình ) . Đi cùng với việc
gia tăng tài sản ở nước tiếp nhận đầu tư thì vốn FDI còn giúp cải thiện cán cân tài khoản vãng lai
quốc gia đó , cũng như cung ứng một lượng ngoại tệ nhất định cho quốc gia tiếp nhận đầu tư.
Hai là : các chủ đầu tư phải góp vốn tối thiểu vào vốn pháp định , tùy theo luật đầu tư từng nước
thì lượng vốn góp tối thiểu này được quy định khác nhau . Đối với Việt Nam thì theo luật đầu tư
2005 thì vốn góp tối thiểu là 30% vốn pháp định .
Ba là : đầu tư trực tiếp nước ngoài bao gồm khá nhiều hình thức khác nhau như : Hợp đồng hợp
tác kinh doanh , doanh nghiệp liên doanh , doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài , hợp đồng BOT
….. Hoạt động đầu tư trực tiếp từ nước ngoài có thể thực hiện qua các con đường như lập doanh
nghiệp mới , mua lại một phần hoặc toàn bộ doanh nghiệp trong nước , các chi nhánh của doanh
nghiệp nước ngoài cũ hoặc có thể là sát nhập các doanh nghiệp .
Bốn là: quyền quản lý doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và phân chia lợi nhuận của các
doanh nghiệp này phụ thuộc vào phần vốn góp của các các bên trong doanh nghiệp liên doanh và
hợp đồng hợp tác kinh doanh , với doanh nghiệp 100% vốn thì toàn quyền . Đối với doanh nghiệp
FDI nếu quyền quản lý sẽ tạo ra tiền đề để các doanh nghiệp đó trở thành chi nhánh của các doanh
nghiệp ở chính quốc ( trong đó có rất nhiều là các công ty đa quốc gia _ TNs) , việc trở thành các
chi nhánh sẽ giúp các doanh nghiệp luân chuyển và sử dụng vốn của các công ty ở chính quốc
nhưng vẫn tránh được hàng rào thuế quan.
Năm là : đầu tư trực tiếp nước ngoài là hình thức đầu tư mang tính tư nhân và tìm kiếm lợi
nhuận . Ở hình thức đầu tư này hình chủ thể đầu tư chủ yếu là tư nhân nên mục đích là tìm kiếm
lợi nhuận , so với ODA thì FDI ít chụi các rằng buộc chính trị .
Sáu là : Đầu tư trực tiếp nước ngoài không chỉ gắn liền với di chuyển vốn mà còn gắn liền với
chuyển giao công nghệ, chuyển giao kiến thức và kinh nghiệm quản lý tạo ra thị trường mới cho
cả phía đầu tư và phía nhận đầu tư. Nhà đầu tư cùng với việc đưa vốn còn đưa cả công nghệ, bí
quyết công nghệ, kỹ năng tiếp thị, quản lý, đào tạo nhân công và các năng lựa trong sản xuất kinh
doanh cũng như trong vấn đề quản lý doanh nghiệp cho nước tiếp nhận vốn.
1.3.1.3 Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài .
11

Thứ nhất: Bổ sung nguồn vốn thiếu hụt trong nước , đặc biệt là với các ngành đòi hỏi vốn lớn .
Nhu cầu vốn cho phát triển kinh tế , đầu tư phát triển là rất lớn , nhất là trong giai đoạn khoa học
kĩ thuật bùng nổ như hiện nay không một quốc gia nào có thể tự đáp ứng mọi nhu cầu về nguồn
lực cho phát triển.
Thứ hai: Tạo việc làm , giải quyết thất nghiệp và nâng cao trình độ tay nghề cho người lao động
tại nước sở tại . Khi có đầu tư trực tiếp nước ngoài đã tạo ra một nhu cầu lao động rất lớn , các lao
động tuyển vào các doanh nghiệp nước ngoài thường được đào tạo lại với những kĩ thuật tay nghề
cao , đồng thời với quá trình chuyển giao công nghệ của mình các doanh nghiệp nước ngoài đã tạo
ra một đội ngũ lao động có trình độ .
Thứ ba: Thúc đẩy khoa học-công nghệ phát triển : các công ty và doanh nghiệp nước ngoài khi
mang vốn đi đầu tư thì họ thường dựa trên trình độ khoa học công nghệ cao hơn so với nước tiếp
nhận nên vô hình chung đã cung cấp những kiến thức và trình độ khoa học công nghệ ở trình độ
cao , từ đó thúc đẩy khoa học công nghệ ở các nước tiếp nhận đầu tư phát triển .
Thứ tư: Đầu tư nước ngoài tạo ra nguồn thu rất lớn cho ngân sách nhà nước qua thuế của doanh
nghiệp và cá nhân các nhà đầu tư cũng như thuế và phí từ các dự án có vốn đầu tư nước ngoài .
Cùng với đó các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thường tạo ra giá trị hàng xuất
khẩu rất lớn .
Thứ năm: Tạo động lực phân bổ lại nguồn lực xã hội mà đặc biệt là vốn. Dòng vốn FDI sẽ chảy
vào những lĩnh vực đưa lại hiệu quả cao kéo theo sự chuyển dịch cơ cấu ngành và địa phương. Các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động đạt hiệu quả hơn hẳn các doanh nghiệp trong
nước.
Thứ sáu: Đầu tư trực tiếp giúp nâng cao tính cạnh tranh của nền kinh tế và các doanh nghiệp
trong nước ,khi có sự xuất hiện của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã tạo nên sự cạnh
tranh mạnh mẽ, làm cho không khí hoạt động của các doanh nghiệp trong nước ''nóng lên'', buộc
họ phải hoàn thiện và nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp để tồn tại và phát triển. Các
doanh nghiệp này cũng đã đem lại những mô hình quản lý tiến tiến cùng phương thức kinh doanh
hiện đại, điều này đã thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước đổi mới công nghệ, nâng cao chất
lượng sản phẩm, tạo sự cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp, bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng
1.3.2.Vốn hỗ trợ phát triên chính thức( Officer development Assitant - )ODA

