Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

Nhận xét, đánh giá những quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về biện pháp tạm giữ, tạm giam trong tố tụng hình sự và nêu hướng hoàn thiện các quy định trên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (169.87 KB, 9 trang )

ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong hệ thống các biện pháp ngăn chặn, các biện pháp tạm giữ, tạm giam chiếm một vị trí quan
trọng, chúng là sự thể hiện rõ nét của biện pháp cưỡng chế Nhà nước và là một phương tiện hữu hiệu
để các cơ quan tiến hành tố tụng hoàn thành nhiệm vụ của mình. Tạm giữ, tạm giam không chỉ là
công cụ, phương tiện để cơ quan tiến hành tố tụng sử dụng nhằm ngăn chặn tội phạm hoặc các hành
vi gây khó khăn cho công tác điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hình sự mà còn là những biện pháp
hữu hiệu góp phần bảo đảm việc thực hiện các quy định tự do, dân chủ của công dân, đảm bảo cho
công dân không bị tạm giữ, tạm giam một cách tùy tiện.
Tuy nhiên, qua thực tiễn áp dụng pháp luật trong thời gian gần đây cho thấy những quy định của
biện pháp tạm giữ, tạm giam vẫn còn nhiều bất cập, các quy định còn chồng chéo, một số quy định
khó thực hiện được trên thực tế, thẩm quyền áp dụng chưa thống nhất, các quy định về thời hạn áp
dụng các biện pháp này chưa phù hợp trên thực tế…
Thực hiện chủ trương cải cách tư pháp theo Nghị quyết của Đảng, nhất là Nghị quyết 49/NQ-
TW ngày 2/6/2005 của Bộ chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, đòi hỏi phải có sự
nghiên cứu đầy đủ, toàn diện hơn các quy định của các biện pháp tạm giữ, tạm giam để khắc phục
những thiếu sót, nhược điểm và nâng cao hơn nữa tính hiệu quả, tính thực tiễn của các chế định tạm
giữ, tạm giam.
Vì những lẽ trên, Nhóm 1 đã chọn đề tài: “Nhận xét, đánh giá những quy định của Bộ luật Tố
tụng hình sự về biện pháp tạm giữ, tạm giam trong tố tụng hình sự và nêu hướng hoàn thiện các quy
định trên” để làm sáng tỏ cơ sở lý luận của các biện pháp tạm giữ, tạm giam; nhận xét các quy định
của Bộ luật Tố tụng hình sự về các chế định này đồng thời đề xuất hướng giải quyết với những quy
định chưa hợp lý.
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Lý luận chung về tạm giữ, tạm giam
1. Khái niệm, mục đích, ý nghĩa của biện pháp tạm giữ
a. Khái niệm
Tạm giữ là biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự do cơ quan và những người có thẩm
quyền áp dụng đối với người bị bắt trong trường hợp phạm tội khẩn cấp, phạm tội quả tang, người
phạm tội tự thú, đầu thú hoặc đối với người bị bắt theo lệnh truy nã
1
.


b. Mục đích, ý nghĩa của biện pháp tạm giữ
- Mục đích: Ngăn chặn hành vi phạm tội, hành vi trốn tránh pháp luật, cản trở hoạt động của
người phạm tội, tao điều kiện cho cơ quan điều tra thập chứng cứ, tài liệu, bước đầu xác định tính
chất hành vi của người bị tạm giữ.
- Ý nghĩa: Biện pháp tạm giữ đã góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh phòng chống và ngăn
ngừa tội phạm trong những năm qua.
+ Việc quy định biện và đảm bảo thực hiện biện pháp tạm giữ nhằm đảm bảo cho hoạt động của
các cơ quan tiến hành tố tụng được thuận lợi, ngăn chặn được các hành vi trốn tránh của tội phạm, tạo
điều kiện cho các cơ quan điều tra có đủ thời gian làm rõ nhân thân và bước đầu xác định mức độ,
tính chất hành vi của họ nhằm đưa ra các quyết định tố tụng cần thiết như khởi tố vụ án, khởi tố bị
can, áp dụng các biện pháp ngăn chặn khác hoặc trả tự do cho người bị tạm giữ.
- Đảm bảo cho tiến trình tố tụng được tiến hành thuận lợi, giải quyết các vụ án được khách
quan, toàn diện, góp phần hiệu quả vào việc bảo đảm tính mạng, tài sản và các quyền, lợi ích hợp
pháp khác của công dân.
2. Khái niệm, mục đích, ý nghĩa của biện pháp tạm giam
a. Khái niệm
1
Trường đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2006, tr. 220
Tạm giam là biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự do Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa
án áp dụng đối với bị can, bị cáo phạm tội rất nghiêm trọng hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng hay
bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng , phạm tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình
phạt tù từ 2 năm mà có căn cứ để cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét
xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội
2
.
b. Mục đích và ý nghĩa của biện pháp tạm giam
- Mục đích: Ngăn chặn không để cho bị can, bị cáo có điều kiện tiếp tục phạm tội hoặc có hành
vi gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án. Ở mỗi giai đoạn tố tụng nhất định, việc áp dụng biện pháp
này còn nhằm đảm bảo thực hiện tốt chức năng tố tụng của cơ quan áp dụng.
- Ý nghĩa: Tạm giam có ý nghĩa rất lớn trong cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm cũng như

