Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (123.62 KB, 9 trang )

I. ĐẶT VẤN ĐỀ.
Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bộ máy nhà nước được tổ
chức theo nguyên tắc tập trung quyền lực có sự phân công và có sự phối hợp
chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện ba quyền: lập pháp,
hành pháp, tư pháp. Thực hiện quyền tư pháp mà chủ yếu là quyền xét xử là
một trong những chức năng rất quan trọng của Nhà nước Việt Nam và được
giao cho Tòa án nhân dân. Để bảo đảm cho tòa án xét xử khách quan, đúng
người, đúng tội, đúng pháp luật, đảm bảo cho các bị cáo và đương sự bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của họ thì nhà nước cần phải đưa ra các nguyên tắc
tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân sao cho phù hợp với thiết chế xã hội
chủ nghĩa.
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.
1.Vị trí của tòa án nhân dân trong bộ máy nhà nước.
Tòa án nhân dân tối cao, các tòa án nhân dân địa phương, các Tòa án dân sự
và các Tòa án khác do luật định là những cơ quan xét xử của nước Công hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam. Tòa án xét sử những vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân
và gia đình, lao động, kinh tế, hành chính và giải quyết những việc khác theo
quy định của pháp luật.
Trong phạm vi chức năng của mình, Toà án có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã
hội chủ nghĩa; bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân;
bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể; bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh
dự và nhân phẩm của công dân. Bằng hoạt động của mình, Tòa án góp phần
giáo dục công dân trung thành với tổ quốc, chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật,
tôn trọng những quy tắc của cuộc sống xã hội, ý thức đấu tranh phòng ngừa và
chống tội phạm, các vi phạm pháp luật khác.
2. Những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân
dân.
Các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân có thể được xem
xét dưới những góc độ khác nhau và có thể được phân chia thành nhiều loại
khác nhau theo những tiêu chuẩn, dấu hiệu khác nhau. Vậy những nguyên tắc
chủ yếu cho việc tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân bao gồm những


nguyên tắc nào?
a) Nguyên tắc bổ nhiệm thẩm phán và bầu hội thẩm nhân dân
Ở Việt Nam, trước đây chúng ta thực hiện chế độ bổ nhiệm thẩm phán.
Nhưng từ năm 1960 đến trước khi có Hiến pháp năm 1992 chế độ bầu cử thẩm
phán đã được thực hiện ở các cấp Tòa án nhân dân.
Nguyên tắc này đã được quy định ngay từ Hiến pháp 1946: “Các viên thẩm
phán đều do Chính phủ bổ nhiệm” (Điều 64).
Theo chế độ bầu cử thẩm phán có những ưu điểm là đảm bảo cho nhân dân
lao động trực tiếp thực hiện quyền dân chủ trong việc lựa chọn những người có
1
trình độ chuyên môn, pháp lý, đạo đức thay mặt mình xét xử được công minh,
bảo vệ được lợi ích Nhà nước, lợi ích tập thể, lợi ích chính đáng của công dân.
Tuy nhiên, hơn 30 năm thực hiện nguyên tắc bầu thẩm phán đã bộc lộ những
nhược điểm là do lệ thuộc về tổ chức nên hoạt động xét xử của các tòa án cũng
chịu sự áp đặt từ phía địa phương làm cho tính độc lập khi xét xử của toà án bị
hạn chế. Do đó để các tòa án thực hiện được nguyên tắc độc lập khi xét xử, sự
cần thiết phải được độc lập trong tổ chức. Vì vậy, Hiến pháp 1992 tại Điều 128
quy định: Chế độ bộ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức và nhiệm kì của thẩm phán
do luật định. Theo quy định của “Luật tổ chức tòa án nhân dân” năm 2002 thì:
Chủ tịch nước bãi nhiệm, miễn nhiệm cách chức đối với thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao (kể cả tòa án quân sự Trung ương) còn chánh án, phó chánh
án, thẩm phán của Tòa án nhân dân địa phương và Tòa án quân sự từ cấp quân
khu trở xuống do chánh án Tòa án nhân dân tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm,
cách chức.
Nhiệm kỳ của Chánh án, Phó chánh án và thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao,
chánh án, phó chánh án và thẩm phán tòa án nhân dân địa phương, tòa án quân
sự là 5 năm.
Đối với hội thẩm nhân dân được thực hiện theo chế độ bầu hoặc cử. Hội
thẩm toà án nhân dân địa phương do hội đồng nhân dân cùng cấp bầu theo sự
giới thiệu của uỷ ban Măt trận Tổ quốc cùng cấp và do hội đồng nhân dân cùng