1.3.2.1Khái niệm : Hỗ trợ phát triển chính thức hay viện trợ phát triển chính thức (ODA) một
phần của nguồn tài chính chính thức mà Chính phủ các nuớc phát triển và các tổ chức đa phương
dành cho các nuớc đang phát triển nhằm hỗ trợ phát triển kinh tế và phúc lợi xã hội các quốc gia
này.
Hiện nay dòng vốn hỗ trợ phát triển chính thức được đưa vào các nước qua các hình thức sau ;
ODA không hoàn lại , ODA cho vay ưu đãi và ODA hỗn hợp . Các đối tác cung cấp ODA chủ yếu
12
là các nước phát triển ( mỹ , nhật ..) , các tổ chức tài chính quốc tế và khu vực ( WB, ADB ,
JBIC..) và các tổ chức đa phương khác.
1.3.2.2.Đặc điểm của vốn hỗ trợ phát triển chính thức ( ODA )
Thứ nhất, ODA mang tính ưu đãi.
Vốn ODA có thời gian cho vay (hoàn trả vốn) dài, có thời gian ân hạn dài (chỉ trả lãi, chưa
trả nợ gốc). Đây cũng chính là một sự ưu đãi dành cho nước vay. Thông thường, trong ODA có
thành tố viện trợ không hoàn lại (tức là cho không). Đây chính là điểm phân biệt giữa viện trợ và
cho vay thương mại. Thành tố cho không được xác định dựa vào thời gian cho vay, thời gian ân
hạn , hiện nay thành phần hỗ trợ của ODA chiếm từ 25% trở lên trong tổng số vốn hỗ trợ và cùng
với đó phần vốn tính lãi thì so với các khoản vay thương mại thì lãi vay ODA thường thấp hơn rất
nhiều. Cho vay ưu đãi hay còn gọi là cho vay "mềm". Với các nhà tài trợ thì họ thường áp dụng
việc hỗ trợ không hoàn lại với các khoản hỗ trợ nhỏ và thường tập trung vào lĩnh vực xóa đói giảm
nghèo và xã hội , với các khoản vay có tính lãi thì thường tập trung vào phát triển cơ sở hạ tầng ,
giáo dục….Để nâng cao hiệu quả sử dụng của dòng vốn này thì hình thức ODA hỗn hợp là hình
thức mà các nhà tài trợ áp dụng chủ yếu .Vốn ODA còn được thể hiện ở chỗ nó chỉ dành riêng cho
các nước đang và chậm phát triển, vì mục tiêu phát triển.Thông thường, các nước cung cấp ODA
đều có những chính sách và ưu tiên riêng của mình, tập trung vào một số lĩnh vực mà họ quan tâm
hay có khả năng kỹ thuật và tư vấn (về công nghệ, kinh nghiệm quản lý…). Đồng thời, đối tượng
ưu tiên của các nước cung cấp ODA cũng có thể thay đổi theo từng giai đoạn cụ thể. Vì vậy, nắm
được hướng ưu tiên và tiềm năng của các nước, các tổ chức cung cấp ODA là rất cần thiết.
Thứ hai, vốn ODA mang tính ràng buộc: Tính rằng buộc ở đây thể hiện trên hai mặt đó là chính
trị và kinh tế
Xét trên mặt kinh tế thì vốn Oda sẽ đưa lại một số bất lợi như , nước tiếp nhận ODA phải chấp

nhận dỡ bỏ dần hàng rào thuế quan bảo hộ các ngành công nghiệp non trẻ và bảng thuế xuất nhập
khẩu hàng hoá của nước tài trợ. Nước tiếp nhận ODA cũng được yêu cầu từng bước mở cửa thị
trường bảo hộ cho những danh mục hàng hoá mới của nước tài trợ; yêu cầu có những ưu đãi đối
với các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài như cho phép họ đầu tư vào những lĩnh vực hạn chế, có
khả năng sinh lời cao
Nguồn vốn ODA từ các nước giàu cung cấp cho các nước nghèo cũng thường gắn với việc
mua các sản phẩm từ các nước này mà không hoàn toàn phù hợp, thậm chí là không cần thiết đối
với các nước nghèo. Ví như các dự án ODA trong lĩnh vực đào tạo, lập dự án và tư vấn kỹ thuật,
phần trả cho các chuyên gia nước ngoài thường chiếm đến hơn 90% (bên nước tài trợ ODA
thường yêu cầu trả lương cho các chuyên gia, cố vấn dự án của họ quá cao so với chi phí thực tế
cần thuê chuyên gia như vậy trên thị trường lao động thế giới). Như vậy đây là một hình thức tạo
việc làm và thu nhập cho các nước cung cấp ODA và trên thực tế thì lượng vốn ODA thực mà các
nước nhận được là rất thấp .
13
Nguồn vốn viện trợ ODA còn được gắn với các điều khoản mậu dịch đặc biệt nhập khẩu
tối đa các sản phẩm của họ. Cụ thể là nước cấp ODA buộc nước tiếp nhận ODA phải chấp nhận
một khoản ODA là hàng hoá, dịch vụ do họ sản xuất.
Nước tiếp nhận ODA tuy có toàn quyền quản lý sử dụng ODA nhưng thông thường, các
danh mục dự án ODA cũng phải có sự thoả thuận, đồng ý của nước viện trợ, dù không trực tiếp
điều hành dự án nhưng họ có thể tham gia gián tiếp dưới hình thức nhà thầu hoặc hỗ trợ chuyên
gia.
Ngoài những tác động về mặt kinh tế thì về mặt chính trị dòng vốn ODA tạo ra những ảnh
hưởng chính trị nhất định tới nước nhận vốn , đây là một công cụ kinh tế giúp các nước phát triển
nâng cao vai trò và tầm ảnh hưởng của mình tạo các nước đang phát triển.
Thứ ba, ODA có khả năng gây nợ
Theo nhiều quan niệm thì ODA là “ của cho không “ , đây là quan niệm sai lầm vì vốn ODA
ngoài việc gồm phần không hoàn lại còn phần hoàn lại với lãi suất . Vấn đề là vốn ODA thường có
lãi suất thấp và có thời gian ân hạn dài nên vô tình đã tạo ra tâm lý chủ quan của các nước tiếp
nhận , họ cứ cố gắng thu hút thật nhiều ODA để rồi lượng vốn ODA sẽ tạo ra một khoản nợ lớn và
khả năng chi trả sẽ càng thấp nếu dòng vốn ODA mà các nước nhận được không được sử dụng

hợp lý và có hiệu quả , cũng như việc giảm tình trạng thất thoát và việc tăng tốc độ giải ngân
không được nâng cao
1.3.2.3. Vai trò của ODA
Thứ nhất: ODA là nguồn vốn bổ sung quan trọng: Vốn ODA tuy đa phần là vốn vay phải hoàn trả
lại với lãi suất và các điều kiện ràng buộc chặt chẽ khác nhưng có tác động khá lớn đến tăng
trưởng kinh tế và cải thiện đáng kể các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô, xây dựng cơ sở hạ tầng. Là nguồn
vốn bổ sung quý báu và quan trọng cho phát triển vào những giai đoạn khó khăn, khủng hoảng
kinh tế ở những nước này.
Thứ hai, Giúp nước nghèo tiếp thu KHKT và phát triển nguồn nhân lực: Có sự tiến bộ mạnh về y
tế, giáo dục, thu nhập. Với sự trợ giúp của Ngân hàng Thế giới, cộng đồng phát triển và các tổ
chức xã hội dân sinh, các chính phủ đã thúc đẩy tăng trưởng và giảm nghèo đói bằng cách cải
thiện các chính sách, thể chế và sự quản lý của mình và qua các chương trình, dự án được hoạch
định tốt.
-Vốn vay ODA làm tăng tổng vốn đầu tư của các quốc gia tiếp nhận, do đó làm tăng năng
lực sản xuất, dẫn đến tăng GDP so với trường hợp không có nguồn vốn bổ sung này. Tác động của
vốn vay ODA lên tăng trưởng GDP của các quốc gia dao động trong khoảng từ 0,1% đến gần
1,7%.
+ Tăng năng lực sản xuất còn giúp giảm lạm phát.
+ Giá cả nội địa giảm sẽ cải thiện tính cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu của những nước
tiếp nhận này, và do đó làm tăng khối lượng xuất khẩu của họ.
14
+ Nhập khẩu cũng tăng vì nhu cầu của nền kinh tế đã tăng hơn khi tốc độ tăng trưởng
nhanh hơn, nhưng nhu cầu này phần nào bị cản trở bởi sự giảm giá ở thị trường nội địa nên cuối
cùng cán cân thương mại vẫn được cải thiện mạnh.
Thứ ba, ODA góp phần tăng khả năng thu hút vốn FDI và tạo điều kiện mở rộng đầu tư phát triển:
Để sử dụng hiệu quả nhất nguồn vốn ODA, các nước sẽ nỗ lực tạo môi trường chính sách thuận
lợi và minh bạch trong quản lý và sử dụng nguồn vốn này, cải thiện điều kiện pháp lý, góp phần
tăng khả năng thu hút vốn FDI.
ODA có vai trò quan trọng đối với các nước tiếp nhận, là nguồn vốn quan trọng để xây dựng cơ sở
hạ tầng, góp phần tăng khả năng thu hút vốn FDI và tạo điều kiện mở rộng đầu tư phát triển.