đảm bảo các quyền tự do, dân chủ của công dân.
+ Tạm giam góp phần nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước, củng cố và tăng cường pháp chế Xã
hội chủ nghĩa; là biện pháp thể hiện sự kiên quyết của Nhà nước trong việc đấu tranh phòng chống tội
phạm; bảo đảm cho xã hội ổn định, trật tự, pháp luật được giữ vững, chế độ XHCN được bảo vệ;
quyền lợi hợp pháp của công dân được tôn trọng; bảo đảm không để lọt tội phạm, không làm oan
người vô tội.
+ Tạm giam là phương tiện hữu hiệu bảo đảm cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành
án đạt hiệu quả cao nhất. Biện pháp này bảo đảm bí mật điều tra, ngăn ngừa thông cung giữa những
người vi phạm với nhau, ngăn ngừa tội phạm xóa bỏ dấu vết. Bảo đảm cho bản án khi Tòa án tuyên
được thi hành nghiêm chỉnh khi chúng có hiệu lực pháp luật.
+ Tạm giam tạo cơ sở pháp lý vững chắc bảo đảm tôn trọng các quyền công dân được Hiến
pháp và luật ghi nhận. Đảm bảo không một công dân nào có thể bị tạm giam khi không có căn cứ và
trái pháp luật.
+ Tạm giam thể hiện tính ưu việt của Nhà nước ta: là biện pháp bảo đảm cho mọi người dân
được sống trong một xã hội an toàn, các quyền và lợi ích của mỗi người dân được tôn trọng và bảo
vệ, tránh được sự tấn công, xâm hại từ phía các đối tượng nhất định đảm bảo cho mọi người dân được
an tâm sinh sống, học tập và làm việc.
II. Nhận xét, đánh giá các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về biện pháp tạm giữ, tạm
giam trong tố tụng hình sự và hướng hoàn thiện các quy định nêu trên
1. Biện pháp tạm giữ
a. Đối tượng, căn cứ áp dụng biện pháp tạm giữ
Khoản 1 Điều 86 BLTTHS 2003 quy định: “Tạm giữ có thể áp dụng đối với người bị bắt trong
trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, người phạm tội tự thú, đầu thú hoặc đối với người bị bắt
theo quyết định truy nã.”
Theo đó, biện pháp tạm giữ là một trong các biện pháp ngăn chặn mà mục đích của biện pháp
ngăn chặn là “để kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn
cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc tiếp tục phạm tội cũng như khi cần thi hành án”.
Việc quy định đối tượng tạm giữ bao gồm cả người phạm tội tự thú, đầu thú là không phù hợp.
Vì việc người phạm tội ra đầu thú, tự thú chứng tỏ sự hối cải và ý thức hợp tác của họ, không có cơ
sở để cho rằng họ sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc tiếp tục phạm tội cũng như