cấp miễn nhiệm, bãi nhiệm theo đề nghị của cơ quan chánh án tòa án nhân dân.
Hội thẩm quân nhân tòa án quân sự quân khu và tương đương do Chủ nhiệm
Tổng cục chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam cử theo sự giới thiệu của cơ
quan chính trị quân khu, quân đoàn, quân chủng, Tổng cục hoặc cấp tương
đương và do Chủ nhiệm Tổng cục chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam miễn
nhiệm, bãi nhiệm theo đề nghị của chánh án tòa án quân sự quân khu và tương
đương sau khi thống nhất với cơ quan chính trị quân khu, quân đoàn, quân
chủng, tổng cục hoặc cấp tương đương.
Hội thẩm quân nhân tòa án quân sự khu vực do chủ nhiệm chính trị quân khu,
quân đoàn, quân chủng, tổng cục hoặc cấp tương đương cử theo sự giới thiệu
của cơ quan chính trị sư đoàn hoặc cấp tương đương và do chủ nhiệm chính trị
quân khu, quân đoàn, quân chủng, tổng cục hoặc cấp tương đương miễn nhiệm,
bãi nhiệm theo đề nghị của chánh án tòa án quân sự khu vực sau khi thống nhất
với cơ quan chính trị sư đoàn hoặc cấp tương đương.
Nhiệm kỳ của hội thẩm nhân dân tòa án nhân dân địa phương, hội thẩm quân
nhân là 5 năm.
b) Nguyên tắc khi xét xử có hội thẩm nhân dân ( hội thẩm quân nhân ) tham
gia, hội thẩm ngang quyền với thẩm phán.
Từ năm 1946 đến nay trong các bản Hiến pháp của nước ta và trong các
Luật tổ chức Tòa án năm 1960, 1981, 1992 đều quy định về sự tham gia của hội
thẩm trong quá trình xét xử của Tòa án và khi xét xử hội thẩm ngang quyền với
2
thẩm phán. Đối với những hội thẩm nhân dân theo luật tổ chức Tòa án nhân
dân năm1992 vẫn theo chế độ tuyển cử như trước. Các hội thẩm nhân dân, Tòa
án nhân dân tối cao, các hội thẩm quân nhân Tòa án quân sự được cử, còn các
hội thẩm nhân dân Tòa án nhân dân địa phương do hội đồng nhân dân cùng cấp
bầu ra, miễn nhiệm, bãi nhiệm.
Luật quy định hội thẩm chỉ được tham gia hội đồng xét xử sơ thẩm chứ không
được tham gia hội đồng xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm.
Khi tham gia xét xử, hội thẩm bình đẳng với thẩm phán trong việc giải quyết