1.3.3 nguồn tín dụng từ các ngân hàng thương mại quốc tế
1.3.3.1 Khái niệm : là các khoản vay mà các nước ( doanh nghiệp hoặc chính phủ ) nhận được từ
đi vay các ngân hàng và tổ chức tài chính quốc tế .
1.3.3.2 Đặc điểm :
- Điều kiện ưu đãi thấp : nguồn tín dụng từ các ngân hàng thương mại quốc tế và ODA đều là các
khoản vay từ các tổ chức nước ngoài nhưng so với ODA thì các khoản vay này thường chụi lãi
suất theo mức lãi suất tín dụng của các ngân hàng , cũng như là không có thời gian ân hạn như
ODA
- Không mang các rằng buộc về chính trị và xã hội : các khoản vay này thường mang tính chất của
các khoản vay tín dụng thông thường nên không mang màu sắc chính trị .
- Chủ yếu là hỗ trợ cho xuất nhập khẩu : các khoản vay từ các ngân hàng thương mại quốc tế
thường do các tổ chức , doanh nghiệp đặt tại việt nam vay nhằm đáp ứng ngoại tệ cho quá trình
xuất nhập khẩu . Một phần của các khoản vay này cũng được dùng để đầu tư phát triển .
1.3.4 Nguồn vốn từ thị trường vốn quốc tế
1.3.4.1. Khái niệm.
Là nguồn vốn huy động từ thị trường chứng khoán trên thế giới, bằng việc bán trái phiếu, cổ phiếu
của chính phủ, các công ty trong nước ra nước ngoài.
1.3.4.2 Đặc điểm.
- Có thể huy động vốn với số lượng lớn, trong thời gian dài để đáp ứng nhu cầu về vốn cho nến
kinh tế mà không bị ràng buộc bởi các điều kiện về tín dụng quan hệ cho vay để gây sức ép với
nước huy động vốn trong các quan hệ khác.
- Tạo điều kiện cho cho nước tiếp nhận vốn tiếp cận với thị trường vốn quốc tế . Với việc trực tiếp
tham gia thị trường vốn quốc tế, đây sẽ là cơ hội tốt để thúc đẩy TTCK trong nước phát triển trong
tương lai. Đối với hình thức huy động này, người đi vay có thể tăng thêm tính hẫp dẫn bằng cách
đưa ra một số yếu tố kích thích.
15
- Khả năng thanh toán cao do có thể mua bán, trao đổi trên thị trường thứ cấp, chính vì vậy hình
thức này tương đối hấp dẫn với các nhà đầu tư nước ngoài.
1.4 Mối quan hệ giữa vốn đầu tư trong nước và vốn đầu tư nước ngoài trong thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế

1.4.1 Vốn đầu tư trong nước có vai trò quyết định trong tăng trưởng kinh tế và tạo nền tảng ,
định hướng cho qúa trình thu hút và sử dụng vốn đầu tư nước ngoài
Chúng ta phải xem xét vị trí của nguồn vốn trong nước trong tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Trước tiên, cần phải khẳng định mọi nền kinh tế muốn phát triển bền vững và lâu dài thì phải
dựa vào nội lực khả năng sẵn có của nền kinh tế bởi các nguồn vốn từ bên ngoài mặc dù có vai trò
quan trọng là “cú kích” để đẩy nền kinh tế đi lên nhưng không phải là nhân tố quyết định nếu nền
kinh tế đó không có nội lực sẵn có của mình thì mọi sự tác động sẽ trở thành vô nghĩa.
Thứ nhất, Nguồn vốn trong nước thể hiện vai trò quan trọng của mình thông qua đóng góp vào
GDP toàn xã hội từ các đơn vị sử dụng vốn trong nước, trong đó có các doanh nghiệp của nhà
nước , các doanh nghịêp tư nhân . Tỉ trọng đóng góp vào GDP của nguồn vốn trong nước là rất
lớn, chiếm xấp xỉ 2/3 GDP và đặc biệt trong đó các doanh nghiệp tư nhân luôn dẫn đầu trong cơ
cấu GDP của xã hội , vào khoảng gần một nửa tổng GDP chủ yếu trong công nghiệp xây dựng và
dịch vụ.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa , nguồn vốn trong nước phân bổ cho
các doanh nghiệp nhà nước giữ vai trò chủ đạo giúp cân bằng hàng hoá của nền kinh tế qua việc
nắm giữ một số ngành quan trọng như điện xi măng , dầu khí , nắm giữ một lượng vốn khá lớn của
nền kinh tế. Ngoài ra, chỉ có thông qua nguồn vốn nhà nước mới có thể đầu tư vào các công trình,
các ngành kinh tế phục vụ cho mục đích công cộng cũng như để thực hiện vai trò của nhà nước
trong việc giải quyết các thất bại của thị trường. Nguồn vốn nhà nước này sẽ được đâu tư tập trung
vào những ngành được xác định là có tầm quan trọng trong sự phát triển kinh tế của đất nước
cùng với việc thực hiện các mục tiêu phát
Thứ hai: Nguồn vốn trong nước có tác dụng đi trước một bước,mở đường tạo điều kiện thu hút và
đón nhận nguồn vốn đầu tư nước ngoài.
Cơ sở hạ tầng luôn là điều kiện thiết yếu cho sự phát triển và cho các hoạt động sản xuất kinh
doanh, vốn của nhà nước đóng vai trò chủ chốt là nguồn vốn mà thông qua việc thiết lập và nâng
cấp mạng lưới giao thông, mạng lưới điện, nước …. Những cơ sở hạ tầng cần thiết cho phát triển
tạo bước đi mở đầu, tiên quyết trong việc giới thiệu và quảng bá tiềm năng của mội vùng ngành.
Đi cùng với việc tạo dựng cơ sở hạng tầng thì vốn đầu tư trong nước còn có vai trò tạo nền tảng về
nguồn lao động sử dụng cho các dự án nước ngoài . Nguồn vốn đầu tư trong nước có vai trò quan
trọng trong việc xây dựng một nguồn nhân lực , trong đó vốn từ ngân sách và vốn đầu tư của nhà