khi cần đảm bảo thi hành án. Nên chỉ cần quy định áp dụng biện pháp tạm giữ đối với người phạm tội
đầu thú, tự thú phạm tội đặc biệt nghiêm trọng hoặc rất nghiêm trọng nhưng có nhân thân xấu, không
có nơi cư trú ổn định còn những trường hợp khác thì không cần thiết và chỉ cần áp dụng biện pháp
ngăn chặn là cấm không đi khỏi nơi cư trú.
2
Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2006, tr.224
Như vậy, khoản 1 Điều 86 BLTTHS 2003 nên quy định: “Tạm giữ có thể được áp dụng đối với
những người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang hoặc đối với người bị bắt theo
quyết định truy nã tại Điều 81 và Điều 82 của Bộ luật này hoặc những người phạm tội đầu thú, tự thú
phạm tội đặc biệt nghiêm trọng hoặc rất nghiêm trọng nhưng có nhân thân xấu, không có nơi cư trú
ổn định.
b. Thẩm quyền ra lệnh tạm giữ
Khoản 2 Điều 86 BLTTHS 2003 quy định “Những người có quyền ra lệnh bắt khẩn cấp quy
định tại Khoản 2 Điều 81 của Bộ luật này, Chỉ huy trưởng vùng Cảnh sát biển có quyền ra quyết định
tạm giữ”.
Dẫn chiếu sang Khoản 2 Điều 86 BLTTHS 2003 quy định:
“Những người sau đây có quyền ra lệnh bắt người trong trường hợp khẩn cấp:
a) Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan điều tra các cấp;
b) Người chỉ huy đơn vị quân đội độc lập cấp trung đoàn và tương đương; người chỉ huy đồn biên
phòng và hải đảo biên giới;
c) Người chỉ huy tàu bay, tàu biển khi tàu bay, tàu biển đã rời khỏi sân bay, bến cảng”.
Điều luật này đã có sự bổ sung so với Điều 68 BLTTHS 1988, đó là người có quyền ra lệnh tạm giam
còn gồm cả chỉ huy trưởng vùng Cảnh sảt biển Quy định này không những tăng thẩm quyền cho lực
lượng tuần tra biển để kịp thời phục vụ công tác đấu tranh phòng và chống tội phạm trên biển mà qua
đó góp phần kiểm soát, tuần tra và giữ vững an ninh trật tự trên biển.
Như vậy, theo quy định của BLTTHS 2003 thì Cơ quan hải quan, Kiểm lâm không có quyền tạm giữ
theo thủ tục tố tụng hình sự. Thực hiện quy định theo quy định tại Khoản 1 Điều 81 BLTTHS 2003
khi bắt người phạm tội quả tang thì các cơ quan này phải lập biên bản và giải ngay người bị bắt đến
cơ quan điều tra có thẩm quyền. Mặt khác, tại điểm a Khoản 1 Điểm 111 BLTTHS 2003 có quy định
cơ quan Hải quan, Kiểm lâm có thẩm quyền ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can, tiến hành điều

tra và chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát có thẩm quyền đối với tội phạm ít nghiêm trọng trong trường
hợp phạm tội quả tang, chứng cứ và lai lịch phạm tội rõ ràng trong lĩnh vực quản lý của mình. Tuy có
thẩm quyền khởi tố, điều tra nhưng việc không quy định thẩm quyền tạm giữ của cơ quan Hải quan,
Kiểm lâm sẽ gây khó khăn cho các cơ quan đó trong việc thực thi thẩm quyền này (Ví dụ: hoạt động
hỏi cung bị can).
Điều 86 cần quy định bổ sung người có quyền ra quyết định tạm giữ bao gôm cả thủ trưởng cơ quan
Hải quan, thhủ trưởng cơ quan Kiểm lâm để các cơ quan có điều kiện hoàn thành tốt chức năng của
mình.
c. Thời hạn tạm giữ
điều 87 BLTTHS 2003 quy định về thời hạn này như sau:
“1. Thời hạn tạm giữ không được quá 3 ngày, kể từ ngày Cơ quan điều tra nhận người bị bắt.
2. Trong thời hạn cần thiết , người ra quyết định tạm giữ có thể ra hạn tạm giữ nhưng không quá 3
ngày. Trong trường hợp đặc biệt, người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ lần thứ hai
nhưng không quá 3 ngày. Mọi trường hợp gia hạn tạm giữ phải được sự phê chuẩn của Viện kiểm sát
cùng cấp; trong thời hạn 12 giờ kể từ khi nhận được đề nghị gia hạn và tài liệu liên quan đến việc gia
hạn tạm giữ, Viện kiểm sát phải ra quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn..”
Một vấn đề cần xác định rõ là trường hợp nào là cần thiết, trường hợp nào là không cần thiết
Trường hợp cần thiết đó là trường hợp sự việc xảy ra có nhiều tình tiết phức tạp, việc xác minh phải
thực hiện ở nhiều địa phương khác nhau cần có thêm thời gian để làm rõ về hành vi, căn cước, lí lịch
người bị tạm giữ.
Trường hợp đặc biệt là những trường hợp đối với các vụ án xâm phạm an ninh quốc gia và một số vụ
án hình sự khác có nhiều người tham gia, sự việc phức tạp đã gia hạn lần một nhưng chưa xác minh
được.
Thời hạn tạm giữ đựoc pháp luật hình sự quy định nhằm tạo điều kiện cho cơ quan điều tra có thời
gian làm được nhân thân và bước đầu xác định đựoc tính chất hành vi của người bị tạm giữ để nhanh
chóng ra các quyết định tố tụng cần thiết. Song thực tiễn áp dụng đã nảy sinh nhiều vấn đề mà các
nhà làm luật chưa dự liệu hết được.
Như trên đã nói, biện pháp tạm giữ chỉ được áp dụng đối với người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp,
phạm tội quả tang, người phạm tội đầu thú hoặc đối với người bị bắt theo lệnh truy nã. Sau đó, cần có
thời gian xác minh về việc họ bị nghi thực hiện tội phạm hoặc về những đặc điểm nhân thân của họ.