các vấn đề phát sinh khi xét xử. Có quyền ngang với thẩm phán. Khi xét xử các
thành viên trong hội đồng xét xử đều có quyền đưa ra thảo luận tất cả những
vấn đề quan trọng cần giải quyết tại phiên tòa, có quyền tham gia xét hỏi và
nghị án, mọi quyết định đều được biểu quyết theo đa số.
Để đảm bảo tính công bằng, bình đẳng của pháp luật việc xét xử không chỉ có
những người chuyên môn mà còn có cả đại diện từ phía nhân dân, Hiến pháp
quy định: “ Việc xét xử của Tòa án nhân dân có hội thẩm nhân dân, của Tòa án
quan sự có hội thẩm quân nhân tham gia theo quy định của pháp luật. Khi xét
xử hội thẩm ngang quyền với thẩm phán ” ( Theo điều 129 ).
Hội thẩm nhân dân là những người lao động, công tác ở cơ sở, thay mặt nhân
dân lao động tham gia hoạt động xét xử của Tòa án, đảm bảo cho việc xét xử
đúng đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước, phù hợp với
nguyện vọng và quan điểm của nhân dân, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
họ.
Hiện nay điều 37 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1992 và pháp lệnh về
thẩm phán và hội thẩm đã quy định rõ tiêu chuẩn của hội thẩm, nhưng trong
thực tế sự tham gia xét sử của hội thẩm còn mang tính hình thức, làm hạn chế
hiệu quả công tác xét xử của Tòa án. Cho nên, môt vấn đề đặt ra hiện nay là
phải nâng cao trình độ nghiệp vụ của hội thẩm để đảm bảo cho hội thẩm bằng
chính năng lực của mình có thẻ ngang quyền với thẩm phán khi xét xử.
c) Nguyên tắc khi xét xử thẩm phán, hội thẩm nhân dân độc lập, chỉ tuân theo
pháp luật.
Nguyên tắc này đều được quy định trong bốn bản Hiến pháp của nước ta
(điều 69 Hiến pháp 1946, điều 100 Hiến pháp 1959, điều 131 Hiến pháp 1980,
điều 130 Hiến pháp 1992). Trong sắc lệnh số 13 ngày 24 tháng 1 năm 1946 và
các luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1960, 1981, 1992 cũng đều ghi nhận
nguyên tắc này. Nguyên tắc này bắt nguồn từ nguyên tắc pháp chế xã hội chủ
nghĩa, nó bảo đảm cho tòa án nhân dân xét xử khách quan, đúng pháp luật để
bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa. Nguyên tắc này được thể hiện ở chỗ:
Thứ nhất: Khi xét xử thẩm phán và hội thẩm không bị ràng buộc bởi kết

luận của Viện kiểm sát; không bị chi phối bởi ý kiến của nhau. Thẩm phán, hội
thẩm phải chịu trách nhiệm đối với ý kiến của mình về từng vấn đề của vụ án.
3
Thứ hai: Khi xét xử, các thành viên trong hội đồng xét xử cũng độc lập với
nhau trong việc xác định chứng cứ, lựa chọn các quy phạm pháp luật cần được
áp dụng để định tội và lượng hình đối với các vụ án hình sự, quyết định quyền
và nghĩa vụ của đương sự trong các vụ án khác.
Thứ ba: Đối với một bản án có thể phải xét xử nhiều lần theo các thủ tục sơ
thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Đối với các bản án xét xử sơ
thẩm thì không phải xin ý kiến chỉ đạo của tòa án cấp trên. Ngược lại khi xét xử
phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm không lệ thuộc vào chứng cứ, kết luận
và quyết định tòa án đã xét xử sơ thẩm mà phải tự mình xác định chứng cứ, quy
phạm pháp luật cần được áp dụng để có quyết định cụ thể.
Sự độc lập của thẩm phán và hội thẩm khi xét xử phải gắn liền với việc tuân
thủ pháp luật. điếu đó có nghĩa là khi xét xử thẩm phán và hội thẩm phán phải
căn cứ vào các quy định của pháp luật để đưa ra ý kiến, quyết định của mình về
từng vấn đề của vụ án, chứ không được tùy tiện hay bằng cảm tính.
d) Nguyên tắc tòa án xét xử tập thể và quyết định theo đa số.
Nguyên tắc này được quy định tại điều 131 Hiến pháp năm 1992 và bắt
nguồn từ nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của bộ máy
Nhà nước.
Xét xử là hoạt động đặc thù do tòa án nhân dân thực hiện nhằm bảo vệ pháp
chế xã hội chủ nghĩa, lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của các
tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và công dân. Bằng bản án, quyết định của tòa án
mà các cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân được hưởng các quyền hoặc phải thực
hiện các nghĩa vụ nhất định. Vì vậy, việc xét xử của tòa án phải khách quan,
đúng pháp luật. Muốn có bản án, quyết định khách quan, đúng pháp luật đòi hỏi
phải phát huy trí tuệ tập thể. Do đó khi xét xử tất cả các vụ án, ở tất cả các trình
tự tố tụng đều phải thành lập hội đồng xét xử.
Các văn bản pháp luật về tố tụng đã quy định cụ thể thành phần của hội