nước trong sự nghiệp phát triển giáo dục có vai trò quyết đinh trong việc xây dựng một nguồn
nhân lực chất lượng cao để sử dụng cho các dự án đầu tư của nước ngoài nói riêng và tăng trưởng
kinh tế nói chung
16
Không những thế, hoạt động đầu tư từ nguồn vốn trong nước được tiến hành một cách có hiệu quả
của chính doanh nghiệp trong nước cũng là dấu hiệu đáng tin cậy khiến các nhà đầu tư nước ngoài
quan tâm hơn và dễ dàng hơn trong việc ra quyết định đầu tư.
Ngược lại, các dự án đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư tại mỗi vùng, miền, khu vực,
ngành luôn yêu cầu một mạng lưới cơ sở hạ tầng kỹ thuật và cơ sở hạ tầng mềm( môi trường pháp
lý, môi trường kinh doanh….)phù hợp và thuận lợi. Chính những yêu cầu đó đặt ra cho chúng ta
những đòi hỏi cấp bách liên tục đó phải đổi mới, nâng cấp tốt hơn nữa cơ sở hạ tầng mềm và cơ sở
hạ tầng kỹ thuật trên phạm vi cả nước, tạo điều kiện thu hút nhiều hơn nữa các nhà đầu tư nước
ngoài và nhiều dự án lớn có tác dụng tích cực ở quy mô lớn trong thời gian dài.
Thứ ba , Sự lớn mạnh về quy mô và ổn định nguồn lực vốn trong nước có thể giúp nền kinh tế
chống đỡ lại những cú sốc từ bên ngoài. Một nguyên nhân quan trong của cuộc khủng hoảng kinh
tế Châu Á 1997 đó là sự lệ thuộc quá nhiều vào đồng vốn nước ngoài dẫn đến sự sụp đổ dây
chuyền giữa các quốc gia. Từ cuộc khủng hoảng đó huyễn hoặc về một thị trường tài chính dồi
dào, ổn định thường xuyên đáp ứng nhu cầu vốn đã tan biến.
Thứ tư , Một sự phát triển toàn diện và bền vững đòi hỏi một cơ cấu vốn đầu tư trong nước-nước
ngoài cũng như cơ cấu đầu tư theo vùng ngành hợp lý. Ngoài nguồn vốn ODA( chủ yếu dành cho
việc hỗ trợ cán cân thanh toán, thu chi ngân sách nhà nước và xây dựng cơ sở hạ tầng, nguồn vốn
đầu tư nước ngoài chảy vào nước ta chủ yếu vì mục tiêu lợi nhuận, do đó chúng ta chỉ được tập
trung chủ yếu vào những vùng có nhiều thuận lợi và những ngành mang lại lợi nhuận nhanh,
nhiều. Vậy còn những vùng lạc hậu, nghèo tài nguyên, những ngành kém phát triển thì sao? Do đó,
để đảm bảo sự phát triển toàn diện, không lệch lạc đòi hỏi nguồn vốn trong nước phải phát huy
thúc đẩy các khu vực này giúp cho nền kinh tế phát triển đồng đều, tránh thiếu lệch không cân
đối .
Thứ năm, Nguồn vốn nước ngoài là một nguồn vốn quan trọng đang có tác động tạo nên “cú
kích” cho nền kinh tế. Nhưng việc tiếp nhận và sư dụng có hiệu quả nguồn vốn nước ngoài là vấn
đề quan trọng . Một số vốn đối ứng phù hợp là điều kiện tiên quyết để tiếp nhận và sử dụng nguồn

vốn đầu tư nước ngoài một cách có triệt để và có hiệu quả. Số vốn đối ứng này sẽ được huy động
từ chính nguồn vốn trong nước. Điều này được thấy dõ trong các dự án ODA khi mà chính phủ
các nước cam kết đóng góp lượng vốn đối ứng thì các tổ chức quốc tế sẽ có sự tin tưởng về hiệu
quả của vốn và lượng vốn cam kết tăng lên . Còn trong các dự án FDI thì sự xuất hiện của vốn đầu
tư trong nước trong các hợp đồng hợp tác kinh doanh và các xí nghiệp liên doanh giúp các nhà đầu
tư nước ngoài có thể sử dụng vốn của mình tốt hơn qua sự trợ giúp của các nhà đầu tư trong nước
khi các nhà đầu tư nước ngoài chưa có sự hiểu biết rõ ràng về môi trường đầu tư và kinh doanh
trong nước .
1.4.2 Nguồn vốn nước ngoài giữ vai trò quan trọng
1.4.2.1 Tác động trực tiếp :Là nguồn vốn bổ sung quan trọng cho nguồn vốn trong nước
Với nên kinh tế đang mỗi nước thì vốn đầu tư là nguồn gốc giúp các nước tăng trưởng .
Khi mỗi quốc gia đang trong tình trạng là một nước khó khăn thì thu nhập của nước đó và các cá
17
nhân trong xã hội đó thấp . đi đôi với thu nhập thấp thì tích lũy kém , mà tích lũy lại là nguyên
nhân dẫn đến vốn đầu tư cho nền kinh tế thấp . không chỉ xét trong đầu tư cho tăng trưởng kinh tế
mà một khi vốn đầu tư thấp thì chúng ta khó lòng có vốn đầu tư cho giáo dục , khoa học công nghệ
….những yếu như giáo dục thấp , nhân lực chất lượng kém , khoa học công nghệ chậm phát triển
sẽ lại là rào cản cho nền kinh tế các nước . và chúng ta thấy rằng nếu không có nguồn vốn từ ngoài
thì các nước đang phát triển sẽ luôn bị mắc trong một vòng luẩn quẩn :
Thu nhập thấp Tiết kiệm và đầu tư thấp
Tăng trưởng thấp năng suất thấp
Khi vốn nước ngoài đi vào sẽ tạo ra một nguồn “ năng lượng “ bổ sung mạnh mẽ giúp các nước
đang phát triển phá vỡ vòng luẩn quẩn đó .
Như đã phân tích ở trên thì vốn đầu tư trong nước là nguồn vốn giữu vai trò quyết định cho tăng
trưởng nền kinh tế của một quốc gia nhưng một nước cũng không thể tự tạo đủ cho mình lượng
vốn cần thiết . Khi có sự xuất hiện của luồng vốn và tài sản nước ngoài qua sự di chuyển vốn quốc
tế thì chúng ta thấy một điều chắc chắn là tổng mức vốn đầu tư xã hội tăng lên thông qua nhiều
hình thức khác nhau . Với vốn ODA chúng ta thấy rằng đây là nguồn vốn từ chính phủ và các tổ
chức quốc tế mang vào trong nước thông qua các chương trình phát triển của chính phủ , như vậy
ngân sách chính phủ của các nước nhận vốn đã được tăng lên và đây là nguồn vốn bổ sung quan