Nếu áp dụng biện pháp tạm giữ hành chính trong vòng 24 giờ thì không đủ thời gian xác minh làm rõ
được sự việc nên phải tạm giữ hình sự. tuy nhiên, khi áp dụng biện pháp tạm giữ hình sự theo Điều 86
BLTTHS 2003, sau đó xác minh hành vi của họ chỉ là vi phạm hành chình thì có nên coi tạm giữ hình
sự là gây oan sai cho công dân hay không. Như vậy, pháp luật TTHS có nên sửa đổi theo hướng đối
với người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang và bị tạm giữ nên coi là tạm giữ hành
chính mặc dù thời hạn tạm giữ có thể kéo dài hơn 24 giờ, có thể đến 72 giờ nhưng không được gia
hạn
3
.
2. Biện pháp tạm giam
a. Đối tượng, căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam
- Đối tượng áp dụng biện pháp tạm giam
Khoản 1 Điều 88 BLTTHS 2003 quy định: “Tạm giam có thể được áp dụng với bị can, bị cáo..”. Tuy
nhiên, trên thực tế còn có những đối tượng khác cũng có thể áp dụng biện pháp tạm giam như:
- Người bị Tòa án kết án phạt tù trước đó đang bị tạm giam nhưng đến ngày kết thúc phiên tòa thời
hạn tạm giam đã hết
4
;
- Người bị Tòa án kết án phạt tù trước đó không bị tạm giam nhưng xét thấy cần phải tạm giam họ để
đảm bảo thi hành án
5
;
- Người bị kết án phạt tù đang tại ngoại chờ thi hành án hoặc đang thi hành án bỏ trốn và bị bắt theo
lệnh truy nã
6
.
Các đối tượng nêu trên cùng có chung đặc điểm là người đã bị Tòa án kết án phạt tù vì thế không còn
tiếp tục gọi họ là bị can, bị cáo. Việc khoản 1 Điều 88 BLTTHS 2003 quy định không đầy đủ các đối
tượng có thể áp dụng biện pháp tạm giam dẫn đến mâu thuẫn giữa các quy định của Điều 88 và các
điều luật khác, gây khó khăn cho thực tiễn áp dụng biện pháp ngăn chặn này.

Để khắc phục tình trạng này, quy định tại Khoản 1 Điều 88 BLTTHS 2003 nên bổ sung về đối tượng
có thể áp dụng biện pháp tạm giam ngoài bị can, bị cáo còn có “người đã bị Tòa án kết án phạt tù”
đồng thời bổ sung quy định về mục đích áp dụng biện pháp tạm giam tại điểm b Khoản 1 Điều 88 bao
gồm cả mục đích đảm bảo việc thi hành án, cụ thể ở đoạn “..có căn cứ cho rằng người đó có thể trốn
hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội” nên đổi thành “..có căn cứ
cho rằng người đó có thể trốn, hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hoặc có thể tiếp
tục phạm tội”.
- Căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam
Căn cứ được quy định tại khoản 1 Điều 88 BLTTHS 2003 (căn cứ chung về tạm giam) và quy
định tại khoản 2 Điều 303 BLTTHS 2003 (căn cứ tạm giam đối với người chưa thành niên).
+ Căn cứ chung về tạm giam quy định tại khoản 1 Điều 88 BLTTHS 2003
3
Báo cáo kết quả phối hợp rút kinh nghiệm một năm thực hiện BLTTHS năm 2003, Tạp chí Kiểm sát 2005,
VKSNDTC, tr. 34
4
Khoản 1 Điều 228, khoản 2 Điều 243 BLTTHS 2003
5
Khoản 2 Điều 228 BLTTHS 2003
6
Khoản 4 Điều 256 BLTTHS 2003
Khoản 1 Điều 88 BLTTHS 2003 quy định:
“1. Tạm giam có thể được áp dụng đối với bị can, bị cáo trong trường hợp sau đây:
a) Bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, phạm tội rất nghiêm trọng;
b) Bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật Hình sự quy định
hình phạt tù trên 2 năm và có căn cứ cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy
tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội”
Xem xét quy định này ta thấy có sự mâu thuẫn căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn (Điều 79
BLTTHS 2003) với căn cứ tạm giam (Điều 88 BLTTHS 2003).
Theo quy định tại Điều 79 BLTTHS về căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn với tư cách đây là
quy định chung cho việc áp dụng tất cả các biện pháp ngăn chặn thì việc áp dụng khi có một trong các