đồng xét xử ở từng cấp xét xử:
- Theo luật định thì hội đồng xét xử sơ thẩm gồm một thẩm phán và hai
hội thẩm nhân dân, trường hơp đặc biệt hội đồng xét xử có hai thẩm phán và
ba hội thẩm. Tòa chuyên trách Tòa án tối cao xét xử thì thành phần hội đồng
xét xử là ba thẩm phán và hai hội thẩm.
- Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm ba thẩm phán, trường hợp đặc biệt có thêm
hai hội thẩm nhân dân.
- Hội đồng xét xử giám đốc thẩm hoặc tái thẩm Tòa chuyên trách Tòa án
nhân dân tối cao hoặc Tòa án quân sự Trung ương gồm có ba thẩm phán.
Nếu Uỷ ban thẩm phán hoặc hội đồng thẩm phán giám đốc thẩm hoặc tái
thẩm thì số thành viên tham gia xét xử phải chiếm hai phần ba tổng số các
thành viên của Uỷ ban thẩm phán hoặc hội đồng thẩm phán.
Nguyên tắc này phát huy được trí tuệ tập thể và đảm bảo cho việc xét xử của
Tòa án thận trọng, khách quan, toàn diện, chống độc đoán. Hội đồng xét xử làm
4
việc tập thể và chịu trách nhiệm phán quyết của mình. Mọi thành viên hội đồng
xét xử ngang quyền nhau khi giải quyết những vấn đề phát sinh tại phiên tòa.
Khi quyết định bản án bằng cách biểu quyết theo đa số từng vấn đề một. Trong
hội đồng xét xử sơ thẩm, thẩm phán biểu quyết sau cùng. Người có ý kiến thiểu
số có quyền trình bày ý kiến của mình bằng văn bản và được lưu trong hồ sơ vụ
án.
đ) Nguyên tắc tòa án xét xử công khai, trừ trường hợp do luật định.
Nguyên tắc này được quy định từ Hiến pháp năm 1946 đến Hiến pháp
năm 1992 ( sửa đổi, bổ sung năm 2001 ) và các Luật tổ chức tòa án nhân
dân năm 1960, 1981, 1992,2002.
Nguyên tắc xét xử công khai là một trong những nguyên tắc dân chủ của
hoạt động xét xử xã hội chủ nghĩa.Nguyên tắc này góp phần vào việc giáo
dục và nâng cao ý thức tôn trọng pháp luật và các quy tắc của cuộc sống xã
hội, thu hút đông đảo nhân dân tham gia vào cuộc đấu tranh phòng, chống
tội phạm và các vi phạm. Mặt khác nguyên tắc này thu hút nhân dân tham

dự phiên tòa, tạo điều kiện cho nhân dân lao động giám sát hoạt động của
Tòa án cũng như của các cơ quan cơ quan chức năng khác, nâng cao ý thức
trách nhiệm của những người tiến hành tố tụng và do đó nguyên tắc này là
một trong những nguyên tắc đảm bảo cho hoạt động xét xử được thực hiện
theo pháp luật.
Tính công khai trong hoạt động xét xử được hiểu là việc xét xử các vụ án
hình sự, dân sự, kinh tế… được tiến hành công khai tại phiên tòa, mọi công
dân từ 16 tuổi trở lên đều có quyền tham dự và theo dõi diễn biến của phiên
tòa. Tòa án có thể niêm yết kế hoạch xét xử tại trụ sở Tòa án hoặc thông báo
việc xét xử trên các phương tiện thông tin đại chúng để nhân dân biết, tham
dự hoặc Tòa án tổ chức các phiên tòa lưu động để xét xử lưu động ở dưới
địa phương.
Tuy nhiên không phải mọi phiên tòa của Tòa án đều phải tiến hành công
khai, mà Hiến pháp năm 1992 còn quy định là trong những trường hợp
ngoại lệ do luật định, Tòa án có thể xét xử kín. Theo Luật tổ chức Tòa án
nhân dân năm 1992 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của luật tổ chức
Tòa án nhân dân được quốc hội thông qua ngày 28 tháng 12 năm 1993, thì
Tòa án có thể xét xử kín khi: Để giữ gìn bí mật Nhà nước; Để giữ gìn thuần
phong, mĩ tục của dân tộc; Để giữ bí mật của các đương sự theo yêu cầu
chính đáng của họ.
e) Nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật.
Nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật là một nguyên
tắc cơ bản của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, được quy định tại điều 8 Luật
tổ chức tòa án nhân dân năm 2002: “ Tòa án xét xử theo nguyên tắc mọi
công dân đếu bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt nam, nữ, dân tộc,
tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần xã hội, địa vị xã hội; cá nhân, cơ quan, tổ
5

×