trọng cho chính phủ đầu tư vào cơ sở hạng tầng , phát triển nguồn nhân lực….
Vai trò bổ sung này còn thể nhận thấy với sự đóng góp của dòng vốn FDI với các nước đang phát
triển khi mà tại các nước này thì dòng vốn từ khu vực tư nhân ít , trong khi đó dòng vốn nhà nước
nhiều nhưng lại hiệu quả thấp . Ở một nền kinh tế phát triển thì việc hình thành và phát triển các
ngành công nghiệp , các ngành đòi hỏi công nghệ cao là vấn đề tất yếu nhưng để phát triển các
ngành công nghiệp này lại đòi hỏi một nguồn vốn lớn , dòng vốn FDI khi đi vào các nước này đã
đóng góp vào việc gia tăng lượng vốn lớn cho tổng vốn đầu tư của xã hội . Các nhà đầu tư nước
ngoài khi gia nhập vào nền kinh tế các nước khác thì họ sẽ mang theo rất nhiều vốn khác nhau vào
các nước tiếp nhận đầu tư : các nhà đầu tư nước ngoài họ mang theo tiền vốn bằng ngoại tệ từ tài
sản của mình vào và làm phình to thêm cái túi đựng vốn đầu tư của xã hội , họ vào mang theo các
tài sản sản xuất như máy móc , thiết bị sản xuất .. làm tăng lượng tài sản sản xuất của xã hội …
không những đóng góp trong vấn đề bổ sung lượng tiền vốn và tài sản sản xuất của doanh nghiệp
trong nước , các doanh nghiệp nước ngoài còn có đóng góp bổ sung vào ngân sách nhà nước thông
qua đóng góp thuế từ hoạt động của doanh nghiệp và thuế từ thu nhập của cá nhân các nhà đầu tư .
Không chỉ có các dòng vốn FDI và ODA , hiện nay khi hệ thống thị trường chứng khoán của các
nước phát triển với sự hoàn thiện của hệ thống chính sách quản lý và thông tin đầy đủ thì dòng vốn
18
của các nhà đầu tư qua kênh này là nguồn vốn bổ sung mới quan trọng trong khi các dòng vốn trực
tiếp đang có dấu thoái trào . Thông qua kênh này thì vốn được chuyển cho các doanh nghiệp trong
nước , dòng vốn này giúp các doanh nghiệp trong nước có thêm vốn để đầu tư vào sản xuất kinh
doanh và đặc biệt là đầu tư vào các dự án lớn .
Không chỉ đóng góp vào tổng vốn đầu tư vào tổng vốn đầu tư toàn xã hội , các dòng vốn nước
ngoài còn là nguồn bổ sung quan trọng cho nguồn ngoại tệ để giúp các các nước có tiền để nhập
các máy móc thiết bị từ nước ngoài để bổ sung cho nguồn máy móc và thiết bị lạc hậu trong các
doanh nghiệp trong nước .
Những điều trên đây cho thấy dòng vốn nước ngoài là nguồn bổ sung quan trọng cho nguồn vốn
trong nước trong quá trình thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
1.4.2.2. Tác động gián tiếp
Bên cạnh tác động trực tiếp tơi tăng trương kinh tế thông qua gia tăng tổng vốn đầu tư toàn
xã hội , sự xuất hiện của các dòng vốn nước ngoài còn có tác động gia tăng qua hoạt động của

dòng vốn này thông qua một số kênh như kên canh tranh là các doanh nghiệp trong nước phải gia
tăng hiệu quả hoạt động , kênh truyền bá công nghệ giúp các doanh nghiệp trong nước có cơ hội
tiếp cận với các máy móc và công nghệ cao ..Sự xuất hiện các tác động tràn này là do sự chênh
lệch giữa các quốc gia , giữa các doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài , vì vậy đã
tạo ra ưu thế cho các doanh nghiệp nước ngoài khi đầu tư . Thông qua hoạt động của các nhà máy ,
các chi nhánh của các doanh nghiệp nước ngoài ở trong nước các doanh nghiệp trong nước sẽ nhận
được một số tác động gián tiếp sau :
Thứ nhất, Thông qua kênh cạnh tranh: Các nhà đầu tư nước ngoài sẽ biến thị trường trong nước
trở thành một nơi có tính cạnh tranh mạnh mẽ. Thông thường khi các nhà đầu tư nước ngoài đầu
tư vào nước sở tại, họ thường chọn những nơi có cơ sở hạ tầng tốt, sử dụng tối đa công suất của
chúng, kích thích nguồn vốn trong lĩnh vực này hoạt động có hiệu quả hơn. Các doanh nghiệp
trong nước trước sức ép cạnh tranh của các doanh nghiệp nước ngoài sẻ phải tự đổi mới để nâng
cao khả năng cạnh tranh của mình.
Thứ hai, Thông qua kênh sao chép và học hỏi: Các doanh nghiệp nước ngoài khi sang sẽ mang
theo các công nghệ và phương thức tổ chức sản xuất kinh doanh tiên tiến. Thông qua các quá trình
tương tác trong hoạt động, các doanh nghiệp trong nước có thể học hỏi và sao chép những kinh
nghiệm của nước ngoài để tự mình hoạt động có hiệu quả hơn. Đó có thể là các kinh nghiệm về
quản lý, tổ chức sản xuất hay cải thiện trình độ công nghệ. Khi công nghệ của nước ngoài đã cũ,
họ có thể chuyển giao sang cho nước sở tại, cũng làm tăng tiềm lực công nghệ của nước sở tại.
Thứ ba, Thông qua kênh liên kết sản xuất: Các doanh nghiệp nước ngoài có thể thiết lập nên các
liên doanh với doanh nghiệp trong nước, cải thiện khả sử dụng vốn của các đối tác trong nước.
Các doanh nghiệp trong nước muốn làm ăn với nước ngoài thì cần phải đảm bảo các tiêu chuẩn về
độ tin cậy, chất lượng và tốc độ giao hàng. Ngoài ra thì sự năng động của các nhà đầu tư nước
19
ngoài sẽ kéo theo các ngành sản xuất trong nước và vận tải nội địa hoạt động mạnh hơn nhằm đáp
ứng yêu cầu hoạt động của các doanh nghiệp nước ngoài. Các doanh nghiệp nước ngoài còn tạo
điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước tiếp cận với thị trường thế giới, giúp nước nhận mở
rộng thị trường tiêu thụ hàng hóa và là cầu nối trung gian giúp cho các doanh nghiệp xuất nhập
khẩu vươn ra thịt trường bên ngoài.
Cuối cùng, Thông qua kênh di chuyển lao động (nhân lực): Các nhà đầu tư tiến hành tuyển dụng