căn cứ sau: “Để kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó
khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội, cũng như khi cần bảo đảm thi hành
án”
Như vậy, việc bị can, bị cáo phạm tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng theo điểm a
khoản 1 Điều 88 BLTTHS 2003 nhưng không có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho
việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội cũng như khi cần bảo đảm thi hành án thì bị
can, bị cáo này sẽ không thuộc đối tượng bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tại Điều 79 BLTTHS 2003.
Nhưng trong Điều 88 BLTTHS 2003 lại quy định cả bị can, bị cáo trong trường hợp này là đối tượng
áp dụng biện pháp tạm giam. Rõ ràng, giữa quy định chung về căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam có
điểm mâu thuẫn nhau, gây khó khăn cho người có quyền ra lệnh tạm giam.
Ta nhận thấy rằng, việc các cơ quan có thẩm quyền có thể áp dụng biện pháp tạm giam ngay đối
với bị can, bị cáo phạm tội rất nghiêm trọng hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng mà không cần phải
có các điều kiện khác là cần thiết vì tính nguy hiểm và hậu quả của loại tội này là nghiêm trọng, đặc
biệt nghiêm trọng cho xã hội; Vì vậy, Điều 79 BLTTHS cần sửa đổi để hoàn thiện hơn.
+ Căn cứ tạm giam đối với bị can, bị cáo chưa thành niên quy định tại khoản 2 Điều 303
BLTTHS 2003
“1. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi có thể bị bắt, tạm giữ, tạm giam nếu có đủ các căn cứ
quy định tại các Điều 80, 81, 82,86, 88 và 120 của Bộ luật này nhưng chỉ trong các trường hợp phạm
tội rất nghiêm trọng do cố ý hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng.
2. Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi có thể bị bắt, tạm giữ, tạm giam nếu có đủ các căn cứ
quy định tại các Điều 80, 81, 82,86, 88 và 120 của Bộ luật này nhưng chỉ trong các trường hợp phạm
tội nghiêm trọng do cố ý, phạm tội rất nghiêm trọng hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng.”
Như vậy, trường hợp người phạm tội nghiêm trọng do vô ý hoặc phạm tội ít nghiêm trọng thì
không bị áp dụng biện pháp tạm giam vì bất cứ lý do gì.
Bên cạnh đó trong thực tiễn ta thấy số lượng người chưa thành niên phạm tội có chiều hướng
ngày càng gia tăng mà các tội phạm do những đối tượng này thực hiện thường là các tội ít nghiêm
trọng như: Cố ý gây thương tích (khoản 1 Điều 104 BLHS), Gây rối trật tự công cộng (khoản 1 Điều
245 BLHS), trộm cắp tài sản (khoản 1 Điều 138 BLHS), đánh bạc (khoản 1 Điều 248 BLHS).. hoặc
phạm tội nghiêm trọng do vô ý như tội vi phạm các quy định về điều khiển phương tiện giao thông
đường bộ (khoản 1 Điều 202 BLHS)… Tuy nhiên, theo quy định của Điều 303 BLTTHS thì cơ quan

có thẩm quyền không được tạm giam đối với những bị can, bị cáo này dẫn tới không ít tình trạng
trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các bị can, bị cáo này bỏ trốn nhiều lần và bị bắt theo
lệnh truy nã nhưng khi bắt được các đối tượng này thì cơ quan có thẩm quyền phải trả lại tự do cho họ
vì không có căn cứ để tạm giam; Điều này gây rất nhiều khó khăn cho cơ quan tiến hành tố tụng thực
hiện nhiệm vụ của mình.
Để giải quyết tình vấn đề này, khoản 2 Điều 303 BLTTHS 2003 cần quy định bổ sung theo
hướng: “đối với bị can, bị cáo từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng do cố ý, phạm

×