lao động ở nước sở tại và đào tạo họ để đáp ứng các yêu cầu công việc. Họ đào tạo từ công nhân
cho tới cán bộ quản lý. Khi có sự luân chuyển lao động thì những kỹ năng lao động hữu ích này sẽ
lan ra toàn bộ nền kinh tế và làm tăng năng lực của người lao động ở nước sở tại.
1.4.2.3 Tác động trái chiều của của vốn đầu tư nước ngoài với vốn đầu tư trong nước
Một là, Việc sử dụng quá nhiều vốn đầu tư nước ngoài sẽ làm cho nguồn vốn trong nước bị phụ
thuộc vào nguồn vốn nước ngoài. Nếu tổng số vốn FDI mà lớn hơn 50% tổng vốn đầu tư toàn xã
hội thì các công ty nước ngoài sẽ chi phối các hoạt động kinh tế làm ảnh hưởng tới tính tự chủ của
nước sở tại. Vay nợ quá nhiều sẽ là gánh nặng cho ngân sách quốc gia trong hiện tại và tương lai.
Qua thống kê số liệu trên thế giới thì tỷ lệ tối đa là 40% GDP . Cùng với FDI thì dòng vốn ODA
cũng có thể là nguyên nhân dẫn đến nợ nước ngoài gia tăng , nếu các quốc gia không có kế hoạch
trả nợ thì su khi hết hạn cho vay và gia hạn thì sẽ số vốn nợ sẽ gia tăng và làm ngân sách chính
phủ sẽ bị ảnh hưởng lớn khi phải trả nợ.
Hai là, Quá nhiều vốn đầu tư nước ngoài rót vào một quốc gia sẽ tạo ra một môi trường cạnh
tranh vô cùng khốc liệt, bởi vì các nhà đầu tư nước ngoài đều muốn chạy đua để khuếch trương
sức mạnh của mình. Vì vậy với những nền kinh tế chưa đủ mạnh thì sản xuất trong nước rất dễ bị
lấn át và đầu tư trong nước sẽ sụt giảm.
Ba là, Các quốc gia nhận vốn nước ngoài dễ rơi vào tình trạng thâm hụt cán cân thanh toán do
các nhà đầu tư nước ngoài thực hiện việc sản xuất và xuất khẩu sản phẩm, chuyển lợi nhuận về
nước bằng ngoại tệ làm cho cán cân thanh toán bị ảnh hưởng. Do vậy cần khuyến khích các nhà
đầu tư hướng vào xuất khẩu và tái đầu tư tại thị trường nội địa.
Bốn là, Những nước chậm phát triển dễ rơi vào tình trạng nhập khẩu thiết bị lạc hậu do chưa
đủ trình độ kiểm tra và thẩm định phần giá trị sử dụng còn lại của thiết bị. Do vậy có thể ảnh
hưởng xấu đến hiệu quả sử dụng vốn trong nước.
Năm là, Hệ thống tài chính và môi trường kinh tế vĩ mô của các nước đang phát triển thường
không đảm bảo sử dụng hiệu quả nguồn vốn nước ngoài và hạn chế rủi ro khi có sự cố. Nền kinh
tế chịu tác động mạnh hơn từ các tác động bên ngoài. Nguy cơ di chuyển vốn ra nước ngoài do các
nhà đầu tư nước ngoài bị mất niềm tin lôi kéo theo cả các nhà đầu tư trong nước theo hiệu ứng tâm
lý bầy đàn (herding behavior).
20
Chương 2 Thực trạng mối quan hệ giữa vốn đầu tư trong nước và vốn đầu tư nước ngoài

trong thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam
2.1 thực trạng thu hút và sử dụng vốn trong nước :
2.1.1 Thực trạng đầu tư của khu vực trong nước
Trong nhiều năm qua tổng vốn đầu tư toàn xã hội của khu vực trong nước luôn tăng cao và chiếm
tỉ trọng lớn trong đầu tư toàn xã hội . Ta có thể thấy qua bảng số liệu sau :
Tổng số
Chia ra
Kinh tế Nhà nước
Kinh tế ngoài nhà
nước
Khu vực có vốn đầu tư
nước ngoài
Giá thực tế Tỷ đồng
1995 72447 30447 20000 22000
1996 87394 42894 21800 22700
1997 108370 53570 24500 30300
1998 117134 65034 27800 24300
1999 131171 76958 31542 22671
2000 151183 89417 34594 27172
2001 170496 101973 38512 30011
2002 200145 114738 50612 34795
2003 239246 126558 74388 38300
2004 290927 139831 109754 41342
2005 343135 161635 130398 51102
21
2006 404712 185102 154006 65604
2007 521700 208100 184300 129300
2008 673300 184400 263000 189900
2009 704200 245000 278000 181200
Tổng số 4215560 1825657 1443206 910697

Trong đó đầu tư của khu vực Nhà nước là :
Năm 2008, Trong vốn đầu tư của khu vực Nhà nước, vốn từ ngân sách Nhà nước đạt 100,9 nghìn
tỷ đồng, chiếm 15,8% tổng vốn đầu tư cả nước, bằng 102,8% kế hoạch năm. Vốn đầu tư từ ngân
sách Nhà nước do trung ương quản lý đạt 34,2 nghìn tỷ đồng, bằng 103% kế hoạch, trong đó Bộ
Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đạt 2881,4 tỷ đồng, bằng 172,9%; Bộ Giao thông Vận tải đạt
6612,6 tỷ đồng, bằng 105,3%; Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đạt 451,1 tỷ đồng, bằng 102,3%;
Bộ Giáo dục và Đào tạo đạt 1132,5 tỷ đồng, bằng 101,1%; Bộ Công Thương đạt 237,7 tỷ đồng,
bằng 100,3%; Bộ Y tế đạt 932 tỷ đồng, bằng 100%; riêng Bộ Xây dựng chỉ đạt 219,9 tỷ đồng,
bằng 62,6%.
Vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước do địa phương quản lý ước tính thực hiện 66,7 nghìn tỷ đồng,
bằng 102,7% kế hoạch năm, trong đó một số địa phương có số vốn thực hiện lớn là: thành phố Hồ
Chí Minh đạt 9,9 nghìn tỷ đồng, bằng 112,1% kế hoạch; Hà Nội đạt 6,3 nghìn tỷ đồng, bằng
73,4%; Đà Nẵng đạt 2,6 nghìn tỷ đồng, bằng 108,5%; Bà Rịa-Vũng Tàu đạt 2,1 nghìn tỷ đồng,
bằng 104,9%; Nghệ An đạt 1,5 nghìn tỷ đồng, bằng 107,1%; Hải Phòng đạt 1458,5 tỷ đồng, bằng
103,5%; Bình Dương đạt 1291,8 tỷ đồng, bằng 104,6%; Lâm Đồng đạt 1200,9 tỷ đồng, bằng
152,3%.
Mặc dù bị ảnh hưởng trong những tháng đầu năm 2009 do thực hiện miễn, giảm, giãn thuế và giá
dầu thô trên thế giới giảm, nhưng những tháng cuối năm sản xuất kinh doanh trong nước phát triển
nên tổng thu ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến 15/12/2009 ước tính đạt xấp xỉ dự toán năm,
trong đó các khoản thu nội địa bằng 102,5%; thu từ dầu thô bằng 86,7%; thu cân đối ngân sách từ
hoạt động xuất, nhập khẩu bằng 101,6%. Trong thu nội địa, thu từ khu vực doanh nghiệp Nhà
nước bằng 106,2%; thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) bằng
88,8%; thu thuế công, thương nghiệp và dịch vụ ngoài Nhà nước bằng 95,6%; thuế thu nhập cá
nhân bằng 87%; thu phí xăng dầu đạt 157,5%; thu phí, lệ phí bằng 90,8%.
Tổng chi ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến 15/12/2009 ước tính đạt 96,2% dự toán năm, trong
đó chi đầu tư phát triển đạt 95,2% (riêng chi đầu tư xây dựng cơ bản đạt 93,4%); chi phát triển sự
nghiệp kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, quản lý Nhà nước, Đảng, đoàn thể đạt 99,6%; chi trả
nợ và viện trợ đạt 102,7%. Bội chi ngân sách Nhà nước năm 2009 ước tính bằng 7% GDP, thực
hiện được mức bội chi Quốc hội đề ra, trong đó 81,2% mức bội chi được bù đắp bằng nguồn vay
22

trong nước; 18,8% bù đắp bằng nguồn vay nước ngoài.2.1.1.2 Nguồn tín dụng đầu tư phát triển
nhà nước .
Tín dụng phát triển , Năm 2007 nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển nhà nước ước đạt 40 nghìn
tỷ đồng. Ngân hàng Phát triển Việt Nam (VDB) dự kiến sẽ nâng tổng vốn tín dụng nhà nước trong
giai đoạn 2006-2010 lên 200 tỷ đồng, tăng 60% so với giai đoạn 2000-2004 nhằm đạt được mức
tăng trưởng cao, phấn đấu trở thành nước công nghiệp vào năm 2020.
Vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước ước cả năm 2009 đạt kế hoạch, khoảng 50 nghìn tỷ
đồng, tăng 25% so với thực hiện năm 2008, chiếm 7% tổng vốn đầu tư toàn xã hội.
Đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước : Vốn đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước năm 2002
ước thực hiện khoảng 32.800 tỷ đồng, bằng 105,8% kế hoạch; tập trung đầu tư chiều sâu đổi mới
thiết bị công nghệ, nâng cao năng lực cạnh tranh.
Năm 2004, đầu tư từ nguồn vốn của các doanh nghiệp nhà nước ước thực hiện trên 47 nghìn tỉ
đồng, bằng 103% kế hoạch năm và tăng trên 22%. Đến năm 2005, trong tổng giá trị vốn đầu của
cả nước thì vốn đầu tư của DNNN vẫn chiếm một tỷ trọng khá lớn khoảng 17.2%.
Vốn đầu tư của doanh nghiệp nhà nước ước cả năm 2009 đạt 60 nghìn tỷ đồng, chỉ bằng 75,9% kế
hoạch, giảm 7,7% so với thực hiện năm 2008, chiếm 8,4% tổng vốn đầu tư toàn xã hội.
Đầu tư của khu vực tư nhân và hộ gia đình :
Đi liền với bước phát triển ngoạn mục là sự bùng nổ trong các hoạt động đầu tư của khu vực kinh
tế tư nhân. Tỷ trọng đầu tư của khu vực dân cư và doanh nghiệp trong tổng đầu tư phát triển toàn
xã hội đã tăng từ 22,6% năm 2000 lên 26,2% năm 2002. Năm 2003, tỷ trọng này đạt 29,7%, năm
2004 tăng lên 30,9% và năm 2005 ước đạt khoảng 32,2%. Năm 2006 mức vốn đầu tư là 154006 tỷ
đồng và chiếm 38,1 trong tổng đầu tư toàn xã hội , năm 2008 là 204705 tỷ đồng chiếm 40% trong
tổng đầu tư toàn xã hội. Tỷ trọng đầu tư của các doanh nghiệp tư nhân trong nước liên tục gia
tăng. Vốn đầu tư của các doanh nghiệp tư nhân đóng vai trò quan trọng, thậm chí là nguồn vốn đầu
tư chủ yếu, đối với phát triển kinh tế địa phương . Năm 2009 , Khu vực kinh tế ngoài nhà nước
hiện chiếm vai trò quan trọng với tổng mức đầu tư là 278 nghìn tỉ đồng , chiếm 34,8% giá trị tổng
vốn đầu tư toàn xã hội và bằng 113,9% so với mức đầu tư năm 2008
Thị trường vốn : Thị trường chứng khoán việt nam hình thành từ những năm cuối thế kỉ XX
nhưng hoạt động của thị trường này chỉ thực sự trở nên mạnh mẽ khi trung tâm giao dịch chứng
khoán TP Hồ Chí Minh chính thức đi vào hoạt động vào ngày 28/07/2000 , sau khi cho niêm yết

thì giá trị vốn hóa trên thị trường chứng khoán việt nam đã có sự gia tăng mạnh mẽ : trong lần đầu
phát hành thì giá trị của thị trường là 27 tỉ đồng với 6 công ty chứng khoán thành viên , trong 6
23
năm tiếp theo thì giá trị vốn hóa của thị trường chứng khoán tăng thêm 0.5 tỉ USD nhưng sau năm
2006 thì giá trị vốn hóa của thị trường đã có sự tăng mạnh với năm 2006 đạt 13,8 tỉ USD (chiếm
22,7% GDP) , năm 2007 giá trị vốn hóa là trên 40% GDP , năm 2008 là 19% GDP và năm 2009 là
620.000 tỷ đồng, tương đương 38% GDP, đã tăng gấp gần 3 lần so với năm 2008 . Như vậy chúng
ta có thể nhận thấy rằng trong quá trình phát triển kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay thì
thị trường chứng khoán một con “ kênh “ khổng lồ giúp vốn đi vào nền kinh tế .
2.1.2 Những kết quả đã đạt được
Thứ nhất , Đóp góp cao vào tốc độ tăng trưởng chung của cả nước , trong nhiều năm qua tốc độ
tăng trưởng kinh tế của Việt Nam luôn đạt tốc độ tăng trưởng rất cao và ổn định trên 8 % một năm
. Năm 2007 giá trị GDP của cả nước đã đạt 1143715 tỷ đồng , trong đó khu vực trong nước chiếm
tỷ trọng là 82% .Năm 2008 giá trị GDP của cả nước đạt 1477717 tỷ đồng và tỉ trọng của khu vực
kinh tế trong nước là 81 % , những con số trên chứng tỏ cho ta thấy vai trò chủ đạo của khu vực
kinh tế trong nước vào tăng trưởng kinh tế chung của cả nước.
Thứ hai ,Đóng góp tỉ trọng lớn trong vốn đầu tư của tổng vốn đầu tư toàn xã hội : ở Việt Nam
trong nhiều năm qua thì vốn trong nước luôn chiếm một tỉ trọng rất cao . Trong giai đoạn 91-95 thì
vốn trong nước chiếm tỉ trọng là 78% , trong giai đoạn 96-00 thì vốn đầu tư trong nước chiếm
khoảng trên 70 % . Sau khủng hoảng tài chính châu á năm 1997 thì đóng góp của vốn đầu tư trong
nước lại càng gia tăng với mức tỉ trọng khoảng 85 % trong vốn đầu tư toàn xã hội trong giai đoạn
2001-2006 . Năm 2009 thì tổng vốn đầu tư trong nước ở mức 523 nghìn tỷ đồng và chiếm 74 %
tổng vốn đầu tư xã hội . Như vậy ta có thể thấy vai trò quyết định của vốn đầu tư trong nước trong
tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam
Thứ ba , Xây dựng và hoàn thiện cơ sở hạ tầng : Vốn đầu tư nhà nước và đặc biệt là vốn đầu tư từ
ngân sách nhà nước là nguồn chủ yếu cho xây dựng cơ sở hạ tầng ở Việt Nam . Rất nhiều các công
trình cơ sở hạ tầng đã được xây dựng nhờ sử dụng vốn trong nước như : Quốc lộ 1 , Đường Hồ
Chí Minh , Nhà máy điện Phả Lại , cảng biển ở Hải Phòng và Thành Phố Hồ Chí Minh…. Những
công trình này đã đáp ứng được nhu cầu cho tăng trưởng kinh tế với tốc độ cao ở Việt Nam. Năm
2006 chi của ngân sách nhà nước cho xây dựng cơ bản là 81078 tỷ đồng , tới năm 2007 thì con số

này là 107440 tỷ đồng . Trong đó Nhà nước tập trung đầu tư cho phát triển cơ sở hạ tầng ở khu
vực khó khăn , vùng núi hải đảo nhằm giảm khoảng cách giữa các vùng . Ở các vùng kinh tế trọng
điểm thì nhà nước tập trung phát triển các kết cấu hạ tầng , kĩ thuật cao như hạ tầng về viễn thông ,
đường điện , nước và hệ thống giao thông và hệ thống các khu công nghiệp và công nghệ cao .
Thứ tư , Đóng góp mạnh mẽ vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế : Hiện nay trong chỉ đạo
hoạt động của các tập đoàn nhà nước , chính phủ luôn chỉ đạo các doanh nghiệp này đầu tư vào
các xây dượng và phát triển các ngành công nghiệp chủ chốt và hiện đại như tập đoàn điện lực ,
tập đoàn bưu chính viễn thông , tập đoàn công nghiệp tàu thủy Việt Nam ....… cùng với hoạt động
này việc vốn đầu tư sử dụng vào việc hình thành các vùng kinh tế trọng điểm giúp thay đổi cơ cấu
vùng kinh tế với các khu công nghiệp phát triển như TP Hồ Chí Minh , Hà Nội , Đồng Nai..Trong
24
nhiều năm qua giá trị sản xuất công nghiệp của khu vực này luôn chiếm tỷ trọng lớn với mức trên
60 % giá trị sản xuất công nghiệp của cả nước. Năm 2007 giá trị sản xuất công nghiệp của khu vực
trong nước là 813961.1 tỷ đồng chiếm 55.4% giá trị sản xuất công nghiệp của cả nước , trong đó
giá trị sản xuất công nghiệp của khu vực nhà nước là 294339,1 tỷ đồng , của khu vực tư nhân là
519622,0 tỷ đồng.
Trong đó , Tính chung năm 2007, giá trị sản xuất công nghiệp của khu vực doanh nghiệp nhà nước
(theo giá so sánh 1994) ước tăng 17,0% so với năm 2006, trong đó khu vực doanh nghiệp nhà
nước tăng 10,4% (trung ương quản lý tăng 13,4%; địa phương quản lý tăng 3,5%) . Còn với khu
vực tư nhân đóng góp 31% giá trị tổng sản phẩm công nghiệp
Thứ năm , Phát triển nguồn nhân lực : Trong nhiều năm qua tỉ lệ chi cho giáo dục đào tạo luôn
chiếm tỉ trọng cao trong vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước , năm 2006 chi cho giáo dục đào tạo
của ngân sách nhà nước đạt 37332 tỷ đồng , năm 2007 thì chi cho giáo dục đào tạo đã tăng mạnh
lên con số 53774 tỷ đồng . Hiện nay cả nước có trên 300 trường cao đẳng và đại học , ngoài ra còn
hàng nghìn hệ các trường trung cấp , các trung tâm dạy nghề trên toàn quốc. Hàng năm có hàng
trăm nghìn sinh viên các trường tốt nghiệp tạo ra một đội ngũ cán bộ , thợ công nhân kĩ thuật lanh
nghề cho xã hội và đã đáp ứng được một phần lớn nhu cầu lao động lớn cho phát triển kinh tế
Thứ sáu , Đóng góp cao vào tỉ trọng xuất khẩu : Hàng năm giá trị xuất khẩu của cả nước tăng
mạnh năm 2007 giá trị xuất khẩu của cả nước đạt 48561,4 tỷ đô la , trong đó đóng góp của các khu
vự kinh tế trong nước là 20786,8 tỷ đô la chiếm 42,8% giá trị của cả nước . Năm 2008 giá trị xuất

khẩu của khu vực này là 28155,9 tỷ đô chiếm 44,9% giá trị xuất khẩu của cả nước. Hiện nay khu
vực trong nước có giá trị xuất khẩu của khu vực kinh tế nước ngoài là do khu vực kinh tế có vốn
đầu tư nước ngoài có giá trị xuất khẩu dầu thô rất cao , trong khi đó mặt hàng chủ yếu của khu vực
trong nước là các mặt hàng nông lâm thủy hải sản đây là các mặt hàng có thế mạnh của Việt Nam
trên thị trường quốc tế .
Thứ bảy , Quy mô của khu vực kinh tế trong nước không ngừng gia tăng : Số lượng doanh
nghiệp ngoài quốc doanh ở việt nam có mức gia tăng rất nhanh kể từ khi có luật doanh nghiệp
2000 ( đã được sửa đổi bổ sung năm 2005 ) , số doanh nghiệp ngoài quốc doanh năm 2000 là
35040 doanh nghiệp thì tới năm 2007 đã có 147316 doanh nghiệp . Như vậy ta thấy rằng qua 7
năm đi vào hoạt động của luật doanh nghiệp thì số doanh nghiệp tăng hơn 5 lần , con số này chứng
tỏ rằng sức phát triển của của khối doanh nghiệp này là lớn hơn rất nhiều so với khối doanh nghiệp
nhà nước ( khối này giảm do quá trình cổ phần hóa , sáp nhập và giả thể doanh nghiệp nhà nước )
và khối doanh nghiệp nước ngoài ( khối này thì số lượng doanh nghiệp tăng hơn 3 lần ) .Về quy
mô vốn thì so với mức vốn năm 2000 là 98.348 tỉ đồng thì tới năm 2007 là 1.442.319 tỉ đồng .
Trong đó quy mô doanh nghiệp có vốn từ 200 tỷ đồng tới 500 tỷ là 566 , cao hơn so với khối
doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp có vốn đâu tư nước ngoài , số doanh nghiệp ngoài quốc
doanh nghiệp có mức vốn trên 500 tỷ đồng là 293 doanh nghiệp con số này chỉ thấp hơn so với
khối doanh nghiệp nhà nước nhưng cao hơn nhiều so với khối doanh nghiệp nước ngoài.
25

×